Trước hết, thế nào là Ðồng Cứu Chuộc theo định nghĩa của giáo hội? Ðức Trinh Nữ Maria hợp tác (co-operates) với Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại. Ðiều này kết hợp bởi các yếu tố: Ðức Mẹ đã trở nên Mẹ của Ðấng Cứu Thế, và nhất là qua tình thương và việc cùng chịu đau khổ với Chúa Giêsu trên đồi Canvê (Calvary.)

Ðó là lời giải thích của các nhà thần học đương thời, nhưng từ thời các Thánh Phụ (những thế hệ lãnh đạo sau các thánh Tông Ðồ), các ngài đã thấy không cần phải tách rời Sự Cứu Chuộc khỏi Cuộc Nhập Thể,vì trong nhập thể đã bao gồm cả sự cứu chuộc rồi. Mãi đến những thế hệ thánh phụ và thần học gia sau này (khoảng thời thánh Irenaeus, thế kỷ thứ II) vấn đề mới lại được đặt ra, cộng thêm những tương quan với Ðức Maria, và còn tiếp tục cho đến nay.

Thánh Ireneaeus trình bày tư tưởng Ðức Maria là nguyên nhân của sự cứu chuộc cho chính Mẹ và cho cả nhân loại. Thánh Ambrose đã nhìn thấy tương quan giữa Nhập Thể và Cứu Chuộc. Chính ngài và có lẽ cả thánh Jerome nữa đã không muốn nghiên cứu sâu hơn về việc Hồn Xác Lên Trời. Thánh Augustinô đã không tiếp tục lý thuyết Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Nhưng sự can thiệp của Ðức Mẹ đối với giáo hội trần thế ngày càng sáng tỏ và được công nhận. Ðiều này đã đưa đến việc phải nghiên cứu sự tham gia của Mẹ vào công cuộc cứu rỗi của Chúa Giêsu, đặc biệt trong khung cảnh của đồi Canvê. Một môn đệ của thánh Bernard, Arnold thành Bonneval, đã nghiên cứu về hiệu qủa của sự cứu rỗi và sự tham dự của Ðức Mẹ.

Tư tưởng về một sự hợp tác (partnership, consortium) giữa chúa Giêsu và Ðức Mẹ đã được nói đến từ thế kỷ XIII. Ông Richard thành St. Laurent và có lẽ cả thánh Bonaventure đã dùng chữ Coadjutrix để gọi Ðức Mẹ là Ðấng Trợ Giúp (Helper).

Từ thế kỷ XVII và đặc biệt là từ sau Ðệ Nhị Thế Chiến đến Công Ðồng Vatican II, người ta đã thường nhắc đến chữ Ðồng Cứu Chuộc (Coredemptrix). Ðây cũng là chủ đề của đại hội Thánh Mẫu ở Pháp năm 1947, và đại hội Thánh Mẫu Quốc Tế ở Roma năm 1950. Nhưng ÐGH Piô XII đã không chấp thuận chữ Coredemptrix, thay vào đó, ngài đã dùng chữ Phụ Tá của Ðấng Cứu Thế (Associate of the Redeemer).

Ở Công Ðồng Vatican II, các Nghị Phụ đã nhắc đến chữ hợp tác (consortium), 36 Nghị Phụ đã xin Công Ðồng công bố Ðức Mẹ Ðồng Cứu Chuộc thành tín điều, nhưng Công Ðồng đã chỉ dùng chữ “Nữ tì của Chúa” (the Handmaid of the Lord) để nói đến Ðức Mẹ. Ðồng thời các danh xưng khác đã được Công Ðồng chấp thuận như Ðấng Bào Chữa (hay Trạng Sư, Bầu Cử, Cầu Bầu – Advocate); Ðấng Trợ Giúp (Helper, Adjutrix); Ðấng Hộ Trì (Auxiliatrix); và Ðấng Trung Gian (Mediatrix). Những danh xưng trên đã được Công Ðồng xác định cách rõ ràng trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội “Ánh Sáng Muôn Dân” (Lumen Gentium), khoản 62.

Những giáo huấn của các ÐGH thời cận đại đã quan tâm về “phong trào” này:

“Ðức Chúa Cha ban truyền rằng Chúa Giêsu là nhân vật chính trong sự cứu rỗi, với Ðức Maria như người Phụ Tá.” (Tông Huấn Ad caeli reginam, 11/10/1954, của ÐGH Piô XII). Cùng với Chúa Giêsu, Ðức Mẹ đạp dập đầu con rắn (sách Sáng Thế 3:15) tại cuộc Nhập Thể, Ngôi Lời nhận Xác Thể qua Ðức Maria, và nhất là ở Cuộc Thương Khó (Passion), khi Chúa Giêsu chịu chết cho loài người, Ðức Maria đã cùng chịu đau khổ với Ngài bởi một sự “hợp nhất của lòng muốn và sự đau khổ.” (Tông Huấn Ad diem illum, 3/2/1904, của thánh Giáo Hoàng Piô X). Chỉ một mình Ðức Kitô, Chúa và Người, là Ðấng Cứu Thế trong một ý nghĩa đầy đủ, hoàn hảo và tuyệt đối của danh từ. Nhưng Ðức Chúa Cha đã chuẩn bị Ðức Maria cho ơn sủng và chức năng Ðồng Cứu Chuộc qua sự Vô Nhiễm Nguyên Tội và thiên chức Mẹ Thánh của Mẹ.

Sự Ðồng Cứu Chuộc độc đáo của Ðức Mẹ thấp hơn sự Cứu Chuộc của Chúa Kitô trong phẩm cách và quan phòng, chỉ phù hợp với Mẹ mà thôi. Sự Ðồng Cứu Chuộc của Ðức Mẹ tùy thuộc vào sự Cứu Chuộc của Chúa Kitô nhưng cả hai hội nhập tức khắc qua năng quyền làm mẹ của Mẹ. “Có thể nói một cách chính đáng rằng Ðức Mẹ đã cùng cứu chuộc (redeemed together) nhân loại với Chúa Kitô.” (Tông Thư Inter sodalicia của ÐGH Benedict XV, năm 1918).

Công Ðồng Vatican II đã xác định không nên lập thành tín điều “những vấn nạn chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn qua việc nghiên cứu của các nhà thần học.” (Lumen Gentium, 54). Trên thực tế, chính các nhà Thánh Mẫu học đã không đồng ý với nhau ở nhiều điểm như: (1) Công lênh cứu rỗi (soteriological merit) của Ðức Mẹ không chỉ căn cứ trên sự “phù hợp” (fittingness), nhưng căn cứ vào công lý đơn giản (de condigno ex mera condignitate.) Khác với công trạng của Chúa Kitô, chỉ một mình đã xứng đáng trong một công lý chắc chắn (de condigno ex rigore justitiae). (2) Bản chất sự chia sẻ khổ giá với Chúa Kitô của Ðức Mẹ chỉ trong một nghĩa rộng. (3) Tương quan trong hành động cứu rỗi của Chúa và Ðức Mẹ.

Nhóm của ông Woodward đã chưa chính xác khi viết rằng: “Ðức Maria tham dự (participates) vào sự cứu chuộc do con Mẹ hoàn tất.” (Trg. 49). Từ chính xác nhất có lẽ phải mang ý nghĩa cao hơn là ÐẤNG HỢP TÁC (Cooperator), và thấp hơn việc xếp Ðức Mẹ ngang hàng với Chúa Kitô (như Chúa Kitô đã đồng bản tính và cùng năng quyền với Ðức Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn là Ngôi Con.) Hiện tại, nhiều thần học gia Công giáo cũng như ngoài Công giáo cho rằng chữ Coredemptrix đã nâng Ðức Mẹ lên ngang hàng với Chúa Kitô.

ÐẤNG TRUNG GIAN

Danh hiệu Ðấng Trung Gian (ÐTG, Mediatrix) đã được giáo hội Ðông Phương dùng để kính Ðức Mẹ từ khoảng thế kỷ thứ VII. Mãi đến thế kỷ thứ XII, thánh Bernard của giáo hội La Tinh (Tây Phương) mới làm cho chữ này thành thông dụng. Danh hiệu ÐTG đã không phải là một chức vị với quyền hành đặc biệt dành cho Ðức Maria. Cũng như chữ Ðồng Cứu Chuộc, danh hiệu này có thể mang nhiều ý nghĩa tùy mỗi tham chiếu khác nhau. Có ba “thời điểm” (moments) trong cuộc đời của Ðức Mẹ, đã cho thấy tác động trung gian của Mẹ: Cuộc Nhập Thể (Incarnation), Sự Ðóng Ðinh (Crucifixion), và thời Hiện Tại (the Present) với vinh quang Nước Trời mà Ðức Mẹ đang được hưởng, trong khi giáo hội trần thế còn phải chờ đợi.

Tại cuộc Nhập Thể của chúa Kitô, Ðức Mẹ là Ðấng Trung Gian vì Con Thiên Chúa đã trở nên con người qua Mẹ. Ðức Kitô là Ðấng Trung Gian giữa Ðức Chúa Cha với loài người, còn Ðức Mẹ là vị Trung Gian giữa Chúa Kitô và loài người (thánh Bonaventure). Thánh Tôma Aquinô (Thomas Aquinas) cũng đồng ý rằng Ðức Mẹ đã nhân danh cả nhân loại để lên tiếng “xin vâng” ở cuộc Truyền Tin. Kế đến, Ðức Mẹ là ÐTG đã thể hiện trong sự kết hợp, nhưng vẫn độc lập với sự thương khó của Chúa Kitô trong hiến tế trên đồi Canvê. Cuối cùng, Ðức Mẹ là ÐTG ngay ở thời điểm hiện tại.

Sự trung gian (STG) của Ðức Mẹ rất khác với STG của Chúa Kitô. STG của Chúa Kitô là căn nguyên, tự toàn, và tuyệt đối cần thiết để được cứu rỗi. STG của Ðức Mẹ cũng khác với STG của các thụ tạo như các thiên thần, các thánh, các linh mục. STG của những vị này chỉ thể hiện trong những trường hợp đặc biệt cho những ơn đặc biệt. STG của Ðức Mẹ là phổ quát (universal), chỉ tùy thuộc vào Chúa Kitô và chắc chắn được ơn.

Niềm tin rằng mọi ơn sủng Chúa ban đều qua Ðức Mẹ đã được nhiều người chấp nhận mặc dù chưa có sự thỏa thuận chung về việc phương cách hành động của Ðức Mẹ trong việc này. Thánh Mẫu học xác định rằng sự can thiệp trung gian của Ðức Mẹ ảnh hưởng trên tất cả nhân loại, có tính cách phổ quát, và với tất cả các loại ân sủng: ơn thánh hóa, thêm nhân đức, các ơn của Chúa Thánh Thần, các ơn hiện sủng; vì Mẹ đã cùng cứu chuộc với Chúa Kitô. Nhưng Ðức Mẹ không tạo nên (produce) ơn thánh hóa cho nhân loại qua các Bí Tích. Tuy nhiên, con người không bắt buộc phải cầu nguyện cùng Chúa qua Ðức Mẹ. Ơn Chúa ban luôn luôn qua Ðức Mẹ dù con người có xin qua Mẹ, hoặc Mẹ có lên tiếng bầu cử hay không.

Về điểm này, trong hai thế kỷ qua, các ÐGH đã dạy rằng: Ðức Mẹ là “một giòng suối thiêng, qua đó, mọi ơn sủng và đặc ân tuôn chảy đến tận tâm hồn của những kẻ tội lỗi nhất.” (Gloriosae Dominae ÐGH Benedict XIV, 1748). “Chúa ban mọi ơn qua Ðức Maria.” (Octobri mense, ÐGH Lêô XIII, 1891). “Trong Thánh Ý Chúa, người ta nhận mọi ơn qua Ðức Mẹ.” (Các ÐGH: Thánh Piô X, Benedict XV và Piô XII). Danh xưng Ðấng Trung Gian (Mediatrix) đã được các nghị phụ trong Công Ðồng Vatican II chấp thuận (LM, 62).

ÐẤNG BÀO CHỮA

Từ thời Trung Cổ, danh xưng Ðấng Bào Chữa (Advocate, Advocata) đã được dùng để nói lên sự cầu bầu đặc biệt của Ðức Mẹ. Thánh Ireaneus đã xử dụng từ này từ thế kỷ thứ II. Thánh Gioan thành Damascus đã dùng một chữ Hi Lạp tương đương: Paracletos. Ðến thế kỷ thứ XII, danh xưng này đã được dùng trong kinh Salve Regina, và thánh Bernard đã thường xuyên xử dụng từ này. ÐGH Lêô X đã nhắc đến chữ này trong tông thư Pastoris Aeteni, năm 1520 của ngài. Từ đó, hầu hết các ÐGH kế tiếp đã dùng danh xưng này với Ðức Mẹ. Cuối cùng, trong Hiến Chế Lumen Gentium, 62, các nghị phụ đã chúc tụng đức Mẹ qua danh xưng này cùng với những danh xưng khác như đã nói ở trên.

Nhóm của ông Wooward còn thiếu chính xác ở vài điểm nữa như họ nói rằng thánh Toma Aquinô đã mạnh mẽ chống lại niềm tin Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, (Trg. 52). Thực ra, thánh nhân đã viết rằng “Ðức Nữ Ðồng Trinh đã thụ thai với tội nguyên tổ, nhưng tội ấy đã được tẩy rửa trước khi Ðức Mẹ sinh ra.” (ST 3a, 27.2 ad 2.) Chúng ta cần nhớ rằng thánh nhân đã có quan niệm này từ thế kỷ XIII, hơn 600 năm sau “Ðức Mẹ Vô Nhiềm Nguyên Tội” mới trở thành tín điều. Sự chưa hoàn hảo trong nghiên cứu của ngài đã tương tự như sự thiếu hoàn hảo trong nghiên cứu của các thánh Ambrose, Jerome và Augustine từ thuở giáo hội sơ khai, về tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và tín điều Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.

Cũng như cá nhân con người, giáo hội đã được sinh ra và từ từ trưởng thành theo thời gian, Giáo hội càng lớn mạnh thì Chúa càng mạc khải thêm những mầu nhiệm của Ngài. Những mạc khải này có thể đến từ niềm tin của các tín hữu, nhưng phần nhiều đã qua việc nghiên cứu lâu dài từ thế hệ này qua thế hệ khác của các nhà thần học, để rồi cuối cùng được chấp nhận bởi Ðức Giáo Hoàng cùng các Ðức Giám Mục và được công bố như những giáo huấn chính thức của giáo hội (Ordinary Magisterium). Những nghiên cứu của các thánh hay các nhà thần học trải dài trong suốt lịch sử của giáo hội đôi khi xem ra chưa hoàn hảo ở điểm này hay điểm khác, nhưng thực ra đó là những khởi đầu cần thiết để giúp những người nghiên cứu về sau có một cái nhìn chính xác hơn qua sự mạc khải tỏ tường hơn trong ơn Chúa.

Nhóm của ông Woodward còn nói rằng khẩu hiệu giáo hoàng của ÐTC Gioan Phaolô II: “Totus tuus” chỉ ám chỉ riêng Ðức Mẹ. Đây là một thiếu sót quan trọng, vì khẩu hiệu trên phải hiểu là “Tất cả thuộc về Chúa, về Ðức Mẹ, về toàn thể giáo hội, về tất cả.”

Trở lại việc công bố một tín điều mới về Ðức Mẹ bao gồm ba điểm chính: Ðồng Cứu Chuộc, Ðấng Trung Gian và chuyển mọi ơn thiêng, và Ðấng Bào Chữa cho Dân Chúa. Ðã không có khó khăn nhiều ở điểm thứ ba. Ðiểm thứ hai vẫn còn phải thảo luận thêm ở vài nơi trong phần: “Mọi ơn Chúa đều qua Ðức Mẹ.” Ðiểm đầu tiên đã trở thành khó khăn nhất, không phải vì việc Ðức Mẹ có đồng cứu chuộc nhân loại với Chúa Kitô hay không, nhưng ở chỗ Ðức Mẹ có ngang hàng với Chúa trong việc cùng cứu chuộc nhân loại chăng? Và điều đó đã xoay quanh chữ COREDEMTRIX! Có vị đã trả lời cách đại cương rằng “như vậy thì dùng chữ khác”, như ÐHY O’Connor, nhưng khó là ở chỗ nhiều người vẫn còn muốn giữ chữ Coredemptrix.

Người viết bài này cũng xin có ý kiến xây dựng về việc phiên dịch chữ Coredemptrix qua tiếng Việt, không đặc biệt nhằm vào cá nhân hay tập thể nào, nhưng chỉ mong nói lên sự chính xác của việc phiên dịch danh xưng quan trọng này. Xin được trình bày vấn đề trong sự tôn trọng và tương kính ở mức độ cao nhất.

Chữ Coredemptrix hay rõ hơn: Co-Redemptrix đã được nhiều người dịch qua tiếng Việt thành “Ðồng Công Cứu Chuộc.” “Co” là một “tiếp đầu ngữ” (prefix) chỉ đơn giản có nghĩa là “cùng” hay “đồng.” Thí dụ: “co-author” dịch là “đồng tác giả”, chứ không ai dịch là “đồng công tác giả” bao giờ! Ðôi khi chữ này cũng chỉ một công việc kém hơn, thí dụ: “co-pilot”, thời trước 1975 được dịch là “phi công phụ.”

Thêm chữ “công” vào danh xưng Ðồng Cứu Chuộc để làm sáng nghĩa hơn? Không hẳn như vậy vì chữ này đã làm lệch hẳn ý nghĩa trung thực của chữ Co-redemptrix. Xin đan cử một thí dụ nữa: Hai người bạn nói chuyện với người thứ ba, họ nói rằng: “Chúng tôi đồng (hay cùng) xây ngôi nhà này.” Người nghe sẽ hiểu ngay là cả hai người đã góp công vào việc hoàn thành ngôi nhà đó, nhưng không nhất thiết là họ phải góp công ngang hàng với nhau, hoặc ai hơn ai. Nhưng nếu họ nói cách xác quyết hơn: “Chúng tôi đồng công xây ngôi nhà này.” Người nghe có thể sẽ phải hiểu là họ muốn nhấn mạnh rằng họ cùng góp công, góp của ngang nhau và không ai hơn ai!

Nếu nói rằng cần phải thêm chữ “công” vào những những chữ “đồng cứu chuộc” vì ngôn ngữ, trong sự chuyển tiếp từ chữ nôm sang quốc ngữ mới (theo mẫu tự La Tinh), ở nước ta thời Ðệ Nhị Thế Chiến đã chưa được phát triển như hiện tại. Như vậy, có phải ở thời điểm hôm nay, khi con người đã đi vào Thiên Kỷ mới, danh xưng này cần được sửa đổi cho chính xác hơn, thành “Đức Mẹ Đồng Cứu Chuộc”, để khỏi gây hiểu lầm giữa các giáo hữu Công Giáo cũng như khỏi bị chất vấn bởi những anh em Tin Lành, nói riêng và tất cả những Kitô hữu khác ngoài Công Giáo, nói chung?

Cuối cùng thì Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã không công bố tín điều mới (1). Điều này có nghĩa giáo hội còn phải nghiên cứu, học hỏi về Thánh Mẫu học nhiều hơn và sẵn sàng đón nhận những mạc khải, linh ứng mới cho đức tin. Người ta không thể chỉ dùng thần học hay ngữ học để minh định mầu nhiệm Nước Trời. Cần phải để Ơn Chúa tác động trong giáo hội cũng như trong cá nhân con người. Ơn Chúa sẽ tác động trong giáo hội qua sự xác định của vị cha chung (ÐGH) và những người hợp tác với ngài (các ÐHY, ÐGM, nhà thần học). Ơn Chúa sẽ tác động trong con người để đáp lại những giáo huấn đó, nhưng con người vẫn có tự do để đáp lại, hay không đáp lại lời mời gọi của Chúa. Khó khăn đã khởi đi từ đó và sẽ còn tiếp diễn mãi trong lịch sử giáo hội thế trần. Tuy nhiên, những “va chạm” đôi khi đã trở nên cần thiết để nẩy sinh những tư tưởng biểu lộ niềm tin chân chính của giáo hội trong Thánh Ý Chúa.

LM Phaolô Nguyễn Văn Tùng

(1): Hiện giáo hội Công Giáo đã có 4 tín điều về Đức Mẹ: Mẹ Thiên Chúa (công bố năm 431); Trọn đời đồng trinh (649); Vô nhiễm nguyên tội (1854); và Hồn xác lên trời (1950).

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*