• Hai suy tư-Mai Tá
  • Cửa hẹp-Lm. Trần Việt Hùng
  • Vào khung cửa hẹp – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
  • Hy vọng và cầu nguyện-Achile Degest
  • Hãy cố gắng qua cửa hẹp-Lm Hồ Bạc Xái
  • Giá trị của đau khổ-Lm Minh Vận, CMC
  • Cửa nào Chúa đã đi qua?-Thiên Phúc
  • Hãy vào cửa hẹp-Lm Tạ Duy Tuyền
  • Hãy vào qua cửa hẹp-Lm Đinh Lập Liễm
  • Chúa Muốn Cứu Độ Hết Mọi Người-Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  • Hãy nên như trẻ thơ-Huệ Minh
  • Hãy thận trọng với việc tích trữ-Huệ Minh
  • Tìm tôn giáo dễ dãi-Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  • Đường chật–Cửa hẹp-JM. Lam Thy ĐVD
  • Chiến đấu vào cửa hẹp-AM. Trần Bình An
  • Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp ( Lc 13,24 )-Fx Đỗ Công Minh
  • Lời Chúa là cửa hẹp-P.Trần Đình Phan Tiến
  • Con đường hẹp là con đường đưa đến sự sống-ns-dmhcg
  • Hãy vào cửa của sự sống-Jos. Vinc. Ngọc Biển

HAI SUY TƯ

Mai Tá

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 21 thường niên năm C 21/8/2016

                                               Tin Mừng (Lc 13: 22-30) 

Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.

“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: “Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!  thì ông sẽ bảo anh em: “Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến! Bấy giờ anh em mới nói: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi. Nhưng ông sẽ đáp lại: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!

“Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Abraham, Isaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.” Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”

“Bao hương thơm trong lời nguyện chiều nay,”

Lên bốc lên và ân-huệ dường bay.

Ôi! Khí-hậu lọc bao nguồn ánh-sáng.

Chưa no sao? Nhân-từ êm vô hạn,

Do bàn tay Thiên-Chúa chảy tuôn ra.

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Hương thơm ân-huệ từ nay Chúa vẫn tuôn chảy nơi  lời nguyện. Hương thơm lời nguyện vào buổi sớm, hay lúc chiều hôm rất tối muộn, vẫn cứ dâng Ngài. Dâng lên Ngài, ý-nguyện các thánh đề-nghị trong trình-thuật lịch-sử, nói hôm nay.

Trình thuật hôm nay, thánh Luca không chỉ kể về tiệc, về tình mà còn về Vương Quốc Nước Trời. Chính đó, là mục tiêu mà mọi con dân nhà Đạo đều nhắm tới. Về tiệc  hôm nay, nhóm Pharisêu vẫn muốn xem Đức Chúa làm những gì, vào ngày Sabát. Và, Chúa có lẽ đã bị chỉ trích, vào lúc Ngài mở lời.

Lời Ngài mở, không nhằm đối đáp với bọn người xấu chỉ muốn hỏi xem Ngài có những hành vi chống lại lề luật, không thôi. Lời Ngài, là về dụ ngôn với những ảnh hình, rất thực tế. Thực tế như sự thực đang diễn ra trước mắt gồm các thực khách đến dự. Và một thực tế khác, là: Đức Chúa vẫn ngồi cùng bàn với đủ mọi hạng người: từ kẻ giàu sang quyền thế, đến người nghèo hèn, tội phạm. Ngài đến với hết mọi người. Ngài đến như giọt nắng giọt mưa đổ tưới trên đầu mọi thần dân.

Lời Ngài nói bằng dụ ngôn, nhằm đáp ứng lề lối mà thực khách thời đó vẫn hành xử, khi vào tiệc.

“Họ chỉ muốn chọn chỗ nhất mà ngồi.” (Lc 14: 7)

Thời buổi này, các buổi tiệc do quan “lớn” khoản đãi, đều có định chỗ trước cho khách ngồi vẫn là chuyện thực tế, rất ý nhị. Các đấng bậc có vai vế quan trọng được xếp chỗ gần chủ nhà. Có tiệc, chủ nhà còn định chỗ bằng cách để thẻ bìa có đề tên.

Lời Ngài tỏ bày hôm nay, đảo lộn mọi trật tự của đời thường. Đức Chúa vẫn thường khuyên dạy:

Khi được mời đi ăn, thì đừng ngồi vào chỗ nhất”.

Làm như thế, kẻ bon chen cạy cục sẽ không tránh khỏi tình trạng khó xử. Và, đôi lúc cảm thấy phẩm giá con người bị xuống thấp. Nếu làm theo đề nghị của Ngài, chắc cũng có người sẽ coi đó như hành động dưới cơ, thiếu tự tin. Tình cảnh này được coi như một tai ương giao tế đến bất ngờ.

Nhưng ở đây, khi Đức Giêsu kể dụ ngôn, Ngài không cố ý khuyên ta nên hành xử hoàn toàn từng chữ, theo nghĩa đen.

Điều Ngài muốn khuyên nhủ, chỉ là: ở Vương Quốc Nước Trời, việc chọn chỗ nhất nơi bàn tiệc là chuyện không nên, dễ gây hiểu lầm. Bởi lẽ, ý nghĩa và tinh thần của Vương Quốc Nước Trời không qui vào vị thế xã hội. Thứ đời phàm lúc nào cũng đổi thay. Với nhà Đạo, chuyện quan trọng chỉ nằm ở chỗ: làm sao duy trì được tương quan giữa chúng ta với Chúa, và với mọi người cho tốt đẹp.

Đừng quá bận tâm đến vị thế chỗ ngồi hoặc thứ bậc, địa vị hoặc yếu tố sắc tộc, tôn giáo, nghề nghiệp hoặc giai cấp. Vị thế đích thực trong tương quan với Chúa, không thể cân đo đong đếm bằng nghề nghiệp, chức tước hoặc danh xưng. Nhưng, bằng độ sâu độ dài của tình yêu. Bằng  quyết tâm phục vụ Chúa qua giao tế với người đời, sống quanh ta.

Điều quan trọng khác, không phải là: hỏi xem mọi người nghĩ thế nào về mình? Vẫn coi mình là ai? Đối xử với mình như thế nào? Nhưng, là dựa vào mức độ chăm sóc tỏ bày tình thương yêu của ta đến người khác. Đến cả những người dưng khác họ, nữa.

Thái độ và lối hành xử mà Đức Chúa vẫn khuyên mọi người nên có, lại được củng cố thêm bằng lời thư thánh Phaolô gửi cho giáo đoàn Do Thái, rất rõ ràng:

“Anh chị em đã lên núi Sion, tới thành đô Thiên Chúa” (Dt 12: 22).

Đoạn cuối truyện kể trình thuật hôm nay, Đức Chúa hướng thẳng về phía người thủ lãnh nhóm Pharisêu mà bảo họ:

“Khi các ông đãi khách ăn trưa ăn tối, thì đừng mời bạn bè,hay bà con láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại các ông”. (Lc 14: 12)

Thời buổi này, lời khuyên của Đức chúa có thể áp dụng cho các vị có chức, có tiền. Cả trong nhà Đạo, lẫn ở ngoài đời ta chỉ nên mời những người nghèo khó, hoặc thân cô thế cô. Những người không có khả năng tham dự bất cứ bữa tiệc nào dù linh đình hay thanh bạch. Chỉ nên mời mọc những người không có khả năng mời trở lại. Hoặc, những người không có ý định mua chuộc, hay tham ô, nhũng lạm. Tức, họ chẳng làm gì có sức có quyền để ta nhờ vả, thăng tiến bản thân trong thang cấp cầm quyền.

Điều mà trình thuật hôm nay muốn nói đến, là: hãy hoạt động để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Xã hội mang hình vòng cung, hay quả cầu. Trong vòng cung quả cầu ấy, không ai ở quá cao. Cũng chẳng có người ở nơi rốt hết. Tức, mọi người đều có quyền lợi đồng đều, như nhau. Mọi người đều ở vị thế tương đối khá, để có thể san bớt cho những người còn thiếu thốn, nợ nần. Và, nếu đặt một bàn tròn ở giữa, thì mọi người đều có thể với tay chung phần, dự tiệc vui không thua kém ai. Bữa tiệc mà trong đó mọi người đều ngang phần.

Đó là Nước Trời ở trần gian. Có lẽ, sẽ có người cho rằng: đây là chuyện viển vông, không tưởng. Chỉ là chuyện viển vông, nếu nghĩ rằng chuyện ấy sẽ xảy đến ngày một ngày hai. Hoặc, vào thế hệ kế tiếp. Thế nhưng, xã hội như thế là Nước Trời đích thực, ta có thể bắt đầu trước nhất với mái ấm gia đình mình. Sau đó, lan tỏa ra từng nhóm nhỏ mà ta đang sinh hoạt, chung sống. Cộng đoàn giáo xứ tại địa phương là ví dụ rất cụ thể cho xã hội ấy. Một Nước Trời ở trần gian. Một xã hội có thể thực hiện được.

Vào Tiệc Thánh, ta vẫn thực hiện điều này khi san sẻ bánh và rượu đã thành Mình Máu Chúa. San sẻ thực phẩm nuôi sống linh hồn và cũng san sẻ chuyện trò tâm giao với nhau bên bàn tiệc của lòng mến, rất agapè.

Vào thời giáo hội tiên khởi, cộng đoàn các thánh vẫn làm như thế. Và ngày hôm nay, ở nhiều nơi trong các giáo xứ, người đồng Đạo chúng ta vẫn sống như thế. Đó chính là điều Chúa muốn mọi người thực hiện. Ai làm rồi, cứ thế tiếp tục.

Đó là thực trạng của Hội thánh hôm nay. Đó chính là Nước Trời ở đây và bây giờ, là tình huống rất Đạo. Là bữa tiệc rất phải lẽ. Hợp với Đạo. Đạo của Chúa. Đạo làm người.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn  –

Mai Tá lược dịch

Suy tư tuần này, lại thấy đôi giòng thơ của thi-sĩ họ Hàn những ngâm rằng:

“Bao hương thơm trong lời nguyện chiều nay,”

Lên bốc lên và ân-huệ dường bay.

Ôi! Khí-hậu lọc bao nguồn ánh-sáng.

Chưa no sao? Nhân-từ êm vô hạn,

Do bàn tay Thiên-Chúa chảy tuôn ra. “

Thơ ngâm rồi người lại hát:

“Giọt nước mắt thương con, con ngủ mẹ mừng,” “Giọt nước mắt thương sông, ấp ủ rêu rong. Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao năm. Giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong.”

Thế nghĩa là, có ngâm thơ hay hát nhạc cũng để nói lên lời ca vang vọng một tình-tự thân thương/trìu mến có “ân-huệ dường bay” do “Bàn tay Thiên Chúa tuôn ra” để “mẹ/con mừng” vào những ngày “long đong”, “cằn cỗi” với “giọt nước mắt thương con”, “thương đất cằn suốt bao năm”, “thương cả sông nước ấp-ủ rêu rong”, một lòng “thương dân nước” ở thánh hội nhân-gian rất Nước Trời.

Thế đó, là tâm-tình ngày-của-Chúa, xin được gửi đến hế mọi người anh/người chị, khắp nơi dân Việt mình.

Mai Tá

từ Sydney luôn trân-trọng.

www.giadinhanphong.com

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 21 mùa thường niên C 21/8/2016 

“Giọt nước mắt thương con, con ngủ mẹ mừng,” “Giọt nước mắt thương sông, ấp ủ rêu rong. Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao năm. Giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong.”

(Trịnh Công Sơn – Nước mắt cho quê hương)

Video Khánh Ly https://www.youtube.com/watch?v=DQy-rmCmphU

(Mt 10: 34-36)

Nếu như “quê hương” mà bạn hát ở đây là Nước Trời trong đó mọi người trên thế-giới đang nhỏ những giọt nước mắt thương-yêu, thì sao? Và, giả như “giọt nước mắt” mà mọi người đang nhỏ từng giọt và từng giọt, thì bạn đọc và bầy tôi đây, ta nghĩ sao về điều ấy?

Vâng. Nước mắt nhỏ giọt cho bất cứ ai, khóc cho quê hương nào đi nữa, thì người Tây/người Tầu hoặc dân ta vẫn cứ tiếp-tục nhỏ hoài/nhỏ mãi, như ca-từ còn hát tiếp ở bên dưới:

“Giọt nước mắt thương mây, mây ngủ trên ngàn Giọt nước mắt thương cây, cây ngả trên non Giọt nước mắt thương anh, khô giòng máu châu thân Giọt nước mắt quê hương, ôi còn chảy miên man.

Ôi! giòng nước mắt chảy hoài Giòng nước mắt đời đời Giọt nước mắt thương ai

Ôi giòng nước mắt trong tim Chảy lai láng vào hồn Nửa đêm gọi đến mình”.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Vâng. Những giọt nước mắt như thế, vẫn còn nhỏ ở đây đó xuống mọi miền trên quê hương Nước Trời ở trần-gian, thôi. Cũng mới đây, hôm 27/7/2016 ở trời Tây bên ấy, chốn “Phú-Lăng-xa” đất miền rất Pháp Quốc, nhà Đạo mình lại đã nhỏ thêm nhiều giọt nước mắt còn nóng hổi cho vị linh-mục cao-niên bị giết chết ngay trong nhà thờ ở miền Bắc nước này.

Vâng. Nước mắt và nước mũi nhiều người vẫn nhỏ mãi không ngừng, chí ít là những người cùng thờ Thiên-Chúa nhưng khác phái lại cứ báng-bổ/kình-chống nhau, để rồi dẫn đưa nhau về cõi chết, rất buồn bực.

Vâng. Hôm nay ở chốn miền cùng cực phía Nam bên này, lại cũng thấy những người và người vẫn kình-chống nhau chỉ vì khác nhau điều gì đó. Khác, về niềm tin đi Đạo. Khác, hệ-cấp trên/dưới, khác cả hình-thức tổ-chức, lẫn cung-cách đối-xử với nhau và cho nhau, không còn mang tính đích-thật của chọn lựa ban đầu, nữa.

Vâng. Hôm nay đây, người người lại cứ nhân-danh điều này/chuyện nọ để ra tay hành-xử cách nào đó không còn mang tính từ-bi/hỷ-xả như nguồn-gốc của đạo-giáo mình chủ-trương.

Đúng thật thế. Hôm nay và có thể cả mai ngày, người người lại cũng chưa giải quyết được những xung-khắc do có khác-biệt về Đạo và đời; cả ý-thức-hệ lẫn đạo-đức/chức-năng… nay cũng khác.

Vâng. Vì có khác-biệt này/nọ ở nhiều địa-hạt, nên khi sự xấu xảy đến, lại có tình-huống chất đầy nước mắt như ca-từ hát thêm, ở bên dưới :

“Giọt nước mắt thương chim, chim bỏ xa rừng. Giọt nước mắt thương đêm, đêm đẩy xe tang. Giọt nước mắt thương em, trên vận nước điêu linh. Giọt nước mắt không tên, xin để lại quê hương.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Khác-biệt đến độ, đã phải nhỏ những giọt nước mắt không tên để “thương em, thương vận nước điêu-linh”, thương đạo-giáo lình-xình nhiều tranh-chấp, vẫn là “Giọt nước mắt thương dân, đêm đẩy xe tang”, rất làng nhàng.

Vâng. Giọt nước mắt ấy, cứ nhỏ mãi khi có nguồn tin cũng rất “tức” gửi về từ chốn miền nhà Đạo rất Nước Trời, những hỏi rằng:

“Có chăng mối đe-doạ khủng-khiếp cho nền an-ninh thế-giới? Phải chăng đe-doạ ấy là từ ISIS?

Câu hỏi này, được đưa ra từ tháng 11 năm 2015 trên trang mạng MercatorNet, rất phổ-biến. Thế nhưng, trước đó từ tháng Bẩy/2015, Chánh Văn Phòng Hỗn Hợp của Hoa-Kỳ là Hải-quân Thiếu-tướng Joseph Dunford cũng từng đưa câu trả lời tương-tự gửi đến Quốc-Hội trả lời rằng: mối đe-doạ không lai ai khác ngoài Nước Nga.

Thế, Trung-Quốc thì sao? Và, Bắc Hàn nữa? Cả hai nước này, lâu nay, vẫn bị mọi người coi là mối đe-doa thật cho Tây Phương. Văn-minh Phương Tây luôn đối đầu với các “đe-doạ thực-sự” cả từ thay-đổi khí-hậu cho đến các hành-tinh nhỏ, từ nạn-dịch toàn cầu đến sự thông-minh nhân-tạo và cả chiến-tranh hạt-nhân, nữa. Đại-học Cambridge ở Anh đã nhận được đầy-đủ tài-trợ để lập nên Trung-tâm Nghiên-cứu về Nguy-cơ đích-thực hầu báo-động mọi người về các mối nguy-hiểm của các ngành Kỹ-thuật mới. Chừng như ta đã bị quấn chặt để biến các tai-hoạ nhỏ thành nguy-cơ hiện-hữu đối với con người. Có lẽ vì thế mà bộ phim “Zombie” và các bi-kịch thành chuyện bình dị ở đời…

Thành thử, cũng không nên tỏ ra quá nhát gan hoặc ngây thơ đến độ phải lưu-ý đến việc chính-phủ Obama kêu-gọi đừng tỏ ra hãi sợ đối với Nhà Nước Hồi-giáo (IS) sau ngày Thứ Sáu 13 vừa rồi ở Paris. Tổng-thống Obama có nói: “Họ là một mớ các sát-nhân được giới truyền-thông xã-hội hỗ-trợ. Chuyện này cũng không kém ‘nguy-hiểm’, nhưng lối sống của ta lại mạnh hơn thế. Ta có nhiều thứ để đưa ra đề-nghị mà giải-quyết…” Và rồi, Phó Tổng thống Hoa-kỳ Joe Biden còn nhấn mạnh: “ISIS không là mối đe-doạ cho sự sống còn của Nước Mỹ bao giờ hết…” (X. Michael Cook “Is ISIS an existential threat?” MercatorNet 23/11/2015)

Nói về “mối đe-doạ cho sự sống còn của thế-giới” phải chăng phát-xuất từ đạo Hồi? Theo kiểu của chính-trị-gia. Còn, quan-điểm chính rất công-khai của nhà Đạo mình về mối “đe-doạ” này, được Đức Phanxicô bày tỏ trong cuộc phỏng-vấn trên chuyến bày từ Krakow Ba-Lan về Rôma hôm 31/7/2016, như sau:

“Hỏi: Người Công giáo chúng ta đã bị cú “sốc” sau vụ sát-hại dã-man Linh-mục Hamel. Cha nói chúng con rằng tất cả mọi tôn-giáo đều kiến-tìm hòa bình, nhưng Linh mục Hamel bị giết dưới danh-nghĩa Hồi giáo. Tại sao cha không bao giờ nhắc đến Hồi giáo khi nói về chủ nghĩa khủng bố?

Đáp: Cha không thích nói về bạo-lực Hồi-giáo, bởi ngày nào cha cũng thấy xảy ra bạo-lực mỗi khi điểm-báo ở Ý, đọc thấy chuyện ai đó giết bạn gái hay mẹ vợ, và đó là bạo-lực của những người Công-giáo đã rửa tội. Nếu Cha nói về bạo-lực Hồi-giáo, thì Cha cũng phải nói về bạo-lực Công-giáo nữa chứ?

Không phải người Hồi-giáo nào cũng tàn-bạo hết. Nó như món salad trộn hoa quả, đều có cái này cái kia. Và anh chị em thấy có những người tàn-bạo trong các tôn giáo khác nhau. Chỉ một điều chắc-chắn mà thôi, là luôn có một nhóm nhỏ gồm những người cực-đoan trong tất cả mọi tôn-giáo. Chúng ta cũng có những người cực-đoan/tàn-bạo như thế. Và, khi những người cực-đoan đi xa hơn đến độ tra tay giết người, có thể bằng miệng lưỡi mình, không phải Cha mà là tông-đồ Giacôbê đã nói vậy. Người ta cũng có thể giết người bằng gươm bằng giáo; thế nên thật không đúng chút nào khi đồng-hoá Hồi-giáo với bạo-lực. 

Cha từng đàm-đạo dài giờ với một giáo-chủ ở Đại học Al Azhar, họ tìm-kiếm hòa-bình và thông-hiểu nhiều chuyện. Sứ-thần tòa-thánh ở nước châu Phi nọ từng bảo với Cha rằng: ở thủ đô nước ông, có người luôn xếp hàng để đi qua cửa thánh, rồi có một số đi xưng tội. Nhưng hầu hết đều đi thẳng đến bàn thờ để cầu nguyện với Đức Mẹ; và đó là những người Hồi-giáo muốn mừng Năm Toàn xá. Khi đến Trung Phi, Cha có đi thăm một cộng-đồng Hồi-giáo, và vị Giáo-chủ Hồi-giáo ở đó cũng lên xe ngồi chung với Cha. Chung sống hòa-bình là chuyện có thể thực-hiện được. 

Nhưng các nhóm tàn-bạo cực-đoan có tồn tại không lại là chuyện khác. Cha tự hỏi vì sao nhiều người trẻ của chúng ta sống an-thân ổn-định, lại bị cướp mất đi lý-tưởng sống, đến độ họ đã chạy theo thuốc phiện, bia rượu, hoặc thậm chí đi đầu quân cho nhóm khủng bố, nữa. Đúng. Chúng ta có thể nói: ISIS là một nhà nước Hồi giáo, và đặc tính của ISIS là bạo-lực, bởi nó khoe với ta toàn những chuyện giết người. Nhưng, đây chỉ là một nhóm nhỏ, anh chị em không thể, không đúng, và cũng quan-niệm không thật lòng khi gọi Hồi-giáo là những người có đức tin khủng bố.’ 

Hỏi: Ngoài việc cầu nguyện và đối thoại ra, ta còn có sang-kiến cụ thể nào để đương đầu với bạo lực Hồi giáo không? 

Đáp: Chủ nghĩa khủng-bố có mặt ở khắp nơi, chỉ cần nghĩ đến chủ-nghĩa khủng-bố bộ lạc ở một vài nước châu Phi thôi cũng sẽ thấy. Chủ-nghĩa khủng-bố lớn lên khi không họ có chọn-lựa nào khác. Và giờ đây, Cha sẽ nói về chuyện có vẻ đầy những hiểm họa gây cho thế-giới. Khi anh chị em biến “thần tài” thành trọng-tâm kinh tế thế giới, chứ không phải con người, thì đó là hình-dạng đầu-tiên của chủ-nghĩa khủng-bố. Anh chị em đã xóa đi nét vẻ nguy-nga của tạo-vật, và thay vào đó, đặt tiền bạc vào vị-trí trọng tâm. Đây là cơ sở tiên-quyết của chủ-nghĩa khủng-bố. Anh chị em cứ nghĩ về chuyện ấy cho nhiều rồi sẽ thấy…’ (X. Phỏng-vấn Đức Phanxicô trên chuyến bay trở về Rôma hôm 31/7/2016, theo phanxicovn.net)

Lời Đức Phanxico6 quả cũng rất thẳng-thắn, mạnh-bạo, nhất là trong tình-huống có nhiều khủng-bố/bạo-động đang diễn ra. Tuy vậy, dù Cha hoặc con ở nhà Đạo, có nói mạnh-bạo thế nào đi nữa cũng sẽ không thay-đổi được tình-hình an-ninh/an-toàn trên thế-giới được. An-ninh/an-toàn cuộc đời với người nhà Đạo, có lẽ sẽ nằm ở chỗ khác, ở lập-trường khác vẫn âm-thầm chứ không ầm-ĩ, như ta tưởng. Đó, có lẽ là ý-tưởng của bạn đọc nọ sau khi suy-tư rất nhiều về kết-quả của kinh Lạy Cha áp-dụng cho mọi người ở đời. Chí ít, là đời đi Đạo, lại sẽ diễn-tả cách nhẹ-nhàng hơn, như sau:

“Ðể đọc kinh Lạy Cha mà không lừa dối Chúa và tự lừa dối mình:

Bạn đừng thưa “Chúng con”… nếu bạn sống cau-có trong ích kỷ. Bạn đừng gọi Ngài là “Cha” nếu mọi ngày bạn không sống như người con. Bạn đừng kêu Ngài là “Ðấng ngự trên Trời” nếu bạn luôn nhắm toàn những chuyện dưới đất.

Bạn đừng nói “Xin cho Danh Cha cả sáng” nếu bạn không kính-trọng từng con người. Bạn đừng nói “Xin cho Nước Cha trị đến” nếu bạn lầm-tưởng nó với những tham-vọng của riêng bạn. Bạn đừng nói “Xin cho Ý Cha được thể hiện” nếu như bạn không chấp-nhận thử-thách xuất tự nó. Bạn cũng đừng thưa “Dưới đất cũng như trên Trời” nếu bạn chỉ lo nhìn lên trời mà không thấy ai khác chung quanh bạn. Bạn đừng nói “Cho chúng con” nếu bạn không cho người khác điều bạn có.

Bạn đừng nói “Hôm nay” nếu như bạn chỉ hối-tiếc quá-khứ hoặc chỉ đeo-đuổi tương lai nào khác, tốt hơn thế. Bạn đừng nói “Lương thực hằng ngày” nếu bạn không chạnh lòng thương những người đang đói khát. Bạn cũng đừng “Xin tha tội cho chúng con” nếu bạn không thấy lỗi của chính mình với tha nhân. Bạn đừng nói “Như chúng con cũng tha kẻ có lỗi với chúng con” nếu bạn chậm trễ không tha-thứ cho kẻ đã xúc-phạm bạn. Bạn đừng nói “Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”, nếu bạn không sẵn-sàng chống lại sự dữ ấy. Bạn đừng kết thúc bằng lời “Amen” nếu bạn không trân-trọng những điều ghi trên đây ở Kinh Lạy Cha.”

(Sưu-tầm trên Facebook)

Và, nói đến và nói về an-ninh/an-toàn trong đời người, theo tâm-tưởng của nhà Đạo mình, cũng rất đúng với có thể là như thế. Nhưng, với người thường ở đời, có lẽ nên nói theo truyện kể, thì thích-hợp hơn.

Nhưng trước khi nói bằng truyện kể rất cụ-thể, tưởng cũng nên đi vào vườn hoa Lời Vàng của bậc thánh-hiền để có được những “cột/mốc” suy-tư, rồi đem áp-dụng cho đời mình. Một trong các Lời Vàng ấy gặp được ở sách Tin Mừng sau:

“Anh em đừng tưởng

Thầy đến đem bình-an cho trái đất;

Thầy đến không phải để đem bình-an,

nhưng để đem gươm giáo.

Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ

giữa con trai với cha,

giữa con gái với mẹ,

giữa con dâu với mẹ chồng.

Kẻ thù của mình chính là người nhà.”

(Mt 10: 34-36)

Kẻ thù của mình là chính mình, như ai đó từng hát những câu như: “Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai!” Phạm Duy – Kẻ thù ta).

Vâng. Chính thế. Kẻ thù là chính mình mà giết nó đi thì cái “mình” đâu còn nữa mà nói chuyện an-ninh với an-toàn. Đó, là chưa đổ tội cho người Hồi-giáo cực-đoan, bạo-loạn để đòi giết, hoặc tố-khổ.

Kẻ thù ta, hay kẻ thù của nền an-ninh/an-toàn trên thế-giới, chính là chính-sách/chiến-thuật của ai đó, hoặc sức mạnh hùng-hổ nào đây từng dấy lên cốt tạo sự bất-ổn trong mọi sự để còn khống-chế với cầm cân nảy mực, quyết thực-hiện cho bằng được.

Kẻ thù ta, hôm nay, chắc-chắn không phải và không bao giờ là thế-lực Hồi-giáo-khủng-bố hoặc mãnh-lực của ác-thần/sự-dữ hiện-thân nơi ai đó, bên ngoài con người mình.

Nhận-định thế rồi, nay mời bạn và mời tôi ta đi vào vùng trời truyện kể để minh-hoạ cho lập-trường sống rất dễ dàng.

Nếu để ý, người đọc sẽ nhận ra rằng: cả hai truyện kể chẳng đi sâu/đi sát gì đề-tài ta bàn-luận, nhưng nếu nghĩ “trệch” khi bảo rằng: mọi chuyện trên đời xảy ra có lợi cho nền an-ninh/an-toàn của đời người hay không là tuỳ góc cạnh mình nhìn mà thôi. Nhìn theo góc cạnh ấy rồi, mình và người sẽ nhận ra một hay nhiều nhân-sinh-quan cuộc đời rất khác biệt. Thôi, xin mời bạn/mời tôi, ta bắt đầu kể:

“Truyện rằng: 

Ở nước Mỹ, trong một cửa hàng bách hóa, bởi trời đột nhiên đổ cơn mưa lớn, một bà lão ăn mặc giản dị, khắp người ướt sũng đi vào tránh mưa, gần như toàn bộ nhân viên bán hàng đều không muốn để mắt đến bà lão này. Có một chàng trai rất thành kính nói với bà rằng:

“Chào bà, tôi có thể giúp gì cho bà đây?”

Bà lão cảm thấy mượn chỗ của người khác để tránh mưa, trong lòng cũng có chút khó chịu, liền muốn mua một vài món đồ, nhưng đi vòng quanh mãi mà không biết mua gì nữa. Chàng trai này nhìn thấy liền nói với bà lão rằng:

“Bà không cần cảm thấy khó xử! Tôi đã để một chiếc ghế ở trước cửa, bà cứ yên tâm ngồi ở đó là được rồi.” 

Sau hai tiếng đồng hồ thì mưa đã tạnh, bà lão xin danh thiếp của chàng trai này rồi đi mất. Mấy tháng sau, chàng trai này đã được một cơ hội hiếm có, chính là được chỉ định làm đại biểu cho công ty bách hóa này đàm phán nghiệp vụ với công ty gia tộc lớn khác, lợi nhuận rất lớn. Về sau mới biết là bà lão đó đã cho cậu một cơ hội này, hơn nữa bà lão này không phải ai khác, mà chính là mẹ của “Vua Thép” Carnegie tỷ phú của nước Mỹ. 

Thế là, chàng trai này từ đây đã thuận buồm xuôi gió, một bước lên mây, trở thành trợ thủ đắc lực của “Vua Thép” Carnegie, đồng thời cũng là một trong số nhân vật trọng yếu giàu có bậc nhất, địa vị chỉ đứng sau Carnegie mà thôi.

 – Chẳng cần lời ngon tiếng ngọt, chỉ cần chân thành là tốt rồi;      

– Chẳng cần thề non hẹn biển, chỉ cần thật sự làm được là tốt rồi; 

– Chẳng cần oán trách lẫn nhau, chỉ cần hai bên hiểu nhau là tốt rồi;   

 – Chẳng cần ngờ vực lẫn nhau, chỉ cần tin tưởng lẫn nhau là tốt rồi; 

– Chẳng cần phải tức giận cả ngày, chỉ cần hiểu được bao dung là tốt rồi; 

– Chẳng cần gắn bó chẳng rời, chỉ cần trong lòng có nhau là tốt rồi. 

Giữa người với người, điều cần nhất chính là một tấm lòng chân thành kia vậy!

(Tiểu Thiện, dịch từ Cmoney.tw (VIETSTAR MEDIA) 

Và câu truyện kể thứ hai cũng dễ nể, như sau này:

“Lão là người duy nhất phải chăm lo từng “miếng ăn giấc ngủ” cho bà ở nhà nữa. Người chồng già nua này đang hãnh diện với công việc. Chăm sóc người vợ không còn một chút khả năng, nói đúng hơn là một “gánh nặng” đối với cách nghĩ của người khác. Riêng tôi, mọi dịp gặp hai vợ chồng này trên chuyến xe buýt, chưa bao giờ tôi thấy người chồng ra vẻ bực dọc bên chiếc xe lăn.

Có điều lão nói hơi nhiều!

Khi chiếc xe lăn được cột yên vào vị trí chỉ định, là lúc lão bắt chuyện ngay với người khác. Lão nói đủ thứ chuyện. Ai cũng nhận ra chút gì đó hưng phấn,vui vẻ, niềm hạnh phúc quá dễ dàng bắt gặp trên gương mặt xương xẩu , khô khốc kia. Phẩm chất một người chồng tận tụy, chung thủy đang thể hiện qua sự phục vụ cho một bà lão, khó tánh, hay gắt gỏng, do không còn một khả năng di chuyển, phải ngồi mãi trên chiếc xe lăn.

Người ta còn thêm một cảm nghĩ rằng: lão phục vụ người vợ, là niềm vui duy nhất,không thể thiếu và dường như lão “cần vậy” là đằng khác. Vui vẻ trên xe với mọi người; thỉnh thoảng lão cúi thấp, nho nhỏ nói vài câu với bà như “dỗ dành đứa trẻ”. Giọng ngọt ngào, mơn trớn. Hai hàm râu bên má lão rung rung theo lời nói, đôi khi tôi cảm thấy động lòng.

-Ước gì mình có một ít tính “kiên trì và chịu đựng” như lão! 

Có thể tôi sai, có phần xúc phạm với lão, giá như lão biết rằng tôi dùng hai chữ “chịu đựng”.

Hai vợ chồng đó hay xuống xe vào nửa đường, gần downtown San Jose. Bà tiếp tục càu nhàu ngay khi xuống trạm. Tôi ngoái theo nhìn. Dáng lão vừa đẩy xe cho vợ đi nhanh vừa chỉ trỏ như làm trò “con rối” cho bà vui. 

Mùa xuân năm nay, cũng trên chuyến xe 64 này tôi thấy vắng hình bóng vợ chồng kia cùng chiếc xe lăn. Bỗng một hôm, có một ông già lên xe. Sau vài phút để ý, tôi nhận ngay chính là lão già năm ngoái. 

Nhưng lần này lão lên xe một mình. Khuôn mặt ông già năm nay co rúm nhiều hơn. Màu râu nay bạc hơn, rậm rạp, lởm chởm đến mức độ “gớm ghiếc”! Hai con mắt ti hí đen thẩm, như một vũ trụ đen tối, sâu thẳm, càng khó đoán ông đang nhìn ai? 

Tôi nhận ra lưng lão gù hơn trước. Tay xách thêm một cái túi cũ mèm đựng những thứ lỉnh kỉnh, lão ngồi co ro đằng góc xa của dãy ghế trống do toán học sinh vừa xuống. Lão thỉnh thoảng nói lẩm bẩm, không ai nghe. Thỉnh thoảng lão húng hắng ho; có khi lão cố gắng dằn cơn ho lại sợ phiền lòng người khác.

Tôi cầm lòng không được: -Chào ông , ông còn nhớ tôi không?

Lão ngẩng lên một lát: – À…à! tôi nhớ anh… anh hay đi vè downtown; tôi thuờng gặp mà.

Tôi có cảm giác thân mật hơn khi lão nhận ra mình. Ngần ngừ ít giây, tôi đánh bạo hỏi: -thế thì vợ ông đâu? Lão chợt chỉ ngón tay lên trời: -bà ấy mất rồi. -Ô! xin chia buồn cùng ông. -Bà ấy ra đi ngay mùa Christmas năm ngoái anh à. Tôi an ủi: -Tôi tin bà lên thiên đường rồi ông ạ.

Bắt chước ông ta, tôi vừa nói vừa chỉ ngón tay lên trời. Bỗng lão chợt vui, đôi mắt như sáng hơn, rồi lại đưa ngón tay lên trời thêm lần nữa. Có điều tôi tin, ông già này hiện đang sống cô độc. Lão từng vui với công việc là người tự nguyện đẩy xe và săn sóc vợ. Giờ người vợ bệnh hoạn kia bỏ lão một mình để “lên thiên đường ” trước, thì sao lão tránh được buồn rầu và suy sụp?

Hôm nay tôi là người duy nhất bắt chuyện với lão. Trong tiếng ho kia, lão tự biết thân phận ngồi chỗ nào xa, kín đáo, để khỏi khó chịu cho ai. Tôi chào lão, nắm chặt song vịn sát trần, bước lui ít bước để khỏi làm phiền lão. 

Chiếc xe hàng ngày vẫn đón vài người tật nguyền đi xe lăn như người vợ quá cố của lão. Có những người già, những đứa bé, bị bệnh đi xe lăn. Anh tài xế vẫn kiên trì làm công việc thuờng nhật là móc dây an toàn cho từng người khách bệnh hoạn này khỏi chao chạnh lúc xe chạy. Giờ lão là ngườ “hết nhiệm vụ”. Người thân yêu nhất kia đã vĩnh viễn chia ra đi. Lão là người “ở lại” trên cõi trần này buồn nhiều hơn vui. Giờ con người này thật sự cô độc, trong một xã hội không có thứ văn hoá “tam đại, tứ đại đồng đường”. Bà lão còn sống, lão là người chăm sóc. Nay bà lão ra đi, để lão một mình trơ trọi, không ai săn sóc, không ai ở kề. 

Lão lại tiếp tục húng hắng ho, tiếp tục che miệng hay cúi gầm xuống lẩm bẩm nói một mình. Có thể ông già đang tâm sự với bà trong chốn vô hình nào chăng?

Nửa đường, ông già xuống xe. Cái túi đựng thức ăn của lão chợt lộ lên hàng chữ “Cơ Quan Cứu Tế CITY TEAM San Jose”; bên trong chắc hẳn là một số đồ hộp thức ăn cấp phát cho người nghèo. 

Chiếc xe tiếp tục chạy. Tôi ngoái lại nhìn , hình bóng con người cô đơn kia lảo đảo bước về huớng khác để lại cái bảng hiệu ngừng xe bơ vơ bên đường.” (Đinh Hoa Lư)

Kể như thế, cốt bảo rằng: an-ninh/an-toàn trong đời người cũng đều tuỳ tâm-trạng của người đời khi sống với người và với chính mình. Đó, cũng là đôi điều xin được đến bạn, đến tôi hôm nay và trong những ngày sắp tới của đời mình.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những ngày

Cứ suy-nghĩ nhiều

Về Hồi-giáo, bạo-lực và sự tàn-bạo

trong tâm-khảm của chính mình.

CỬA HẸP

Lm. Trần Hùng

CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN. C

(Lc 13: 22-30)

 

 CỬA HẸP

Nước Trời cửa hẹp bước vào,

Lãnh ơn cứu độ, thiên cao rạng ngời.

Bao người mong ước lên trời,

Thực hành sống đạo, vâng lời dậy khôn.

Thênh thang thỏa chí dập dồn,

Ngang qua cửa rộng, dủ hồn về đâu.

Cửa trời đóng lại đêm thâu,

Đứng ngoài mà gõ, biết đâu thăm dò.

Thưa rằng ăn uống đầy no,

Trước thềm nhảy múa, hát hò có hay.

Công trường giảng dạy hằng ngày,

Nào Ta có biết, dân này là ai?

Hỡi người gian ác ngoại lai,

Lui ra tránh mặt, họa tai tới gần.

Sầu đau khóc lóc cơ bần,

Nghiến răng nghiến lợi, tinh thần xót xa.

Những người khách lạ phương xa,

Đông Tây Nam Bắc, thật là thần dân.

Được mời dự tiệc ân cần,

Cửa Trời rộng mở, dự phần phúc ân.

Chúa Giêsu nói cùng dân chúng rằng: Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp. Muốn vào bất cứ nơi nào, chúng ta phải đi qua cửa. Cửa dẫn lối chúng ta vào nơi chúng ta ưa thích. Có cửa dẫn đến sự sống và có cửa dẫn vào sự chết. Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy vào cửa hẹp, có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận đi vào cửa với nhiều cố gắng hy sinh. Vì qua cửa hẹp, nên chúng ta phải vứt bỏ lại những lỉnh kỉnh và rườm rà của cuộc sống.

Nơi đâu cũng có cửa để đi qua và bước vào. Muốn vào một quốc gia hay một nước nào, chúng ta phải đi qua cửa khẩu. Vào trong một tòa nhà chúng ta cũng phải qua cổng và rồi qua cửa. Nhà của chúng ta cũng có cửa ra vào. Muốn gia nhập vào một tôn giáo nào, chúng ta cũng phải qua nghi thức nhập đạo, gọi là qua cửa. Vào cửa chúng ta phải chấp nhận những thủ tục, luật lệ và đường lối của nơi đó. Người ta nói nhập gia tùy tục là thế.

Gia nhập vào đoàn chiên của Chúa, chúng ta phải qua cổng chuồng chiên. Chúa Giêsu chính là cửa. Qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được gia nhập vào đoàn chiên của Chúa. Chúng ta được dìm xuống nước, chết đi cho tội và được sống lại cùng với Chúa Kitô. Theo Chúa Kitô, chúng ta đang đi vào cửa hẹp. Vào cửa hẹp là chấp nhận đau khổ và thập giá. Cửa hẹp khó đi và có giới hạn, nhưng sẽ dẫn chúng ta tới nguồn ban sự sống.

Cửa rộng thênh thang sẽ đưa dẫn chúng ta dần xa Chúa. Cửa rộng mở cho chúng ta tới mọi thứ hưởng lạc và thú vui trần thế. Cửa rộng sẽ đưa chúng ta đi quanh quẩn không có cùng đích. Đó là nơi của sự dữ và bóng đêm của ma qủy. Cửa rộng rãi là nơi làm việc và hưởng lạc của qủy dữ.

Truyện kể: Có ba anh qủy thực tập xuống trần gian để cám dỗ con người. Qủy cả hỏi: Có kỹ thuật nào các anh dùng để đưa con người vào đường tội lỗi. Anh thứ nhất nói: Tôi dùng phương pháp cổ điển. Tôi sẽ nói với họ: Không có Thiên Chúa và cứ việc phạm tội như họ muốn. Anh qủy thứ hai nói: Tôi muốn dùng sự ảnh hưởng của trí khôn suy nghĩ. Tôi sẽ nói với người ta: Không có hỏa ngục đâu. Cứ phạm tội đi, không sao cả. Anh qủy thứ ba nói: Tôi muốn dùng cách đơn giản hơn và tế nhị. Tôi sẽ nói rằng: Đừng vội chi cả, cứ phạm tội đi. Bạn có thể sám hối và trở nên tốt sau này, bạn còn nhiều thời gian mà.

Theo Chúa là bước vào cửa hẹp. Chúng ta có Chúa dẫn đường, chúng ta không sợ bị lầm lạc. Chúa nói rằng: Hãy gõ thì sẽ mở cho. Gõ cửa nhà Chúa, Chúa sẽ mở cho chúng ta, nơi đó chúng ta sẽ tìm thấy niềm vui hoan lạc muôn đời.

THỨ HAI, TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN

(Mt 23, 13-22).

LỜI THỀ

Giả hình trống rỗng nội tâm,

Nước Trời đóng cửa, dẫn lầm lối đi.

Mấy thầy Luật Sĩ thực thi,

Đọc kinh ngoài miệng, thầm thì bên trong.

Nhóm người Biệt Phái suy vong,

Thu gom tài sản, trong lòng tham lam.

Nặng lời chê trách việc làm,

Dẫn đường mù quáng, xác phàm bê tha.

Rao truyền lạc giáo tà ma,

Thi hành phán đoán, chìm sa lỗi lầm.

Lời thề sai lạc tự tâm,

Đền thờ, vàng bạc, trổ mầm dối gian.

Chúa thường răn dậy khuyên can,

Chữ tâm trọng đạo, thiên nhan sáng ngời.

Tin mừng loan báo trong đời,

Tà tâm giả dối, mọi người tránh xa.

 

THỨ BA, TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN

(Mt 23, 23-26).

CÔNG BÌNH

Thập phân nộp thuế cho Đền,

Giả nhân giả nghĩa, dựa trên thuế phần.

Bạc hà đáng giá bao lần,

Công bình chính trực, điều cần thực thi.

Nhân từ rộng lượng từ bi,

Lòng tin thiết yếu, phát huy trong đời.

Các Thầy Luật Sĩ theo thời,

Giả hình Biệt Phái, dụ khơi lỗi lầm.

Dẫn đường lầm lạc tà tâm,

Lạc đà nuốt trửng, lặng câm đui mù.

Bên ngoài rửa sạch trùng tu,

Gian tham nhơ bẩn, giao du tội tình.

Bên trong tâm trí lòng mình,

Tâm hồn tinh sạch, an bình phúc ân.

Chu toàn trách nhiệm nhân trần,

Nội tâm thanh khiết, canh tân lòng người.

 

THỨ TƯ, TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN

(Mt 23, 27-32).

HÌNH THỨC

Tô vôi mồ mả bên ngoài,

Thoáng nhìn tốt đẹp, phôi phai lòng người.

Giả hình Luật Sĩ ở đời,

Khốn thay Biệt Phái, đầy vơi khó lường.

Bên trong gian ác vấn vương,

Xây mồ đắp mả, hoa hương cúng đàn.

Trang hoàng sơn phết than van,

Cha ông lỗi phạm, xóa tan lỗi lầm.

Một thời đổ máu ác tâm,

Những người công chính, âm thầm chết oan.

Các người chứng thực đa đoan,

Là con là cháu, kết đoàn phục hưng.

Tiên tri bị giết tự xưng,

Xưa nay thù oán, không ngừng rút tay.

Sống đời gian dối mê say,

Cha truyền con nối, đong đầy gian tham.

 

THỨ NĂM, TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN

(Mt 24, 42-51).

TỈNH THỨC

Sẵn sàng tỉnh thức đợi chờ,

Các con không biết, ngày giờ trước sau.

Đón chờ Chúa đến lâu mau,

Không ai biết được, nỗi đau khó lường.

Giờ nào kẻ trộm khoét tường?

Canh phòng cẩn mật, biết đường lo toan.

Không ai dự đoán hoàn toàn,

Quản gia trung tín, khôn ngoan dự phòng.

Phân chia lương thực chờ mong,

Phúc cho đầy tớ, một lòng vị tha.

Chủ nhân tin tưởng nết na,

Trông coi gia sản, cả nhà chăm lo.

Khốn thay đầy tớ hét hò,

Say xưa chè chén, ăn no lại nằm.

Không ngờ ông chủ ghé thăm.

Thảm thương số phận, hờn căm đọa đầy.

 

THỨ SÁU, TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN

(Mt 25, 1-13).

THỨC TỈNH

Mười cô trinh nữ cầm đèn,

Đón xem chàng rể, bon chen ngóng chờ.

Năm cô khờ dại hững hờ,

Mang đèn cháy sáng, nhưng khờ chăm lo.

Thiếu dầu, đèn tắt tối mò,

Tìm nơi nương tựa, không lo sẵn sàng.

Khôn ngoan thiếu nữ lẹ làng,

Dầu đèn đầy đủ, dễ dàng thích nghi.

Trễ giờ chàng rể ra đi,

Các cô thức tỉnh, phòng khi tới giờ.

Chị em mong ngóng đợi chờ,

Nửa đêm tiếng gọi, ai ngờ đón đưa.

Sẵn sàng tiệc cưới là vừa,

Này đây trinh nữ, dạ thưa mời vào.

Chủ gia xếp chỗ bàn giao,

Ai mà tỉnh thức, bước vào tiệc vui.

 

THỨ BẢY, TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN

(Mt 25, 14-30).

TÀI ĐỨC

Dụ ngôn nén bạc trao ban,

Mỗi người số vốn, sẻ san trong đời.

Chủ ông sắp sửa xa rời,

Phân chia tài sản, gọi mời dấn thân.

Chủ trao đầy tớ tùy phần,

Người này năm nén, tảo tần dẵm chăm.

Ra công chịu khó lời năm,

Kẻ trao hai nén, tiếng tăm giữ tròn.

Sinh lời hai nén vàng son,

Còn người một nén, thu bòn chôn đi.

Không thèm của ít khinh khi,

Vàng ròng chôn dấu, cũng vì hư thân.

Hai người chăm chỉ đỡ đần,

Thật lòng trung tín, góp phần dựng xây.

Chủ khen đầy tớ này đây,

Ban thêm dư dật, đong đầy tin yêu.

 

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York.

VÀO KHUNG CỬA HẸP

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Trong mùa thi vào đại học vừa qua, có nhiều bạn học sinh đã bị chứng suy dinh dưỡng, mất ngủ, thậm chí bị tâm thần. Lý do là các bạn phải học rất nhiều, phải phấn đấu để được vào đại học. Đại học hiện tại là một khung cửa hẹp. Trường lớp có ít mà số lượng sinh viên mỗi năm mỗi tăng. Thế nên các học sinh phải hết sức phấn đấu mới được vào.

Cảnh các thí sinh chen chúc trước các cổng trường đại học làm tôi nhớ đến bài Tin Mừng hôm nay. Ai muốn vào Nước Trời cũng phải đi qua khung cửa hẹp.

Cửa hẹp không phải vì Nước Trời chật hẹp. Nước Trời rộng mênh mông, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người vào được, vì vào Nước Trời đòi có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu.

Trước hết phải phấn đấu hạ mình xuống. Ở đời người ta thường phấn đấu để vươn lên. Người ở địa vị thấp phấn đấu để được địa vị cao. Người hèn kém phấn đấu để được trọng vọng. Người phải phục vụ phấn đấu để được người khác phục vụ mình. Nhưng trong Nước Trời thì ngược lại. Phải phấn đấu để đi xuống. Phải phấn đấu để tìm chỗ thấp hèn nhất. Phải phấn đấu để phục vụ anh em. Như lời Chúa dậy: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”(Lc 14,11). “Khi anh được mời, hãy ngồi vào chỗ cuối”(Lc 14,10). “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ”(Lc 22,26). “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”(Mc 10,15).

Sau đó phải phấn đấu để bé nhỏ lại. Thông thường ở đời người ta phấn đấu để to ra. Ai có nhà nhỏ phấn đấu để có nhà lớn hơn. Ai có ruộng vườn nhỏ cũng phấn đấu để vườn ruộng lớn rộng thêm. Ai cũng phấn đấu để có nhiều của cải hơn, có nhiều bằng cấp hơn, có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn. Trái lại, người muốn vào Nước Trời phải phấn đấu để trở nên bé nhỏ. Phải phấn đấu để trở nên nghèo. Phải phấn đấu để bỏ bớt của cải đi. “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”(Mt 19, 21). “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”(Mt 5,3).

Cửa vào Nước Trời hẹp vì được làm theo kích thước của Chúa Giêsu.

-Cửa này thấp vì Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Là Thiên Chúa, Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Từ trời cao, Người đã tự nguyện xuống nơi đất thấp. Là Thày, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phục vụ. Vô cùng thánh thiện nhưng Người đã để bị đối xử như một đại tội phạm. Người đã bị vùi dập xuống tận bùn đen.

-Cửa này bé vì Chúa Giêsu đã trở nên bé nhỏ. Người đã sinh ra nghèo, sống nghèo và chết nghèo. Người đã bị bóc lột hết, không phải chỉ quần áo mà cả uy tín và danh dự.

Chúa Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã qua. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Người phấn đấu hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết “từ bỏ mình, vác thập giá mình”mà theo Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1-Cửa Nước Trời rất hẹp. Bạn có thấy mình còn cồng kềnh không?

2-Bạn thấy mình cần phải từ bỏ những gì để có thể gọn nhẹ tiến qua cửa hẹp?

3-Tuần này bạn sẽ phấn đấu làm gì để từ bỏ mình?

4-Chúa Giêsu đã làm thế nào để đi vào khung cửa hẹp?

HY VỌNG VÀ CẦU NGUYỆN

– Achille Degest

Tách rời bài đọc hôm nay khỏi bối cảnh toàn bộ Phúc Âm, người đọc dễ sinh nản chí. Trong bài chỉ thấy nói đến cửa hẹp nhiều kẻ sẽ không qua được, đến sự khai trừ khỏi Nước Trời v.v… Chúa nhân lành trong bài giảng trên núi, từng nói đến Cha với niềm âu yếm, tại sao ở đây lại có thể nói những lời nghiêm khắc đến thế? Chúng ta cần nhớ rằng Phúc Âm là một pho sách nhất phiến, mạch lạc chặt chẽ, đoạn này soi sáng giải thích đoạn kia. Vì thế không nên hiểu tình âu yếm của Cha như một thái độ nhu nhược, không nên giải thích sự đòi hỏi gắt gao của Người như một chủ trương nghiêm khắc. Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta về sự cần thiết phải từ bỏ và bổn phận phải theo đúng chân truyền.

1) Phải từ bỏ.

Không lọt qua được cửa hẹp là những kẻ không muốn từ bỏ những hành trang bề bộn. Về mặt trí thức, họ khư khư bảo vệ những thành kiến, những hệ thống tư tưởng, những chủ nghĩa, những ý kiến của họ. Về mặt luân lý, họ không từ bỏ những thói quen ích kỷ, thái độ tự tại trong vật chất, những lợi nhuận bất công, những hưởng thụ xác thịt. Một số lớn không từ bỏ những thứ cồng kềnh đó nhưng vẫn muốn xưng mình là Kitô hữu, muốn vượt qua cánh cửa Phúc Âm, tuy nhiên trước con mắt Thiên Chúa họ không qua được. Chính ở điểm này chúng ta không được để cho niềm cậy trông của mình bị dập tắt. Đối với Thiên Chúa, không có điều gì Người không làm được. Vả lại Thiên Chúa luôn luôn giúp đỡ kẻ có thiện chí. Nếu ngay tức khắc chưa thể vượt qua cửa hẹp, chúng ta có thể với sự trợ giúp của Thiên Chúa, loại đi một vài thứ lỉnh kỉnh nói trên. Nếu ngay tức khắc chưa thể tuân giữ tất cả những điều giảng dạy của Phúc Âm, chúng ta có thể với sự trợ giúp do Đức Kitô bảo đảm, bắt đầu tuân giữ một vài điều. Chúa không bao giờ từ chối giúp đỡ kẻ thành tâm thiện chí. Mỗi ngày thêm cố gắng, phấn khởi vì chắc tâm được Chúa giúp đỡ, chúng ta hy vọng vượt qua được cửa hẹp, là điều mà bình thường với sức riêng không ai dám mơ tưởng.

2) Phải theo đúng chân truyền.

Một số nào đó có thể dám tự hào được Đức Kitô nhìn nhận là môn đệ nhưng thật ra Đức Kitô không nhận họ là người của Chúa. Đó là những kẻ uốn nắn Phúc Âm theo ý riêng mình. Ngày nay có những kẻ giả mạo Phúc Âm, những kẻ xuyên qua lời phán của Chúa, muốn đưa ra mớ triết lý, những quyền lợi, những chọn lựa lập trường thế tục của họ. Thay vì quy tư tưởng theo Phúc Âm, những kẻ ấy quy Phúc Âm theo tầm cỡ và tiêu chuẩn tư tưởng của họ. Ngỡ rằng Chúa bỏ đi, Chúa khoá cửa rồi, họ gõ cửa xin vào. Nhưng Chúa từ chối, Chúa bỏ mặc họ với thế gian của họ, vì họ không đón nhận Phúc Âm chân truyền bằng một tinh thần tôn trọng sự thật. Chúng ta lấy ví dụ trường hợp một số hành động chính trị nào đó. Hành động chính trị của các Kitô hữu trong quá khứ và nhất là trong hiện tại luôn luôn bị cám dỗ muốn đem Đức Kitô vào đời sống công cộng, muốn viện dẫn Đức Kitô làm hậu thuẫn cho một hoạt động đảng phái; thật ra ai cũng biết, hoạt động đảng phái làm cho Phúc Âm mất đi tính chất chân truyền. Đối với xu hướng ấy, đối với những kẻ có chủ trương ấy, Đức Kitô đóng cửa lại. Chúa mở cửa cho hầu hết mọi chủ trương, đường lối, ngoại trừ sự giả dối.

HÃY CỐ GẮNG QUA CỬA HẸP

Lm Hồ Bạc Xái

Chúa Nhật XXI thường niên – Năm C

Chủ Ðề: Chúa ban ơn cứu độ cho mọi người

“Hãy cố gắng qua cửa hẹp để vào Nước Trời” (Lc 13, 24

I. Dẫn vào Thánh lễ Anh chị em thân mến Dân Do Thái là dân riêng của Chúa. Còn chúng ta chỉ là dân ngoại. Vậy mà chúng ta đã được Chúa thương, cho chúng ta biết Ngài và quy tụ chúng ta lại trong Giáo Hội của Ngài. Chúng ta hãy cám ơn tình thương của Chúa, và hãy cầu nguyện để ngày càng có thêm nhiều người được biết Chúa và đến với Ngài.

II. Gợi ý sám hối

-Rất ít khi chúng ta biết cám ơn Chúa vì ơn được biết Ngài.

-Cũng rất ít khi chúng ta quan tâm làm cho nhiều người khác cũng được biết Chúa như chúng ta.

-Chúng ta ngại đi qua “cửa hẹp”, nghĩa là ngại khó khăn, ngại cố gắng.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Is 66, 18-21)

Đây là đoạn kết của sách Isaia, qua đó Thiên Chúa tỏ cho biết giai đoạn cuối của chương trình cứu độ của Ngài là tất cả mọi dân tộc (chứ không riêng gì dân do thái) sẽ tin vào Ngài, đến với Ngài và hưởng hạnh phúc muôn đời với Ngài. 2. Đáp ca (Tv 116) Thánh vịnh này nhấn mạnh lại ý tưởng của bài đọc I: kêu mời mọi nước mọi dân hãy ca ngợi và chúc tụng Chúa.

3. Tin Mừng (Lc 13, 22-30)

Hai câu trong đoạn Tin Mừng này đáng chú ý nhất: c. 23: Câu hỏi mà một người kia đặt ra cho Chúa Giêsu phản ánh quan tâm của người Do Thái đương thời về số lượng những kẻ được cứu. Khi đặt vấn đề dựa theo số lượng, người ta sẽ có thái độ không thích hợp: nếu mọi người đều được cứu thì thái độ sẽ là ỷ lại; còn nếu có một số nhỏ được cứu thì thái độ sẽ là chán nản, cố gắng làm chi cho uổng công. c. 24: Chúa Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi. Người ta hỏi về số lượng. Ngài trả lời về cách thức làm sao cho mình được ở trong số lượng những kẻ được cứu ấy, đó là phải cố gắng, diễn tả bằng hình ảnh “đi qua cửa hẹp”. -“Đi qua”: Động từ “qua” diễn ta sự thay đổi cách sống. Có rất nhiều người đứng trước cái của hẹp ấy, nhưng chỉ những ai biết “đi qua” (thay đổi cách sống) thì mới vào nhà được.

-“Cửa hẹp” diễn ta sự cố gắng. Muốn vào Nước Trời thì phải cố gắng nhiều (và khó khăn như lạc đà chui qua lỗ kim: xem Mt 19, 24, Mc 10, 25, Lc 18, 25).

Như thế, số lượng những kẻ vào Nước Trời (nhiều hay ít), và lý lịch của những người ấy (Do Thái hay dân ngoại) đều không quan trọng. Vấn đề quan trọng là phải cố gắng đi qua cửa hẹp mà vào.

4. Bài đọc II (Dt 12, 5-7. 11-13) (Chủ đề phụ)

Đoạn thư Do Thái này bàn đến những gian truân khốn khó. Như chúng ta đã biết, các kitô hữu gốc Do Thái phải chịu nhiều khốn khó từ phía đế quốc rôma lẫn phía Do thái giáo.

Tác giả cho họ biết rằng những gian nan khốn khó đó là những việc Chúa cho phép xảy ra để thử thách và sửa dạy họ. Mà Chúa thương ai thì mới thử thách và sửa dạy người ấy. Vì thế, họ đừng ngả lòng, trái lại hãy vui mừng vì biết mình được Chúa thương, và kiên trì chịu đựng.

IV. Gợi ý giảng

* 1. “Phải chăng số người được cứu thoát thì ít?”

Hôm đó có người hỏi Chúa Giêsu: “Phải chăng số người được cứu thoát thì ít?” Người hỏi câu này là một người Do Thái. Khi hỏi thế, người Do Thái này mong nhận được câu trả lời là “đúng thế”. Sở dĩ người này mong như vậy là vì dân Do Thái nghĩ rằng ơn cứu rỗi được dành riêng cho dân tộc họ mà thôi.

Một câu hỏi sai phát xuất từ một quan niệm sai. Cho nên Chúa Giêsu không trả lời. Những điều Ngài nói sau đó cho ta thấy Ngài muốn đặt lại câu hỏi cho đúng: “Ai sẽ được cứu rỗi?” và “Muốn được cứu rỗi thì phải làm gì?”

“Ai sẽ được cứu rỗi?” Thưa: tất cả mọi người: “Thiên hạ sẽ từ Đông Tây Nam Bắc sẽ đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”. Vì thế, đừng ai nghĩ rằng bởi vì mình thuộc thành phần ưu tiên nên chắc chắn sẽ được cứu rỗi, bởi vì rất có thể khi đó họ phải ngỡ ngàng nghe Chúa nói “Ta không biết các ngươi từ đâu tới. Hãy cút đi cho khỏi mắt Ta”.

“Muốn được cứu rỗi thì phải làm gì?” Thưa “hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mười vào”. “Qua cửa hẹp” nghĩa là phải sám hối, phải uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin Mừng, “ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình và vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”

* 2. Ai sẽ được cứu rỗi?

Thời Chúa Giêsu nhiều người Do Thái tưởng rằng ơn cứu rỗi chỉ dành riêng cho dân tộc họ mà thôi. Vì thế khi họ hỏi Chúa Giêsu “Thưa Thầy, phải chăng chỉ có một số ít người sẽ được cứu rỗi?” thì họ thầm mong Chúa Giêsu sẽ trả lời “Phải” để xác nhận quan điểm của họ.

Nhưng Chúa Giêsu đâu có muốn xác nhận một quan điểm hẹp hòi như vậy, và Chúa Giêsu cũng không muốn trả lời thẳng câu hỏi của họ. Nếu Chúa đáp “Phải” chỉ có một ít người sẽ được cứu rỗi” thì sẽ sinh hậu quả là những người Do Thái thành ra kiêu căng tự mãn vì nắm chắc phần rỗi: vì tự mãn như thế họ không cần cố gắng gì thêm nữa. Và những người khác không phải là Do Thái thì sẽ nản lòng, tự nhủ “Ơn cứu rỗi không thuộc về mình, thôi thì cố gắng làm chi cũng vô ích”. Ngược lại nếu Chúa Giêsu đáp “Ơn cứu rỗi được ban cho số đông” thì cũng làm cho mọi người ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắn sẽ được rồi mà.

Chính vì những lý do nêu trên mà Chúa Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, Chúa nhắm đến phẩm chất: Ơn cứu rỗi không phải là đặc quyền của một số người nào, của một dân tộc nào, của một phe nhóm nào cả, mà thuộc về bất cứ ai biết sống theo Lời Chúa dạy. Vì thế mà sẽ có những cảnh trớ trêu:

-Những kẻ trước hết sẽ có thể nên sau hết; ngược lại những kẻ sau hết có thể thành trước hết. Dân tộc Do Thái dù được biết Chúa sớm hơn hết nhưng nếu không sống theo Lời Chúa thì có thể đi sau các dân khác tuy biết Chúa muộn hơn nhưng đã biết sống theo Lời Chúa.

-Chúa còn nói:”Nhiều người từ đông sang tây nam bắc sẽ được mời vào nước Chúa đang khi con cái trong nhà bị đuổi ra”, nghĩa là có thể các dân tộc khác sẽ vào chiếm chỗ dân Do Thái vì các dân tộc ấy đã biết sống theo Lời Chúa.

Trên đây là ý nghĩa trực tiếp của đoạn Tin mừng, áp dụng cho dân Do Thái và các dân khác thời Chúa Giêsu. Còn ý nghĩa hiện thực áp dụng cho thời đại chúng ta ngày nay là: không phải hễ có rửa tội, có đạo, có dự lễ, rước lễ, xưng tội, đọc kinh, nghe giảng, v.v. thì đương nhiên sẽ được cứu rỗi đâu. Nhưng ơn cứu rỗi được ban cho bất cứ kẻ nào sống theo Lời Chúa, cho dù người đó có đạo hay là không có đạo. Thực vậy, có đạo mà không sống theo Lời Chúa thì không bằng người tuy không có đạo, không biết Chúa nhưng cuộc sống của họ lại theo đúng những điều Chúa dạy.

Giáo thuyết này đưa đến 2 quan niệm mới trong nền thần học ngày nay: (1) thứ nhất là quan niệm về những người Kitô hữu vô danh: đó là những người tuy không có đạo, nhưng vì cuộc sống của họ phù hợp với tinh thần Tin mừng nên vẫn được cái là Kitô hữu mặc dù họ không có danh hiệu Kitô hữu. (2) Còn quan niệm thứ hai là về những người “Kitô hữu ngoại đao”, nghĩa là những người tuy có đạo nhưng lại không sống theo tinh thần Tin mừng nên bị coi là ngoại đạo mặc dù họ có danh hiệu Kitô hữu.

Nếu danh hiệu không làm nên thực chất của người Kitô hữu, thì là cái gì? Thưa là cuộc sống được thể hiện qua những phản ứng của mình trước mọi tình huống trong đời.

Một nữ tu già ngồi sau một chiếc xe đạp, rồi có một chiếc xe hơi trên đó có một số cán bộ chạy lướt qua. Chiếc he hơi lái hơi ẩu nên chạm chiếc xe đạp làm cho bà sơ già té ngửa xuống, dập đầu xuống đường. Những cán bộ trên xe hơi vội vả xuống đỡ bà dậy. Mặc dầu đau lắm nhưng bà cố gắng nói “Không sao đâu các con, xin Chúa chúc lành cho các con”. Câu nói đột ngột đó làm cho các ông cán bộ kia vừa tức cười vừa nghĩ ngợi: tức cười vì các ông ấy đâu có tin Chúa mà cần tới phúc lành của Chúa, nhưng các ông phải nghĩ ngợi vì phản ứng đầy bác ái và đầy đức tin của bà sơ: chỉ có kẻ nào quá quen với tha thứ và lúc nào cũng luôn nhớ tới Chúa mới có thể thốt ra một câu như vậy”. Và sau đó những ông cán bộ ấy hay tới lui chăm sóc và thăm viếng vị nữ tu ấy, lòng rất mến phục.

Đó là những phản ứng, phản ứng thì lẹ làng, bất ngờ nhưng rất trung thực. Trước một tình huống xảy ra, trong lòng mình thế nào thì mình sẽ phản ứng đúng như vậy. Người nào chỉ có đạo trên danh nghĩa nhưng không quen sống theo Lời Chúa thì không thể nào có được phản ứng mang tính chất Kitô giáo đích thực. Như thế, thước đo của lòng đạo chúng ta chính là những phản ứng của chúng ta.

Thí dụ như khi bị trộm mất đồ, không ít người có đạo đã đi coi thầy bói để đoán xem ai đã lấy đồ của mình. Đây rõ ràng là phản ứng của người không đạo. Còn ông Gióp khi dồn dập nhà cửa bị cháy rụi, các vật bị cướp đi, con cháu bị chết hết, bản thân mang chứng phong cùi gớm ghiếc đã biết nói “Xưa Chúa đã ban, nay Chúa lấy lại, xin ngợi khen Chúa”. Ông còn khuyên người khác “Mình biết lãnh nhận những ơn lành của Chúa thì sao không biết chịu đựng những thử thách của Chúa, . Đó mới là phản ứng của người có lòng đạo thực. Thế nhưng không thiếu người cho rằng: sống giữa một xã hội đầy tráo trở mà phản ứng theo tinh thần Tin mừng thì là khờ dại quá. Xin hỏi lại: Thế thì đạo không có ăn nhập gì với cuộc đời sao? Con người chúng ta phải chia ra làm hai sao: một con người hiền lành lúc ở nhà thờ đọc kinh dự lễ và một con người tráo trở gian manh khi cư xử với người đời sao! Không được, con người chúng ta phải là một ở nhà thờ cũng vậy mà ở giữa chợ đời cũng vậy. Đạo chúng ta là đạo nhập thể vào đời chứ không phải chỉ là đạo ở nhà thờ.

Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói rằng không phải hể mang danh nghĩa là người Do thái ngày xưa, hay người Công giáo ngày nay là đương nhiên được ơn cứu rỗi; không phải hể có rửa tội, hễ có thường xuyên đọc kinh rước lễ là đương nhiên được ơn cứu rỗi. Nhưng ơn cứu rỗi là dành cho bất cứ ai biết sống theo Lời Chúa và có những phản ứng hợp với tinh thần Tin mừng trong mọi tình huống cuộc đời.

Xin Chúa giúp chúng ta không chỉ là những người Kitô hữu trên danh nghĩa nhưng thấm nhuần tinh thần Kitô hữu trong cả cuộc sống, trong mọi cách suy nghĩ, lời nói, việc làm của mình.

* 3. Cửa nào Chúa đã đi qua?

Một buổi sáng náo nhiệt, người đàn bà sang trọng đi chiếc xe hơi bóng láng, lóng lánh như kim cương tới cửa thiên đàng. Nghe tiếng còi điện lừng vang, thánh Phêrô vội vã mở cửa dẫn vào. Khi vị thánh giữ cửa thiên đàng chỉ cho bác tài xế của bà một toà nhà đồ sộ, thì bà sung sướng nghĩ thầm: “Bác tài mà còn được ở một toà nhà nguy nga tốt đẹp như thế! Còn tôi chắc phải được một dinh thự sang trọng lộng lẫy đến chừng nào!” Và bà ta xoa tay vui sướng. Ngờ đâu khi bác tài đi rồi, thánh Phêrô lại chỉ vào một túp lều lụp xụp ở góc vườn và nói: – Đó là nhà của bà. Người nhà giàu hốt hoảng, choáng váng đầu óc: – Nhà của tôi đó thật sao? Không, tôi không thể nào sống trong một căn lều tồi tàn xấu xí như thế được? Thánh Phêrô vân vê chòm râu bạc, trả lời giữa hai cái nháy mắt: – Thưa bà, với vật liệu bà đã gởi lên cho tôi xưa nay, tôi chỉ làm được có ngần ấy thôi! * “Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13, 30). Đó là bất ngờ đau đớn cho “những kẻ đứng đầu”. Họ là những người được Chúa ban cho giàu có nhưng lại sống trong ích kỷ, chỉ biết thu vén cho mình những của cải đời này, mà không biết chia sẻ trao ban như luật yêu thương Chúa dạy. Chính tài sản đã làm họ vướng víu nên không thể qua “cửa hẹp” mà vào được Nước Trời.

“Những kẻ đứng đầu” có thể là những ai được Chúa ban cho địa vị, chức quyền, khôn ngoan, nhưng lại sống trong huênh hoang tự đắc. Thay vì dùng ơn lành Chúa ban để nâng đỡ anh em, phục vụ cộng đoàn, họ lại nuôi dưỡng tham vọng cá nhân. Chính cái tôi cồng kềnh đã làm họ vướng víu nên không thể qua “cửa hẹp” mà vào được Nước Trời.

“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13, 24). Nếu Chúa đã bảo hãy “chiến đấu” tức là phải nỗ lực cố gắng thật nhiều, phải vất vả gian nan thật lâu, thì mới vượt qua được “cửa hẹp”. Nếu Chúa đã nhắc đến “cửa hẹp” thì phải hiểu là chỉ có những người bé nhỏ mới lách qua được, chỉ có những trẻ thơ mới vào được dễ dàng. Chúa phán: “Ai không tiếp nhận Nước Trời như một trẻ nhỏ thì không được vào” (Lc 18, 17).

“Cửa hẹp dẫn đến sự sống” (Mt 7, 14), cửa hẹp đưa vào bàn tiệc Nước Trời, nhưng không phải lúc nào cửa cũng mở: Sẽ đến giờ “chủ nhà đứng dậy và khoá cửa lại” (Lc 13, 25) thì không cách gì, không lý lẽ chi để cửa mở ra lại. Đó chính là lúc vô cùng bất hạnh cho những kẻ đến trễ: những kẻ mải mê tìm của cải danh vọng, thú vui phù du mà quên đi hạnh phúc vĩnh hằng; những kẻ cậy dựa vào đạo dòng, vào các việc lành đã làm, vào tài đức đã đắc thủ mà quên đi Đấng mà họ phải kiếm tìm, để sống thân mật, để dâng hiến và để yêu mến Người với tất cả trái tim.

Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang; cửa tiền tài, sắc dục, hư danh; cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói: “Ta không biết các anh từ đâu đến” (Lc 13, 27) (THIÊN PHÚC)

* 4. Thử thách giúp nên người

Ở một số bộ lạc da đỏ, có tục lệ sau đây: khi một trẻ trai đến tuổi thành niên, người cha của nó sẽ dẫn nó vào rừng, giao cho nó một cây giáo, sau đó người cha rút lui để lại nó một mình trong rừng suốt đêm hôm ấy. Trong đêm đó, nó sẽ phải một mình ở trong rừng, đối diện với nhiều nỗi sợ hãi: sợ cô đơn, sợ bóng tối, sợ thú dữ… Nếu nó hèn nhát đòi theo cha về nhà thì nó vẫn bị coi là trẻ con. Nhưng nếu nó chịu đựng được tất cả và sáng hôm sau rời khỏi khu rừng trở về với gia đình thì nó được chính thức công nhận là người một trưởng thành. Nếu nói theo bài Tin Mừng hôm nay thì cái đêm khó khăn trong rừng ấy là cái “cửa hẹp”; còn nếu nói theo bài đọc II thì đó là “thử thách”. Có qua thử thách hay cửa hẹp đó thì chàng thiếu niên mới trở thành người. Tại sao gian nan cực khổ giúp ta nên người? -Vì nó thanh luyện tâm hồn -Vì nó rèn luyện đức tính -Và vì nó sinh nhiều hoa trái tốt Chẳng những giúp ra nên người, gian nan cực khổ còn giúp ta nên người kitô hữu tốt: -Sở dĩ Chúa cho phép gian nan cực khổ xảy đến với ta là vì Chúa biết nó có thể làm ích cho chúng ta. Nói ngược lại, nếu nó chỉ có hại thì Chúa đã không cho nó xảy đến với ta.

-Nó khiến ta tìm đến Chúa -Nó giúp ta cảm nghiệm được quyền phép Chúa -Nó giúp ta cảm nhận được tình thương của Chúa -Và nó khiến ta biết thương xót những người gặp hoàn cảnh gian nan cực khổ như ta.

5. Chuyện minh họa

a/ Cửa hẹp Một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có được một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh. ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một triệu mỹ kim. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một triệu mỹ kim, hai vợ chồng đã tan vỡ (. . . ) Con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài

b/ Tiếng Chúa Thiên Chúa nói thì thầm trong cơn vui sướng của chúng ta; Ngài nói đủ nghe trong lương tâm của chúng ta; nhưng Ngài hô lớn trong những cơn đau của chúng ta (C. S. Lewis).

c/ Vào thiên đàng Một Rabbi Do Thái kia có đứa con theo Kitô giáo. Khi ông chết, Chúa Cha cho ông vào thiên đàng. Nhưng ông nói: – Lạy Chúa, con chẳng đáng vào thiên đàng đâu, vì đứa con của con đã bỏ đạo Giavê để theo đạo Kitô. – Có sao đâu! Đức Chúa Cha an ủi, Ta thông cảm, Ta thông cảm. Ngày xưa Con của Ta cũng thế!

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu rỗi hết thảy mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin:

1. Hội thánh luôn mời gọi con cái mình hiên ngang sống đức tin Chúa đã thương ban / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết thể hiện niềm tin của mình qua những việc làm cụ thể trong đời sống thường ngày.

2. Ở bất cứ thời đại nào cũng đều có người thành tâm thiện chí đi tìm kiếm Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa soi sáng / hướng dẫn / và nâng đỡ những ai đang trên con đường tìm gặp gỡ Người.

3. Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu hiểu rằng / chỉ khi đi vào con đường hẹp của Tin mừng / con đường đòi hỏi nhiều hy sinh gian khổ / họ mới có thể đi tới sự sống đời đời.

4. Chúa Giêsu nói: / Chỉ những ai thi hành thánh ý Chúa Cha / mới xứng đáng vào Nước Trời / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết hết lòng tuân giữ lề luật của Chúa, nhất là luật bác ái yêu thương. Chủ tế: Lạy Chúa, chỉ nguyên danh xưng Kitô hữu chưa đủ bảo đảm cho chúng con vào Nước Trời, vì chúng con còn phải sống trọn vẹn niềm tin đã lãnh nhận nữa. Vậy xin Chúa củng cố đức tin còn yếu kém của chúng con. Chúng con cầu xin

VI. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Chút nữa khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho “Nước Cha trị đến” để ngày càng có thêm nhiều người nhận biết Chúa và đến với Chúa.

VII. Giải tán

Chúng ta sắp trở lại với cuộc sống hằng ngày với biết bao cực nhọc và đau khổ. Nhưng Lời Chúa hôm nay đã cho chúng ta biết đó chính là những thử thách mà vì yêu thương chúng ta nên Chúa mới gởi đến cho chúng ta. Đó chính là cái cửa hẹp mà chúng ta cần phải qua đó mới vào được Nước Trời. Vậy chúng ta hãy vui lòng đón nhận tất cả những cực nhọc và đau khổ ấy với lòng yếu mến.

GIÁ TRỊ CỦA ĐAU KHỔ

Lm. Minh Vận, CMC03_Van_dong

Abraham Lincoln, vị Tổng Thống thứ 16 của Hoa Kỳ, hồi còn niên thiếu đã phải sống một cuộc đời thật thê thảm. Cậu sinh ra trong một gia đình rất nghèo nàn ở Kentucky và mồ côi cha mẹ lúc mới 9 tuổi. Sau đó, anh em cậu đã di chuyển đến Indiana và sống trong túp lều nhỏ giữa rừng, túp lều này được dựng bằng cây rừng ghép lại, mái cũng bằng cành cây và chỉ có ba vách tường, không cửa, không giường, không chăn, không chiếu… Bởi đó, trong những ngày tiết đông giá lạnh, Abraham chỉ nằm co ro giữa đống lá khô ở một góc nhà.

Thức ăn của cậu là thịt thú rừng và trái cây mọc hoang, ngày nào kiếm được của gì thì no bụng, không kiếm được gì thì đành chịu đói.

Khi đau yếu, cậu chỉ nằm co quắp chịu trận, chứ không tìm đâu ra thuốc thang. Mỗi ngày cậu phải vất vả lần mò đường rừng chừng 2 cây số, mới kiếm được nước để uống và tắm rửa. Vì thế, áo quần cậu nhơ bẩn, tanh hôi và đầy chấy rận. Đến lúc 15 tuổi, Abraham mới được đi học, phải dùng than viết vào cây thay vì giấy bút mực. Có lần Abraham phải đi bộ đến 32 cây số, mới mượn nổi cuốn sách mà học. Mỗi khi đi học, cậu phải thức dậy từ ba bốn giờ sáng, quốc bộ 7 cây số đường rừng mới tới trường học.

Một con người túng bấn cùng cực và cuộc sống gian khổ đến thế, mà về sau, đã đạt tới đỉnh công danh trên đời, làm Tổng Thống của một đại cường quốc nhất thế giới. Tổng Thống Abraham Lincoln xứng đáng là vị vị Nguyên Thủ quốc gia gương mẫu, đáng người đời khâm phục và noi theo bắt chước.

I. TRƯỚC KHÓ KHĂN NGHỊCH CẢNH

Trước những khó khăn nghịch cảnh, nhiều người đã rủa mình, bất mãn, chán nản và ngã lòng. Họ hận đời, kêu trách cho đời là bất công, coi mình là người bị chèn ép, bị số phận hẩm hiu… Hơn nữa, họ còn phàn nàn kêu trách cả Thượng Đế, lộng ngôn xúc phạm đến Ngài, họ cho Ngài là độc ác, dựng nên họ rồi đầy ải họ. Họ nói: “Trời không có mắt”. Họ cho Thượng Đế là thiên vị: “Người thì giầu nứt khố đổ vách, kẻ lại nghèo nàn xác xơ”. Hoặc: “Kẻ ăn không hết, người làm chẳng ra”. Hoặc: “Người thì công thành danh toại, kẻ thì suốt đời mang kiếp hẩm hiu mạt nghệ”. Cuối cùng, họ thất vọng buông xuôi, mặc cho con tạo xoay vần.

Trái lại, có những người trước gian nan thử thách, họ biết nhẫn nại chịu đựng, kiên trì vận dụng mọi nỗ lực với niềm tin tưởng và hy vọng: “Có công mài sắt, có ngày nên kim”. Họ biết lợi dụng gian khổ như lợi khí sắc bén tôi luyện bản thân, được thêm kinh nghiệm trong trường đời, hầu có thể cứu được mình và giúp được kẻ khác. Chính nhờ cuộc sống gian khổ đó, mà họ lập được chí lớn, đạt được thành công, trở nên người hữu dụng cho đời, trở thành những bậc vĩ nhân quân tử, biết xả thân quên mình, cứu nhân độ thế. Thực họ đã xứng đáng được người đời ca ngợi và khâm phục, tri ân và suy tôn họ như những bậc anh hùng dân tộc, những vị đại ân nhân của nhân loại. Châm ngôn hành động của họ là: “Nỗ Lực và Cậy Trông”. Họ luôn biết nỗ lực bản thân, rồi cậy trông vào sự trợ giúp của Thượng Đế, vì họ thâm tín rằng: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Tấm gương Tổng Thống Abraham Lincoln trên đây là một bằng chứng cụ thể, đáng chúng ta kính nể, ngưỡng mộ và noi theo bắt chước.

II. THẾ NÀO LÀ YÊU THƯƠNG CHÂN THẬT

Thực nghiệm trong đời sống hằng ngày, thời xưa cũng như thời nay, chúng ta thường thấy, những con cái của các nhà quí phái giầu sang chức quyền, thường được cha mẹ thiếu khôn ngoan cưng yêu nuông chiều, muốn gì được nấy; chúng thường hay ăn chơi lêu lổng, lười biếng, cậy thế, cậy quyền, coi trời bằng vung, cũng chẳng coi ai ra gì. Vì gia thế quyền hành, không ai dám động đến “Con ông cháu cha” mà. Nếu các bậc phụ huynh nuông chiều con cái như thế tưởng là yêu thương con cái, xứng với danh dự gia tộc mình. Quả thực các ngài đã lầm, vì một ngày không xa, con cái hư thân mất nết, bấy giờ hối bất cập, không còn thể cứu vãn được nữa, lại nên bia cho miệng đời khinh chê. Nhưng các bậc phụ huynh biết nhìn xa trông rộng, các ngài yêu thương con cái bằng một mối tình chân thật và cao cả; các ngài biết khôn ngoan tùy thời, tùy cảnh áp dụng đường lối giáo dục, lúc cương lúc nhu, lúc lý lúc tình, nhất là bằng mối tình yêu thương tha thiết, biết nhẫn nại và nhân từ nhắn nhủ, sửa dạy uốn nắn con cái, đào tạo cho chúng nên người hữu dụng cho đời, biết xả kỷ vị tha, biết kính trên nhường dưới, biết phụng sự và tôn thờ Thiên Chúa. Nếu cần, các ngài cũng không ngại sửa phạt, nhưng luôn tỏ ra lòng nhân từ, thương yêu và tha thứ… Như thế, mới thực là tình yêu thương chân thật và cao cả của bậc làm cha mẹ.

III. LỬA THỬ VÀNG GIAN NAN THỬ ĐỨC

Với ánh sáng niềm tin, các Thánh Nhân luôn nhận ra thánh ý khôn ngoan và yêu thương của Thiên Chúa đối với các ngài. Mỗi khi Chúa ban cho các ngài những điều may mắn, cũng như những lúc Chúa để xảy đến cho các ngài những rủi ro bất trắc, những khó khăn nghịch cảnh, các ngài đều đón nhận tất cả vì lòng yêu mến Người. Vì theo lời Thánh tổ phụ Gióp nhắn nhủ: “Tại sao chúng ta giơ tay lãnh nhận những ơn lành Chúa ban, mà lại không sẵn sàng vui lòng lãnh nhận những khó khăn thử thách Chúa gởi đến, để chứng tỏ lòng yêu mến Người?” (xem Job 1:21; 2:10) Rồi chính ngài đã nêu gương thuần phục khi thưa với Chúa: “Chúa ban cho con, rồi Chúa lại cất lấy, con xin chúc tụng danh Người!” Vì có ánh mắt siêu nhiên và lòng yêu mến Chúa tha thiết, các Thánh luôn nhận ra tình yêu thương của Chúa qua mầu nhiệm đau khổ, đúng như lời Đấng Khôn Ngoan trong sách Phương Ngôn: “Như lửa thử vàng, gian nan thử người công chính”. Thánh Phaolô cũng đã nhắn nhủ chúng qua thư gởi Giáo Đoàn Do Thái: “Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, cũng đừng nản chí khi Người quở trách con; vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến và đánh đòn kẻ Người chọn làm con”. Chính Chúa Kitô cũng đã hiện ra phán với Chị Dòng Bénigna: “Vì Cha yêu con, nên Cha mới ban cho con quà Thánh Giá đau khổ”.

Chúng ta hiểu thế nào được khi Chúa gởi Thánh Giá đau khổ, khó khăn, nghịch cảnh đến cho chúng ta, mà lại coi đó là món quà Chúa yêu thương ban tặng?

Thử hỏi có người mẹ nào thấy con đau yếu bệnh tật mà lại không lo tìm thầy chạy thuốc cho con? Dù đau lòng thương con, mẹ cũng phải ép con uống thuốc đắng, hoặc bắt con phải chịu giải phẫu đau đớn, cũng chỉ vì thương con muốn cho con khỏi bệnh. Chúa cũng thế, Chúa có sung sướng gì khi phải gởi đau khổ đến cho chúng ta? Chỉ vì muốn chữa bệnh tật linh hồn chúng ta, muốn cho chúng ta được Ơn Cứu Độ đời đời, giúp chúng ta có dịp đền tội, lập công, và thánh hóa bản thân… Hơn nữa, khi gởi đau khổ đến cho chúng ta, là Chúa muốn cho chúng ta được tham dự vào những thống khổ Chúa đã chịu, kết hợp những đau khổ của chúng ta với những thống khổ của Chúa, như phương thế giúp chúng ta chu toàn sứ mạng tông đồ chinh phục và thánh hóa tha nhân.

Kết Luận

Xin Chúa cho chúng con được hiểu biết giá trị đích thực của Thánh Giá đau khổ, để chúng con biết vui lòng đón nhận tất cả những trái ý, nghịch cảnh, thử thách, bệnh tật, nghèo nàn như là món quà yêu thương Chúa ban tặng, giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa, làm hài lòng Chúa hơn.

Lạy Mẹ, Mẹ đã thưa lời “Xin Vâng”, hoàn toàn thuần phục thánh ý Chúa trong mọi sự, nên Mẹ đã trở nên Đấng Đồng Công với Chúa trong việc đem Ơn Cứu Độ và thánh hóa đến cho chúng con, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ, luôn thuần phục thánh ý Chúa, để chúng con cũng được hiệp thông với Chúa và Mẹ trong việc cứu rỗi các linh hồn.

Lm. Minh Vận, CMC

CỬA NÀO CHÚA ĐÃ ĐI QUA?

Thiên Phúc

Một buổi sáng náo nhiệt, người đàn bà sang trọng đi chiếc xe hơi bóng láng, lóng lánh như kim cương tới cửa thiên đàng. Nghe tiếng còi điện lừng vang, thánh Phêrô vội vã mở cửa dẫn vào. Khi vị thánh giữ cửa thiên đàng chỉ cho bác tài xế của bà một toà nhà đồ sộ, thì bà sung sướng nghĩ thầm: “Bác tài mà còn được ở một toà nhà nguy nga tốt đẹp như thế! Còn tôi chắc phải được một dinh thự sang trọng lộng lẫy đến chừng nào!” Và bà ta xoa tay vui sướng.

Ngờ đâu khi bác tài đi rồi, thánh Phêrô lại chỉ vào một túp lều lụp xụp ở góc vườn và nói:

– Đó là nhà của bà.

Người nhà giàu hốt hoảng, choáng váng đầu óc:

– Nhà của tôi đó thật sao? Không, tôi không thể nào sống trong một căn lều tồi tàn xấu xí như thế được?

Thánh Phêrô vân vê chòm râu bạc, trả lời giữa hai cái nháy mắt:

– Thưa bà, với vật liệu bà đã gởi lên cho tôi xưa nay, tôi chỉ làm được có ngần ấy thôi! *

“Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13, 30). Đó là bất ngờ đau đớn cho “những kẻ đứng đầu”. Họ là những người được Chúa ban cho giàu có nhưng lại sống trong ích kỷ, chỉ biết thu vén cho mình những của cải đời này, mà không biết chia sẻ trao ban như luật yêu thương Chúa dạy. Chính tài sản đã làm họ vướng víu nên không thể qua “cửa hẹp” mà vào được Nước Trời.

“Những kẻ đứng đầu” có thể là những ai được Chúa ban cho địa vị, chức quyền, khôn ngoan, nhưng lại sống trong huênh hoang tự đắc. Thay vì dùng ơn lành Chúa ban để nâng đỡ anh em, phục vụ cộng đoàn, họ lại nuôi dưỡng tham vọng cá nhân. Chính cái tôi cồng kềnh đã làm họ vướng víu nên không thể qua “cửa hẹp” mà vào được Nước Trời.

“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13, 24). Nếu Chúa đã bảo hãy “chiến đấu” tức là phải nỗ lực cố gắng thật nhiều, phải vất vả gian nan thật lâu, thì mới vượt qua được “cửa hẹp”. Nếu Chúa đã nhắc đến “cửa hẹp” thì phải hiểu là chỉ có những người bé nhỏ mới lách qua được, chỉ có những trẻ thơ mới vào được dễ dàng. Chúa phán: “Ai không tiếp nhận Nước Trời như một trẻ nhỏ thì không được vào” (Lc 18, 17).

“Cửa hẹp dẫn đến sự sống” (Mt 7, 14), cửa hẹp đưa vào bàn tiệc Nước Trời, nhưng không phải lúc nào cửa cũng mở: Sẽ đến giờ “chủ nhà đứng dậy và khoá cửa lại” (Lc 13, 25) thì không cách gì, không lý lẽ chi để cửa mở ra lại. Đó chính là lúc vô cùng bất hạnh cho những kẻ đến trễ: những kẻ mải mê tìm của cải danh vọng, thú vui phù du mà quên đi hạnh phúc vĩnh hằng; những kẻ cậy dựa vào đạo dòng, vào các việc lành đã làm, vào tài đức đã đắc thủ mà quên đi Đấng mà họ phải kiếm tìm, để sống thân mật, để dâng hiến và để yêu mến Người với tất cả trái tim.

Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang; cửa tiền tài, sắc dục, hư danh; cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói: “Ta không biết các anh từ đâu đến” (Lc 13, 27).

***

Lạy Chúa, cửa hẹp thường rất khó vào, nên chẳng mấy người muốn bước qua; nhưng cửa hẹp lại là cửa Chúa đã đi qua, và chỉ qua đó chúng con mới tìm được Chúa.

Xin cho chúng con biết luôn cố gắng, quyết tâm bước vào cửa hẹp, cho dù phải rướm máu hy sinh, cho dù phải bỏ lại những gì mình ưa thích, vì chỉ có Chúa mới là phần thưởng và là niềm hạnh phúc của chúng con. Amen..

HÃY VÀO CỬA HẸP

Lm Tạ Duy Tuyền00 tuye

Một nhà văn kể câu chuyện giả tưởng : Satan họp hội nghị thảo luận về phương thức chiếm đọat các linh hồn. Nhiều ý kiến các cấp quỉ được phát biểu. Nhưng ý kiến được hội nghị tán đồng là của một quỉ già đầy kinh nghiệm. Đó là rỉ tai câu này :”Gấp gì, còn kịp chán, để gần chết rồi hãy ăn năn trở lại, hãy vui sống đã”.

Biết bao người đã không nghĩ đến hậu quả mà chỉ nhất thời thỏa mãn những cơn mê say của danh lợi thú trần gian. Họ lao đầu vào cuộc chơi mà không nghĩ đến hậu quả. Họ tìm cách thỏa mãn đam mê của mình mà bất chấp những hành động bạo ngược với gia đình và xã hội. Theo báo Kiến Thức: Ngồi co ro trong một góc nhỏ của Trung tâm giáo dục xã hội Thanh Hà, Hải Dương, nhìn cảnh đoàn tụ, vui vẻ của các trại viên khác với gia đình, Tùng bỗng thấy hụt hẫng, tim nhói đau xen lẫn nỗi ân hận vô cùng. Chỉ vì đua đòi, ham mê rượu chè đã khiến Tùng mất đi tất cả, từ hạnh phúc gia đình đến tương lai, tình cảm và nhân cách. Để rồi bây giờ, khi rượu không còn, cơn say đã tỉnh, mất quyền tự do, tình thân nhạt nhòa, Tùng mới ân hận vì những gì mình đã làm…

Sinh ra trong một gia đình trí thức, bố mẹ đều là công chức nhà nước, nên cuộc sống của Tùng luôn là niềm mơ ước của bao đứa bạn cùng trang lứa. Sống trong cảnh được cưng nựng nên từ nhỏ Tùng đã có tính ỷ lại, muốn hưởng thụ, lười lao động. Không nằm ngoài quy luật, Tùng trượt sâu vào hố đen tội lỗi, gây bao muộn phiền, đau đớn cho gia đình và xã hội. Để hôm nay ngồi trong nhà lao mới nghĩ lại thì quá muộn . . .

Cuộc đời nếu biết trước ngày mai sẽ ra sao có lẽ sẽ không có những sai lầm đáng tiếc xảy ra. Cuộc đời nếu biết rằng thời gian chẳng còn nhiều, có lẽ con người sẽ sống có trách nhiệm hơn, sẽ sống tốt hơn. Nhưng đáng tiếc nhiều người đã không nghĩ đến ngày mai, nhiều người lại cho rằng còn quá nhiều thời giờ nên vẫn đàng điếm xa hoa, vẫn lao vào biết bao cuộc vui thác loạn . . .

Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa hẹp mới đưa ta tới sự sống đời đời. Cửa hẹp đòi phải hy sinh. Cửa hẹp đòi phải phấn đấu, phải nỗ lực không ngừng. Cửa hẹp đòi ta không được chiều chuộng thân xác, không tìm thỏa mãn thú vui xác thịt. Còn đường thênh thang cho ta thỏa mãn cơn khát nhất thời nhưng lại là thuốc độc khiến ta mất mạng đời đời, có khi niềm vui chóng vánh còn để lại những hệ lụy đắng cay trong cuộc đời.

Có một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có được một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh. ông đề nghị với họ : nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một ngôi nhà theo ước mơ. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một ngôi nhà, hai vợ chồng đã tan vỡ (…)

Quả thực, con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài. Không có thành công nào lại không là kết quả của một nỗ lực hy sinh. Không có một vinh quang nào lại không kèm theo khổ luyện và phấn đấu. Thế nên, sự khôn ngoan mời gọi chúng ta đừng tìm cách thỏa mãn cơn khát nhất thời mà phải hướng tới mục đích lâu dài. Đừng vì niềm vui nhỏ, mau qua mà đánh mất niềm vui to lớn viên mãn trong Nước Trời.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết đi vào con đường hẹp để từ bỏ những niềm vui bất chính mau qua, những danh vọng hão huyền. Ước gì chúng ta luôn can đảm chiến đấu can trường để chống lại những cám dỗ của danh lợi thú trần gian. Xin Chúa luôn nâng đỡ và thêm ơn cho chúng ta. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền August 27, 2013

Hãy đi vào cửa hẹp Chúa nhật 21 thường niên, năm C-2010

Đọc những thông tin trên mạng và qua các báo chí chúng ta thấy một tình trạng đáng lo ngại cho nền đạo đức Việt Nam. Nền đạo đức bốn ngàn năm văn hiến đang trong tình trạng suy đồi, băng hoại thật trầm trọng. Điển hình như các vụ việc gần đây nhất như sau:

“Hiệu trưởng mua dâm học sinh và Chủ tịch tỉnh bị cáo buộc mua dâm ở Hà Giang; Hai vợ chồng bị kết án 20 năm tù mỗi người vì hành hạ một bé trai tại Cà Mau; Một nữ sinh cứa cổ người tình; Một thanh niên chặt đầu người yêu cũ; Bên cạnh đó là tệ trạng hàng ngàn phụ nữ và trẻ em bị buôn lậu với giá nhiều khi chỉ một triệu đồng Việt Nam (tương đương khoảng 50 MK) một người…”

Đó là hậu quả của một lối sống dễ dãi, ẩu thả của xã hội Việt Nam hôm nay. Họ thích tìm sự dễ dãi cho mình đến mức độ bất tuân luật pháp. Họ đề cao tự do, tự lập đến nỗi không cần tôn giáo, và tệ hơn nữa là loại trừ tôn giáo. Họ hành xử theo cách nghĩ của mình, bất chấp luật pháp, bất chấp đạo lý truyền thống của cha ông. Chúng ta biết rằng không có tôn giáo thì con người sẽ tự do hành động theo ý mình nên chẳng sợ “trời có mắt” để mà “làm điều lành tránh điều dữ” hay lời khuyên của tiền nhân “ở hiền gặp lành”. Không có tôn giáo con người không có sự sống thần linh hướng dẫn dễ lầm đường lạc lối và điều chắc chắn là chẳng ai nghe ai. Nhìn chung, ai cũng biết rằng cuộc sống dễ dãi sẽ đi tới chỗ diệt vong. Ai cũng biết rằng sự suy đồi của họ sẽ làm nghèo đất nước, làm khổ gia đình, và giết chết bản thân. Nhưng tính hưởng thụ đã đẩy họ vào con đường truỵ lạc để tranh thủ hưởng thụ theo kiểu mà Nguyễn Công Trứ bảo rằng:

Chơi Xuân kẻo hết Xuân đi, Xuân tàn hoa rụng còn gì vui Xuân

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi vào con đường hẹp. Con đường của hy sinh vì phải bỏ lại những thú vui mau qua, những đam mê tội lỗi để sống đúng với phẩm giá con người là “nhân linh ư vạn vật”. Con đường với lối đi thanh thoát, nhẹ nhàng khỏi những tham lam bất chính, những quyến luyến phù phiếm mau qua. Chúa mời gọi chúng ta cần phải sống tỉnh thức kẻo sẽ ân hận ngày mai, khi mà mọi người từ đông sang tây đều đến dự tiệc cưới còn mình bị tống ra ngoài. Chúa nhắc nhở chúng ta còn có một sự sống hạnh phúc viên mãn là thiên đàng, là hạnh phúc viên mãn bên Chúa. Đó chính là mùa xuân vĩnh viễn, là hạnh phúc ngàn đời. Đó chính là hạnh phúc mà mỗi người chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm và chiếm hữu cho dù phải hy sinh những danh lợi thú trần gian, có khi bằng cả mạng sống ở đời này. Sự sống và hạnh phúc vĩnh viễn đó chỉ đạt được khi chúng ta biết sống hy sinh, biết tự chủ bản thân theo đường lối Chúa, biết sống cao thượng, biết tránh xa những thói đời xấu xa.

Nhưng tiếc thay, nhân loại hôm nay luôn ham sướng sợ khổ. Thích tìm sự dễ dãi hơn là những hy sinh từ bỏ. Có những bạn trẻ thích hưởng thụ nhưng không muốn làm, chỉ lêu lổng dẫn đến trở thành một gánh nặng cho gia đình và xã hội. Có những bạn trẻ tìm sự dễ dãi trong quan hệ nam nữ mà đánh mất lòng tự trọng, sự trong sạch tâm hồn. Có những người luôn tìm sự dễ dãi cho bản thân, nuông chiều theo tính xác thịt dẫn đến ngoại tình, dâm ô, trộm cắp . . .; Có những người đang mang trong mình những căn bệnh thời đại là hậu quả của lối sống dễ dãi, thiếu tự chủ bản năng.

Người ta vẫn nói: “Hãy dừng lại trước khi qua muộn”. Sự khôn ngoan mời gọi chúng ta đừng tìm sự dễ dãi đến mức độ nuông chiều theo bản năng. Hãy tự chủ. Hãy tỉnh thức. Hãy canh tân sửa đổi để trau dồi nhân đức cho bản thân hầu diệt trừ những tính hư nết xấu. Hãy sống cho cao thượng đúng với phẩm giá con người là “nhân chi sơ tính bản thiện”. Hãy sống công bình bác ái và yêu thương để khỏi bị luận phạt ở đời sau. Hãy sống đời này cho nghiêm túc để đời sau chúng ta được hạnh phúc muôn đời. Hãy vì sự sống vĩnh cửu mà can đảm từ bỏ những lối đường tội lỗi hôm nay.

Nguyện xin Chúa là Đường là Sự Thật và là Sự Sống dẫn dắt chúng ta đi trong chân lý vẹn toàn. Amen

HÃY VÀO QUA CỬA HẸP

Lm Đinh Lập Liễm

CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN C

+++

A. DẪN NHẬP.

Đức Giêsu đến trần gian mang theo sứ mạng đặc biệt là cứu rỗi mọi người không trừ ai. Sứ mạng này không phù hợp với quan niệm của người Do thái vì họ cho rằng họ là con cháu Abraham thì đương nhiên là sẽ được cứu rỗi, còn những người khác thì không. Vì thế mới có một người không biết là thành phần nào trong xã hội đã đến xin Đức Giêsu giải đáp cho mình một thắc mắc :”Thưa Thầy, những người được cứu thóat thì ít, phải không Thầy”?

Đức Giêsu không muốn trực tiếp trả lời cho câu hỏi này vì sẽ gây nên sự hiểu lầm. Nếu Ngài trả lời là “Đúng”, nghĩa là chỉ có ít người được cứu rỗi, thì làm cho người Do thái nghĩ rằng họ đương nhiên được ơn cứu thoát, rồi thì ỷ lại, không cần cố gắng nữa. Còn đối với những người khác thì nản lòng, vì họ có cố gắng thì cũng vô ích vì ơn cứu rỗi không được ban cho họ. Còn ngược lại, nếu Đức Giêsu đáp là “không” nghĩa là “Ơn cứu rỗi sẽ được ban cho số đông” thì cũng làm cho họ ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắên được rỗi mà !

Vì lý do trên, Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, tức là đặc quyền của người Do thái mà chỉ vạch ra cho họ phương thế để được vào Nước Trời :”Hãy chiến đấu qua cửa hẹp mà vào” (Lc 13,24). Theo Đức Giêsu, “Qua cửa hẹp” là phải sám hối, phải uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin mừng :”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.

Dựa theo tư tưởng của thánh Phaolô, chúng ta có thể hiểu “Qua cửa hẹp” là phải chiến đấu, cuộc chiến đấu cho đến cùng đường, phải đi vào con đường hẹp của Thập giá, phải can đảm chống lại sự lôi cuốn của ba thù, không thỏa hiệp, không nhân nhượng với chúng :”Không phải cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý cha Ta ở trên trời mới được vào”. Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang, cửa tiền tài , sắc dục, hư danh, cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói :”Ta không biết các ngươi từ đâu đến”(Lc 13,27).

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1 : Is 66.18-21.

Cộâng đồng Giêrusalem sau cuộc lưu đầy còn gặp nhiều khó khăn. Qua vị tiên tri vô danh, mà đôi khi chúng ta gọi là Đệ tam Isaia, Thiên Chúa loan báo một cuộc qui tụ toàn thể nhân lọai về với Ngài. Giêrusalem sẽ trở nên trung tâm thế giới, các dân sẽ tựu về và dâng lễ tại đó, một điều cấm kỵ cho đến bấy giờ.

Nhưng Israel sẽ không chịu phá bỏ rào chắn đối với dân ngọai, và Đức Giêsu đã phải trả bằng giá mạng sống mình cho nỗ lực cho việc phụng thờ Thiên Chúa hằng sống trở thành việc phụng thờ cho mọi dân nước. Lời sấm này tiên báo về thời Đấng Thiên Sai sẽ đến, qui tụ muôn dân, tiêu chuẩn phân biệt duy nhất là sự thánh thiện.

+ Bài đọc 2 : Dt 12,5-7.11-13.

Thời đó, các Kitô hữu gốc Do thái gặp muôn vàn khó khăn từ đế quốc Rôma cũng như Do thái giáo. Thánh Phaolô khuyên nhủ họ hãy bình tĩnh và tin tưởng, vì lòng yêu thương con cái mình, Thiên Chúa dùng gian nan thử thách để giáo dục và chữa trị họ.

Thử thách, dù thế nào đi chăng nữa, cũng không cho phép ta nghi ngờ tấm lòng của Thiên Chúa yêu thương chúng ta như một người cha, chẳng khác nào cha dạy con hoặc thầy nghiêm khắc sửa trị trò. Thiên Chúa đối xử với chúng ta như con của Ngài. Ngài không phải là người cha cay nghiệt. Thiên Chúa có thương ai thì mới thử thách và sửa dạy người ấy. Vì thế họ đừng ngã lòng, trái lại hãy vui mừng vì biết mình được Chúa thương, và kiên trì chịu đựng.

+ Bài Tin mừng : Lc 13,22-30.

Người Do thái thắc mắc muốn hỏi Đức Giêsu số lượng những người được vào Nước Trời. Thực ra, số lượng và lý lịch của những người được vào Nước Trời thì không quan trọng, mà vấn đề quan trọng là phải cố gắng đi qua cửa hẹp mà vào.

Bài Tin mừng hôm nay có 3 ý tưởng chính : a) Khung cửa thì hẹp, người muốn vào thì đông, vấn đề là phải nỗ lực. b) Có lúc cửa sẽ khép lại mãi mãi, vì giờ cứu độ đã hết, vấn đề là đừng trễ nải. c) Việc ăn Tiệc trên Nước Trời chỉ dành cho những ai thành tâm theo Chúa, không ai có thể dựa vào lý lịch, địa vị… mà nghĩ rằng mình có quyền đương nhiên được nhập tiệc.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Đi qua cửa hẹp mà vào.

I. NHỮNG AI ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI ?

1. Trên đường đi Giêrusalem.

Bài Tin mừng hôm nay nằm trong giai đọan cuộc hành trình của Đức Giêsu tiến về Giêrusalem nhân ngày lễ Cung hiến Đền thờ. Ngài rảo qua các đô thị, làng mạc giảng dạy cho dân chúng. Ở những nơi này, Đức Giêsu giảng dạy hơn là làm phép lạ. Các đề tài được đưa ra rao giảng là : sám hối, việc cầu nguyện, sự từ bỏ, việc dân Do thái từ bỏ ơn Chúa.

2. Một câu hỏi.

Có kẻ đến hỏi Đức Giêsu rằng :”Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít được cứu rỗi”?(Lc 13, 23). Tại sao người ta lại hỏi như vậy ? Chúng ta cần phải biết người Do thái có quan niệm thế nào về ơn cứu độ và đặc quyền của họ về vấn đề này.

Giáo trưởng Meir của người Do thái có viết :”Để được cứu rỗi, người ta phải cư ngụ trên đất nước Israel, nói tiếng Do thái là ngôn ngữ thánh, và sáng chiều đọc kinh Shema”. Có lẽ ý tưởng này phát xuất từ quan niệm “tự tôn chủng tộc” của một số trường phái vốn từng hiện diện trong thời Đức Giêsu. Theo họ, ai có gốc Do thái đều được cứu độ hết.

Nhưng dù với quan niệm nào đi nữa, người Do thái vẫn không thể hình dung hay chấp nhận được việc dân ngọai buớc vào Nước Thiên Chúa. Thế nên mới có một người Do thái, không rõ thành phần nào, đã đến xin Ngài giải đáp thắc mắc :”Phải chăng chỉ có một số ít được cứu độ” ? Thắc mắc này cũng là thắc mắc của mọi người Do thái và cần phải được giải đáp.

3. Một câu trả lời.

a)Không trả lời thẳng.

Đức Giêsu không muốn giải đáp thắc mắc cho họ vì Ngài đâu có quan niệm hẹp hòi như họ, và vì vậy Ngài không muốn trả lời thẳng câu hỏi của họ.

Nếu Ngài đáp là “Phải” chỉ có một số ít người được cứu rỗi thì sẽ sinh hậu quả là những ngừoi Do thái thành ra kiêu căng tự mãn vì nắm chắc phần rỗi : vì tự mãn như thế họ không cần cố gắng gì thêm nữa. Và những người khác không phải là Do thái thì sẽ nản lòng, tự nhủ : “Ơn cứu rỗi không thuộc về mình, thôi thì cố gắng làm chi cũng vô ích”. Ngược lại, nếu Đức Giêsu đáp “Ơn cứu rỗi được ban cho số đông” thì cũng làm cho mọi người ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắn sẽ được cứu rỗi rồi mà !

Tuy nhiên, như thánh Phaolô xác quyết :”Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu độ”(1Tim 2,4). Và Đức Giêsu thì nói :”Cha các con Đấng ngự trên trời, không hề có ý để hư đi một người nào trong những kẻ bé mọn này”(Mt 18,14). Như thế, ơn Chúa không hề giới hạn theo khu vực, số lượng, song là tuôn trào đến khắp mọi nơi và cho hết mọi người. Nhưng như thế không có nghĩa là người ta “bị” cứu độ. Trái lại, họ luôn có tự do để đón nhận hay khước từ. Một chiếc ly không thể chứa được những gịot nước tươi mát của trời cao nếu chẳng bao giờ ngửa miệng ly lên để hứng. Cũng thế, để được hưởng thành quả của ơn thiêng, người ta phải mở rộng tấm lòng và hướng về cùng Thiên Chúa.

Chính vì lý do nêu trên mà Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, Chúa chỉ nhắm tới phẩm chất : ơn cứu rỗi không phải là đặc quyền của một số người nào, của một phe nhóm nào cả mà thuộc về bất cứ ai biết sống theo Lời Chúa dạy.

b) Phải hành động để được cứu độ.

Đức Giêsu không trả lời cho biết số lượng người được ơn cứu độ nhưng nhắc cho họ cách sống để được cứu độ, nghĩa là phải hành động.

Truyện : Đừng ảo tưởng. Có một ông khách bộ hành phải đi qua một cái làng để đến một nơi mà ông ta không biết đích xác còn bao xa nữa thì mới tới được. Dọc đường ông ta gặp một bác tiều phu, liền dừng lại hỏi xem thử khoảng bao lâu nữa thì tới nơi mình muốn tới. Bác tiều phu nhìn ông khách rồi đáp ngay :”Tôi không biết”. Nghe thế, ông khách vội bước đi và nghĩ rằng người nhà quê đó không biết thật, chứ không phải khó tính khó nết. Nhưng khi vừa mới đi được vài bước thì bác tiều phu gọi với theo :”Này ông ơi, ông đi độ 15 phút nữa thì tới nơi đó”. Ngạc nhiên, ông khách quay trở lại hỏi bác tiều phu :”Tại sao khi nãy hỏi bác, bác trả lời không biết” ? Bác tiều phu thông cảm đáp:”Lúc ông hỏi tôi, ông chưa hành động nên chưa thấy bước đi của ông dài hay ngắn, mau hay chậm thì làm sao tôi có thể trả lời cho ông rõ ràng được” ?

Như vậy, ta đi tới đích được hay không, sớm hay muộn là do nơi hành động của ta. Cũng thế, thành công hay thất bại trong cuộc đời là hệ tại nơi việc làm của ta như thế nào. Do đó, có một điều hết sức tai hại mà ta phải luôn cảnh giác đề phòng là đừng quá tin tưởng vào những suy đoán chủ quan, những ảo tưởng siêu thực để rồi thiếu cố gắng tích cực, không chịu khó hành động cụ thể, sẽ rước lấy nhiều hậu quả khôn lường.

Đó chính là tư tưởng chủ đạo mà qua bài Tin mừng hôm nay Chúa muốn cảnh tỉnh chúng ta trên con đường đi theo Ngài, nghĩa là trong cuộc sống đạo để có thể đi tới đích là ơn cứu độ, điều quan trọng không phải cứ ngồi một chỗ mà suy đoán số phận tương lai, cũng không thể cậy dựa vào một vài ưu thế này nọ để rồi lên mặt đòi biệt đãi hơn kẻ khác, nhưng là phải chuyên chăm đưa ra thực hành những gì Chúa chỉ dạy. Muốn thế, phải biết lọai trừ những suy đóan sai lầm mà chúng ta thường mắc phải trong đời sống đạo…

c) Đừng dựa vào gì khác.

Để được vào Nước Trời đừng ỷ lại vào gốc gác. Chính thánh Gioan Tẩy giả đã nói thẳng vào mặt những người biệt phái và bè Sađucêu :”Đừng ỷ mình là con cháu tổ phụ Abraham…”(Mt 3,7t). Đối với Đức Giêsu, những đặc quyền về chủng tộc này không đáng kể. Lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đức Kitô trước tiên áp dụng cho những người đã từng ăn uống trước mặt Ngài, và những người đã từng nghe Ngài giảng dạy. Có những người nghĩ rằng họ đã ở trong đạo Chúa thế là đã đủ rồi. Họ có ý phân biệt họ với đám dân ngọai. Nhưng con người sống trong Giáo hội của Chúa chưa chắc chắn đã là Kitô hữu, những người đó đang hưởng thụ các lợi ích, các tiện nghi mà những người đi trước đã xây dựng nên. Nhưng đó không phải là lý do để ngồi chơi, thỏa lòng và yên trí rằng mọi sự đều tốt đẹp cả. Ngược lại, chúng ta phải tự vấn :”Ta đã góp phần được gì vào di sản của người trước”. Chúng ta không thể sống bằng cái tất vay mượn của tiền nhân.

II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI.

1. Phải qua cửa hẹp mà vào.

Đức Giêsu không trả lời thẳng vào câu hỏi :”Phải chăng số người được cứu độ thì ít” mà Ngài chỉ nói :”Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24).

a) Cửa hẹp là gì ?

Hình ảnh về cửa hẹp được Đức Giêsu sử dụng rất quen thuộc với dân chúng vào thời đại của Ngài. Dân chúng thời đó sống ở bên trong thành phố được bao bọc bằng vách tường. Vì không có đèn đường, các cửa và các cổng dẫn vào thành phố phải được đóng chặt chẽ vào ban đêm để tránh trộm cướp, hay kẻ thù cưỡi ngựa xâm nhập, tấn công thành phố. Nếu dân chúng đi ra khỏi thành phố và trở về trễ sau khi các cổng đã đóng chặt rồi thì sao ? Có ai mở cổng cho họ vào ? Không ! Khi cổng đã đóng rồi không ai được mở ra vì sợ bọn cướp hay quân địch ẩn núp trong bóng tối sẽ có thể tấn công bất ngờ.

Những người trở về trễ phải khép mình chui qua một cái cửa hẹp. Những cái cửa hẹp này còn được gọi là “mắt của cái kim” –“the eye of the needle”. Cửa chỉ vừa vặn cho một người đi qua thôi, và không thể mang theo hành lý.

Trong Luca chương 18, câu 25 :”Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”. “Lỗ kim” ở đây chính là “cửa hẹp”. Người đi buôn với hàng hóa cồng kềnh chất đầy trên lưng lạc đà không thể đi qua cửa này được. Phải vứt bỏ tất cả hàng hóa và hành lý xuống. Con lạc đà phải cúi đầu, khòm lưng và quì gối xuống may ra mới lọt. (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa…, năm C, tr 290-291).

b) Cửa rộng là gì ?

Là con đướng rộng thênh thang dễ đi. Đa số quần chúng chọn đi con đường này vì đó là những giây phút khóai lạc mau qua của trần thế mang lại. Con đường nay tuy thoải mái dễ chịu nhưng lại là con đường của những người dại khờ, nó không phải là con đường của Thiên Chúa. Bề lâu bề dài nó không dẫn tới đâu cả. Và cuối cùng chỉ là sự trống rỗng.

Truyện : Khoái lạc trong một đêm. Một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ :”Nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một triệu mỹ kim. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một triệu mỹ kim, hai vợ chồng đã tan vỡ (,,,) Con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài.

c) Bước qua cửa hẹp là gì ?

Khi Đức Giêsu nói về cửa hẹp, Ngài muốn ám chỉ việc từ bo,û “từ bỏ” hết mọi của cải trần gian. Sự khó khăn chật hẹp khi đi qua cửa là đời sống kỷ luật. Và đi qua cửa hẹp thì phải đi qua một mình, cô đơn. Nhưng Thiên Chúa luôn cùng đi với ta. Đó là “con đường hy sinh và vất vả”. Nhưng lại là con đường của những người khôn ngoan và thận trọng dẫn đến nguồn vui vẻ và hạnh phúc đời đời.

Bước qua cửa hẹp còn có nghĩa là giữ và sống lời Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo hội một cách nghiêm chỉnh suốt cuộc hành trình trần gian. Bước vào cửa hẹp còn là nhìn vào chính con người chúng ta như thể Thiên Chúa nhìn chúng ta và bước đi dưới con mắt của Ngài, vì biết rằng Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc sống của chúng ta.

d) Phải vào đúng lúc là gì ?

“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại”(Lc 13,25). Cánh cửa đã hẹp nay lại đóng kín. Thời gian hết sức cấp bách, phải bước vào ngay, ngày mai sẽ quá trễ. Ngay hôm nay phải bước vào Nước Trời.

Đây là giờ của ơn thánh. Ơn Chúa không bao giờ thiếu, nhưng phải biết đáp ứng. Vì thế, mỗi giây phút hiện tại, mỗi biến cố xẩy đến trong cuộc đời ta đều mang một ý nghĩa vì nó sẽ đem ta vào Nước Trời hay chặn ta lại trước cánh cửa Nước Trời đang đóng lại. Tuy nhiên về ơn Chúa ta không thể biết đâu là đầu, là chót, là quyết định hay không. Nhưng chính sự mập mờ bấp bênh này càng làm cho ta phải dứt khóat lựa chọn và theo Chúa trong mỗi giây phút hiện tại.

2. Qua cửa hẹp là phải chiến đấu.

Đức Giêsu không trả lời trực tiếp về số lượng người được rỗi và chỉ nói đến cách thức để được cứu rỗi. Ngài nói :”Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24). Ngài không muốn trấn an, Ngài muốn người ta sống có trách nhiệm. Từ đây, Ngài dùng hình ảnh quen thuộc trong toàn bộ Thánh Kinh : Nước Chúa như một phòng tiệc. Nhưng Ngài thêm : người ta xô đẩy nhau trước cửa vì cửa phòng “hẹp”.

Từ Hy lạp mà chúng ta dịch là “chiến đấu” là một động từ mạnh bạo “agonizesté” nghĩa đen là “đánh nhau để được vào”. Từ “agonie” (hấp hối) trong tiếng Pháp có ngữ căn lấy từ động tự Hy lạp : Cuộc chiến đấu cuối cùng của sự sống. Để đem lại ơn cứu độ cho mọi người, Đức Giêsu là người đầu tiên đã chiến đấu, ở vườn Giếtsimani và đồi Golgotha. Trong một đọan văn khác, Ngài đã nói rằng “Chỉ những ai mạnh sức mới chiếm được Nước Trời”(Mt 11,12; Lc 16,16). (Quesson).

Con đường chiến đấu khác nào một cuộc leo núi mà đỉnh chót không bao giờ đạt được ở trần gian này. Người ta nói về hai người leo núi nổi tiếng đã chết trên ngọn Everest rằng: “Khi người ta thấy họ lần cuối cùng thì họ vẫn hăng hái tiếân lên đỉnh núi”. Người ta ghi khắc vào bia mộ một hướng dẫn viên leo núi Alpes chết ở sườn núi rằng :”Chàng chết lúc đang lên”. Con đường Kitô hữu phải đi là con đường đi lên,tiến lên, tiến mãi.

Tổng thống Washington có khuyên một câu thật chí lý :”Không nên chỉ đánh giá thành công qua địa vị mà con người đạt được trong cuộc sống, nên đánh giá sự thành công qua những trở ngại mà người đó khắc phục được”.

Cuộc đời có biết bao lôi cuốn cam go, nhưng chỉ khi can đảm, không thỏa hiện hay nhân nhượng với kẻ thù, người ta mới có thể nói được như thánh Phaolô :”Tôi đã chiến đấu trong cuộc sống chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công, sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện”(2Tm 4,6-8).

Nhiều khi huấn luyện để ta trở nên người chiến binh dũng mạnh hầu chiến đấu đến cùng đường, Thiên Chúa cũng phải “quở trách… sửa dạy… và đánh đòn”(Dt 12,5-6). Aâu cũng vì thương con mà “cho roi cho vọt” và “có gian nan mới tạo anh hùng”.

Truyện : Muốn vào hàng trai tráng.

Trong nhiều bộ lạc Da đỏ Mỹ châu họ hay có nghi thức huấn luyện và thu nhận thiếu niên vào hàng ngũ trai tráng trong làng, người ta tổ chức như sau : Khi mặt trời sắp lặn, người bố sẽ dắt đứa con của mình vào sâu trong một cánh rừng. Đứa bé được trao cho một cây lao với lời nhắn nhủ :”Con sẽ ở một mình trong rừng đêm nay”. Sau đó người bố rút lui.

Màn đêm buông xuống rất nhanh. Không gian chập chờn với bao tiếng gầm rú rùng rợn. Người ta dễ có cảm tưởng đang bị thú dữ rình chờ tấn công. Thỉnh thoảng, vài tiếng vỗ cánh của chim ăn đêm cũng có thể làm cho người yếu vía giật mình. Thời gian chậm chạp trôi qua. Mỗi giây phút là cả một khoảng dài vô định.

Nhưng cuối cùng, màn đêm cũng rút lui. Bầu trời từ từ hừng sáng. Nỗi sợ hãi trong đứa bé cũng phai mờ theo. Từ trong một lùm cây, một bóng người xuất hiện : cha của đứa bé. Đứa bé nhận ra và vui mừng chạy đến ôm chầm lấy bố, reo lên :”Bố đã trở lại”. Người cha hãnh diện khi thấy con mình trải qua đêm đen như một người trưởng thành. Đứa bé không hề biết rằng suốt đêm qua cha nó không ngừng trông chừng nó.

Để trở thành chiến binh anh dũng trên mặt trận đức tin, lắm khi chúng ta cũng phải chấp nhận biết bao thách đố trong bóng đêm cuộc đời. Những đe dọa của sự dữ, gầm rú của đau khổ, rình chờ của xác thịt như những phương thế giúp tinh luyện lòng ta thêm can trường dũng mãnh. Và trong suốt chiều dài của bóng đêm đó, dù ta có ý thức hay không, Thiên Chúa vẫn luôn ở bên cạnh dõi mắt trông nhìn chúng ta.

3. Qua cửa hẹp còn là sám hối, hoán cải.

Đối với những người Do thái họ tưởng rằng mình đương nhiên có thể vào Nước Thiên Chúa, nhưng Đức Giêsu nói:”Các ông hãy sinh trái cây thống hối, nếu không, địa vị ưu đãi của các ông sẽ chẳng có ích gì”.

Đức Giêsu cho biết hoán cải là một phương thế cần thiết để được vào Vương quốc. Và Ngài tiếp tục đem sự hoán cải đến với phần lớn những người không có gì hứa hẹn. Nhiều người tội lỗi đã chú ý đến lời kêu gọi hoán cải của Ngài và họ đã lên đường tiến tới Vương quốc. Trong khi nhiều người có đạo đã ngoan cố chống lại lời kêu gọi hoán cải của Ngài và do đó, tự loại mình ra khỏi Vương quốc.

Khi nghe Đức Giêsu nói:”Ở đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy ông Abraham, Isaac và Giacóp cùng tất cả các tiên tri ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình thì lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”(Lc 13,28-29), cách nói này có thể cho chúng ta cảm tưởng rằng những người có thiện chí, thật sự tìm cách vào Nước Trời sẽ bị lọai trừ một cách độc đóan bởi sự độc tài của một ông chủ không có lòng thương xót. Hẳn đó là bức biếm họa về Thiên Chúa ! Thiên Chúa không tàn nhẫn và bất công. Thật vậy, ai không vào được bữa tiệc chỉ có thể trách cứ chính mình. Thiên Chúa đã làm tất cả để cánh cửa nổi tiếng là “hẹp” ấy trở thành một cánh cửa rộng mở cho mọi người không phân biệt.

Chúng ta phải khẳng định hai điều :

* Về phía Thiên Chúa, tất cả đã sẵn sàng để cứu chuộc mọi người không trừ ai.

* Về phía con người, chỉ cần có sự nghiêm túc của tự do, tự do này có thể từ chối ơn Thiên Chúa ban cho và tự do này là một cuộc chiến đấu.

4. Những kẻ chót sẽ lên hàng đầu.

Đức Giêsu nói:”Và kìa những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13,30). Đây là thành ngữ của người Do thái nhằm diễn tả sự đảo ngược thứ tự. Thành ngữ này được dùng nhiều trong Tin mừng (Mt 19,30; 20,16; Mc 10,31). Theo mạch văn bài Tin mừng trên thì qua thành ngữ này, Đức Giêsu có ý bác bỏ “quyền ưu tiên truyệt đối” (Theo quan niệm của một số người Do thái) rằng dân Do thái là dân riêng của Chúa thì đương nhiên sẽ được vào Nước Trời dù sống thế nào đi nữa (Mt 3,9-10; Ga 8,33t).

Ở đây không có ý áp dụng cho mọi cá nhân, nhưng Đức Giêsu có ý so sánh toàn thể dân Do thái, từ khi Ngài xuất hiện, với toàn thể lương dân. Khi đề cập đến hai nhóm đó, Ngài công bố có nhiều người lương sẽ được cứu rỗi trước người Do thái, và ngay cả cộng đoàn toàn thể lương dân sẽ vào Nước Trời trước cộng đoàn Do thái. Giáo huấn này được thánh Phaolô nhắc lại trong thư gửi tín hữu Rôma (Rm 11,25-26). Giáo huấn này được ứng nghiệm trong Giáo hội sơ khai (Cv 13,46-48; 28,25-28).

Sẽ có những bất ngờ trong Nước Thiên Chúa. Những người nổi danh ở thế gian này sẽ có thể rất thấp kém trong đời sau. Những người chẳng ai biết đến trong đời này có thể sẽ là những vương tử ở đời sau.

Truyện : Có sự đảo ngược.

Một người đàn bà giầu sang được thế gian này rất mực tôn trọng. Bà ta chết và khi tới thiên đàng thì có một thiên sứ đưa bà đến nhà bà sẽ ở. Bà ta thấy nhiều ngôi nhà xinh đẹp và mỗi lần đi qua bà cứ tưởng nhà đó dành cho bà. Khi đi qua các dẫy phố chính ở trên trời, tới khu ngọai ô, tại đó các nhà nhỏ hơn nhiều, và đến cuối phố, gặp một cái nhà chỉ hơn cái lều một chút. Thiên sứ bảo :”Đây là nhà của bà”. Bà nói :”Cái gì vậy ? Tôi không thể nào sống trong đó”. Thiên sứ đáp :”Tôi rất tiếc, nhưng đó là tất cả những gì chúng tôi có thể kiến thiết với những vật liệu mà bà đã gửi lên đây”! Các tiêu chuẩn trên trời không giống các tiêu chuẩn dưới đất. Hạng nhất của thế gian thường sẽ là hạng bét và hạng bét của thế gian là hạng nhất ở trên trời…

Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng ta phải quyết tâm đi vào con đường hẹp, phải phấn đấu hết mình để vào qua cửa hẹp, đây là điều kiện mà tiếng La tinh gọi là ‘conditio sine qua non”, điều kiện bắt buộc, không có không được. Chúng ta đã có nhiều bài học do tiền nhân để lại như :

– Nước chảy đá mòn. – Kiến tha lâu đầy tổ, – Có công mài sắt có ngày nên kim.

Thì trên phương diện siêu nhiên thì cũng thế, vì Chúa đã phán :”Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình hằng ngày mà theo” hoặc :”Ai bên đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”.

Cung thế, nếu ở đời :”Có khó mới có miếng ăn” hoặc “Không có hạnh phúc nào có thể đạt được một cách dễ dàng”, thì hạnh phúc Nước Trời cũng đòi hỏi chúng ta phải chịu khó gấp bội mới chiếm được. Tương lai đang chờ đón ta !

CHÚA MUỐN CỨU ĐỘ HẾT MỌI NGƯỜI

Lm. Antôn Nguyễn Văn ĐộAntonius-Do300

Chúa nhật XXI thường niên C- (Lc 13, 22-30)

Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta. (Is 66,18). Những lời trên của tiên tri Isaia, được vang lên trong phụng vụ, làm nổi bật chủ đề về ơn cứu độ phổ quát. Quả thật, bước vào Chúa nhật thứ XXI thường niên C, Phụng vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta can đảm đi vào cửa hẹp là cửa dẫn tới ơn cứu độ phổ quát đời đời, đúng như Tin Mừng Luca loan báo: Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa ( Lc 13, 30)

Hiến chế Ánh sáng muôn dân số 1-2 của Công Đồng Vaticanô II khẳng định: Ánh sáng muôn dân chính là Chúa Kitô, nên Thánh Công Ðồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội, bằng việc rao truyền Phúc Âm cho mọi tạo vật (x. Mc 16,15). Vì Giáo hội ở trong Chúa Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại… Những hoàn cảnh hiện tại làm cho nhiệm vụ của Giáo Hội thêm khẩn thiết hơn, để ngày nay mọi người liên hệ chặt chẽ hơn bởi nhiều ràng buộc xã hội, kỹ thuật, văn hóa, cũng được hiệp nhất trọn vẹn trong Chúa Kitô.

Bởi ý định khôn ngoan nhân lành, hoàn toàn tự do và mầu nhiệm, Chúa Cha hằng hữu đã tạo dựng vũ trụ; Ngài đã quyết định nâng loài người lên tham dự đời sống thần linh, và Ngài đã không từ bỏ con người sa ngã trong Adam, nhưng luôn ban sự trợ giúp để họ được cứu rỗi, nhờ Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, Con đầu lòng của tạo vật (Col 1,15). Thực vậy, từ muôn thuở tất cả mọi người được tuyển chọn, Chúa Cha đó được trở nên Trưởng Tử trong nhiều anh em (Rm 8,29). Thế nên Chúa Cha muốn qui tụ những ai tin kính Chúa Kitô vào trong Giáo Hội. Từ nguyên thủy, Giáo Hội được phác thảo bằng hình bóng, được chuẩn bị kỳ diệu trong lịch sử dân Israel và trong giao ước cũ, được thành lập trong thời cuối cùng, và được biểu hiện lúc Chúa Thánh Thần ngự xuống, rồi đến ngày tận thế sẽ kết thúc trong vinh quang. Bấy giờ, như chúng ta đọc thấy nơi thánh Grêrôriô I, mọi người công chính từ Adam, từ Abel công chính đến người được tuyển chọn cuối cùng sẽ được tập họp trong Giáo Hội phổ quát bên Chúa Cha. Hiến chế Giáo hội Lumen Gentium, 1-2

Bài đọc I, Isaia khuyến khích dân chúng lưu đầy trở về, đây là điều cần thiết. Trên đường hồi hương, phải nhiệt thành không trễ nải, vì Đền thờ bị phá hủy, vua bị truất ngôi, đất đai bị người ngoài chiếm đóng. Giữa lúc đó, dân ngoại sống trà trộn với dân Do thái không đi đày, và dân Do thai tự hỏi nhau : Thiên Chúa mà cha ông họ ở Giêrusalem tin có còn không ? Isaia cho biết Thiên Chúa vẫn giữ với lời hứa: Ta đến quy tụ mọi dân tộcsẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến như của lễ dâng cho Chúa, họ cưỡi ngựa, đi xe, đi võng, cưỡi la, cưỡi lạc đà, đến núi thánh của Ta là Giêrusalem. (Is 66, 18-21)

Về phần mình, Thiên Chúa sẽ hoàn tất lời hứa. Trên thực tế, kiểu nói, sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc dân ngoại, nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa rộng là lời hứa tất cả mọi dân trên toàn cõi địa cầu. Ở đây, lời hứa : ơn cứu độ phổ quát cho toàn dân. Từ nay, anh em sẽ được hiểu là dân ở giữa dân ngoại. Quả thật, Thiên Chúa loan báo: Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ, và Ngài kết luận: Trong những dân đó, Ta sẽ chọn các tư tế, các thầy Lêvi.

Vậy là Thiên Chúa tự mạc khải mình là Đấng trung thành, giữ trọn điều đã loan báo. Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời (Tv 116,2).

Thư gửi tín hữu Do thái nói với chúng ta rằng Khi Thiên Chúa yêu ai, thì Ngài sửa dạy người ấy, vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con. Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí. Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt (Dt 12, 5-7.11-13).

Thiên Chúa không muốn cứu chúng ta mà không cần chúng ta! Và đây chính là lý do Đức Giêsu mời gọi chúng ta đi vào cửa hẹp. Các bản văn Chúa nhật tuần này gợi lên câu hỏi về tương quan giữa ta với Thiên Chúa. Nghe lời Đức Giêsu dạy mà thôi chưa đủ, cần phải sẻ chia cùng tấm bánh là chính Đức Giêsu, để được cứu chuộc. Chúng ta cam kết với nhau hoán cái, không ngừng đào sâu tương quan của chúng ta với Thiên Chúa khi đổi mới cách nghĩ của chúng ta và từ bỏ gắn bó với những thứ không cần thiết ở thế giới chóng qua này. Nói cách khác, chúng ta ngoảnh mặt trước cái tôi vụ lợi, lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa. Chính Ngài là cửa hẹp (x. Ga 10). Chỉ có nơi Thiên Chúa, chúng ta mới có thể được cứu độ và được phục sinh, vượt qua cái chết với tất cả những quan niệm hạ giới để bước vào thượng giới của Thiên Chúa.

Lạy Chúa là Thiên Chúa trung thành, xin ban ơn sức mạnh cho chúng con, để với ơn Chúa, chúng con có được Chúa là Đấng mang lại cho chúng con gia nghiệp muôn đời Chúa hứa. Amen.

HÃY NÊN NHƯ TRẺ THƠ

Huệ Minh

Trong tâm thức nhiều người, khi người lớn nói chuyện, con nít không được đến quấy rầy. Vì thế nên các môn đệ đã ngăn cản các trẻ em đến với Chúa Giêsu. Tuy nhiên, cái nhìn của Chúa Giêsu lại khác. Ngài không quan tâm đến việc các em có quấy rầy hay không, nhưng nhìn vào tâm hồn của các em, những tâm hồn đơn sơ, chưa vướng tội luỵ và Ngài đã chúc phúc cho chúng. Chúa mong muốn những người theo Ngài có được tâm hồn như chúng để đón nhận Tin Mừng, để được thừa hưởng Nước Trời. Hay nói khác đi, những ai không có tâm hồn đơn sơ, trong sạch thì không thể vào được Nước Trời.

Trẻ nhỏ được Chúa Giêsu yêu thương và đưa ra làm mẫu mực cho những ai muốn bước vào Nước Trời: “Nếu các con không hóa nên như trẻ nhỏ, các con không được vào Nước Trời. Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ, đó là kẻ lớn nhất trong Nước Trời”. Tinh thần tu đức trẻ thơ là đơn sơ, phó thác, không cậy dựa vào sức riêng, nhưng đặt trọn tin tưởng vào Chúa.

Có lẽ đây là bức tranh đẹp và rất nên thơ trong Tin Mừng đã họa lại cảnh Chúa Giêsu và các trẻ em. Đang khi danh tiếng của Thầy Giêsu nổi bật, Thầy trở thành nhân vật quan trọng trong mắt mọi người.

Vì thế, việc để các trẻ em đến quấy rầy, làm mất thời gian của Thầy là điều các môn đệ không thể chấp nhận được! Với suy nghĩ đó, các môn đệ đã ngăn cản các trẻ nhỏ đến gần Đức Giêsu, nhưng Chúa Giêsu lại phản ứng ngược lại: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng.” Chúa Giêsu muốn các môn đệ thấu hiểu điều kiện thiết yếu để thuộc về Nước Thiên Chúa và được cứu độ, Chúa đã nói với các ông: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời”.

Qua lời bênh vực và hành động đặt tay chúc lành cho trẻ em (14-15), Chúa Giêsu muốn nói với những người lớn rằng: Sự khôn ngoan, uyên bác, địa vị hay của cải sẽ là tấm vé cho họ vào Nước Trời đâu, mà họ cần vét rỗng chính mình, cần cởi mở đón nhận sứ điệp Ngài gởi đến, cần hoàn toàn cậy dựa vào tình yêu quan phòng toàn năng của Ngài.

Nhìn lại thời nay và bản thân mỗi người, biết đâu ta cũng có cái gì đó giống với các môn đệ Chúa Giêsu xưa. Ta thấy mình lớn vì công kia việc nọ, nhất là việc bác ái và đóng góp cho Nhà Chúa, vì cuộc sống của ta không đến nỗi nào, vì những việc thờ phượng mà ta hằng sốt sắng tham dự hết hội nọ đoàn kia. Ta bực bội khó chịu vì mình chẳng giỏi, chẳng giàu, chẳng đạo đức. Ta tự đặt mình làm người trên, đứng ngoài, xét đoán anh chị em ta,…

Nước Thiên Chúa là một hồng ân ban một cách nhưng không, phải đón nhận với lòng đơn sơ, biết ơn và cảm phục của các trẻ thơ. Quan sát tâm hồn và cách hiện diện của các trẻ nhỏ chúng ta dễ nhận ra rằng:

Trẻ nhỏ thì không quan tâm gì về thứ hạng. Chúng chẳng cần biết đến những người quanh chúng ai lớn hơn – ai nhỏ hơn, ai lớn nhất – ai nhỏ nhất.

Trẻ nhỏ thì tin trọn vẹn và nhanh chóng. Khi chúng ta nói với đứa trẻ rằng chúng ta sẽ làm điều gì đó cho nó, và nó sẽ hy vọng cho đến khi thấy được điều chúng ta nói là thật.

Trẻ nhỏ chỉ nói những gì có ý nghĩa với chúng. Chúng thường có thói quen nói chính xác những gì chúng nghĩ. Không có vấn đề xấu hổ hoặc sợ xúc phạm khi chúng phải nói. Và chúng không nói có ẩn ý bao giờ.

Trẻ nhỏ có một tâm hồn vui tươi. Chúng cười một cách tự do ngay cả khi chỉ có một mình. Chúng cũng dễ quên và không bao giờ để bụng hoặc nhắc hoài về một lỗi lầm của một ai đó gây ra cho chúng.

Trẻ nhỏ biết làm thế nào để có niềm vui. Hãy xem chúng chơi với những thứ rất thường như lá cây, que kem, hay tờ giấy. Chúng dạy chúng ta rằng, niềm vui có thể được tìm ngay trong những điều đơn giản nhất.

Chúa Giêsu dạy cho những người lãnh đạo một bài học quan trọng để có thể đối đầu với đòi hỏi của đám đông. Khi chọn xuất hiện nơi công cộng là chọn để cho đám đông đến với mình, đừng khinh thường và trốn tránh họ vì sứ vụ và thành công của mình phần lớn cũng liên quan tới họ. Có những người sau khi đã nổi tiếng tìm cách bảo vệ mình và xa lánh đám đông nên họ cũng từ từ rơi vào quên lãng.

Ta thấy Chúa không dạy cho các môn đệ dành hết thời giờ cho đám đông mà quên đi việc nghỉ ngơi bồi dưỡng. Chúa đã từng nhắc nhở các môn đệ: “Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi” (Mc 6, 31); hay Chúa bảo các ông xuống thuyền và chèo qua bờ bên kia trong khi Chúa giải tán đám đông đang muốn tuyên xưng Chúa làm vua cai trị họ (Mt 14, 22). Để ý, ta thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu đã bỏ đám đông và các môn đệ để lên núi cầu nguyện một mình (Mt 14, 23, Lc 9,18, Ga 6, 15). Chúa biết cách làm chủ thời gian và xử thế trong mọi trạng huống xảy ra cho Ngài.

Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu gương cho chúng ta về cách sống hiền lành, khiêm tốn đón nhận mọi người. Chúa cũng dạy chúng ta hãy nên như trẻ thơ để dễ đến với Chúa. Chúng ta tự hỏi, đều gì ngăn cản chúng ta chưa đến với Chúa trong tâm tình của trẻ thơ ? Chúng ta hãy sống Lời Chúa như trẻ thơ, hãy đặt trọn niềm tin nơi Chúa và thân thưa cùng Ngài với lời Thánh Vịnh 130: “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi… Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 130).

Thái độ và lời dạy của Chúa Giêsu nhắc cho các môn đệ lúc đó và cho chúng ta ngày hôm nay rằng trong cộng đoàn Giáo Hội, mọi người không tùy thuộc hạng tuổi, đều có quyền đến với Chúa để Chúa đặt tay, cầu nguyện và chúc lành cho; không ai bị loại khỏi tình yêu và ân sủng của Chúa, dù là một đức trẻ.

Xin Chúa cho ta dù ở tuổi nào, dù ở hoàn cảnh nào cũng mặc lấy tâm tình trẻ thơ, sống tâm tình trẻ thơ để ta được thừa hưởng Nước Trời như Chúa Giêsu đã nói.

Bước theo Đức Kitô trên đường thập giá-Huệ Minh

Trang sách Giêrêmia mà ta vừa nghe thật gay cấn.

Vua xứ Giuđa bấy giờ đã tuyên thệ phục tùng vua Babylon trước mặt Thiên Chúa. Nhà tiên tri coi lời thề đó như thánh ước vì đã lấy Danh Ðức Giavê mà thề. Do đó, khi vua Giuđa và hàng khanh tướng có ý đồ bội ước, phản lại vua Babylon và cầu cạnh vua Ai Cập, thì nhà tiên tri phải lên tiếng. Ông tố cáo sự lật lọng của nhà Giuđa đối với Thiên Chúa là Ðấng luôn trung thành.

Lẽ dĩ nhiên ông đã lợi dụng cơ hội này để kể hết các bội phản của dân thất ước. Ông bực mình nhất vì thái độ giả hình của họ. Họ cứ vỗ ngực xưng mình là dân của Chúa đang khi không ngớt vứt bỏ lệnh truyền của Người. Họ căn cứ vào việc Chúa đã chọn họ làm dân ưu tuyển, để luôn cư xử bất công với mọi dân khác, coi dân ngoại chỉ như bàn đạp cho họ tiến lên.

Giêrêmia chống đối thái độ giả đạo đức và tự phụ khinh người ấy. Ông luôn nhắc nhở phải trở về với Thiên Chúa và biết rằng Người coi trọng các dân tộc. Nhưng những lời ông nói đều bị bỏ ngoài tai. Vua Giuđa tiến hành ý đồ phản lại Babylon. Nước này đem quân xuống đánh, vây chặt thủ đô Giêrusalem. Giêrêmia cũng bị nằm trong vòng vây.

Và như vậy, Giêrêmia đã trở thành ngôn sứ đặc biệt của Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Cuộc đời của ông báo trước cuộc Tử nạn của Người. Ông là một trong đoàn thể chứng nhân đông đảo bao quanh chúng ta, trong cuộc đời đầy phấn đấu hiện nay.

Cuộc đời của Giêrêmia rất đỗi éo le. Nói đúng hơn, từ ngày Thiên Chúa đặt lời của Người trong miệng ông để ông làm ngôn sứ, tuyên bố các phán quyết của Người thay cho chính Người, Giêrêmia đã trở thành tường đồng cự lại cả xứ, cự lại các vua Giuđa và hàng khanh tướng. Ngay hàng tư tế cũng tuyên chiến với ông (x. chương 1). Chẳng phải tại ông bướng bỉnh. Ngược lại, ông luôn cảm thấy mình chỉ là một đứa trẻ. Nhưng Lời Chúa đã ập xuống trên ông, bắt ông đứng dậy tuyên sấm cho dân phản loạn. Họ đã chối bỏ mạch nước hằng sống để đào cho mình bể rò không chứa được nước (2,13).

Thân phận của Giêrêmia là như vậy. Thân phận của Chúa Giêsu chắc có lẽ cũng giống thân phận đau khổ của Giêrêmia.

Sau khi đã nói về sứ mạng của Mình, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để tiên báo về những hệ lụy sẽ xảy đến cho cuộc đời của những người tin và theo Ngài, Ngài nói: “Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian? Thầy bảo cho các con biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,49.51).

Chúa Giêsu đang tiến về Giêrusalem để đi vào cuộc Thương Khó; tâm hồn Người khắc khoải. Chỉ qua cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh, ơn cứu độ mới được ban cho loài người. Nhận ra được điều này, chúng ta được mời gọi bỏ đi những phương tiện dễ dãi, những phương tiện to lớn chúng ta đang dùng để bảo đảm mọi phương diện cuộc sống chúng ta. Ngoài ra, nếu muốn đốt lên trên trái đất một ngọn lửa như Đức Giêsu đã nhen lên, chúng ta không thể tránh né “phép rửa” Đức Giêsu đã chịu, tức phải chấp nhận đi qua con đường tự hiến, thất bại, chấp nhận hiến tặng cuộc sống chúng ta.

Thập giá chỉ là một phát minh độc ác của con người để hủy hoại nhau; mãi mãi thập giá vẫn là biểu tượng sự độc ác của con người. Nếu Chúa Giêsu đã ôm trọn Thập giá, thì không phải vì Ngài yêu sự độc ác, tự đày đọa mình, nhưng chính là để thể hiện tình yêu tột độ của Thiên Chúa. Dù con người có độc ác, xấu xa đến đâu, Thiên Chúa vẫn yêu thương, tha thứ cho họ. Chiến thắng của Chúa Kitô chính là chiến thắng của tình yêu trên hận thù, của ân sủng trên tội lỗi, của niềm tin trên thất vọng.

Cái chết của Chúa, cuộc thương khó của Ngài, đó là Phép Rửa mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Thầy còn một Phép Rửa phải chịu”. Chúng ta nhớ trên đường lên Giêrusalem để thực hiện cuộc vượt qua trong đau thương, hai môn đệ Giacôbê và Gioan nhờ mẹ mình đến xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên tả, bên hữu Chúa và Chúa Giêsu đã có phản ứng như sau: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có uống nổi chén Thầy sắp uống hay chịu được Phép Rửa Thầy sắp chịu hay không? Chén Thầy uống các con cũng sẽ uống và Phép Rửa Thầy chịu các con cũng sẽ chịu”.

Chúa Kitô cũng được gọi là Vua, vai trò của Ngài chính là võ trang và chuẩn bị chiến đấu, nhưng khí giới Ngài trang bị cho mình là cái chết trên Thập giá. Chính khi bị treo trên Thập giá, Ngài đã được tôn phong là Vua Do thái. Chúa Giêsu cũng là Vua, vì Ngài đã đánh bại Satan, tội lỗi. Con đường vương giả Ngài đã vạch ra cũng chính là con đường Thập giá. Chúng ta không thể làm môn đệ Ngài, không thể đi theo Ngài, không thể tham dự cuộc chiến của Ngài, mà lại khước từ Thập giá.

Ta đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Đức Giêsu sẽ được đưa lên cao. Sau khi mời gọi phải tỉnh thức, được minh họa bằng dụ ngôn người quản lý khôn ngoan trong Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, giờ đây Đức Giêsu nói với những ai theo Người ba lời về thử thách, có ý nói đến những nguy hiểm của cuộc phiêu lưu theo Người: Số phận của người môn đệ sẽ không khác gì Thầy mình.

Ta tiếp tục đi theo con đường của Chúa Kitô; chúng ta tiếp tục đau khổ vì tin rằng bên kia những thất bại, khổ đau, tình yêu Thiên Chúa vẫn còn mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Chúng ta đón nhận mọi bách hại, thù ghét, thua thiệt, vì tin rằng chỉ có tình yêu mới có thể thắng vượt được ích kỷ, hận thù trong lòng con người.

Xin Chúa Kitô ban sức mạnh để chúng ta bước theo con đường Thập giá dẫn đến vinh quang.

Xét lại nồng độ ghen tỵ của ta-Huệ Minh

Trong hành trình đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để trình bày giáo lý của Ngài cho dân chúng. Các dụ ngôn đó được các nhà chú giải xếp thành hai loại: tỷ dụ và dụ ngôn. Loại tỷ dụ là thể văn mà toàn bộ những chi tiết đều mang ý nghĩa nòng cốt, còn các chi tiết phụ chỉ làm cho câu truyện thêm thú vị và khiến người đọc quan tâm chú ý đến ý chính mà thôi.

Câu chuyện về những người thợ vào làm vườn nho của chủ là một dụ ngôn. Chủ đề chính của dụ ngôn là mối liên hệ của con người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng. Thái độ của người chủ xem ra hợp lý nhưng có lẽ không mấy hợp tình. Và nếu chúng ta chưa hoàn toàn chấp nhận được thái độ đó, chúng ta còn phải tìm hiểu, bởi vì nói đã được dùng để gợi lên thái độ của Thiên Chúa đối với chúng ta.

Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để cảnh cáo người Do thái không nên so đo, phân bì với người tội lỗi hay người ngoại giáo được ơn Chúa trở lại và thừa hưởng Nước Trời, bởi vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không do lòng quảng đại của Chúa, chứ không do lòng đạo đức hay công nghiệp của con người.

Ta vẫn thường thấy các Rabbi Do thái thường tính toán phần thưởng Thiên Chúa ban cho mọi việc lành, thì cách tính toán sòng phẳng theo công bình giao hoán này hoàn toàn bị dụ ngôn làm đảo lộn, vì nếu chúng ta tính với Chúa, Ngài sẽ tính với chúng ta, và chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc và chúng ta sẽ là kẻ thiệt thòi.

Ta nghe thấy gia chủ bảo viên quản lý trả công cho thợ, và bắt đầu từ người mướn sau cùng. Họ được một đồng. Chắc họ đã phải trố mắt ra bỡ ngỡ và sung sướng nhận đồng tiền không ngờ. Ðiều đó khiến những người trước chan chứa hy vọng. Họ tưởng sẽ được nhiều hơn và đã thầm quý ông chủ. Ai ngờ, họ cũng chỉ nhận được một đồng. Lập tức họ đã càm ràm. Chúng ta thông cảm với họ. Vì ở địa vị họ, ai cũng dễ làm như thế. Họ là loài người chúng ta, đang khi người gia chủ lại không thuộc thế gian này.

Câu chuyện dừng lại ở đây và ta thấy không một ông chủ nào lại cho phép mình trả tiền công cho những người thợ giờ thứ mười một bằng thờ giờ đầu tiên. Một bậc lương duy nhất cho tất cả mọi người, điều đó không bao giờ có. Trong một môi trường  cạnh tranh gay gắt, thì điều ấy lại không bao giờ xảy ra. Mỗi người được trả lương tùy theo khả năng, công việc và giờ làm việc của mình.

Câu trả lời của Chúa Giêsu cho những kẻ phàn nàn kêu trách làm nổ bật lòng quảng đại của Thiên Chúa: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan sao; cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn, tôi không có quyền được tùy ý sử dụng của cải tôi sao?”. Thiên Chúa đối xử tốt với mọi người, Ngài ban ơn cho mọi người chỉ vì lòng thương của Ngài mà thôi. Còn con người thì dễ bị cám dỗ, ghen tỵ, hẹp hòi, muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.

Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người làm việc từ sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như đã thỏa thuận. Ông ta không bóc lột sức lao động của ai cả : có làm có trả lương tương xứng, nếu ông ta không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có vấn đề gì, nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình, nên có việc ganh tị, và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.

Điều này có nghĩa là đừng tìm trong trang Tin Mừng này một giải pháp cho các vấn đề lao động thời đại chúng ta. Sứ điệp chính yếu ở chỗ khác. Khi kể các dụ ngôn về thực tại mầu nhiệm là Nước Trời, Chúa Giê su thường đưa ra những chi tiết phóng đại. Như chủ nhật vừa rồi trong câu truyện về người đầy tờ mắc nợ chủ mình một số tiền kết xù không thể trả nổi. Nếu Chúa Giê su nói như thế, chính vì muốn đề đề cao giá trị sứ điệp mà Ngài muốn chuyển đến chúng ta.

Ta thấy câu chuyện này là của một ông chủ đi tìm thợ làm vườn nho cho mình. Vườn nho ấy là một biểu tượng rất phong phú thường được dùng trong Kinh Thánh . Trong Cựu Ước, vườn nho chỉ dân Israên, và Chúa Giê su áp dụng để chỉ Nước Thiên Chúa. “Ta là cây nho, anh em là nhành nho”.

Do đó, vườn nho chính là toàn thể dân Thiên Chúa. Chúa Giê su còn đi xa hơn khi khẳng định thêm rằng vườn nho ấy cần phải sinh hoa kết trái. Vì thế Thiên Chúa cần thợ để chăm sóc vườn nho cho Ngài. Suốt ngày, Ngài tìm người làm thuê, già, trẻ, lớn bé, khỏe mạnh hay đau yếu đều được Ngài tin tưởng mời gọi. Tắt một lời, tất cả chúng ta đều được mời gọi.

Làm việc trong vườn nho, là phải chăm sóc, tưới bón cây cho tốt, phải làm thế nào để cây sinh nhiều hoa trái. Hình ảnh muốn nói rằng tất cả mọi người được Chúa mời gọi và sai đi đến những người chung quanh, đặc biệt những người bị thương tích vì những thử thách của cuộc sống, của bạo lực và bệnh tật.

Những người được mướn trước đã phàn nàn thế nào? Họ nói: “Hạng cuối hết này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại kể ngang hàng với chúng tôi là những kẻ đã vác nặng cả một ngày trường với nắng nôi thiêu cháy”. Họ so sánh, phân bì, ghen tương. Họ không chịu cho anh em được bằng mình. Họ nói lên tâm trạng của Biệt phái và người Dothái khi thấy Chúa thương xót người thu thuế tội lỗi và lương dân. Tâm địa còn được nhiều dụ ngôn khác nói lên.

Như trong truyện “người con phung phá”, người anh đã bất bình, không muốn chia sẻ tình thương của người cha với đứa em… Và trong chuyện Zakhê, các Biệt phái đã bất bình khi thấy Chúa Yêsu ngồi ăn với những thu thuế. Rồi trong chuyện xảy ra tại nhà ông Simon, người ta cũng càm ràm khi thấy người phụ nữ tội lỗi được lòng thương xót của Chúa. Và trong mọi câu chuyện trên, Ðức Yêsu đều muốn dạy người ta bài học này: “Ta muốn lòng nhân nghĩa chứ không phải hy lễ!”.

Câu kết luận có thể làm cho ta hiểu tầm quan trọng của dụ ngôn. “Đâm ghen tức” là cách dịch thoáng của kiểu nói: “cái nhìn, đôi mắt ác cảm, cái nhìn dữ tợn” mà sách Châm ngôn và Huấn ca thường dùng để chỉ sự tức giận và ghen tương của con người.

Do đó câu trên đây sẽ thành: “Hay mắt bạn dữ tợn vì tôi tốt lành”. Lòng tốt của ông chủ không phải do sự hưng phấn, hay cố ý bất công, mà là do bản tính của ông. Ông không muốn gây thiệt hại cho người đến trước nhưng chỉ muốn làm điều tốt cho người đến sau.

Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót: câu ngụ ngôn nầy không chú thích ý nghĩa của dụ ngôn ở trên, vì dụ ngôn thì nói đến việc đối xử đồng đều, còn câu châm ngôn nầy thì đề cao sự đảo ngược. Do đó câu nầy không ăn khớp với dụ ngôn cuối cùng, cùng lắm chỉ có tính tương tự mà thôi.

Tưởng nghĩ ta cũng nên xét xem mình đã có thái độ nào đối với người khác, nhất là khi thấy họ được sự lành? Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tính ghen tỵ và cho chúng ta sống quảng đại với mọi người.

Đừng dính bén của cải thế gian-Huệ Minh

Của cải có sức thu hút và mê hoặc lòng người, bởi vì dường như nó có thể đáp ứng mọi nhu cầu và đời sống hưởng thụ của con người. Chẳng vậy mà người đời có câu: “có tiền mua tiên cũng được”, hay “tiền là tiên là phật…” Người có nhiều tiền của được gọi là người giàu.

Giàu tự nó không phải là một cái tội, nhưng sẽ là cái tội khi chúng ta chọn vật chất làm cứu cánh cho cuộc đời, để rồi lao vào “làm mọi cách” (vì nhu cầu hưởng thụ vật chất mà ngày nay con người có thể dùng mọi hình thức để kiếm tiền, bất kể việc làm đó đúng hay sai, tốt hay xấu, chính đáng hay bất chính) để được giàu sang đời này mà không còn đếm xỉa đến sự sống vĩnh cửu, như dụ ngôn hạt giống rơi vào bụi gai đã bị bóp nghẹt không thể phát triển được.

Theo quan niệm của người Do tthái cũng như quan niệm của nhiều người thì giàu có là những người được phúc. Thế nhưng, lời của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay gây sốc không những cho người nghe lúc bấy giờ (các môn đệ vô cùng sửng sốt) mà gây sốc cho rất nhiều người trong mọi thời đại: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa” (c. 24). Và ngược lại, Chúa lại hứa ban thưởng gấp trăm cả đời này lẫn đời sau cho những ai từ bỏ mọi sự mà theo Người.

Thật ra, hình ảnh con lạc đà chui qua lỗ kim mà Chúa dùng để minh họa cũng là một ví dụ cường điệu (lỗ kim là một cái lỗ hình tròn vào đền thờ Giêrusalem chỉ vừa cho một người chui vào và những con vật người đó cưỡi như lừa, ngựa, lạc đà không thể chui qua được, để tránh phạm sự thánh, mọi người đến đó phải xuống ngựa để một mình chui qua). Thế nhưng dẫu sao cũng cho thấy sự khó khăn để đạt được nước Thiên Chúa của người ham mê thế sự và bị của cải lấn át cả lý trí và lương tâm, khi chiếm đoạt bất chính và thiếu san sẻ cho đồng loại.

“Giáo Hội của người nghèo”, “Ưu tiên phục vụ người nghèo”, đó là những khẩu hiệu đã trở thành thời trang trong Giáo Hội kể từ vài thập niên qua và cách riêng của Đức Giáo Hoàng đương nhiệm. Bất cứ ai có ý thức về công bằng xã hội hoặc đôi chút trăn trở về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, cũng đều thốt lên những khẩu hiệu ấy. Thế nhưng, nhìn vào thực tại Giáo Hội có thực sự là Giáo Hội của đại đa số dân nghèo khổ chưa?

Có mâu thuẫn không giữa những điều Chúa nói? Chẳng phải nếu Chúa ban cho họ gấp bội ở đời này thì họ lại trở thành người giàu hay sao, và khi ấy phải chăng họ lại trở thành những kẻ khó vào nước trời? Suy cho cùng, then chốt của vấn đề là tinh thần từ bỏ; người có tinh thần từ bỏ không bị ràng buộc bởi của cải, hay nói khác đi, họ không bị của cải vật chất cản trở bước đường làm người môn đệ, nhưng biết dùng nó như phương tiện Chúa ban để sống theo ý Chúa. Vì thế, họ có thể là người rất giàu có về của cải nhưng luôn coi nó là hồng ân, là quà tặng của Thiên Chúa ban mà sống trong tinh thần tri ân, cảm tạ và luôn sẵn sàng chia sẻ, cho đi không tính toán.

Sự hiện diện của người nghèo quả là một thách đố lớn cho Giáo Hội. Ngày nay, tiếng kêu than của họ luôn là một nhắc nhớ cho Giáo Hội về bản chất và sứ mệnh của mình trong thế giới. Cuộc trở lại của Hoàng đế Constantinople vào thế kỷ thứ 4 đã chấm dứt những cuộc bách hại đẫm máu và đã biến Tây Phương thành thế giới Kitô giáo, nhưng không chừng đã làm Giáo Hội quên đi bản chất đích thực của mình. Sự tương nhập giữa thế quyền và giáo quyền đã biến Giáo Hội thành một thế lực chính trị, và các vị lãnh đạo Giáo Hội thành những vua chúa trần gian. Nhiều người đã có lý để nói rằng nhờ những lay động của Karl Marx mà Giáo Hội đã lắng nghe được tiếng kêu than của người nghèo, đồng thời ý thức được vai trò và sứ mệnh của mình trong thế giới ngày nay.

Hẳn ta còn nhớ cộng đoàn Kitô tiên khởi đã ý thức được vấn đề ấy. Tin Mừng hôm nay là một phản ánh về những trăn trở của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, cách riêng cộng đoàn Giêrusalem là cộng đoàn gồm toàn những người nghèo trong xã hội thời bấy giờ. Xem lại và “ngâm cứu” các giáo huấn của Chúa Giêsu về thái độ của Kitô hữu đối với tiền bạc của cải, cộng đoàn tiên khởi đặt lại vấn đề về sự hiện diện của người giầu trong Giáo Hội.

Theo quan niệm quen thuộc của người Do thái, thì sự giầu sang phú quí là một chúc lành của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đánh đổ quan niệm sai lầm ấy, khi nói rằng: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”, và rằng sự nghèo khó là điều kiện thiết yếu để vào Nước Trời.

Giáo Hội của người nghèo, điều đó có nghĩa là trước tiên tất cả những ai thuộc về Giáo Hội đều phải có tinh thần nghèo khó đích thực, họ phải sống phó thác và quảng đại chia sẻ cho nhau. Các Kitô hữu tiên khởi đã hiểu được điều ấy: họ để chung của cải lại, chia sẻ với nhau và yêu thương đùm bọc nhau như trong cùng một gia đình. Giáo Hội của người nghèo, điều đó cũng có nghĩa là các tín hữu phải lấy sự phục vụ người nghèo làm ưu tiên hàng đầu. Bản sắc của người Kitô hữu do đó được xác nhận bằng chính tương quan với người nghèo.

Điều khác nữa, Chúa Giêsu nhắc nhớ cho những người đi theo Chúa rằng, họ sẽ có được niềm an ủi khi Ngài nói : “Ðối với loài người thì … không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được”. Chúa nêu lên cho chúng ta những đòi hỏi thật khó khăn, nhưng Chúa lại cũng mở cho chúng ta một con đường, nếu chúng ta tin vào sức mạnh của Chúa cũng như vào quyền năng của Người.

Thật vậy, Chúa chẳng bỏ rơi ai, Chúa cũng không để cho những ai hết lòng đi theo Chúa phải rơi vào bế tắc. Chúa rất rộng lượng từ bi nhưng Chúa cũng đòi hỏi phải mạnh dạn chọn lựa dứt khoát. Chúa yêu thương và quyền năng, nhưng Chúa cũng công minh và thẳng thắn : “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu”.

Chúa Giêsu nói: “kẻ đứng đầu sẽ nên sau chót, và kẻ sau chót sẽ lên đứng đầu”. Trước hết phải hiểu sự ám chỉ về dân Do Thái tự phụ là những người biết Thiên Chúa trước, nhưng rồi chính họ lại tự đánh mất cơ hội nhận ra Tin Mừng nơi Người. Ngoài ra, câu nói này, Chúa Giêsu muốn chúng ta đừng bao giờ ỷ lại, hay chểnh mảng trong nhiệm vụ, nhưng phải luôn hy sinh cố gắng và kiên trì trên bước đường theo Chúa. Ở đời tốt xấu trở như bàn tay. Có khi trước đây họ là người tội lỗi xấu xa, nhưng giờ họ lại ăn năn hối lỗi và có đời sống đạo đức tốt lành. Trái lại có những người trước đây là tốt lành thánh thiện, nhưng giờ họ lại bê tha, tội lỗi, xấu xa.

Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại cách sống đạo của chúng ta. Thách đố của Giáo Hội hiện nay cũng chính là thách đố của mỗi người chúng ta. Nếu những người cùng khổ chưa phải là thao thức trăn trở của chúng ta, thì có lẽ chúng ta còn quá xa với Giáo Hội Chúa Kitô. Nếu cuộc sống chúng ta chưa phải là cuộc sống liên đới chia sẻ với người khốn khổ, thì có lẽ chúng ta chỉ là những Kitô hữu hữu danh vô thực.

Vẫn mong mỗi người Kitô hữu khi nghe trang Tin Mừng hôm nay nghiệm ra được những đòi hỏi của Chúa để biết từ bỏ, để dứt khoát tránh mọi dính bén. Ước gì khao khát nên trọn lành của mỗi chúng ta cũng được thực hiện với sự tin tưởng vào quyền năng Chúa và phó thác trong vòng tay yêu thương của Ngài. Ước gì chúng ta cảm nhận được Chúa yêu thương, thì chúng ta cũng cảm nhận được Chúa công minh, chính trực.

HÃY THẬN TRỌNG VỚI VIỆC TÍCH TRỮ

Huệ Minh

Của cải vật chất làm cho cuộc sống thêm dồi dào, phong phú, đặc biệt trong xã hội hiện nay. “Có tiền mua tiên cũng được” người ta thường nói thế. Con người được đánh giá qua dáng vẻ bên ngoài: quần áo, giày dép, nón mũ, ngay cả cái kẹp tóc…cũng xài hàng hiệu. Có nhiều người không có, phải đi vay mượn, thậm chí đi trấn lột kẻ khác, để có xe chạy, tiền xài…

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng gọi những kẻ giầu có là ngu dại. Cái ngu dại của người phú hộ trong dụ ngôn là không thể nhìn xa hơn cái kho lẫm mà ông tự xây cất để giam hãm mình vào; cái ngu dại của ông là không biết mình có đem theo được của cải nào sau khi chết hay không?

Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có thái độ đúng đắn khi sử dụng của cải. Thánh Luca, ngay câu đầu của bài Tin Mừng, Ngài đã đưa ra một tình huống xử kiện về gia tài : “ Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi ? (c.13) thỉnh cầu  của người này khiến chúng ta thấy có điều bất hoà giữa hai anh em, mà nguyên nhân gây bất hoà là của cải. Hồi đó, dân Do Thái thường nhờ các Thầy Rabbi, có địa vị, có uy tín… để phân xử. Trong Cựu Ước, ông Môsê cũng đã từng xử kiện cho dân chúng, vì ông đã được đặt làm người lãnh đạo và xét xử ( Xh 2,14). Trường hợp trên: Người anh thì ham của, muốn “ăn” trọn. Người em chắc yếu thế hoặc sống phung phá gì đó, nên cha mẹ không để phần gia tài.

Một câu hỏi cũng là câu khẳng định về chân tính của Đức Kitô : “Ai đặt tôi làm người xử kiện hay chia gia tài ?”. Ngài không đảm nhận một công việc trần thế. Ngài đến để rao giảng Tin Mừng Nước Trời và đưa họ vào vương quốc của Ngài. Và Ngài nói tiếp để căn dặn họ : “ Hãy coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải được dư giả, thì mạng sống nhờ của cải mà được bảo đảm đâu.” (c.15). Chúa Giêsu biết khi tham lam người ta đánh mất lương tri. Giàu thì muốn giàu thêm. Có tiền lại muốn nhiều tiền hơn : lòng tham vô đáy là thế. Khi tham lam, người ta dễ loại trừ nhau. Đồng tiền làm mờ đôi mắt, làm tối lương tâm. Cho dù  đời này ăn mặc sung sướng, vàng bạc đầy nhà, của cải ê hề, thì cũng không chắc sẽ giữ được mạng sống sau khi chết, nếu người đó không biết sử dụng đúng cách. Vì nhiều người đầy của cải, vẫn chết. Có người tự tử trên đống tiền. Nhiều gia đình không hạnh phúc, nhà cửa tan nát, cha mẹ li dị chỉ vì có quá nhiều của cải rồi sinh tật ăn uống, chơi bời.

Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn để minh chứng điều Ngài vừa giảng dạy. Ngài đưa ra một hình ảnh ông phú hộ giàu có, ruộng vườn thẳng cánh cò bay, đàn vật sung túc, của cải ê hề. Ông ta còn khôn ngoan theo kiểu “ con cái loài người” là cho xây những cái kho lẫm to lớn, lớn hơn và xây nhiều hơn để tích trữ. Lúc đó, ông không lo hạn hán hay mất mùa. Ông nghĩ Ta cứ việc ăn chơi thoả thích trong nhiều năm mà của cải vẫn bảo đảm cho đời sống. Ông còn tự bảo: hồn ông đừng lo lắng, cứ nghĩ ngơi ăn uống…Ông khôn ngoan khi chỉ nghĩ đến thân xác, đến của cải nuôi dưỡng cái thân xác đê hèn này. Ông không nghĩ đến bệnh tật, tuổi già, thậm chí cái chết đang đứng ngoài cửa rình rập ông. Cái khôn ngoan của ông mà Thánh Phao lô gọi là sự điên dại của Thiên Chúa…(1Cr 2, 25).

Thật thế, Thiên Chúa bảo ông : “Đêm nay ta đòi mạng ngươi… thì của cải ngươi sắm sẽ về tay ai ? (c. 20). Thật là đồ ngốc khi ngươi chỉ lo sắm những của cải, mà sau khi chết ngươi không thể mang đi được. Đến nỗi, ngươi muốn mang cái gì ngươi thích mà ngươi cũng không tự mang được. Quần áo, giày dép… ngay cái đơn giản nhất cũng là do người khác khoác mặc cho ngươi. Vậy đó chỉ là những phù phiếm, giả tạo. Chúng sẽ bỏ ngươi sau khi ngươi chết.

Với câu kết luận : kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó (c. 21), Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy hậu quả của những người ham mê của cải. Số phận tay trắng vẫn “hoàn tay trắng. của cũng mất mà linh hồn lại chẳng được cứu, vì khi còn sống, người đó đã bám víu vào của cải. Nay của cải bỏ người ấy ra đi một mình, chúng không đảm bảo cho người đó có cuộc sống đời đời.

Ở đây ta thấy Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh đối lập giữa của cải và Thiên Chúa như Ngài đã nói : Không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của (Mt 6, 24). Ngài nhấn mạnh : cần làm giàu trước mặt Thiên Chúa, nghĩa là tìm kiếm sự khôn ngoan của Thiên Chúa, là dùng tiền của mua bạn hữu, dùng của cải đổi lấy Nước Trời, là làm chủ của cải chứ không lệ thuộc hoặc làm nô lệ cho nó.

Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể một truyện ngụ ngôn như sau: Ngày kia, một người phú hộ gọi người đầy tớ trung thành nhất đến và nói:

Tôi muốn thưởng lòng trung thành của anh; ngày mai, từ lúc mặt trời mọc, anh hãy ra đi, và tính cho đến lúc mặt trời lặn, bao nhiêu dặm anh đi được là bấy nhiêu dặm đất thuộc về anh.

Con người khốn khổ bao năm sống nhờ ông chủ giàu có tưởng mình đang mơ. Tối đó anh không sao chợp mắt được, chỉ mong trời mau sáng để lên đường. Khi ánh dương vừa ló rạng, anh đã hăm hở ra đi. Anh cố gắng đi thật nhanh, nhưng vẫn không thỏa mãn với tốc độ đi, thế là anh liền chạy. Càng nhìn lại quãng đường đã qua, anh càng chạy nhanh hơn, vừa chạy vừa mơ: rồi đây anh sẽ có nhiều đất đai, sẽ giầu có hơn người, sẽ không còn phải sống cảnh đầy tớ nữa; càng mơ, anh càng chạy.

Giữa trưa nắng, anh cũng không màng đến chuyện ăn và nghỉ ngơi lấy sức, anh không muốn mất một tấc đất nào. Chiều đến, khi những tia nắng tắt, anh dừng lại và reo lên: “Ðây là đất của ta, ta sẽ có tất cả cho ta, cho gia đình, cho tương lai”. Thế nhưng, chính lúc thốt lên câu đó, anh thấy mắt mình hoa lên, tay chân không cử động và tim cũng ngừng đập. Ngày hôm sau, người ta chôn cất con người khốn khổ ấy trong hai thước đất, khoảng đất vừa đủ cho một con người.

Nỗi khốn khổ của người đầy tớ trên đây chính là sự khờ khạo của anh; anh khờ khạo đến độ không nhận ra cái bẫy người giầu giăng ra, cũng như không đo lường được sức mình.

Kẻ ngu dại nói chung là kẻ sống mà không biết mình đang đi về đâu, không biết đâu là ý nghĩa và hướng đi của cuộc đời. Kẻ ngu dại là kẻ lấy phương tiện cuộc sống làm cùng đích đời người; họ chạy theo quyền lợi, danh vọng, tiền bạc, họ chối bỏ tiếng lương tâm để làm điều phi pháp; họ chà đạp người khác để đạt danh vọng, quyền bính.

Cuộc sống hiện tại có thể là một cạm bẫy. Những giành giật mưu sinh có thể biến ta thành kẻ ngu dại, chỉ nhìn thấy chén cơm manh áo mà quên đi ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống. “Cái khó không những bó cái khôn”, mà còn trói buộc lòng quảng đại của chúng ta.

Của cải mà đem tích trữ riêng cho mình thì có thể hư nát và trở thành phù vân , hoặc chúng ta có thể mà chẳng được hưởng dùng, khi đó cũng là phù vân. Nhưng nếu nó được chia sẻ thì sẽ biến thành tình thương, và tình thương có thể tồn tại muôn đời. Bởi vỉ Thiên Chúa là tình thương. Để có được tinh thần chia sẻ đó, ta phải đổi đời , phải ” chết đi ” để trở thành con người mới trong Đức Kitô .

Lời Chúa hôm nay mời gọi ta điều chỉnh hướng đi. Hướng đi của những người có niềm tin phải là hướng đi về những giá trị của Tin Mừng và cùng đích của cuộc đời. Giữa chợ đời tranh chấp bon chen, người có niềm tin sẽ bị xem là kẻ mát mát, khờ dại, nhưng điều người đời cho là khờ dại chính là lẽ khôn ngoan, là luận lý của Thiên Chúa.

2-Niềm tin của người đàn bà ngoại giáo-Huệ Minh  

Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, các Luật sĩ, Biệt phái vẫn cứng lòng tin và tìm cách quấy nhiễu Chúa Giêsu. Còn những người khác thì hiểu sai lạc về sứ mạng và sứ điệp của một Đức Mêssia, vì thế “Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn”. Ngài hướng ơn cứu độ đến cho dân ngoại và tìm nơi yên tĩnh để huấn luyện các môn đệ, chuẩn bị sứ mạng tương lai của họ.

Lửa không phải chỉ được dùng để luyện vàng thử vàng, mà còn dùng để làm sáng tỏ tính tinh ròng của vàng nữa. Cũng vậy đối với người hiền đức thánh thiện, những khó khăn đau khổ trong cuộc sống của họ, là những yếu tố làm tăng giá trị hiền đức thánh thiện lên cao, tỉ dụ như câu chuyện của Thánh Gióp. Nhưng có người hiểu đau khổ khó khăn theo nghĩa tiêu cực, cho là Chúa thử thách, họ trách Chúa khi họ sống ngay lành mà toàn gặp điều rủi ro.

Trong Tin Mừng không ít lần Chúa Giêsu đề cao lòng tin của những người không thuộc Israel là dân riêng của Thiên Chúa. Trong xã hội ngày nay không thiếu những người lương dân (hay ngoại đạo) lại có đời sống tốt lành bác ái hơn các Kitô hữu. Thiên Chúa và Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể làm người, đã đối xử như thế nào đối với những người bị người Do Thái coi là dân ngoại. Và mời gọi chúng ta điều chỉnh quan điểm và cách sống cho phù hợp với quan điểm và cách ứng xử của Thiên Chúa.

Trang Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta hiểu được cách Chúa Giêsu làm sáng tỏ đức tin của người đàn bà ngoại giáo Canaan thế nào, và bà đáng hưởng được gì trong Nước Trời.

Tình mẫu tử của bà mẹ Canaan hôm nay thật xúc động. Bà quá yêu thương cô con gái yếu đuối bị quỷ ám, đã can đảm vượt qua cái hố ngăn cách bất thân thiện, thậm chí thù hận giữa dân Chúa và dân ngoại, hớt hải nhanh chân tìm đến với Chúa. Bà hoàn toàn tín thác, trông cậy, khẩn cầu, năn nỉ Chúa đoái thương cứu giúp.

Bà công khai tuyên xưng đức tin, khi xướng lên thánh danh Đấng Messia. Rồi kể sự tình, không phải cầu xin cho bà, mà thành tâm khẩn khoản xin cho con gái đáng thương: “Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”

Mặc dù Người tảng lờ, như không nghe, không biết, không hề đáp lại, bà vẫn khiêm nhường, nhẫn nhục, vẫn không hề chao đảo, nhụt chí trước thái độ ghẻ lạnh của các môn đệ: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” (Mt 15, 23)

Vượt qua thử thách, khinh dể, rẻ rúng, giả điếc làm ngơ, bà mẹ Canaan cứ mãi kiên trì, vững tin vào lòng từ bi nhân ái của Chúa Giêsu. Chẳng hề ngại ngùng quấy rầy Người, bà cứ mãi lẽo đẽo bám theo, năn nỉ, van nài.

Mặc dù “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi!” Vượt qua thái độ từ khước công khai của Chúa Giêsu, bà mẹ kính cẩn khấu đầu, quỳ sụp xuống, van lạy tha thiết khẩn cầu, càng mạnh dạn hơn nữa bà mẹ hoàn toàn tin cậy vào lòng thương xót vô biên của Đức Giêsu.

Khi nghe lời từ chối quá phũ phàng và dứt khoát: “Không nên lấy bánh cho con cái mà ném cho lũ chó con!” bà mẹ liền tìm ngay được mẩu phao cứu sinh. Nhẫn nhục, bà chẳng tự ái, chẳng giận hờn, hoặc thất vọng bỏ cuộc. Bà chẳng hề mơ được nguyên tấm bánh, mà khiêm tốn chỉ dám mong đợi một chút vụn bánh rơi rớt dưới nền nhà. Chẳng lẽ Ông Chủ giàu có và hào phóng lại nỡ từ chối?

Cuối cùng trái tim thắm tình mẫu tử được toại nguyện. Chúa Giêsu cảm động nhận lời giải thoát quỷ dữ khỏi con gái bà và còn khen ngợi đức tin bền vững và mạnh mẽ của bà. “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy.” (Mt 15, 28)

Trong việc cầu nguyện, nhiều lần chúng ta cũng cảm nhận như Chúa từ chối, noi gương người đàn bà trong phúc âm luôn kiên trì tin tưởng và tu luyện đức tin mình được vững chắc. Càng gặp khó khăn trong đời sống, đức tin của chúng ta càng có giá trị khi ta một mực trung thành với Chúa, đức tin của chúng ta sẽ rạng rỡ trước mặt mọi người, và trước mặt Thiên Chúa. Càng gặp khó khăn đức tin của chúng ta càng lớn lên, càng sâu sắc và giàu kinh nghiệm.

Hiểu như thế chúng ta sẽ vui vẻ bình an trong đời sống phụng sự Chúa, và luôn thưa với Chúa “Lạy Chúa, xin cứu giúp con”. Đức tin của người dàn bà Canaan cũng là cơ hội làm cho đức tin của các tông đồ thêm vững mạnh, vì vậy chúng ta cần sống đức tin thế nào để giúp cho đức tin người khác được sâu xa hơn. Chúng ta cũng cần giúp cho nhiều lương dân có đức tin, biết cầu nguyện với lòng tin để họ đáng được ăn bánh sự sống Chúa ban cho. Noi gương người đàn bà Canaan chúng ta còn cần biết cảm thương nỗi đau khổ của người khác, và cầu nguyện cho họ với lòng tin, để nhờ đức tin của chúng ta họ được ơn giải thoát.

Ta xin Chúa ban cho chúng ta có một đức tin vững chắc, luôn trung thành với Chúa, luôn tin tưởng cậy trông vào Chúa là Đấng duy nhất có quyền năng làm được mọi sự, cho dù bất cứ hoàn cảnh nào xảy đến cho chúng ta.

 

3-Hãy yên tâm! Thầy đây đừng sợ!-Huệ Minh

Tin Mừng tường thuật việc các môn đệ đang trên thuyền để đi sang bờ bên kia. Trong lúc các ông trèo thuyền ra xa, thì gió lớn nổi lên, khiến các ông lo sợ. Đúng lúc đó, Đức Giêsu hiện đến mà các ông không nhận ra Ngài. Vì thế, trong cơn hốt hoảng, các ông đã la lên: “Ma đấy !”. Thấy vậy, Ngài đã trấn an các ông và nói: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”. Tuy nhiên, chưa tin và vẫn còn nghi ngờ, nên Phêrô đã thử liều một phen mang tính thách thức: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”.

Sau khi cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên đò sang bờ bên kia. Giải tán dân chúng xong, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện một mình. Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả cây số, bị sóng đánh vì ngược gió”. Đang đi giữa biển thì cuồng phong nổi lên như muốn nhận chìm con thuyền nhỏ khiến các môn đệ vô cùng hoảng sợ, trong khi đó Chúa Giêsu vẫn bình tĩnh cầu nguyện. Sở dĩ các môn đệ sợ hãi vì các ông tin tưởng vào sức riêng mình. Vốn là những ngư dân rành nghề, các ông am hiểu biển cả, thuộc từng con sóng và chỗ nào nước sâu có nhiều cá.

Các môn đệ vâng lời Thầy ra đi, nhưng có lẽ các ông không được hài lòng. Các ông đã hết sức kiên nhẫn chờ đợi ngày Chúa Giêsu làm vua, cơ hội đó hôm nay đã đến, nhưng Chúa lại từ chối. Không những bỏ lỡ cơ hội, Chúa còn ra lệnh cho các ông lập tức rời bỏ hiện trường. Bất mãn, chán nản và mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Chúa Giêsu biết rõ tâm trạng của các ông, không những bằng ánh mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu nguyện trên triền núi. Ngài thấy các ông chèo chống ngược với sóng gió và ngược với cả ý muốn. Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông. Ngài đã làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài có quyền năng trên các tạo vật, Ngài có chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy khi giờ của Ngài đến.

Vì thế dù có ra giữa biển khơi, các ông vẫn tự tin lướt sóng. Chúa Giêsu đã để sóng gió nổi lên như muốn thử thách đức tin yếu kém của các môn đệ. Thái độ hoài nghi đã làm con mắt các môn đệ trở nên mờ tối khiến các ông không còn nhận ra sự hiện diện của Chúa. Các ông chỉ còn nhìn thấy bóng ma của sự tối tăm và chết chóc. Sau khi nghe các môn đệ cầu cứu, Chúa Giêsu đã đi trên mặt biển đến và trấn an các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” Sau đó Đức Giêsu truyền cho ông Phêrô đi trên mặt nước mà đến với Người. Nhưng Phêrô vẫn hoảng sợ đễn nỗi Chúa Giêsu phải đưa tay ra nắm lấy ông.

Qua biến cố này, Chúa Giêsu đã biểu lộ cho các môn đệ thấy quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa khiến mọi thế lực trần gian phải khuất phục. Và rồi, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở các ông sao yếu lòng tin vì còn hoài nghi ngờ vực. Sau khi sóng yên biển lặng, mọi người trong thuyền đều phải bái phục Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” Với tư cách là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu có sứ mạng quan trọng là đến trần gian để cứu chuộc loài người. Vì thế những bệnh nhân và những ai có lòng tin tưởng đều được Chúa Giêsu cứu chữa.

Không bao giờ và không khi nào Chúa Giêsu bỏ rơi các môn đệ. Dẫu trong bất cứ hoàn cảnh nào Người vẫn hiện diện bên cạnh để giáo huấn và nâng đỡ đức tin cho các ông. Như người cha luôn nắm chặt bàn tay của đứa con gái nhỏ, Thiên Chúa không bao giờ từ chối lời cầu xin của chúng ta bởi chúng ta là đối tượng được Người yêu thương và cứu chuộc. Tình yêu Thiên Chúa có sức mạnh kỳ diệu, mạnh hơn sự chết, cao hơn những suy tưởng và sâu hơn những yếu đuối của loài người. Nói như thánh Gioan tông đồ “Tình yêu không biết đến sợ hãi, trái lại một tình yêu hoàn hảo loại trừ mọi sợ hãi” (1 Ga 4, 18).

Chúa Giêsu đã yêu chúng ta bằng một tình yêu nhưng không, Ngài gánh lấy mọi tội lỗi và chịu chết để đem ơn cứu độ cho chúng ta. Nếu thực sự yêu mến và tin tưởng Thiên Chúa, chúng ta không bao giờ sợ hãi thất vọng.

Đã bao lần trong đời sống chúng ta từ chối tình yêu Thiên Chúa đó là chúng ta từ chối cái “nắm tay” của Người. Chúng ta tự mãn nghĩ mình có đủ tài năng chèo chống con thuyền của cuộc đời mình bằng tiền của vật chất, bằng sức mạnh của thế gian để rồi bị trượt ngã thảm thương. Chúng ta tự quyết định con đường tương lai và vận mệnh đời mình mà không cần đến sự trợ giúp của Chúa. Chúng ta không phải là thiên thần để bước đi theo Chúa một cách thanh thoát. Chúng ta bước đi bằng đôi chân nặng nề của đam mê tội lỗi khiến đôi chân ấy cứ lún sâu xuống khiến chúng ta muốn ngã quỵ. Chúng ta không dám tin tưởng để cho Chúa dẫn dắt mà chỉ lo bám vào thế lực của con người, ngó ngác trông đợi mong bám vào một nhánh cây khô mục ruỗng. Chúng ta khôn

Sự kiện Chúa Giêsu đi trên mặt biển để đến với các môn đệ và việc cho Phêrô đi trên mặt nước với Ngài giúp cho chúng ta hiểu rằng: Chúa vẫn luôn còn đó trong cuộc đời. Mọi khó khăn thử thách, Ngài luôn có mặt, chỉ có điều chúng ta có một đức tin đủ mạnh để vượt qua mọi khó khăn và có đủ độ nhạy bén để nhận ra Ngài hay không mà thôi!

Với trang Tin Mừng này, ta được mời gọi nhìn lại niềm tin vào quyền năng của Chúa. Ngài có chương trình cho mỗi người chúng ta. Ðiều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa, Ngài vẫn hiện diện để sẵn sàng cứu giúp ta. Hãy phó thác vào quyền năng yêu thương của Ngài và như thế tâm hồn ta sẽ được bình an.

Thật vậy, không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được. Chỉ có điều chúng ta có tin hay không, hoặc qua các biến cố đó, chúng ta có khám phá ra thánh ý của Thiên Chúa và thi hành hay chỉ ngồi đó để than thân trách phận, nghi ngờ, và thậm chí chỉ trích cả Thiên Chúa…?

Mong sao trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy nhớ đến câu nói của Đức Giêsu khi xưa: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”.

Cuộc đời ta nhiều khi hoang mang và sợ hãi chẳng kém các môn đệ của Chúa là bao bởi ta kém lòng tin. Các môn đệ đã tin vào Chúa và được Chúa cứu. Xin Chúa thêm ơn đức tin cho ta để ta cũng được Chúa thương như các môn đệ khi xưa.

4-Chính anh em hãy cho họ ăn-Huệ Minh

Khi nghe tin Gioan bị giết, Đức Giêsu rút lui. Ngài rút lui vì chưa đến Giờ của Ngài (Mt 12,15). Nhưng dân chúng đã đến nơi mà thuyền Ngài sắp cập bến. Thấy họ, Ngài chạnh lòng thương và chữa những người bệnh.

Tin Mừng hôm nay kể lại: Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng đi theo Ngài mấy ngày trong hoang địa để nghe lời Ngài, Ngài chạnh lòng thương.

Nơi thì hoang vắng, trời đã ngả về chiều, các môn đệ xin Ngài cho đám đông đi mua đồ ăn. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho họ chưng hửng khi nói: “Chính anh em hãy cho họ ăn.”

Chạnh lòng thương có nghĩa là để cho trái tim mình rung nhịp trước đau khổ của người khác. Đám đông không chỉ bơ vơ, đói khát thể xác mà còn bị sự dày vò bởi bệnh tật và đau khổ, nghĩa là theo quan niệm lúc bấy giờ, họ đang bị trói buộc bởi ma quỷ, tội lỗi. Thấy thế, Chúa đã ra tay chữa lành bệnh tật thể xác và đau khổ tâm hồn của họ.

Các môn đệ thú nhận giới hạn của mình. Họ chỉ có thế, nên không làm được điều Thầy muốn.

“Hãy đem lại đây cho Thầy.”

Ngài cần đến phần đóng góp nhỏ nhoi của chúng ta, Ngài cần chúng ta trao cho Ngài tất cả những gì mình có,tất cả những gì chính chúng ta đang cần: năm cái bánh và hai con cá.

Đối với Chúa Giêsu, ít hay nhiều không quan trọng, nhưng quan trọng là các tông đồ có dám nhường phần ăn của mình cho người khác hay không, phần còn lại Chúa sẽ làm. Thế là chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá do sự quảng đại chia sẻ của con người, Chúa Giêsu đã cầm lấy…, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ trao cho đám đông. Chi tiết này cho thấy, một lần nữa, Chúa Giêsu lại muốn có sự cộng tác quảng đại của các tông đồ. Chúa trao cho các ông để các ông tiếp tục trao cho người khác. Như thế lương thục, của ăn cứ liên tục được trao tặng qua các môn đệ, phục vụ đến mọi người, và sẽ mãi là như thế.

Từ năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ là đóng góp của con người, cùng với sự cộng tác của các môn đệ, Chúa Giêsu đã nuôi năm ngàn người ăn no mà vẫn còn dư thừa đến mười hai giỏ đầy bánh vụn. Phép lạ này được thực hiện để báo trước một phép lạ lớn lao hơn, đó là phép lạ Thánh Thể mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện. Ngài đã biến máu thịt mình nên của ăn nuôi dưỡng nhân loại. Với phép lạ Thánh Thể tại nhà tiệc ly và vẫn còn kéo dài đến ngày nay, Đức Giêsu cũng vẫn đang cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói : Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, mà uống, vì này là mình và máu Thầy sẽ đổ ra vì anh em, hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.

Với việc biến mình trở nên lương thực làm của ăn, của uống cho con người, Chúa Giêsu đã làm thỏa mãn mọi đói khát thể xác và tâm hồn cho con người mọi thời và mọi nơi. Chỉ nhưng ai đến lãnh nhận lương thực này, ăn mình và uống máu Ngài, thì sẽ không bao giờ còn bị các cơn đói khát, thèm muốn của thế gian đe dọa nữa. Nói như thánh Phaolô trong bài đọc hai : Khi gắn bó với Đức kitô qua việc nghe Lời Ngài và ăn lương thực của Ngài ban tặng, thì không một đau khổ, nghèo đói nào có thể làm lung lạc tinh thần của chúng ta : Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô, dù là gian truân khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo. Tức là tất cả những nghèo đói, thèm khát, đau khổ của thế gian sẽ không làm gì được chúng ta, một khi chúng ta ở trong tình yêu với Chúa Giêsu.

“Chúng con hãy cho họ ăn”. Đó là mệnh lệnh mà Chúa truyền lại cho các Tông đồ xưa và cũng là mệnh lệnh của Chúa cho mỗi người Kitô hữu hôm nay. Chúng con hãy cho họ ăn, chúng con có trách nhiệm không thể chạy trốn được, chúng con không thể phủi tay đổ trách nhiệm cho kẻ khác. Hãy biêt sống chia sẻ, đóng góp những gì mình có thể làm để mưu cầu hạnh phúc cho đồng loại. Mỗi người hãy thắp lên một que diêm để làm cho căn phòng đầy ánh sáng, nhất là khi cùng thắp que diêm đó với Chúa và nhờ Chúa, cộng tác với Chúa để gìn giữ que diêm đó khỏi gió thổi tắt.

Năm bánh hai cá là biểu tượng nguồn tốt lành mà mỗi người chúng ta đang sở hữu. Mỗi cá nhân đều có một kho tàng vô giá ẩn sâu trong tâm hồn. Tôn giáo giúp chúng ta khơi dậy những tâm tình, những ân huệ và những khả năng được trao ban.

Chúng ta không thể nói rằng chúng ta không có gì để cho đi. Mỗi người có cả một kho tàng tình yêu, sự cảm thông, tình xót thương và lòng quảng đại. Cái gì cũng có thể cho được, chúng ta có thể cho đi một nụ cười thân thiện, một lời nói êm nhẹ, một cử chỉ yêu thương, một thái độ tử tế, một ánh mắt thông cảm, một vòng tay ấm áp, một tâm tình chia sẻ tế nhị và một chút bánh, một ly nước.

Một khi được đón nhận lương thực từ tay Chúa, chúng ta còn có bổn phận tiếp tục chia sẻ cho những người bên cạnh. Hãy quảng đại như các mộn đệ xưa, dâng cho chúa cả phần ăn mà chúng ta phải sử dụng để Chúa dùng sự quảng đại nhỏ bé của chúng ta, mà nuôi dưỡng nhiều anh em khác nữa.

Hãy dâng cho Chúa không chỉ những của ăn hay những thứ dư thừa, mà hãy dám dâng cho Chúa cả những cái chúng ta đang cần. Chúa đang chờ đợi sự công tác của chúng ta để xoa dịu nỗi đau khổ, đói khát của anh em. Không chỉ dâng tặng cho Chúa những của cải vật chất, mà còn dâng cho chúa những sự hy sinh, lời cầu nguyện và những việc lành, việc tốt âm thầm. Chúa rất vui lòng đón nhận những của hy sinh đó để đem lại ân phúc cho người thân, cho gia đình chúng ta và cho nhiều anh chị em khác nữa.

Xin cho chúng ta luôn biết noi gương Mẹ Maria, mở rộng tâm hồn để Chúa lấp đầy mọi thiếu thốn, nghèo đói của thân phận con người và biến chúng ta trở nên những con người no thỏa ân phúc của Chúa.

5-Sống Thật-Huệ Minh

Hêrôđê đã sống hoàn toàn trái ngược với ơn cứu độ của Thiên Chúa, vì ông cầm tù người khác, ông sống theo những đam mê dục vọng của mình.

Cuộc đời của Hêrôđê bắt đầu trượt dài từ ngày vua dụ dỗ em dâu mình ở Rôma. Để cưới người em dâu Hêrôđia, vua đã thẳng tay ly dị người vợ đang chung sống với mình. Bị ông Gioan Tẩy Giả quở trách vì hành vi loạn luân ấy, vua lại bắt ông Gioan đem tống ngục. Rồi cuối cùng trong bữa tiệc sinh nhật vui vẻ, vua lại lỡ lời thề thốt với con gái của bà Hêrôđia. Điều đáng trách hơn nữa là vua thà phạm một tội ác tày trời còn hơn là huỷ bỏ một lời thề bốc đồng lúc “trà dư tửu hậu” với một cô gái trẻ. Vua sợ tiếng dư luận cười chê các vị khách hơn là sợ tiếng lương tâm quở trách. Biết điều mình làm là sai trái, nhưng vua vẫn không dám sửa đổi, vì quá yếu nhược. Rất tiếc cho một vị vua, chỉ vì một lỗi lầm kéo theo bao lầm lỗi tai hại khác!

Tin Mừng cho ta thấy một người nhìn lộn, nhìn gà hóa cuốc, đó chính là tiểu vương Hêrôđê. Rõ ràng chính miệng ông đã ra lệnh giết Gioan Tẩy Giả, tay ông đã bưng mâm đặt đầu Gioan Tẩy Giả đưa cho cô con gái Hêrođiađê, thế mà khi nghe nói về Đức Giêsu, ông lại dám khẳng định cách mạnh mẽ:“ Đó chính là Gioan Tẩy Giả đã sống lại”. Phải chăng lời nói, việc làm và cuộc sống của Chúa Giêsu rất giống với Gioan? Gioan được gọi là vị Ngôn Sứ cuối cùng của thời Cựu Ước, vậy phải chăng Đức Giê su cũng là một Ngôn Sứ?

Thánh Gioan đã nói lên tội của vua Hêrôđê nên ông đã bị tống ngục và cuối cùng bị giết chết bởi một thỏa mãn sắc dục của vua. Nếu ta đặt mình vào chỗ đứng của Vua Hêrôđê và bà Hêrôđia thì ta có hành động như vậy hay không? Người ta thường nói “thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng” nên chẳng mấy ai dám nói thật với người khác khi thấy họ làm điều không tốt vì sợ sẽ bị ghét, bị để ý.

Gioan bị giết trong khung cảnh một bữa tiệc. Đó là tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê Antipas là tiểu vương vùng Galilê và Pêrê. Nếu thế, bữa tiệc này hầu chắc diễn ra ở Tiberias, một thành gần hồ Galilê, nơi Hêrôđê đặt trung tâm quyền lực của mình. Gioan bị giết vì dám phản đối cuộc hôn nhân bất hợp pháp giữa Hêrôđê với bà Hêrôđia là vợ của Philíp, người anh cùng cha khác mẹ với mình.

Chuyện ngoại tình của Hêrôđê bị Gioan Tẩy giả kết án là có thể hiểu được. “Ngài không được phép lấy bà ấy” (c. 4). Lấy vợ của người anh em là phạm đến Luật Chúa (Lv 18, 16; 20, 21). Gioan là một ngôn sứ không lùi bước trước sự bất công. Ông đã sẵn sàng bênh vực sự thật, dù ông biết cái giá phải trả. Hêrôđê đã dùng quyền lực để ép Gioan phải im miệng. Ông bắt Gioan, xiềng lại và tống vào ngục. Chỉ vì sợ phản ứng của dân chúng mà Hêrôđê chưa muốn giết Gioan.

Sau khi chôn cất ông xong thì các môn đệ đến báo tin cho Chúa Giêsu. Chi tiết này nói lên mối liên hệ thân tình giữa Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Gioan Tẩy giả là hướng về Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả không phải là Chúa Giêsu, nhưng là người giúp anh em mình đến với Chúa. Chính Gioan Tẩy giả đã tuyên bố: “Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng”.

Gioan đã chu toàn ơn gọi của mình một cách tốt đẹp. Gioan chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến, không những bằng việc rao giảng thống hối, mà còn bằng chính cái chết vì trung thành với sự thật. Dung mạo của Gioan Tẩy giả loan báo dung mạo của Chúa Giêsu một cách tốt đẹp, đến nỗi khi Chúa Giêsu xuất hiện, vua Hêrôđê tưởng Ngài là hiện thân của Gioan Tẩy giả sống lại.

Người Kitô hữu được mời gọi sống hướng về Chúa, kết hợp với Chúa, trở thành một Chúa Kitô thứ hai cho anh em. Nhưng đó là để giúp anh em đến với Chúa, chứ không dừng lại nơi mình. Người Kitô hữu không được chiếm chỗ của Chúa trong tâm hồn anh em: Chúa Kitô phải lớn lên trong tâm hồn anh em, còn tôi chỉ là phương thế, tôi không được cản trở anh em đến với Chúa.

“Các con sẽ làm chứng về Thầy”, đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu cho các Tông đồ, cho mỗi môn đệ của Chúa. Chúng ta cần trở nên một Chúa Kitô cho anh em mình, vận mệnh của Chúa sẽ là vận mệnh của chúng ta..

Khi chúng ta không sống đúng ơn gọi và sứ mệnh Ngôn Sứ của mình, chúng ta sẽ trở thành những phản chứng, những ngộ nhận và những rào cản người khác đến với Đức Kitô, đến với Giáo Hội.

Chúng ta phải tôn trọng sự thật bằng cách lắng nghe cẩn thận khi người khác trình bày ý kiến của họ, và hãy biết xét xem điều đó có đúng hay không; chứ đừng bao giờ dùng uy quyền để bóp chết sự thật.

Qua bài Tin Mừng Chúa đang mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết sống thật, chấp nhận sự thật để nhìn thấy con người thật của mình mà làm cho lương tâm của ta trở nên trong sáng hơn, xứng đáng là cung thánh nơi Thiên Chúa ngự.

Xin Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm và trung thành với sự thật, dù phải hy sinh chính mạng sống mình, để giúp người khác đến với Chúa và tin nhận Chúa.

TÌM TÔN GIÁO DỄ DÃI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Con người ngày nay thích dễ dãi và luôn chiều theo tính xác thịt của mình. Nhất là sự dễ dãi trong luân thường đạo lý, nam nữ quan hệ bừa bãi chẳng cần tình yêu, đôi khi còn công khai trước đám đông. Không chỉ trai chưa vợ, gái chưa chồng mà hiện tượng chồng nọ vợ kia cũng bùng phát ngay cả trong những xứ đạo lâu năm! Người ta nhân danh tình yêu để rồi cố tình bỏ qua luân thường đạo lý. Người ta cũng đi tìm một tôn giáo dễ dãi luôn chiều theo họ, luôn ủng hộ họ. Và một khi họ thấy tôn giáo quá khắc khe là họ sẵn sàng bỏ đạo để sống theo ý thích của mình.

Theo tạp chí Newsweek cho biết: “Hàng giáo phẩm hôm nay cũng đang phải cạnh tranh trong một thế giới có nhiều sự lựa chọn, nếu không thích nghi sẽ làm cho các tín hữu rời khỏi Giáo Hội”.

Vì thế, nhiều giáo hội chấp nhận điều mà tạp chí Chicago Sun-Times gọi là “thông điệp dễ nghe, trục lợi, thậm chí vị kỷ… của Ki-tô giáo [và] bỏ qua Phúc âm”.

Điều này dẫn đến một loại tư tưởng trong tôn giáo mà người ta định nghĩa về Thiên Chúa theo ý riêng của họ, như luôn quảng bá “đạo nào cũng là đạo” để xem nhẹ Thiên Chúa và đồng hóa Ngài với thụ tạo. Giáo hội không còn chú tâm vào Thiên Chúa và những điều Ngài đòi hỏi con người, mà lấy con người làm trung tâm để đưa tôn giáo thích ứng với nhu cầu con người. Có thời người ta đề cao mục đích để ủng hộ mọi phương tiện như “có quyền lấy của người giầu để cho người nghèo”.

Mục tiêu duy nhất của họ là đáp ứng nhu cầu của con người, bất chấp thỏa hiệp với thế gian và xa rời giáo lý của Thiên Chúa. Kết quả là tôn giáo của họ thành ra trống rỗng, không có giáo lý.

Những điều này khiến chúng ta nhớ tới lời của thánh Phaolo tông đồ đã viết: “Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường.”. 2Tm 4: 3,4.

Xem ra những lời này đang ứng nghiệm trong thời đại hôm nay. Một thời đại con người tìm kiếm sự dễ dãi để bỏ qua hy sinh khổ chế, bỏ qua những tập tục truyền thống để sống theo tính xác thịt của mình. Con người ngày nay “có thể theo bất kỳ tôn giáo nào, nếu không bị bắt phải làm theo tiêu chuẩn đạo đức, tức họ cần một tôn giáo an ủi nhưng không đoán xét”.

Ky-tô giáo vẫn được xem là cổ hũ khi không thích nghi với lối sống thoải mái của con người ngày nay. Khi Giáo hội vẫn đòi hôn nhân bất khả phân ly, vẫn đòi hỏi một vợ một chồng, không chấp nhận đồng tính và nghiêm cấm phá thai . . .

Giáo hội luôn bắt con người đi theo luật Chúa để sống công bằng với mọi người và có trách nhiệm với bản thân và xã hội. Nếu một xã hội đề cao tính cá nhân thì sẽ không còn tôn trọng người khác đôi khi vì quyền lợi , thú vui cá nhân mà làm những chuyện hại đời hại người. . .

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi vào con đường hẹp. Con đường của hy sinh vì phải bỏ lại những thú vui mau qua, những đam mê tội lỗi để sống đúng với phẩm giá con người là “nhân linh ư vạn vật”. Con đường ấy mới dẫn ta tới chân trời hạnh phúc đời này và đời sau.

Người ta vẫn nói: “không có sự thành công nào xây dựng trên sự dễ dãi”, thế nên muốn đạt được Nước trời cũng phải đi vào con đường hy sinh để tránh xa những mời mọc dễ dãi trong hưởng thụ, trong đam mê xác thịt.

Xin cho mỗi người chúng ta biết sống đời này cho nghiêm túc để đời sau được hạnh phúc muôn đời. Hãy vì sự sống vĩnh cửu mà can đảm từ bỏ những lối đường tội lỗi hôm nay.

Nguyện xin Chúa là Đường là Sự Thật và là Sự Sống dẫn dắt chúng ta đi trong chân lý vẹn toàn. Amen

ĐƯỜNG CHẬT–CỬA HẸP

Lam Thy

(CN XXI/TN-C)

Khi suy niệm Lời Chúa CN XXI/TN-C (Lc 13, 22-30), mới đọc tiêu đề bài Tin Mừng, tự nhiên nảy sinh thắc mắc: Tại sao lại là “Cửa hẹp. Thiên Chúa ruồng bỏ người Do-thái bất trung và kêu mời dân ngoại”? Người It-ra-en bất trung bị ruồng bỏ và thay vào đó, Thiên Chúa kêu mời dân ngoại là điều dĩ nhiên; nhưng như thế thì có liên quan gì đến “cửa hẹp”? Bình tĩnh đọc tiếp mới thấy mối liên hệ giữa cửa hẹp và sự “ruồng bỏ người Do-thái bất trung”. Đó là câu chuyện “Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” Những người được cứu thoát tất nhiên là những người đã phải chiến đấu hết mình – thậm chí hy sinh cả tính mạng – để qua được cửa dẫn vào Nước Trời. Điều đó cho thấy cửa Nước Trời là cửa hẹp.

Đọc Tin Mừng Mat-thêu có cùng chủ đề thỉ vấn đề sáng tỏ hơn: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7, 13-14). Khi phải đi theo đường chật và phải tìm phương cách để vào được cửa hẹp thì tất nhiên sẽ “có nhiều người tìm cách vào mà không thể được”. Những người đó không ai khác hơn là những “người Do-thái bất trung”. Chỉ những người bất trung, không nghe và không tin vào Lời Ông Chủ, mới bị Ông Chủ đuổi: “Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”. Riêng những người như “các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ” đã kiên cường chiến đấu chống lại kẻ thù gian ác, một lòng trung tín với Ông Chủ, nên đã vượt qua được đường chật mà vào cửa hẹp để “được ở trong Nước Thiên Chúa”.

Hình ảnh cửa hẹp khiến người đọc hình dung ra ngay một sự khó khăn để có thể vượt qua được cửa đó, mà cửa đó lại là cửa vào Nước Thiên Chúa. Nói về Nước Thiên Chúa ai chẳng nghĩ rằng đó là một Nước, một Vương Quốc mênh mông không biên giới, vô hạn định. Đã không có giới hạn rõ rệt thì tại sao lại có cửa hẹp? Một lần nữa, Đức Giê-su lại dùng cách nói “ẩn dụ” với những “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời) trái ngược nhau nhằm gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người nghe. Trong Tin Mừng Mat-thêu, Lời dạy trên được diễn tả rõ hơn (như đã dẫn trên – Mt 7, 13-14). Cùng một ý, còn thấy “Bấy giờ Đức Giê-su nói với các môn đệ của Người: “Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” (Mt 19, 23-26). Con lạc đà chui qua lỗ kim là một chuyện không tưởng, vậy mà còn dễ hơn người giàu có vào được Nước Thiên Chúa. Phải chăng cái lỗ kim ấy chính là cửa hẹp?

Cửa hẹp mà không phải cửa hẹp. Cửa hẹp là cửa khó vào. Muốn vượt qua được cửa hẹp phải biết thu nhỏ mình lại, mà thu nhỏ mình lại thì tức là phải ăn kiêng để giảm béo, bớt cân, còn phải trui rèn ý chí, tập luyện thể lực. Nói khác hơn là phải hãm mình ép xác, khiêm nhường chịu lụy. Thu nhỏ mình là “ai muốn đoạt áo trong của mình thì hãy cho họ luôn cả áo ngoài”, là “ai vả má bên trái thì hãy đưa cả má phải cho họ vả tiếp” (Mt 5, 38-44). Thu nhỏ mình là hành động của chính Người đã dạy về cửa hẹp, đó là: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8). Song song với đức tính khiêm nhường chịu lụy, còn phải biết mở rộng trái tim, thực hành bác ái. Cũng vì thế, nên cửa hẹp chẳng ai muốn vào dù đã được mách bảo qua được cửa hẹp là vào được cõi phúc. Người ta chỉ thích đi tìm những cửa rộng, bởi đó là lối đi có những mời gọi ngọt ngào, những cuốn hút mê đắm.

Vào cửa hẹp phải như vậy, nên số người vào được cửa hẹp chỉ là thiểu số, còn đa số vẫn là những kẻ không vào được. Họ là ai? Đó là những người đã ăn uống ở trước mặt Chúa và đã thấy Người đi lại giảng dạy nơi phố xá của họ, nhưng vẫn làm điều phi nhân bạc nghĩa. Ðó là những người Na-da-ret đồng hương, những người Do-thái đồng thời với Ðức Giê-su – nhất là những kinh sư, luật sĩ, tư tế chỉ thích “ngồi trên toà ông Mô-sê” mà giảng dạy – đã không tin thì chớ, mà còn âm mưu giết hại cả Đấng Cứu Độ mình. Họ sẽ bị xua đuổi ra khỏi nhà đang có các tổ phụ và các tiên tri vui hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Họ sẽ bị tống ra ngoài, nơi sẽ có khóc lóc và nghiến răng; trong khi có nhiều người từ khắp nơi Ðông, Tây, Nam, Bắc (tức là dân ngoại) lại được vào dự tiệc Nước Trời. Tiêu đề bài Tin Mừng hôm nay đã nói lên tất cả: “Cửa hẹp. Thiên Chúa ruồng bỏ người Do-thái bất trung và kêu mời dân ngoại”.

Dân chính hiệu (được tuyển chọn) là những người đứng hàng đầu thì bị tống ra ngoài, để dân ngoại là những kẻ tới sau đứng ở hàng cuối lại được vào dự tiệc Nước Trời. Chuyện khó tin nhưng có thật 100% (“Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.” – Lc 13, 30). Thế đó! Cũng cần nói rõ Đức Giê-su chỉ nói “Có những kẻ…”, chớ không phải tất cả. Vậy thì không phải tất cả những kẻ “đứng hàng đầu” đều xuống cuối và tất cả những kẻ “đứng hàng cuối” sẽ được lên hàng đầu. Chung quy thì chỉ có những ai tin nghe và sốt sắng hành động theo Lời dạy của Đấng Cứu Thế, thì dù có tới sau, đứng cuối, cũng sẽ được lên hàng đầu. Và chỉ những kẻ bất lương mới bị tống ra ngoài mà thôi.

Nếu chỉ được mời gọi chọn đường chật, cửa hẹp để đạt được ước nguyện, thì chắc chắn đa phần đều ngán ngại. Tiền bán thế kỷ XX, học giả Nguyễn Bá Học viết một câu thật chí lý: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi, e sông”. Chúng ta cũng có thể nói: “Hành trình chiếm hữu Nước Trời khó vượt qua không phải vì cửa hẹp, mà khó vì lòng người ngán ngại cửa hẹp mà thôi”. Trải qua 2000 năm, những tấm gương chọn cửa hẹp để vào được Nước Thiên Chúa có rất nhiều, nhiều không kể xiết. Từ các thánh hiển tu, ẩn tu, các thánh đồng trinh, đến các thánh nam cùng các thánh nữ, đặc biệt hơn cả là các thánh tử vì đạo đã chọn cách vượt qua cửa hẹp bằng chính sinh mạng của mình.

Tóm lại, để vào được Nước Thiên Chúa, để chiếm hữu được Nước Trời, không phải chuyện dễ dàng. Nó đòi hỏi quyết tâm đã đành, nhưng còn phải có được đức nhẫn nại, vượt khó, dám hy sinh, chấp nhận gian khổ thử thách, và nhất là phải bền lòng với Đức MẾN, kiên trung với Đức TIN mà mình đã phó dâng trọn cả cuộc đời; đồng thời phải biết CẬY nhờ vào Lửa Thánh Linh soi sáng hướng dẫn, hun đúc tâm can cho thêm dũng cảm vượt qua thử thách. Chỉ “những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính. Bởi vậy, hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ. Hãy sửa đường cho thẳng mà đi, để người què khỏi trật bước và hơn nữa, còn được chữa lành.” (Dt 12, 11-13). Ước được như vậy.

Ôi! Lạy Chúa! Xin cho con được trở nên đơn sơ bé nhỏ, biết sống khiêm nhu tự hạ trong tâm tình hiền hậu “Mến Chúa yêu người”. Cúi xin Chúa thương ban Thần Chân Lý hướng dẫn dạy dỗ con biết đâu là cửa hẹp đường chật, đồng thời thêm sức cho con có đủ nghị lực và can đảm vượt qua mọi thử thách nghiệt ngã trên con đường chật đầy cạm bẫy chông gai, để vào được cửa hẹp và nghỉ an trong Trái Tim Chúa. Ôi! Lạy Chúa! “Trong Trái Tim Chúa yêu muôn đời, con xin được một chỗ nghỉ ngơi, nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi, như nước mưa tan trong biển khơi. Nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi, trái tim con trong Trái Tim Người, nhỏ bé thôi, nhò bé thôi, là tình con trong khối Tình Người.” (TCCĐ “Trong Tim Chúa”).

CHIẾN ĐẤU VÀO CỬA HẸP

Am. Trần Bình An

Chia sẻ Tin Mừng Chúa nhật 21 TN NC 2016 (Lc 13, 22-30)

Vào Chúa Nhật ngày 14/4/1985, Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa, Linh Mục Tom Maniyangat đang trên đường đi tới một Nhà Thờ truyền giáo ở phía Bắc của Kerala, Ấn Độ, để dâng Thánh Lễ, và ngài đã bị tử nạn. Xe của ngài đụng thẳng đầu một xe jeep. Ngài được chở vội tới nhà thương, cách chỗ xảy ra tai nạn khoảng 70 cây số, nhưng ngài đã qua đời trên đường. Linh Hồn cha Tom lìa khỏi xác, nên cha cảm nghiệm được là ngài đã chết. Ngài nhìn thấy thi thể ngài, và người ta đang chở ngài tới nhà thương. Cha nghe được tiếng người ta khóc lóc và đọc kinh cầu nguyện cho cha. Rồi cha gặp Thiên Thần Bản Mệnh, nói với cha: “Tôi sẽ dẫn Linh Mục lên Trời. Chúa muốn gặp và nói chuyện với Linh Mục.” Thiên Thần cũng nói rằng, trên đường đi, ngài cũng muốn cho cha thấy Hỏa Ngục và Luyện Ngục nữa.“Trước tiên,Thiên Thần dẫn tôi xuống chứng kiến Hoả Ngục. Đó là một quang cảnh thật ghê sợ. Tôi thấy Satan và các quỷ dữ, thấy những ngọn lửa không hề tắt với sức nóng 2.000 độ Fahrenheit, thấy dòi bọ lúc nhúc, thấy người ta rên la và đánh đập nhau,thấy những người khác đang bị bày quỷ dữ tra tấn hành hạ.” Tôi được nói cho biết trong Địa Ngục có bảy“cấp bậc,” hoặc bảy tầng đau khổ. Những người “phạm hết tội trọng này đến tội trọng khác,” khi sống trên dương thế, phải chịu sức nóng ghê gớm nhất. Thân hình họ trông rất xấu xí và rất ghê rợn như những con quái vật đáng sợ. Thiên Thần cho tôi biết tất cả những đau khổ này là do các tội trọng không hối cải. Tôi được thấy một số người mà tôi quen biết, nhưng tôi không được phép tiết lộ danh tánh. Những tội khiến họ bị trầm luân phần lớn là do phá thai, dâm dục, thù hận, không tha thứ và tội phạm thánh. Thiên Thần nói với tôi rằng, nếu họ sám hối, họ sẽ tránh được Hoả Ngục, mà chỉ phải vào Luyện Ngục thôi. Tôi cũng hiểu rằng, một số người sám hối tội lỗi, có thể được thanh luyện trên trái đất qua những đau khổ họ phải chịu. Bằng cách này, họ có thể tránh được Luyện Ngục và bay thẳng lên Thiên Đàng. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong Hoả Ngục gồm cả Giám mục, Linh Mục, một vài người tôi không thể ngờ. Vì họ đã hướng dẫn lạc đường cho người khác, bởi những lời dạy sai lầm và bởi gương xấu của họ.

Sau đó, Thiên Thần Bản Mệnh dẫn tôi tới thăm Luyện Ngục.  Đau khổ chính của những Linh Hồn này là sự bị chia cắt với Thiên Chúa. Có một số người trong Luyện Ngục đã phạm vô số tội trọng khi còn sống, nhưng họ đã làm hoà với Thiên Chúa trước khi họ chết.  Mặc dù những Linh Hồn này bị đau khổ ghê gớm, nhưng họ vẫn cảm nhận được sự bình an và nhận biết rằng, một ngày kia họ sẽ được phúc nhìn thấy Thiên Chúa. Họ xin tôi cầu nguyện cho họ, và nhờ tôi nói lại với người khác cầu nguyện cho họ nữa. Khi chúng ta cầu nguyện cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục, chúng ta sẽ nhận được sự biết ơn của họ và do đó, họ cũng sẽ cầu nguyện cho chúng ta khi được lên Thiên Đàng.

Tiếp theo, Thiên Thần Bản Mệnh dẫn tôi lên Thiên Đàng, ngang qua một đường hầm với ánh sáng chói lọi. Tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được sự bình an và niềm vui này trong đời. Và rồi đột nhiên, cửa Trời mở ra, và tôi nghe thấy tiếng nhạc du dương nhất mà tôi chưa từng được nghe. Các Thiên Thần đang ca hát, chúc tụng Thiên Chúa. Tôi được nhìn thấy tất cả các thánh, nhất là Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Cả Giuse, và nhiều Giám Mục, Linh Mục thánh thiện, sáng chói như những vì sao. Khi tôi thấy mình ở trước mặt Chúa, Ngài phán với tôi:“Cha muốn con trở lại thế gian. Trong cuộc sống thứ hai của con, con sẽ là dụng cụ bình an và chữa lành cho dân Cha. Con sẽ làm việc ở nước ngoài và sẽ nói ngôn ngữ nước ngoài. Với ơn Cha, mọi sự đều có thể cho con”.  Sau những lời này, Đức Mẹ phán với tôi: “Hãy làm những gì Ngài bảo con (Ga. 2, 5). Mẹ sẽ giúp con trong sứ vụ của con.” Không lời lẽ nào có thể diễn tả được vẻ đẹp đẽ, nét huy hoàng của Thiên Đàng! Nơi đó, chúng ta sẽ được sống đời đời trong bình an và hạnh phúc, vượt xa hàng triệu lần sự tưởng tượng của chúng ta. Thiên Chúa bội phần tốt đẹp hơn bất cứ tưởng tượng nào chúng ta có thể nghĩ tới. Nhan Thánh Người ngời sáng và đẹp đẽ, hơn hàng ngàn mặt trời đang mọc. Các tấm hình đẹp đẽ chúng ta thấy trên dương thế chỉ là bóng mờ của sự lộng lẫy của Người mà thôi.  Mẹ Maria ở bên cạnh Chúa Giêsu. Người rất đẹp đẽ, sáng láng. Thiên Đàng là Nhà Thật của tất cả chúng ta: Tất cả chúng ta được tạo dựng để vào Thiên Đàng và đời đời vui hưởng Thiên Chúa.

Khi người ta di chuyển thi thể của tôi tới nhà xác, Linh Hồn tôi liền nhập vào xác. Tôi cảm thấy rất đau đớn vì nhiều thương tích do các xương bị gẫy. Tôi bắt đầu rên. Các người chung quanh tôi hết sức sợ hãi, hốt hoảng vừa chạy vừa la. Một người trong số họ đến gặp bác sĩ:“Thi thể cha đang rên rỉ!” Bác sĩ vội chạy tới khám nghiệm, liền quả quyết:“Cha vẫn còn sống. Đúng là một phép lạ! Hãy mau chở ngài tới nhà thương…”(Nguồn: FOSS/web Phinomenon)

Trong Tin Mừng Chúa nhật 21 Thường niên hôm nay, Đức Giêsu cảnh báo ngày chung cuộc của mỗi người. Nếu ai chiến đấu quyết liệt vào cửa hẹp, thì sẽ được cứu rỗi. Bằng không, khi cửa đóng sẽ vô phương nài nỉ xin vào trong. Những hình ảnh tuyệt diệu trên Nước Chúa, mà Linh mục Tom Maniyangat thị kiến, càng khẳng định thêm niềm hy vọng của những ai đi theo Chúa đến cùng.

Chiến đấu vào Cửa Hẹp

“Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta.” (Is 66, 18) Ơn cứu độ mang tính phổ quát rộng rãi dành cho mọi người, mọi nơi, mọi dân tộc, không loại trừ bất cứ ai, dù theo tôn giáo nào, khuynh hướng nào, như Lời Chúa phán qua ngôn sứ Isaia. Lòng Thương Xót Thiên Chúa không muốn hư mất bất cứ ai. Đức Giêsu đã công khai khẳng định trước toàn thể công chúng: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” (Mt 18, 14)

Tuy nhiên, ơn cứu độ lại còn mang tính đặc thù, riêng rẽ cá nhân, dành hẳn cho mỗi người. Chính vì thế, Đức Giêsu làm lơ, không trả lời cụ thể câu hỏi huyênh hoang, trâng tráo, ngạo mạn, tự đắc, tự mãn, tự phụ: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Cứ y như bản thân, nhóm mình, phe ta, đã được ghi thẳng vào sổ được cứu rỗi. Thay vì tỏ bất bình, Người thản nhiên, chân tình, vui vẻ, thân thương hướng dẫn, khuyên nhủ, nhắc người hỏi: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.”

Chiến đấu với chính mình, với kẻ nội thù đang ẩn sâu, nấp kín, đang nằm vùng, cài cắm ngay trong thân xác và tâm hồn vị kỷ, là ưu tiên nhất. Vì thế, điều kiện khởi sự theo Chúa chính là từ “bỏ mình.” Thoát ra khỏi ách nô lệ bản năng, tham sân si, lợi lộc, nô lệ tiền tài, vật chất, tiện nghi, nô lệ hào quang danh vọng.“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. (Mc 8, 34)

Chiến đấu với cái tôi, vốn được ảo tưởng là trung tâm vũ trụ, là một cuộc chiến dai dẳng, khốc liệt và trường kỳ. Thường người ta hay lấy quan điểm, cái nhìn chủ quan, cá nhân, hạn hẹp, phiến diện, lệch lạc, méo mó của mình làm tiêu chuẩn, áp đặt cho tha nhân, có khi cho cả Đấng Tạo Hoá. Vậy không chiến thắng nổi chính bản thân, làm chủ bản thân, thì đừng mơ bước vào cánh cửa chật chội, nhỏ hẹp, vì Nước Trời dành cho những ai mạnh mẽ đấu tranh, như Đức Giêsu đã quả quyết:“Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được.” (Mt 11, 12; Lc 16, 16)

Dĩ nhiên, không thể nào chiến thắng cái tôi xác thịt ích kỷ, thế gian mưu ma chước quỷ, với thiên hình vạn trạng, nếu không có hồng ân Chúa trợ lực, qua cầu nguyện và hãm mình chay tịnh. “Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao.” (Ep 6, 12).

Thánh Phaolô đã hoàn toàn phó thác và trông cậy quyền năng Thiên Chúa: “Tôi chiến đấu với sức mạnh của Chúa Kitô vốn tác động mạnh mẽ nơi tôi” (Cl 1, 29). Thánh nhân còn ân cần khuyến khích mọi người, qua thư gửi anh Timôthê: “Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời.” (1Tm 6, 12)

Vơ vét, gom góp, chất đầy lòng tham, ham muốn ngồn ngột, lỉnh kỉnh tiện nghi hưởng thụ, cồng kềnh đam mê, háo danh, háo lợi, thì làm sao có thể vào “cửa hẹp”? Trong khi, Đức Giêsu lại là cửa định mệnh: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.” (Ga 10, 9).

Người đã làm gương, đã thân chinh qua cánh cửa hẹp đó, bằng cuộc tử nạn đau đớn. Rồi sau đó, Người được phục sinh vinh hiển. Vì thế, Người luôn kêu gọi mọi người cố gắng phấn đấu vào được cửa hẹp: “Hãy chọn con đường nhỏ hẹp, vì cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7, 14)

Chiến đấu trước khi cửa đóng

Con đường dẫn đến cửa hẹp cũng được Đức Giêsu tận tình chỉ dạy, hướng dẫn, vì: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14, 6) Con đường từ bỏ mình, vác khổ giá. Con đường hy sinh, hãm mình. Con đường đơn sơ, khiêm nhường, trong sạch, nghèo khó, vâng phục. Con đường tái sanh, hồn nhiên, ngây thơ như em bé, phó thác như con với cha mẹ. Con đường ăn năn, sám hối kiếp đi hoang trở về với Người Cha Nhân Từ.

Nhưng phận người thì mong manh, mỏng dòn, yếu đuối, sớm nở tối tàn lúc nào chẳng hay. Chẳng biết khi nào cánh cửa cuộc đời khép chặt lại. Vậy cố gắng phấn đấu sống giây phút hiện tại tròn đầy bổn phận và trách nhiệm, chính là vâng phục Thánh Ý Chúa, chính là xả kỷ vị tha, sống cho, sống vì, sống với tha nhân, cùng với tình yêu nồng nàn bác ái, dấn thân phục vụ. Đừng như các cô trinh nữ dại khờ gõ cửa, năn nỉ vô vọng: “Thưa ngài, thưa ngài, mở cửa cho chúng tôi với.” Rồi chỉ nghe câu trả lời hết sức phũ phàng: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” (Mt 25, 11-12)

Đừng tự mãn con nhà đạo gốc, tự mãn chăm lễ chầu, kinh nguyện, tự mãn giữ đạo máy móc theo luật định, vì chắc chắn sẽ nghe lời khước từ lạnh lùng: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính.”

Đừng để lúc sắp bước chân vào ngưỡng cửa đời đời, con hối tiếc vì đã đổi “của thiệt” lấy toàn “đồ giả”. (Đường Hy Vọng, số 676)

Lạy Chúa Giêsu, xin luôn thức tỉnh chúng con trong từng phút giây, đừng mê hoặc theo bản năng, thế gian và ma quỷ, mà luôn quyết liệt chiến đấu chống lại mọi cám dỗ của sự dữ, của văn minh sự chết, để có thể vào được cửa hẹp bất cứ khi nào Chúa gọi.

Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu, che chở, giúp đỡ cho chúng khi nay và khi lâm tử, luôn sẵn sàng dọn mình bước vào cửa hẹp, hầu được cứu rỗi. Amen.

HÃY CHIẾN ĐẤU ĐỂ QUA CỬA HẸP ( Lc 13,24 )

Fx Đỗ Công Minh

Nhiều người khi được hỏi tại sao theo đạo Công Giáo? Tại sao lại tin vào Chúa? Họ trả lời thật dễ dàng : Để khi chết được vào nước Thiên đàng. Câu trả lời xem ra đơn giản, dễ dàng. Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca cho thấy Đức Giêsu cảnh báo về điều ấy, khi trả lời một người phỏng vấn Người: ”Thưa Ngài, người được cứu thóat thì ít, có phải không ? “. Chúa không trả lời thẳng là ít hay nhiều, hay tất cả. Chúa bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: Có nhiều kẻ sẽ tìm cách vào mà không thể được “.

Vào Thiên đàng để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu sau cuộc sống trần gian, ai cũng mong được như vậy. Tất nhiên cửa đến không rộng mở để ai cũng thảnh thơi tiến vào. Con đường đạt đến hạnh phúc, như lời Đức Kitô là một con đường đi qua cửa hẹp, không phải vì Chúa hạn chế. Nhưng vì muốn đi con đường ấy thì phải chấp nhận đi vào khuôn khổ. Cũng  vì phải theo một khuôn khổ ,nên cửa vào chỉ vừa đủ cho những người biết chấp nhận chiến đấu mỗi ngày mà vào. Chiến đấu ở đây không phải là chiến đấu chống lại nhau để giành chỗ vào, mà là chiến đấu với chính bản thân mình. Con đường dẫn đến cửa vào đó là con đường nào? Chính là con đường Chúa đã đi qua để đem chính mình Người làm của lễ hiến tế Thiên Chúa Cha trên đồi Can-vê. Con đường thương khó đó dẫn chúng ta đến cửa nước Trời. Cửa hẹp nhưng lần lượt từng người, từng người được Chúa đón tiếp.

Nhiều người khi biết hạnh phúc nước trời Chúa hứa ban thì tìm mọi cách để vào, theo cách nghĩ của mình. Tưởng rằng với  công trạng nào đó nơi trần gian, tự cho mình có nhiều việc  đạo đức nên chắc chắn sẽ được đền bù khi đến trước tòa Chúa. Một số khác thì cho rằng mình đã  từng bao lần tham dự những cuộc lễ lớn trong đạo, đã từng cầu kinh, khấn khứa; dâng cúng lắm của, nhiều tiền. Tham gia những buổi hành hương dài ngày với biết bao tốn phí, trong lúc những người khác không dám làm như họ, hay không làm được như họ. Các vị ấy chắc mẩm Chúa sẽ cho vào qua cửa một cách thong dong, hoặc giả sử, cửa có đóng lại rồi thì khi gõ, Chúa  sẽ ra đón và mời vào.

Nhìn lại mình, con cũng đã từng nghĩ như thế. Con đã từng tự hào là yêu mến Chúa nhiều hơn người khác. Con tham gia nhiều hội đoàn, sẵn sàng có mặt trong các buổi sinh hoạt đạo đức xa gần. Kinh hạt con thuộc, thánh ca con thông thạo, đến chỗ nào con cũng được tiếng là người mộ đạo, sốt sắng, nhưng còn những người khác bên con, con chẳng hề quan tâm đến. Tính mê nết  xấu vẩn tồn tại trong con, con chưa dám rũ bỏ để nhẹ gánh mà đi qua cửa hẹp. Con vẫn chạy theo những  đam mê, ích kỷ cá nhân, vẫn tin Chúa ngòai môi miệng, với những họat động mang tính khoe khoang, hơn người . Xin Chúa giúp con sửa chữa bản thân mình.

 “Lạy Chúa! Con đường nào Chúa đã đi qua, con đường nào Ngài ra pháp trường ?.

 “Lạy Chúa! Xin cho con bước đi theo Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài, thập giá trên đường đời con đi. Lạy Chúa ! Xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con cùng chết với Ngài, đễ được sống với Ngài vinh quang “. AMEN. ( con đường Chúa đi –Văn Chi ).

LỜI CHÚA LÀ CỬA HẸP

P.Trần Đình Phan Tiến

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT XXI TN ( C ) ( Lc 13, 22-30)

Lời Chúa là Cửa Hẹp, sống theo Lời Chúa là đi qua cửa hẹp. Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, vậy “ cửa hẹp” là gì? Thưa, đó là “chiến đấu nội tâm”. Ngày nay , chúng ta thấy , càng mở rộng đường, thì đường càng hẹp. Chúng ta thấy, có con đường rộng nào mà không bị hẹp, nạn kẹt xe cũng không “bỏ qua” những con đường rộng. Đường rộng “thênh thang” theo nhãn quan con mắt trần thế, chưa chắc là ”đường rộng”. Bởi vì, những con đường đi của trần thế vẫn luôn bị chật hẹp. Theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng thì thế gian “cần” đường rộng, đường càng rộng càng tốt. Nhưng, thực tế  những con đường rộng để đi của trần thế, thì không hẳn là những “con đường an toàn “ Thực tế, chúng ta nhìn thấy , những con đường chật hẹp, gồ ghề khó đi, lại là những con đường “ an toàn “ cho người đi từ cổ chí kim là như thế . Theo đó, thế gian luôn cần những con đường rộng, đi trên con đường rộng, nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nhưng, Chúa Giêsu  thì khác với thế gian, Người kêu gọi những ai bước theo Người, thì phải đi trên con đường hẹp, vì đường rộng sẽ dẫn đến diệt vong.

Vâng, từ thực tế nêu trên, Chúa Giêsu, đã đưa một dẫn chứng cụ thể về “ con đường tâm linh”. Con đường tâm linh, phải là ”con đường hẹp ”, có thể nói càng hẹp càng tốt. Con đường hẹp mà Chúa Giêsu nói chính là Lời Tin Mừng được gieo vào mảnh đất tâm hồn chúng ta.. Con đường hẹp của Tin Mừng chỉ đủ “lọt” một người đi. Nó không như con đường rộng thênh thang của thế gian. Vì chính Chúa Giêsu nói : “ Hãy chiến đấu để qua được của hẹp mà vào…” , vì Tôi nói cho anh em biết :  có nhiều kẻ muốn tìm cách  vào mà không được.”(c 24)

Cửa hẹp, đường hẹp thì mặc nhiên khó vào, khó đi, tuy nhiên cũng có nhiều kẻ muốn vào mà không được. Điều nầy có nghĩa là, Nước Trời rộng thêng thang, nhưng “cửa” vào Nước Trời rất khó qua lọt. Đoan Lời Chúa hôm nay cũng có thể nói là đoan Lời Chúa : Quy chế nên thánh. Vì tất cả các thánh đều đi qua cửa hẹp, không có vị thánh nào đi cửa rộng mà vào được.

Tất cả những ai vào được Nước Trời đều là thánh, tuy nhiên, những vị thánh được tuyên phong bởi giáo hội là những vị thánh “xuất sắc”, ưu tuyển . Như, Mẹ Teresa Calcutta, mà ngày 04/09/2016 sắp tới đây, Giáo hội sẽ tuyên phong Mẹ cách công khai Mẹ là “ thánh ”, sau một thời gian là chân phước,. Chân Phước có nghĩa là cái Phúc Thật, theo Lời của Chúa Giêsu, trong tám mối Phúc Thật. Vâng, một tấm gương “Cửa Hẹp”, mà hôm nay , cũng chính nhờ Lời của Chúa Giêsu mà Mẹ đã phấn đấu suốt cuộc đời.

Khởi đi từ bài đọc I ( Is 66, 18 -21) hôm nay, chúng ta thấy đọan ( Is 66, 18 -21) là đoạn cuối của Sách Isaia. Thiên Chúa sẽ quy tụ, sẽ tập hợp mọi dân, mọi nước, tức sự kêu gọi và tuyển chọn ngoài dân Dothai . Vì, dân Dothai luôn ngộ nhận rằng Thiên Chúa sẽ ban cho họ một thiên đường trần gian. Hôm nay, chính Chúa Giêsu nói rõ cho họ biết. “ Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu. Còn những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót ” (c30)

Bài đọc II, ( Dt 12, 5 -7 : 11 -13), thánh Phaolo hôm nay cho chúng ta một ý nghĩa về “cửa hẹp“ đó là sự sửa dạy của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu ai, thì mới sửa dạy kẻ ấy. Như, chúng ta biết Nước Trời là Vương Quốc Tình Yêu. Vì vậy, ai muốn vào Nước Trời, thì phải được Thiên Chúa sửa dạy, chứ không phải ai muốn vào thì vào. Rõ ràng, thế gian là một mớ hỗn độn, tuy nhiên, trong sự hỗn độ ấy, không phải là mất hết trật tự, theo nghĩa đen, nhưng, về nghĩa bóng thì không ai có thể khống chế được. Như vậy, lúc đó chúng ta mới thấy Lời Chúa hôm nay giá trị biết bao.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã giáo huấn cho chúng con một công thức tuyệt vời đó là “ Cửa Hẹp”, vì nếu muốn vào Nước Trời, mà không qua cửa hẹp, thì thật là phí công. Vì cửa hẹp chính là lối đi chắc chắn để vào Nước Trời, vì, Nước Trời chì duy nhất có một đường đi, đó là: “ÉP mình theo Chúa”. Xin cho mọi người nhận ra chân lý nầy hầu đến được bến bờ yêu thương là chính Chúa. Amen.

Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con trong đêm tối, xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con lúc lẽ loi. Amen.

CON ĐƯỜNG HẸP LÀ CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN SỰ SỐNG

By Ns/ĐMHCG 8-16

Chúa nhật 21 thường niên, năm C

IS 66:18-21; Dt 12:5-7, 11-13; Lc 13:22-30

Bài tin mừng Chúa nhật hôm nay (x. Lc 12, 22-30), Chúa Giêsu đưa ra một thách đố cho những ai muốn vào dự bữa tiệc Nước Trời: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì Tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.”  Cửa hẹp sẽ đưa người ta đến bàn tiệc Nước Trời và vì nó hẹp nên muốn được vào phải “chiến đấu.”  Cuộc chiến nào cũng đòi hỏi khổ luyện, kiên trì và hy sinh.  Đây là những thử thách gian lao, và người ta phải nỗ lực luôn mãi bằng tất cả nghị lực của mình thì mới có thể thành công.

Trong phòng tiệc ấy không có miễn trừ, ưu đãi cho bất cứ ai.  Tuy nhiên có những người tưởng mình được ưu đãi nên đã thưa lên: “Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào… vì chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.”  Họ vịn cơ quen thân với Chủ tiệc, bạn bè từng đồng bàn với Người, biết đến những lời giáo huấn của Người.  Nhưng những lý do ấy không đủ mạnh để họ được mời vào.

Ông chủ đáp lại với nhóm người này bằng câu hết sức dứt khoát: “Ta không biết các anh từ đâu đến.  Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!”  Bàn tiệc thiên quốc, hay Nước Thiên Chúa chỉ dành cho những người công chính.  Không cần phân biệt là Do Thái hay Hy Lạp nô lệ hay tự do miễn sao đã từng “chiến đấu,” vượt qua được những thử thách gian lao và đã được “tẩy sạch mình trong máu Con Chiên” sẽ xứng đáng lãnh nhận vòng hoa dành cho người chiến thắng.

Như thế, bài Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta về con đường hẹp mới là con đường dẫn đến sự sống.  Còn con đường thênh thang, dễ dàng, thỏa hiệp là con đường dẫn đến diệt vong.  Muốn có được sự sống đời đời, con người phải nỗ lực chiến đấu bằng những sự hy sinh từ bỏ, thậm chí là cái chết đời này để đổi lấy sự sống đời đời.  Trong cuộc chiến đấu ấy, thánh Phaolô đã ví mình như một vận động viên chạy đua.  Phải dày công tập luyện và chiến đấu với những cám dỗ… Vòng hoa chiến thắng chỉ được trao cho những ai đạt được thành tích xuất sắc sau những vất vả mà thôi.

Thật vậy, con đường theo Chúa của mỗi người chúng ta sẽ gặp đầy thử thách chông gai.  Con đường đó là con đường hẹp.  Con đường lên đỉnh đồi Golgotha.  Con đường của thập giá.  Nhưng nếu muốn được hạnh phúc thật không còn con đường nào khác, chỉ có con đường duy nhất là bước theo Thầy Giêsu.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy trung thành theo Chúa trên con đường thập giá.  Con đường của yêu thương, phục vụ. Con đường đi ra đến với những người ốm đau, bệnh tật, những người ngheò… để băng bó chữa lành, để xoa dịu cảm thông và để công bố một năm Hồng Ân của Chúa.  Đó là con đường của lòng thương xót mà Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa mời gọi.  Đó là con đường hy sinh mang lấy thập giá mỗi ngày.  Đó là con đường của tự hủy, từ bỏ chính mình để xây dựng hạnh phúc cho tha nhân.  Tất cả đó là con đường hẹp!

Con đường hẹp sẽ chẳng mấy ai muốn đi.  Tuy nhiên, nếu chúng ta trung thành đi trên đó với tình yêu và bằng những hành động cụ thể của lòng thương xót, chúng ta sẽ đạt được sự sống đời đời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con can đảm đi theo Chúa trên con đường hẹp mỗi ngày, con đường đưa con đến sự sống đời đời.  Amen.

HÃY VÀO CỬA CỦA SỰ SỐNG

Jos. Vinc. Ngọc Biển

CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN, C

(Is 66,18-21; Dt 12,5-7.11-13; Lc 13,22-30)

Thiên Chúa là Cha yêu thương hết mọi người, vì thế, Người không loại trừ ai. Khi đến trong trần gian, Đức Giêsu đã thi hành sứ mạng ấy và không ngừng loan báo về lòng thương xót của Thiên Chúa cho mọi người. Nhưng, sứ mạng này đã không làm cho người Dothái hài lòng, bởi lẽ họ luôn nghĩ chỉ mình dân tộc Israel mới được Thiên Chúa thương và cứu chuộc, còn các dân tộc khác chỉ là dân ngoại.

Chính vì lý do này, mà hôm nay, một người đã đứng lên hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, những người được cứu thoát thì ít, phải không Thầy”?

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không trả lời cho biết số lượng và thành phần được cứu, mà nhân cơ hội này, Ngài đã vạch ra cho họ một con đường để được cứu chuộc, đó là: “Hãy chiến đấu qua cửa hẹp mà vào” (Lc 13,24).

 

1-Bối cảnh tạo nên lời giáo huấn

Thánh sử Luca trình thuật cho chúng ta thấy câu chuyện được đặt vào giai đoạn Đức Giêsu tiến về thành Giêrusalem nhân dịp lễ Cung hiến Đền thờ.

Trên hành trình này, Đức Giêsu đã rảo qua các làng mạc, thị trấn để giảng dạy cho dân chúng. Ngài dạy họ phải sám hối, cầu nguyện và từ bỏ những thứ trái ngược với đức tin và đạo lý Tin Mừng để được cứu chuộc.

Khi nghe Đức Giêsu giảng, có một người đã cất tiếng hỏi Ngài: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít được cứu rỗi?” (Lc 13, 23).

Câu hỏi này mang tính tập thể, bởi vì nó được khởi đi từ quan niệm độc tôn chủng tộc của người Dothái. Bởi vì người Dothái luôn nghĩ rằng: chỉ có những người thuộc dòng dõi con cháu Apraham, và phải ở trên phần đất mà cha ông truyền lại, hay ít ra là phải nói tiếng Dothái, vì đây là Tiếng Thánh, rồi phải sớm tối đọc kinh Shema thì mới được cứu độ.

Khi quan niệm như thế, họ đã loại bỏ hết những thành phần của các dân tộc khác và không chấp nhận lời rao giảng của Đức Giêsu về ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc.

Thừa hiểu được tâm trạng tự kiêu, tự đại, độc tôn, đặc lợi mà những người Dothái tự nhận cho mình, Đức Giêsu đã dạy cho họ một bài học.

Tuy nhiên, Ngài đã không trực tiếp trả lời câu hỏi được đưa ra. Bởi lẽ Đức Giêsu đến không phải để thỏa mãn tính tò mò của con người. Vì thế, Ngài từ chối trả lời các câu hỏi phụ thuộc.

Thật vậy, nếu trả lời là: “Chỉ có một số ít được vào”, thì phải chăng lại khơi lên tính tự mãn nơi dân tộc vốn có cái nhìn ích kỷ và hẹp hòi này, và lẽ đương nhiên, họ không cần cố gắng nữa vì nghĩ rằng: số ít ấy chính là dân tộc Dothái. Còn nếu Đức Giêus nói là: “Số người được cứu sẽ rất đông”, thì cũng sẽ làm cho mọi người thờ ơ, ỷ lại và cũng không cần cố gắng làm chi, vì đàng nào thì ơn cứu chuộc cũng sẽ đến với mình.

Chính vì lý do trên, mà Đức Giêsu đã không trả lời theo số lượng, nhưng Ngài nhắm tới phẩm chất. Bởi vì: ơn cứu chuộc là của Thiên Chúa, và Ngài ban cho hết mọi người, moi nơi và mọi thời, miễn sao những người muốn được cứu phải đi theo con đường của Thiên Chúa.

Chính thánh Phaolô cũng đã xác quyết rằng: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu độ” (1Tm 2,4). Và Đức Giêsu thì nói: “Cha các con Đấng ngự trên trời, không hề có ý để hư đi một người nào trong những kẻ bé mọn này” (Mt 18,14).

Nói như thế, không có nghĩa là cứ muốn vào là được, hay cứ ngồi lỳ và ỷ nại vào ơn Chúa, lại càng không phải cậy dựa vào uy thế của bản thân, hay dân tộc… Điều này cũng được Gioan Tẩy Giả nhắc nhở những người Pharisêu và Sađucêu: “Đừng ỷ mình là con cháu tổ phụAbraham…” (Mt 3,7t).

Vì thế, muốn được cứu, phải chiến đấu để mà vào. Không cố gắng sẽ chẳng được vào, vì con đường đưa tới ơn cứu chuộc là con đường hẹp.

 

2-Muốn vào được Nước Trời, phải đi qua cửa hẹp

Khi nói đến vấn đề cửa hẹp, chúng ta cần hiểu biết thêm rằng:

Ở đất nước Dothái thời Đức Giêsu, dân chúng sống trong các thành phố và làng mạc được bao bọc bởi những bức tường thành. Thời đó không có đèn điện. Vì thế, khi trời tối, các cổng dẫn vào thành phải được đóng cẩn thận và các cửa vào nhà cũng được đóng kín để tránh nguy cơ trộm cướp ban đêm.

Chính vì thế, mà những người đi ra khỏi thành, nếu về trễ thì không thể vào được cổng chính, vì các cổng chính đã đóng chặt và không ai dám mở cửa cho vì sợ kẻ thù tấn công…

Họ chỉ có thể lách vào các cổng phụ, còn gọi là cửa hẹp. Người Dothái cũng gọi cửa này là: “Mắt của cái kim”. Vì thế, chúng ta mới hiểu tại sao thánh sử Luca có nhắc đến ở chương 18, câu 25: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”. “Lỗ kim” ở đây chính là “cửa hẹp”. Thời đó người đi buôn thường chất đầy hành lý trên lưng lạc đà, muốn qua cửa hẹp thì phải vứt bỏ hết tất cả, và con lạc đà phải khom mình, quỳ gối thì mới mong lọt qua cửa này.

Khi Đức Giêsu lên tiếng mời gọi bước qua cửa hẹp, ấy là Ngài muốn mời gọi người đương thời phải từ bỏ những thứ không cần thiết và sẵn lòng bước qua cửa hẹp. Lời mời gọi ấy chính là biết sống chừng mực, thực thi huấn lệnh của Thiên Chúa cách trung thành và biết hy sinh cũng như chấp nhận mọi khó khăn… phải sống tự chủ và sống có trách nhiệm.

Tuy nhiên, không phải dửng dưng và nghĩ rằng: muốn vào lúc nào thì vào, không! Phải bước vào đúng lúc, đúng nơi, đúng giờ, vì: “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại(Lc 13,25).

Như vậy, lời mời gọi phấn đấu để vào qua cửa hẹp, ấy chính là sự hoãn cải thường xuyên.

Dựa theo tư tưởng của thánh Phaolô, chúng ta có thể hiểu “qua cửa hẹp” là phải chiến đấu, cuộc chiến đấu cho đến cùng đường, phải đi vào con đường hẹp của Thập giá, phải can đảm chống lại sự lôi cuốn của ba thù, không thỏa hiệp, không nhân nhượng với chúng.

 

3-Sứ điệp Lời Chúa

Con người thời nay thường chịu ảnh hưởng bởi nền văn minh hưởng thụ. Họ có khuynh hướng ăn sổi ở thì, chụp giật chớp nhoáng…

Lựa chọn này không chỉ dừng lại ở ngoài xã hội, nhưng nó còn ảnh hưởng và chi phối ngay cả đến đời sống đạo của nhiều người tín hữu. Vì thế, dù có đạo hay không có đạo, dù là Công Giáo hay tôn giáo khác, người ta thường chọn cho mình một sự thoải mái dễ chịu, không muốn gò bó.

Chẳng hạn như: theo đạo nhưng không muốn thực thi Lời Chúa, vì Lời Chúa làm ta phải dẹp bỏ nhiều thứ không phù hợp. Đi lễ phải lựa chọn cha. Cha nào giảng ngắn, giảng hay thì đi… Ít khi đi sớm, đến cận kề giờ lễ mới tới. Đến rồi thì viện đủ mọi lý do để ở ngoài theo kiểu đi lễ “ôm” và đi lễ “lòng vòng”. Lại có người thích giữ đạo theo kiểu “gốc cây”. Họ cũng chọn nhà thờ, nào là nhà thờ đẹp, rộng thoáng mát, và có ghế nệm êm, máy lạnh…

Khi tham dự thánh lễ, nếu cha giảng những giáo huấn của Giáo Hội mà đụng chạm đến cuộc sống của ta là khùng lên và tỏ vẻ khó chịu…

Lại có những người thường ưa nói hành, nói xấu người khác hơn là nhận ra và đón nhận điều tốt nơi anh chị em. Hay vẫn còn những người dùng tiền của công khó của cha mẹ, bản thân hay của người khác vào những chuyện bất chính… Rồi cũng không thiếu những bạn trẻ lao mình vào rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút chích…

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cố gắng “đi qua cửa hẹp”, tức là phải từ bỏ những thứ không cần thiết và hãy cố gắng để  thay đổi cách sống cho phù hợp với đạo lý Tin Mừng. hãy biết cẩn trọng trong việc lựa chọn, bởi vì, cửa hẹp sẽ đẫn đến sự sống, còn cửa rộng và lối thênh thang như tiền của, sắc dục, và sự dễ dãi sẽ dẫn đến cái chết trầm luân muôn kiếp. Mặt khác, Lời Chúa còn nhắc cho chúng ta biết vào đúng lúc, đúng giờ, bởi vì: hãy sám hối khi ta còn có thể và có cơ hội, kẻo lỡ quá muộn, chúng ta sẽ không còn cơ hội nữa, lúc đó không ai cho vào và như một lẽ tất yếu, chúng ta sẽ bị quăng vào nơi khóc lóc và nghiến răng.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đi trên con đường của Chúa đã đi, đó là con đường hẹp. Xin cho chúng con luôn biết khước từ những con đường thênh thang rộng rãi, vì con đường này sẽ dẫn đến diệt vong. Amen.

 

SUY NIỆM CÁC NGÀY TRONG TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN

Jos. Vinc. Ngọc Biển

 

 

THỨ HAI

LỜI RAO GIẢNG PHẢI ĐI ĐÔI VỚI HÀNH ĐỘNG

 (Mt 23, 13-22)

Mahatma Gandhi là anh hùng dân tộc Ấn Độ, ông đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người dân.

Lúc còn là sinh viên, ông say mê đọc Kinh Thánh và có ý định gia nhập đạo Công Giáo vì ông thấy giáo lý của Đức Giêsu về “đạo yêu thương” quá tuyệt vời! Nhưng vào một lần, ông đi đến nhà thờ của người da trắng để dự lễ, ngay lập tức, ông bị ngăn lại và được mời đến nhà thờ của người da đen, vì nơi đây không phải là nhà thờ của người da đen. Mahatma Gandhi ra về trong thất vọng. Kể từ đó, ông không bao giờ đến nhà thờ và quyết liệt từ bỏ ý định trở thành người Công Giáo vì hành động phản yêu thương của những người da trắng.

Thật vậy, trong xã hội ngày nay, vẫn còn đó những hình ảnh, cử chỉ của người Công Giáo như những người da trắng trong câu chuyện trên. Họ là những người giả hình “hạng ưu”!

Tại sao vậy? Thưa! Ấy là lúc chúng ta nói những lời tốt đẹp, khuyên người ta ăn ngay ở lành. Nào là: phải bao dung, tha thứ; phải nâng đỡ những cô nhi quả phụ; phải đứng về phía người nghèo; phải khước từ bóc lột, áp bức… Những lời khuyên như vậy rất “kêu”, rất “trội” và rất “thánh”…

Tuy nhiên, khi chính bản thân phải đối diện thì hẳn chúng ta lại là những người “sụt hố” đầu tiên chỉ vì một điều đơn giản là: “Nói mà không làm. Hăng say chất những gánh nặng lên vai người khác, nhưng chính mình thì lại không buồn động ngón tay vào”. Tệ hơn nữa lại tìm cơ hội để trả thù nhân danh đạo đức, lề luật…!

Những lúc như thế, chúng ta đâu có khác gì những Kinh Sư và Pharisêu mà trong bài Tin Mừng hôm nay đã bị Đức Giêsu vạch trần tội ác của họ?

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở nên chứng nhân cho Chúa qua hành động tốt của mình. Nói cách khác, muốn dạy người khác điều gì, chính chúng ta phải là những người đã sống và cảm nghiệm trước khi khuyên bảo người khác. Làm tất cả vì vinh danh Chúa, chứ không phải lấy Chúa làm “bình phong” để “tô son chát phấn” nhằm đề cao danh dự, tiếng tăm cho bản thân mình.

Có thế, chúng ta mới là người mang trong mình và giới thiệu một vị Thiên Chúa là Cha yêu thương. Một Vị Thiên Chúa được hiện tại hóa qua đời sống chứng nhân và lời rao giảng cũng như cảm nghiệm của chính chúng ta. Nếu không thì mọi việc chúng ta làm chỉ là hành vi của kẻ “phá hoại” sứ điệp “yêu thương” của Thiên Chúa mà thôi. Và nguy hiểm hơn nữa là “mù dắt mù cả hai cùng xuống hố”. Tyu nhiên, để làm được điều đó không phải là chuyện dễ dàng. Vì thế, rất cần lời cầu nguyện và ơn Chúa trợ giúp.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trở nên những người loan báo Lời Chúa bằng chính đời sống của mình. Amen.

 

THỨ BA

HÃY HỒI TÂM VÀ HOÁN CẢI

(Mt 23, 23-26)

Trong tình huynh đệ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có buổi gặp gỡ các đức giám mục Hàn Quốc vào chiều ngày 14-8-2014 nhân dịp ngài thăm đất nước này. Trong bài phát biểu, ngài đã nói:

“Anh em là con cháu của các vị tử đạo, là những người thừa kế chứng tá đức tin anh dũng của các vị nơi Chúa Kitô [… ]. Thật là điều đầy ý nghĩa sự kiện lịch sử Giáo Hội tại Hàn Quốc được khởi đầu với một cuộc gặp gỡ trực tiếp với Lời Chúa. Đó là một vẻ đẹp nội tại và sự toàn vẹn của sứ điệp Kitô, Tin Mừng và lời mời gọi hoán cải, canh tân nội tâm và sống đời bác ái”.

Khi gợi lại gương sáng chứng nhân anh dũng của các thánh tử đạo và mời gọi Giáo Hội tại Hàn Quốc noi gương các ngài để tiếp bước trên con đường chứng nhân, hẳn Đức Thánh Cha cũng muốn tất cả mọi người noi gương đời sống yêu thương, tin tưởng và cậy trông nơi Chúa tuyệt đối như các thánh. Đồng thời, ngài cũng mời gọi mọi người hãy hồi tâm, hoãn cải nếu chưa sống theo tinh thần Tin Mừng.

Thật vậy, hồn người tông đồ sẽ trống rỗng khi khái niệm hồi tâm không thường trực trong con người của mình.

Cũng vậy, chúng ta sẽ trở nên hình thức, hào nhoáng bên ngoài nếu không có những khoảnh khắc hoãn cải để canh tân đời sống nội tâm.

Và, mọi chuyện trở nên “công dã tràng” khi không gieo vào đó hạt mầm bác ái, yêu thương qua lời nói, trong hành động và nơi phụng vụ.

Sư điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy làm một cuộc “thanh tẩy nội tâm”. Tức là trở về với lòng mình để đối diện với Thiên Chúa, hầu thấy được điều nên làm và điều không nên làm. Điều đúng phát huy. Điều sai phải từ bỏ.

Nếu không “thanh tẩy nội tâm”, có lẽ chúng ta không khác gì những Kinh Sư và Pharisêu khi xưa: họ luôn quan tâm đến bề ngoài mà bên trong thì rỗng tuếch. Họ lo rửa chén đĩa bên ngoài, nhưng bên trong tâm hồn thì toàm là “hôi thối, xấu xa” bởi những tham lam, ích kỷ và hận thù. Họ nói yêu thương, nhưng thực ra họ là những người phản lại sứ điệp “yêu thương” khi bất bao dung, vô cảm với người nghèo, bà góa và những người thấp cổ bé họng.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được trở nên chứng nhân của Chúa cách trung thành. Có thế, chúng con mới thực sự xứng đáng trở thành người loan truyền sứ điệp của Chúa cho anh chị em chúng con. Amen.

 

THỨ TƯ

ĐỪNG GIẢ DỐI

 (Mt 23, 27-32)

Tại các khu đô thị lớn, chúng ta vẫn thấy có những nghĩa trang nằm ngay tại những trung tâm của các thành phố. Những nhà hữu trách đã tìm mọi cách, dù tốn công, tốn của để quy hoạch và biến nó thành công viên nghĩa trang, trông rất tráng lệ!

Những mồ mả ở đây được thiết kế nhiều mẫu khác nhau, trông thật bắt mắt. Đến nỗi người dân trung quanh có thể vào đó để đi dạo.

Việc làm đẹp những ngôi mộ cho người quá cố quả là điều đáng trân quý. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây chính là: bên trong các ngôi mộ đó, dù là của người nghèo hay giàu; có chức quyền hay là thường dân; trẻ em hay người già, tất cả đều chỉ là một nắm xương ghê rợn mà thôi!

Hôm nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu khiển trách những người Pharisêu: họ như những mồ mả tô vôi, bên ngoài trông rất đẹp mắt, nhưng bên trong thì toàn xương người chết thối tha, nhơ nhớp. Qua đó, Ngài tố cáo họ vì lối sống giả hình.

Bởi vì, họ tự cho mình là công chính; là “con cưng” của Thiên Chúa. Thật tội nghiệp khi họ cứ cố gắng tô trát cái vỏ bên ngoài để che dấu tâm địa xấu xa bên trong! Tuy nhiên, càng che đậy, họ càng bị Ðức Giêsu phát hiện và lên án gắt gao.

Trong đời sống đạo hiện nay, cũng có nhiều khi chúng ta tìm mọi cách để che đậy những chuyện xấu xa, khuyết điểm, lỗi lầm để tự cho mình là người đạo đức hơn người. Điều khó hiểu là chúng ta an tâm để sẵn sàng lên án kẻ khác vì những thiếu xót của họ mà không hề suy nghĩ hay áy náy gì đến lỗi lầm của mình! Hơn nữa, nhiều khi quá giỏi che đậy, nên không ai biết đến những khuyết điểm của mình, vì vậy, chúng ta lại an tâm và “bình chân như vại” để tiếp tục lún sâu vào con đường tội lỗi tiếp theo.

Nhưng xin nhớ rằng: chúng ta có thể che giấu bằng những biện pháp tinh vi, xảo quyệt để che mắt người đời, nhưng với Chúa, Ngài biết hết và biết rõ ràng từng lỗi lầm của chúng ta.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống thật tâm với lòng mình. Không được sống giả hình nhân đức. Cũng không được nhân danh đạo đức để trà đạp anh em và tìm mọi cách để vươn mình lên nhằm đạt được mục đích “rẻ tiền” như quyền, tiền, tình…

Nếu chúng ta không lo sám hối thì sẽ rơi vào tình trạng trên, khi ấy, hẳn chúng ta không khác gì những người Kinh Sư và Pharisêu khi xưa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở về với đời sống nội tâm thực sự, để chúng con nhận ra mình chẳng là gì, nhưng Chúa là tất cả. Nhận ra mình thấp hèn, cần phải khiêm tốn để được đón nhận hồng ân cứu độ của Chúa. Amen.

 

THỨ NĂM

HÃY TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG

 (Mt 24, 42-51)

Xem lại CN 1 MV A,

thứ Tư tuần 29 TN.

Trong xã hội hôm nay, tình trạng trộm cắp diễn ra nhan nhản. Kẻ trộm lấy cắp ban ngày, ban đêm, buổi sáng, buổi tối. Chúng lấy của người ngoài, người giàu, người nghèo và đôi khi nó lấy luôn của người thân.

Như vậy, tình trạng trộm cắp diễn ra thường xuyên, nhanh nhạy và nhiều thủ đoạn, nên khó mà lường trước được!

Hôm nay, Đức Giêsu ví giờ Chúa gọi mỗi người chúng ta chẳng khác gì kẻ trộm. Thiên Chúa không giống như kẻ trộm, nhưng Ngài đến gõ cửa và mời gọi chúng ta ra khỏi thế giới này rất bất ngờ, nhanh nhạy và sắc bén như kẻ trộm. Vì thế, phải tỉnh thức.

Tỉnh thức là người luôn sống trong ân sủng của Chúa. Luôn sẵn sàng đón chờ Chúa đến bất cứ lúc nào…;

Tỉnh thức là luôn biết hồi tâm để nhận ra cái sai cần sửa, để ngày càng đẹp lòng Chúa hơn;

Tỉnh thức là luôn biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống;

Tỉnh thức là người luôn cầm đèn sáng trên tay với đầy đủ dầu, để khi Chúa đến, họ sẵn sàng ra đi đón Ngài.

Ngược lại với người tỉnh thức là những kẻ ngủ mê.

Vì ngủ mê nên nghĩ đời mình vẫn còn dài, chưa vội dừng cuộc chơi, phí đời trai trẻ;

Ngủ mê là những người không nhận ra tội của mình mà sửa sai;

Ngủ mê là những người luôn kết án kẻ khác, trong khi bản thân mình lại dung túng cho những sự xấu xa lên ngôi.

Và khi giờ đã đến, “Ông Chủ” hiện diện, người tỉnh thức thì hân hoan ra đón, còn kẻ lơ là thì nghĩ chủ chưa về, nên: “Đánh đập các bạn đầy tớ, lại còn chè chén với lũ say sưa”. Tuy nhiên, bất chợt, chủ trở về vào đúng: “… ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết”. Nên ông chủ sẽ cho nó “…chung số phận với những kẻ giả hình: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng”.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tỉnh thức với những nhân đức và sẵn sàng đón chờ Chúa đến với chúng con trong niềm tin và hy vọng. Amen.

 

THỨ SÁU

SẴN SÀNG ĐÓN ĐỢI CHÚA

(Mt 25, 1 -13)

Xem lại CN 32 TN.

Là con người, ai cũng phải chết, đây là quy luật sinh tử của kiếp người. Tuy nhiên, không ai trên trần gian này biết trước giờ chết của mình. Ý thức được như vậy, chúng ta sẽ dễ hiểu bài Tin Mừng hôm nay khi Đức Giêsu kể dụ ngôn: “Mười trinh nữ”.

Toàn cảnh dụ ngôn là câu chuyện tiệc cưới. Tuy nhiên, ngang qua đó, Đức Giêsu muốn nói đến cuộc giáng lâm lần thứ hai của Ngài trong ngày cánh chung.

Vị hôn phu chính là Đức Kitô. Mười cô trinh nữ tượng trưng cho Giáo Hội. Hành vi ra đón chàng rể là hình ảnh ngày chết của mỗi người.

Chàng rể chậm trễ một phần muốn nói lên sự bất ngờ, phần khác muốn nói đến sự kiên trung, nhẫn nại và sẵn sàng mà mỗi người cần có…

Đèn còn dầu và hết dầu nơi các cô trinh nữ nói lên sự sẵn sàng, tỉnh thức, hối cải, nhạy bén hay không!

Được đưa vào phòng tiệc là hình ảnh được cứu độ.

Cửa đóng lại muốn nói lên sự quyết liệt, dứt khoát trong ngày chung thẩm.

Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn dạy cho người đương thời và mỗi người chúng ta bài học về tinh thần trách nhiệm trong đức tin và tự do. Đồng thời, nhắc cho chúng ta về sự tỉnh thức, sẵn sàng để đón đợi Chúa bằng những việc bác ái, hy sinh, tha thứ, yêu thương… như năm cô khôn có dầu dự trữ mang theo. Không ai trên trần gian này có hai cuộc sống cũng như hai cái chết! Vì thế, phải sẵn sàng.

Mong sao sứ điệp Lời Chúa hôm nay làm cho mỗi người chúng ta suy nghĩ đến cái chết của mình để chuẩn bị cho xứng đáng. Bởi vì biết suy nghĩ đến cái chết hằng ngày là người khôn ngoan.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết kiên trì, trung thành và bền đỗ đến cùng trên hành trình tin và theo Chúa. Xin cho chúng con biết chuẩn bị chu đáo cho ngày chết của mình, để Chúa đến với chúng con bất cứ lúc nào, chúng con sẵn sàng ra đi đón Chúa. Amen.

 

THỨ BẨY

HÃY SINH LỜI THÊM

(Mt 25, 14-30)

Xem lại CN 38 TN A.

thứ Tư tuần 33 TN.

Ngày chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được thuộc về Chúa, trở thành công dân Nước Trời. Khi trở thành con cái trong nhà, chúng ta được Thiên Chúa tin tưởng và trao cho chúng ta trách nhiệm làm ngôn sứ cho Ngài. Đây chính là nén bạc Thiên Chúa ban cho chúng ta.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã mượn hình ảnh của người làm kinh tế để nói về việc sinh lời nén bạc tinh thần. Nếu ông chủ trao cho đầy tớ những nén bạc và nhủ hãy đi sinh lời thêm, thì Thiên Chúa cũng vậy. Ngài trao ban cho chúng ta những nén bạc là Lời Chúa, là những “ơn ban…” và không ngừng mời gọi chúng ta sinh lời ra nhiều, để làm vinh danh Chúa và giúp ích cho anh chị em chung quanh mình nhiều hơn.

Thật vậy, mỗi người đều được Chúa trao cho những nén bạc khác nhau tùy vào khả năng. Điều quan trọng là chúng ta có biết sử dụng nó cho đúng mục đích cách trung tín và khôn ngoan hay không mà thôi.

Người khôn ngoan là người biết đón nhận thánh ý Chúa và mau mắn thi hành. Người quản lý trung tín là người biết nhận ra sự hiện diện của Chúa trong từng biến cố vui buồn của cuộc sống. Biết đón nhận đau khổ và sẵn sàng hy sinh vì mối lợi đời sau. Biết nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi tha nhân, nhất là những người nghèo khổ đói khát…

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự đặt mình trước mặt Chúa để cật vấn mình rằng: Chúa đã đầu tư cho tôi những nén bạc như sức khỏe, tài năng và nhiều ơn ban khác…, nhưng tôi có thực sự sinh lời ra thêm bằng việc tạ ơn Chúa, sẵn sàng giúp đỡ anh chị em mình và có biết dâng những hy sinh đau khổ, thất bại trong cuộc đời lên Chúa để xin Chúa thánh hóa, hầu sinh ích cho mình và tha nhân hay không?

Nói chung, tôi đã dùng của cải tài năng và ân huệ Chúa ban như thế nào? Tôi có tích cực phát triển “vốn đầu tư” mà Chúa đã trao cho tôi không? Hay tôi lo chôn giấu cho thật kỹ trong sự ích kỷ, kiêu ngạo, bất nhân và hận thù?

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tạ ơn Chúa vì những ơn lành Chúa ban, đồng thời, xin cũng cho chúng con biết sinh lời những nén bạc đó bằng những nhân đức trong đời sống hằng ngày. Amen.

 

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*