Notice: Function _load_textdomain_just_in_time was called incorrectly. Translation loading for the gd-system-plugin domain was triggered too early. This is usually an indicator for some code in the plugin or theme running too early. Translations should be loaded at the init action or later. Please see Debugging in WordPress for more information. (This message was added in version 6.7.0.) in /var/www/wp-includes/functions.php on line 6114

Notice: Function _load_textdomain_just_in_time was called incorrectly. Translation loading for the google-document-embedder domain was triggered too early. This is usually an indicator for some code in the plugin or theme running too early. Translations should be loaded at the init action or later. Please see Debugging in WordPress for more information. (This message was added in version 6.7.0.) in /var/www/wp-includes/functions.php on line 6114
CHÚA NHẬT THỨ 16 THƯỜNG NIÊN, NĂM B – 22.07.2018 – TỈNH DÒNG ĐỒNG CÔNG HOA KỲ
  • NGHIÊM KHẮC và XÓT THƯƠNG – Lm. Gioan Quốc Toản, CRM
  • NƠI VẮNG VẺ – Lm. Nguyễn Thái
  • TẤM LÒNG CỦA VỊ MỤC TỬ – Lm. Đinh Lập Liễm
  • HÃY ĐI RIÊNG RA… – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
  • NHỊP SỐNG KITÔ HỮU – TGM. Ngô Quang Kiệt

NGHIÊM KHẮC và XÓT THƯƠNG (Mc 6:30-34)

Lm. Gioan Quốc Toản, CRM

Một cha xứ được mời đi ban phép xức dầu cho kẻ liệt. Ông ta là một tội phạm khét tiếng không chút quan tâm đến Thiên Chúa hoặc trời cao đất thấp gì. Đến nơi Cha xứ rất ngạc nhiên khi thấy kẻ hấp hối đang luống cuống lật những trang sách Kinh Thánh. Nghĩ mình có thể giúp được kẻ hấp hối Cha xứ hỏi, “Ông đang kiếm đoạn nào?” Và kẻ liệt lạnh nhạt trả lời, “Tôi đang tìm lối thoát.”

Tin Mừng hôm nay rất thích hợp cho những Kitô hữu đang tìm lối thoát. Thánh Marcô trình bầy hai hình ảnh mâu thuẫn rõ ràng về Chúa Giêsu. Hình ảnh thứ nhất là một Chúa Giêsu nghiêm khắc thiếu tế nhị đã trở mặt với đám đông đang cần đến sự giúp đỡ của Ngài để đi tìm chỗ nghỉ ngơi. Hình ảnh thứ hai là một Chúa Giêsu nhân từ, cảm thông và có lòng xót thương đã không ngần ngại gạt bỏ chương trình nghỉ ngơi để dạy dỗ đám đông dân chúng như chiên không chủ. Vậy thì Chúa Giêsu là một người nghiêm khắc thiếu tế nhị hay là một người nhân từ có lòng xót thương?

Theo thông thường, một người đọc Kinh Thánh ở mức trung bình khi gặp phải tình trạng khó xử này sẽ dễ nhận ra nơi Chúa Giêsu những đức tính thích hợp nhất với chính đức tính của họ. Những người giữ kỷ luật khắt khe sẽ nhìn thấy Chúa Giêsu là một người giữ kỷ luật rất khắt khe và những kẻ có lòng nhân từ yêu người sẽ thấy Chúa Giêsu là một người nhân từ yêu tha nhân. Nếu vậy thì có phải Kính Thánh chỉ là một chiếc gương phản chiếu khuôn mặt của người đọc? Có phải Kinh Thánh chỉ để cung cấp lý lẽ chính đáng cho những lối sống kỳ thị và buông thả mà con người tự chọn? Nếu thật sự là vậy, thì chúng ta chẳng hơn gì kẻ tù tội sắp chết lật mở những trang Kinh Thánh để tìm lối thoát.

Sự thật thì Kinh Thánh là phương tiện để khẳng định và đồng thời thách đố người đọc. Nếu chúng ta đọc Kinh Thánh mong rằng Lời Chúa sẽ thách thức cuộc sống tầm thường thiếu quan tâm đến tha nhân của chúng ta, thì chúng ta rất dễ nhận ra điểm chính của Tin Mừng hôm nay là hình ảnh một Chúa Giêsu hiền từ và xót thương. Điểm này được nêu rõ trong câu 34, “Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6:34). Mặc dù Chúa Giêsu đến đây tìm sự thanh vắng để nghỉ ngơi với các môn đệ, mặc dù dân chúng không có lý lẽ để đến quấy rầy Ngài; nhưng, Ngài vẫn có thể nhìn vào những khuôn mặt mệt nhọc và nhận ra những sự cần thiệt của họ. Ngài liền thay đổi chương trình và đáp ứng nhu cầu của họ. Dĩ nhiên Chúa Giêsu có quyền đi nghỉ ngơi, và dĩ nhiên dân chúng không có quyền để quấy nhiễu Ngài. Nhưng Chúa Giêsu không chú trọng đến quyền lợi của Ngài. Ngài biết đám đông tìm đến Ngài trong cơn tuyệt vọng và Ngài đã sẵn sàng tìm mọi cách để giúp họ khỏi cơn tuyệt vọng đó.

Phần chúng ta, chúng ta sẽ phản ứng hoặc xử thế nào khi phải gặp trường hợp tương tự? Chắc có lẽ chúng ta sẽ trách móc đám đông thiếu tế nhị và truyền cho các môn đệ đuổi họ đi và nếu cần sẽ mời luật pháp đến can thiệp. Cũng có thể chúng ta sẽ nổi nóng, bực tức và đoán xét họ thay vì thông cảm và tìm hiểu sự cần thiết của họ. Nhưng, với một người có lòng xót thương thì họ sẽ đặt mình vào địa vị của người khác để có thể hiểu được những nỗi thống khổ và túng thiếu của kẻ túng thiếu. Một câu châm ngôn thích hợp với người có lòng thương xót là, “Đừng chỉ trích tha nhân trừ khi bạn đã đi được một dặm trong đôi giầy của họ.”

Vậy, nếu Chúa Giêsu là một người giầu lòng xót thương thì tại sao ngay từ đầu Ngài lại tìm cách tránh xa đám đông dân chúng? Thưa, nếu đọc kỹ lại đoạn Kinh Thánh thì chúng ta sẽ thấy hành động đó không phải là một hành động thiếu tế nhị, nhưng cũng là một hành động đầy xót thương; không phải xót thương đối với đám đông dân chúng nhưng thương xót đối với các môn đệ là những người đang cần thời giờ nghỉ ngơi sau một chuyến đi rao giảng mệt nhọc, “Ngài liền bảo các ông: ‘Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút.’ Vì lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống” (Mc 6:31). Qua đó, chúng ta thấy cả hai quyết định của Chúa Giêsu là đều do lòng xót thương thúc đẩy. Quyết định thứ nhất là do lòng xót thương các tông đồ và quyết định thứ hai là do lòng thương xót đám đông dân chúng. Không quyết định nào được thúc đẩy bởi lòng ích kỷ nhưng chỉ do lòng thương xót. Quả thật, bài Phúc Âm hôm nay rất ngắn, chỉ trong vỏn vẹn có 5 câu vắn tắt nhưng đã hai lần (hay ba lần) nói lòng thương xót của Chúa Giêsu.

Xin Chúa Giêsu ban cho mỗi người chúng ta tinh thần xót thương của Ngài để có thể trở nên nhậy cảm và sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu cần thiết của những người chung quanh, như Chúa Giêsu đã thể hiện. Và mỗi người hãy sẵn sàng sống cuộc sống cảm thương cho dù có phải thay đổi chương trình của mùa nghỉ hè hoặc chương trình của cả cuộc sống.

Xin Mẹ Maria là Mẹ đầy lòng yêu thương, giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để dễ cảm thông với những người đang cần đến sự thông cảm.

NƠI VẮNG VẺ

Lm. Nguyễn Thái

Bạn có một nơi nào thật đặc biệt, bí mật, chỉ dành riêng cho một mình bạn lui tới thôi không? Khi tôi còn nhỏ, tôi thích thơ thẩn, chơi một mình đằng sau nhà, dưới những lùm cây. Những lùm cây này làm thành một cái hang trống rỗng, không có một ngọn cỏ nào có thể mọc lên nổi. Tôi thích chơi dưới đó, bày biện đồ chơi ra, nào là máy bay, xe tăng, tàu thủy, quân lính đủ loại binh chủng… mà người lớn không ai nhìn thấy tôi chơi.

Thế rồi khi lớn hơn một chút, gia đình tôi dọn về lập nghiệp trên bờ Sông Bé tỉnh Đồng Nai. Bố tôi có cả một nông trại lớn, với bao nhiêu mẫu ruộng. Đằng trước nhà có một cây đa cổ thụ mọc bên bờ sông, phía sau nhà là rừng và suối. Vào những buổi trưa hè sau khi đi học về, tôi thả bộ dọc theo con đường mòn dẫn vào ven rừng. Gần ven rừng có một cái ao và mảnh đất trống trên đó có cây cổ thụ cao khoảng 30 thước. Cành lá nó che rộng ra như một cái dù lớn, tạo thành một bóng mát tuyệt vời. Những buổi trưa hè nóng nực, tôi thường một mình nằm trên đám lá cây rải trên đất như một chiếc chiếu: nhìn ánh mặt trời xuyên qua những kẽ lá, thưởng thức những ngọn gió mát và lắng nghe tiếng chim ca thánh thót xung quanh. Từ nơi này tôi đã biết suy nghĩ, biết thưởng thức cái đẹp của thiên nhiên xung quanh và hiểu ra ý nghĩa của cuộc đời.

Mỗi người đều có một nơi nào đó rất riêng tư cho mình. Nơi đó có thể là một chỗ rất đặc biệt, ngay trong nhà bạn, nơi nhà nguyện, trên rừng hoang, ngoài bãi biển… một chỗ cô tịch, một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi, tĩnh tâm và cầu nguyện.

Chúa Giêsu cũng cảm thấy cần phải quân bình giữa đời sống nội tâm và đáp ứng những nhu cầu mục vụ của dân chúng. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Mc 6:30-34, chúng ta thấy Chúa Giêsu gọi các môn đệ của Ngài đi đến một nơi vắng vẻ, hẻo lánh để nghỉ ngơi: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút. Vậy các ngài xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng… người ta đi bộ kéo đến nơi đó…” (Mc 6:31-33).

Chỉ trong một đoạn Phúc Âm ngắn, từ ngữ “nơi vắng vẻ” được nhắc đến ba lần. Trong Thánh Kinh có rất nhiều đoạn nhắc đến nơi hoang vu, vắng vẻ. Mô-sê và Êlia đã đi vào nơi hoang địa để gặp gỡ Thiên Chúa (Xh 3:1; 1 V 17:3). Dân Do Thái phải đi trong sa mạc 40 năm trước khi vào đất hứa. Thánh Gioan Tẩy Giả đã đi vào nơi hoang địa để rao giảng sự sám hối và dân chúng kéo nhau theo ngài (Mt 3:1). Chúa Giêsu hay rút lui vào nơi thanh vắng trên núi, thường vào ban đêm để cầu nguyện (Mc 1:35; 6:46; Mt 4:1). Và hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu và các môn đệ nuôi 5000 người ăn uống no nê trong hoang địa.

Trong cuốn chú giải Thánh Kinh, “The Gospel of Mark”, William Barclay đã có những lời giải thích rất phong phú về đoạn Thánh Kinh này như sau: “Ở đây chúng ta nhìn thấy điều có thể gọi là sự nhịp nhàng của đời sống Kitô hữu. Đời sống Kitô hữu là một cuộc hành trình liên tục đi từ sự hiện diện của con người vào sự hiện diện của Thiên Chúa, rồi lại bước ra, đi từ sự hiện diện của Thiên Chúa vào sự hiện diện của con người. Nhịp điệu này giống như sự nhịp nhàng của giấc ngủ và sự làm việc. Chúng ta không thể làm việc được trừ khi chúng ta có thời giờ nghỉ ngơi; và giấc ngủ sẽ không đến trừ khi chúng ta đã làm việc cho đến khi mệt mỏi.

Có hai điều nguy hiểm trong đời sống. Trước hết, nguy hiểm vì hoạt động quá mức. Không ai có thể chỉ mải mê làm việc mà không cần sự nghỉ ngơi; và cũng không có ai có thể sống đời sống Kitô hữu hoàn hảo trừ khi người đó tự dành thời giờ của mình cầu nguyện với Thiên Chúa. Tất cả những xáo trộn trong đời sống sở dĩ có thể xảy ra vì chúng ta đã không cho Thiên Chúa cơ hội để trò chuyện với chúng ta; chúng ta không biết im lặng và lắng nghe. Chúng ta đã không cho Thiên Chúa thời gian để ban lại cho chúng ta nghị lực và sức mạnh tinh thần. Làm thế nào chúng ta có thể vác được những gánh nặng của cuộc sống nếu chúng ta không tiếp xúc với Ngài, Thiên Chúa của tất cả mọi sự tốt lành trong cuộc đời? Làm thế nào chúng ta có thể thi hành được công việc của Thiên Chúa trừ khi bằng chính sức mạnh của Ngài? Và làm thế nào chúng ta có thể đón nhận được sức mạnh của Ngài trừ khi chúng ta kiếm tìm trong cô đơn thinh lặng và trong sự hiện diện của Thiên Chúa? Điểm thứ hai, nguy hiểm vì quá thụ động. Lòng nhiệt thành sùng đạo mà không có hành động thì không phải là sự sùng đạo thực sự. Cầu nguyện mà không có hành động thì không phải là sự cầu nguyện thực sự. Chúng ta không được phép tìm kiếm sự thân tình với Thiên Chúa để tránh né tình bạn hữu với con người, vì tình nghĩa với Thiên Chúa là để giúp chúng ta cải thiện tình người trở nên tốt đẹp hơn. Sự nhịp nhàng của đời sống Kitô hữu là sự gặp gỡ luân phiên với Thiên Chúa ở nơi vắng vẻ và sự phục vụ con người giữa phố chợ.

Sự nghỉ ngơi mà Chúa Giêsu đi tìm cho chính Ngài và cho các môn đệ của Ngài không phải là loại nghỉ ngơi thụ động. Đám đông đã trông thấy Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tránh né họ, tới một chỗ đặc biệt. Chỗ này, nếu dùng thuyền bơi ngang qua hồ thì xa khoảng 4 dặm, và nếu đi bộ vòng quanh hồ thì 10 dặm. Vào một ngày không có gió, hay gió ngược, một con thuyền phải mất một thời gian khá lâu để vượt qua khoảng cách này, và một người đầy nghị lực, khỏe mạnh có thể bước đi bộ xung quanh hồ và tới đó trước khi con thuyền đến. Đây chính là điều đã xảy ra. Và khi Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài vừa bước ra khỏi thuyền thì họ đã trông thấy đám đông đi bộ đến đó trước rồi.

“Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng, vì họ như đàn chiên không người chăn” (Mc 6:34). Nguyên tắc mục vụ của Chúa Giêsu dựa trên đời sống cầu nguyện kết hợp với Đức Chúa Cha và lòng thương yêu dân chúng.

Kết hợp đời sống cầu nguyện, cử hành Phụng Vụ Thánh của Giáo Hội, nhất là Bí tích Thánh Thể, và hoạt động trong sự hiệp thông cùng một tâm hồn với nhau theo gương các tín hữu của Giáo Hội sơ khai (Cv 4:32), các Kitô hữu đã sống và cử hành đức tin một cách sống động (GLCG #3, 15).

Người xưa có một chú bé muốn gặp gỡ Thiên Chúa. Chú nghĩ chắc phải vượt qua một đoạn đường dài lắm mới tới được chỗ Thiên Chúa ngụ, nên chú gói ghém đầy đủ lương thực, gồm bánh và nước ngọt trong cái túi sách. Rồi chú bắt đầu cuộc hành trình. Khi vừa ra đi được 3 khu phố, chú gặp một ông lão đang ngồi ở ghế công viên ngắm nhìn những con chim bồ câu. Chú bé đến ngồi bên cạnh ông lão và mở túi sách ra. Khi chú bé sắp sửa khui một lon nước ngọt ra uống, chú thấy ông lão có vẻ đói bụng; chú bé bèn lấy cho ông một cái bánh. Ông lão đón nhận cái bánh một cách rất biết ơn, và nhìn chú bé mỉm cười. Nụ cười của ông lão tươi đẹp làm sao! Chú bé cứ muốn nhìn nó mãi. Chú bé cho ông lão một lon nước ngọt. Một lần nữa, ông lại nhìn chú bé mỉm cười.

Chú bé sung sướng quá! Họ ngồi với nhau suốt buổi trưa ăn bánh, uống nước ngọt, và mỉm cười với nhau mà không nói với nhau câu nào. Đến chiều tối, chú bé nhận ra mình đã mỏi mệt và phải trở về nhà; nhưng trước khi rời gót, chú bé quay lại, ôm lấy ông lão từ giã. Ông lão lại nở một nụ cười rất tươi chưa từng có.

Khi chú bé vừa mở cửa bước vào nhà, mẹ chú rất đỗi ngạc nhiên vì niềm vui không thể che giấu được trên khuôn mặt của nó, bèn hỏi: “Hôm nay con làm gì mà sao con vui quá vậy?” Nó trả lời: “Con ăn trưa với Chúa.” Trước khi mẹ nó đáp lại, nó nói tiếp, “Mẹ biết gì không? Ngài có nụ cười thật đẹp mà con chưa bao giờ thấy!”

Trong khi đó, ông lão cũng trở về nhà với nguồn vui rạng rỡ trên khuôn mặt. Người con trai ông thấy vậy liền hỏi: “Ba à, hôm nay sao ba vui quá chừng vậy?” Ông lão đáp: “Ba đã ăn donut trong công viên với Chúa.” Ông nói thêm: “Con biết không, Chúa trẻ trung hơn là ba nghĩ nhiều!”

Sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, yêu thương tha nhân và hài hòa với chính cuộc sống riêng tư của mình là lý tưởng của người môn đệ Chúa Giêsu. Một tác giả nào đó đã cho ta những lời khuyên như sau: “Hãy dành thời giờ để VUI CƯỜI, vì đó là tiếng nhạc của tâm hồn. Hãy dành thời giờ để SUY NGHĨ, vì đó là nguồn sức mạnh. Hãy dành thời giờ để CHƠI ĐÙA, vì đó là bí mật để trẻ mãi không già. Hãy dành thời giờ để ĐỌC SÁCH, vì đó là nền tảng của sự khôn ngoan. Hãy dành thời giờ để CẦU NGUYỆN, vì đó là sức mạnh lớn nhất của con người. Hãy dành thời giờ để YÊU VÀ ĐƯỢC YÊU, vì đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Hãy dành thời giờ để KẾT BẠN, vì đó là con đường dẫn tới hạnh phúc. Hãy dành thời giờ để MƠ ƯỚC, vì nó sẽ làm nên tương lai. Hãy dành thời giờ để LÀM VIỆC, vì đó là cái giá phải trả cho sự thành công. Hãy dành thời giờ cho THIÊN CHÚA, vì đó là cách ta phải sống.”

TẤM LÒNG CỦA VỊ MỤC TỬ

Lm. Đinh Lập Liễm

Đức Giêsu Động Lòng Thương.

Đây là lần đầu tiên và duy nhất, Marcô gọi các môn đệ là “Tông đồ” (apostoloi) (Mk 6:30), có nghĩa là “những kẻ được sai đi.” Tuần vừa qua, ta đã nghe Ngài dặn dò các Tông Đồ khi sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Hôm nay các ông trở về sau một cuộc truyền giáo. Các ông kể lại cho Chúa những việc đã làm, giảng dạy và làm phép lạ, thành công và thất bại, kể cả những sự chống đối, khước từ và lãnh đạm. Đức Giêsu lắng nghe các ông. Ngài chia sẻ niềm vui với các ông, nhưng nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt sau một cuộc truyền giáo, nên Ngài bảo: ”Các con hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút” (Mk 6:31).

Đức Giêsu đề nghị với các ông đang quá mệt mỏi vì công việc, hãy dành một thời gian để nghỉ ngơi thư giãn. Quá tải, căng thẳng thần kinh mà ngày nay người ta gọi là “Stress” có hại cho công việc tông đồ cũng như các công việc khác của con người.

Điều này nhấn mạnh rằng Đức Giêsu muốn bảo các Tông Đồ sống riêng với Ngài, xa hẳn đám dân chúng để có bầu khí tương giao mật thiết hơn đối với Ngài và với nhau. Điều này cũng được biểu lộ khi Đức Giêsu chọn các Tông Đồ “để ở với Ngài” trước khi sai họ đi giảng (Mc 3,14) và ngay sau khi đi truyền giáo về, Ngài cũng muốn đem các ông đi nghỉ ngơi với Ngài.

Ngoài ra, ở đây ta cũng thấy Đức Giêsu không đề cập tới công việc của các ông, nhưng Ngài lại lưu ý riêng đến chính bản thân các ông: ”Các con hãy nghỉ ngơi một chút” (Mk 6:31) chứng tỏ rằng Ngài săn sóc cách riêng đến chính bản thân cộng sự viên của mình.

Đức Giêsu muốn cùng các Tông Đồ xa rời đám đông sang bên kia Biển Hồ để Thầy trò sống thân mật và trao đổi tâm sự với nhau. Tuy vậy, dân chúng nhìn hướng đoán trước được thuyền của các Ngài định đi đến đâu. Từ Capharnaum đến miền lân cận Betsaiđa và Giulia xa chừng 10 cây số, dân chúng không quản ngại đi bộ, nên họ đến trước Đức Giêsu. Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy dân chúng đã đợi sẵn ở đó thật đông, Ngài chạnh lòng thương vì đám dân này sống bơ vơ như đàn chiên không có người chăn (Mk 6:34).

Thánh Marcô, giống như nhà quay phim tài ba, đã thu cảnh khuôn mặt Đức Giêsu lúc Ngài rời khỏi thuyền bước lên bờ; một khuôn mặt dịu hiền khôn tả, khuôn mặt của người cha nhân hậu, khuôn mặt của vị mục tử nhân lành, khuôn mặt của một vì Thiên Chúa không ngăn nổi nhịp đập thổn thức của con tim giầu lòng thương xót và hay trắc ẩn.

Đức Giêsu là hiện thân của một Thiên Chúa mang “trái tim đa cảm” trước đau khổ của con người. Chưa bao giờ Ngài nặng lời với hạng người mang tiếng là “tội lỗi” hoặc khước từ thi ân giáng phúc cho những người bé mọn. Ngài là một bậc thầy nhân ái biết lắng nghe các môn đệ phúc trình công việc, nhưng thương họ vì thấy họ cần được nghỉ ngơi. Ngài cũng tỏ lòng nhân ái khi thấy đám dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăn và dạy dỗ họ nhiều điều.

Bài Tin Mừng diễn tả: chung quanh Đức Giêsu lúc nào cũng có đám đông muốn nghe lời Chúa và muốn được Ngài thi ân. Ngài làm việc không biết mỏi mệt. Thậm chí các Tông Đồ vừa đi truyền giáo về mệt nhoài, cần sự tĩnh dưỡng nghỉ ngơi bên Chúa, nhưng cũng không được (Mk 6:31). Chương trình nghỉ ngơi đã bị phá vỡ vì dân chúng lại đến quấy rầy, họ muốn nghe lời Chúa: họ muốn được chữa bệnh, việc đó làm cho Ngài và các Tông Đồ bận rộn đến nỗi không có thời giờ ăn uống (Mk 3:20). Nhưng trước hoàn cảnh ấy, Đức Giêsu đã không bực dọc, Ngài tiếp đón dân. Điều này nói với chúng ta nhiều về cung cách nhân từ của Ngài. Ngài xúc động vì thương yêu họ.

Một lần kia, có người đàn ông đến gặp bạn mình, là giáo sư của một trường đại học lớn. Tuy nhiên, vì họ ngồi nói chuyện phiếm trong phòng giáo sư, nên liên tục bị gián đoạn bởi các sinh viên đến gõ cửa, họ tìm giáo sư để xin hướng dẫn về điều này, điều nọ. Mỗi lần như thế, ông giáo sư từ ghế đứng lên, đi đến cửa, đáp ứng nhu cầu của sinh viên. Bất ngờ, người bạn đến thăm hỏi ông giáo sư: “Bạn xoay sở thế nào để làm việc được với quá nhiều lần gián đoạn như thế?” Ông giáo sư trả lời: “Lúc đầu, tôi luôn bực bội vì công việc của mình bị gián đoạn. Nhưng một ngày kia, thình lình tôi thấy rõ rằng những lúc bị gián đoạn cũng là công việc của tôi.” Ông giáo sư có thể khóa kín cửa lại, và dành hết thời giờ cho công việc của ông. Theo cách này thì không chút nghi ngờ, ông đã có một đời sống yên tĩnh hơn. Nhưng là một người quảng đại và vị tha, ông không thể làm như vậy. Trái lại, ông sẵn sàng phục vụ các sinh viên mà ông yêu mến. Và không lạ gì ông là một giáo sư hạnh phúc nhất và mãn nguyện nhất trong trường (Flor McCarthy).

Bị người khác làm gián đoạn, ngắt quãng có thể là một điều tốt. Chúng ta nhờ thế mà tránh được sự quan tâm quá đáng về chính mình. Tính ích kỷ là một thứ nhà tù. Mặt khác, tình yêu thương đem lại tự do cho chúng ta.

Đức Tổng giám mục Kelder Camara nói: “Bạn hãy chấp nhận những sự bất ngờ làm đảo lộn kế hoạch của bạn, làm tiêu tan những giấc mộng của bạn và làm cho dự định trong ngày hoàn toàn đổi hướng và – Nào ai biết được? – Có khi cả đời sống bạn. Đó không phải là sự tình cờ. Bạn hãy để Thiên Chúa được tự do kết dệt những đường nét của bạn mỗi ngày.”

Premanand là một Kitô hữu có thế giá, thuộc giới thượng lưu Ấn Độ, đã viết trong tập tự thuật của ông: ”Từ xưa cho đến mãi bây giờ, sứ điệp chúng ta cho thế giới chưa tin Chúa vẫn là: Thiên Chúa quan tâm đến mọi người (Mt 5:45). Đúng thế, chúng ta không nên quá bận rộn đến nỗi không dành được thời giờ cho người khác, và đừng bao giờ tự ý coi họ là kẻ gây rối phiền hà cho mình.” Nếu chúng ta lấy lý do bận rộn không chịu tiếp người khác thì chúng ta mất ngay những người khách đó; họ không bao giờ trở lại nữa.

Sự chú trọng hình thức, nghi lễ của một viên chức Giáo Hội đã làm cho một người bạn trở thành một kẻ thù. Một cơ hội cho Chúa đã bị đánh mất vì một người quá câu nệ hình thức lễ nghi, đã không chịu để cho đời sống riêng tư của mình bị quấy rầy. Một số người vì không muốn để cho người khác đụng đến cuộc sống riêng tư của mình mà đã làm mất cơ hội cho Chúa. Đức Giêsu không bao giờ xem ai là mối phiền hà cho mình, dù lúc Ngài cần nghỉ ngơi và yên tĩnh. Nhìn đám đông, Ngài cảm động và thương xót họ; họ quá ư nhiệt thành; họ quá mong muốn điều mà chỉ một mình Ngài mới ban cho họ được.

Đức Giêsu luôn quan tâm săn sóc mọi người khi họ cần đến Ngài. Ngài sẵn sàng đến nhà ông trưởng hội đường Giairô cứu con gái ông sắp chết (Mc 5,21-24. 35-43). Ngài sẵn sàng đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của một viên sĩ quan đại đội trưởng đến chữa bệnh cho đứa đầy tớ của ông (Mt 8:5-10). Ngài đã dành biết bao thời giờ cho việc rao giảng Tin Mừng và chữa bệnh. Ngài không mệt mỏi phải thi ân. Ngài luôn quan tâm săn sóc mọi người (Mk 1:32-39).

Quan tâm săn sóc không bao giờ là một việc dễ dàng. Một số người muốn săn sóc chút ít, với điều kiện theo cách của họ, không quá phiền hà và không đảo lộn những dự tính của họ. Nhưng hãy chăm sóc như Đức Giêsu đã làm, khi những kế hoạch của mình bị đảo lộn, đây là một trắc nghiệm tốt nhất. Lúc nào các bậc cha mẹ cũng làm việc đó. Bao nhiêu lần họ đã chỗi dậy trong đêm để ngắm nhìn đứa con của họ.

Tất cả chúng ta đều có khả năng chăm sóc. Nhu cầu săn sóc con người là rất lớn. Sự thờ ơ đang lan rộng phổ biến trong xã hội chúng ta. Khi chúng ta dành thời giờ để chăm sóc người khác, là chúng ta đang sống Tin Mừng.

Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại một ngày nọ, Mẹ đến thăm nhà nuôi các cụ già ở Thụy Điển. Mọi việc đều trôi chảy. Thức ăn ngon. Nhân viên đều được đào tạo và đối xử với các cụ rất tốt. Dường như đó là nơi lý tưởng cho những ngày còn lại của cuộc đời.

Trong nhà ấy, có khoảng 40 người già. Tuy nhiên khi Mẹ rảo quanh một vòng, Mẹ nhận thấy không có cụ nào mỉm cười. Mẹ cũng nhận ra một việc khác. Họ cứ nhìn ra cánh cổng. Mẹ hỏi một chị điều dưỡng tại sao lại thế? Chị điều dưỡng đáp: ”Họ mong ngóng có người đến thăm họ.” Lúc nào họ cũng nhìn ra và suy nghĩ. Có lẽ là con trai tôi, có lẽ là con gái tôi, có lẽ là một người nào đó sẽ đến thăm tôi hôm nay.” Nhưng không một ai đến, và ngày nào cũng thế.” “Không một ai đến!” Câu nói này ám ảnh Mẹ Têrêsa. Những cụ già này đã bị gia đình đưa vào đây và bỏ rơi họ. Hơn thế nữa, cảm giác bị bỏ rơi là nỗi đau khổ nhất (Flor McCarthy).

Tôi đã có dịp đọc cuốn “No man is an island” của Thomas Merton, cái nhan đề này đã nói lên rất nhiều về nội dung của cuốn sách cũng như tư tưởng chính yếu của tác giả. Nó chính là một câu trả lời gián tiếp cho những ai chủ trương rằng con người là một thế giới khép kín, là một con vật bị đọa đầy, bỏ rơi; một mình đương đầu với số mệnh mù quáng và phũ phàng trong một thế giới mà mọi người và mọi vật khác đều xa lạ nếu không là thù địch với mình.

Đọc trong Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu luôn thông cảm với những đau khổ của con người, ví dụ Ngài khóc thương thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá (Lc 19,41), chạnh lòng thương người con trai của bà góa phụ thành Naim khi người ta đem con bà đi chôn (Lc 7,11-17) và khóc thương bên mồ Lazarô đã chết bốn ngày (Jn 11:35). Đó là ba trường hợp Đức Giêsu tỏ ra thông cảm bề ngoài với những giọt nước mắt nóng hổi như chúng ta. Đức Maria cũng tỏ ra lo lắng khi chủ nhà giữa tiệc hết rượu tại Cana, Ngài đã xin Đức Giêsu can thiệp và phép lạ nước thành rượu đã được thực hiện (x. Ga 2,1-11).

Thánh Phaolô Tông Đồ đã đưa ra một học thuyết mới về thân thể Đức Kitô (Rm 12:5; I Cor 12:12): Giáo Hội là một thân thể, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể của thân thể ấy, tức là chi thể của nhau. Các chi thể liên lạc mật thiết với thân, với đầu và với nhau, nên anh em có giây liên lạc với nhau một cách đặc biệt. Vì thế, Thánh Tông Đồ dân ngoại đã khuyên chúng ta phải biết thông cảm với nhau: ”Hãy vui cùng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc” (Rm 12:15).

Người đời cũng nhận thấy rằng mình không thể sống đơn độc được, cả về vật chất lẫn tinh thần. Con người có nhu cầu vật chất cần trao đổi, có những tình cảm cần phải được chia sẻ trong đời sống thường ngày. Nhờ đó, đời sống con người mới được quân bình.

Đức Giêsu quan tâm đến con người hơn là công việc: ”Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” (Mc 6,31). Không có một công trình vĩ đại nào của con người được thực hiện mà lại không có sự tập trung cao độ, cố gắng yên tĩnh và tự chủ. Bất cứ cuộc sống đứng đắn nào của con người cũng phải trải qua từ giai đoạn hoạt động “bên ngoài” đến giai đoạn suy tư “bên trong.” Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washington Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời: ”Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình Ngài xếp đặt cho tôi.” P. Doncoeur đã quả quyết: ”Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện.” Ernest Hello cũng quả quyết: ”Tâm hồn càng nhận được nhiều trong yên lặng thì càng ban phát nhiều trong khi hoạt động.” Maurice Barrès đã viết trong cuốn sổ tay của ông: ”Trong đời sống hấp tấp và đa đoan của chúng ta, có những giây phút người ta cũng cần cầm trí lại tận trong đáy lòng, khác nào trở về nguồn, và từ đó nhìn cho rõ hơn mình đi đâu, đâu là nơi mình phải đến và nắn lại đường đi của mình cho ngay thẳng.” Không có cuộc sống Kitô hữu nào vững chắc và sâu xa mà lại không thể hiện hai nhịp sau: sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài.” Đức Giêsu làm gương yêu thích sự thinh lặng và dạy môn đệ theo con đường đó.

Đức Giêsu không nghĩ đến mình; Ngài chỉ quan tâm đến người khác. Ngài rất nhạy cảm trước những đau khổ của con người. Ngài đáp ứng những nhu cầu của họ nhằm đưa họ đến hạnh phúc. Hạnh phúc của người khác là đối tượng tình thương của Ngài.

Lạy Chúa, xin cho con một quả tim như Chúa, biết cảm rung trước những bất hạnh của anh em. Xin cho con đừng bao giờ than vãn khi bị quấy rầy, cho con dám quên mình vì Chúa, bởi Chúa đã vì yêu mà trao ban tất cả.

HÃY ĐI RIÊNG RA…

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Sau một cuộc hành trình truyền giáo,

các tông đồ phấn khởi trình bày cho Ðức Giêsu

những gì mình đã làm và đã dạy.

Ðức Giêsu có vẻ quan tâm đến con người hơn công việc.

Ngài biết các tông đồ giờ đây cần gì.

Họ cần một chút nghỉ ngơi cho thân xác.

Họ cần một chút riêng tư, trầm lắng cho tâm hồn,

để nhìn lại phía sau, để nhìn về phía trước,

để tách mình ra khỏi công việc bề bộn nơi đám đông,

để sống tình thầy trò ấm áp.

“Hãy đi riêng ra, đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút.”

Chỉ cần một chút thôi, năm phút, mười phút…

Ai trong chúng ta cũng cần một chút lặng lẽ mỗi ngày,

để trở lại chỗ sâu nhất của lòng mình,

để nghe được tiếng gọi mời của Thiên Chúa.

Cần tìm một chỗ lặng lẽ trong nhà,

để tôi có thể ngồi với tôi, trước nhan Chúa.

Cuộc sống hôm nay không để cho ta một chút nghỉ ngơi.

Các tông đồ cũng bị cuốn vào cơn lốc của công việc.

Cần phải phấn đấu để có được một chút mỗi ngày.

Một chút lắng sâu đủ nuôi cả ngày.

Một chút êm ả khi ta đã làm mình rỗng không

khỏi bao điều đã nghe và thấy, đã nói và ước mơ.

Phải xuống thuyền để đi đến nơi nghỉ ngơi.

Phải ra khỏi chỗ mình đang sống.

Thầy trò đã lên thuyền, nhưng kế hoạch bất thành.

Có lẽ vì ngược gió nên thuyền đi chậm.

Một số người đã chạy đến trước nơi Thầy trò sắp ghé vào.

Ðức Giêsu sững sờ khi thấy đám đông.

Những bước chân nôn nao, hối hả của họ

đã khiến Ngài rung động tận cõi lòng.

Ngài biết họ cần Ngài và Ngài thương họ.

Cái cần của tập thể thật cấp bách

đến nỗi nhu cầu chính đáng của cá nhân phải hy sinh.

Ðức Giêsu mang trái tim của người mục tử nhân hậu,

nhói đau trước sự bơ vơ của đoàn chiên.

Bơ vơ là tâm trạng của con người mọi thời,

nhất là của người trẻ hôm nay.

Bơ vơ khi bị ném vào cuộc đời lọc lừa, xảo trá.

Bơ vơ khi bị nghiền nát bởi những thủ đoạn gian manh.

Bơ vơ khi bị sa sảy, không sao đứng lên được.

Bơ vơ khi những thần tượng lần lượt tan vỡ.

Bi bơ vơ dẫn đến chán chường và buông trôi,

mặc cho mình bị kéo vào những cái bẫy nghiệt ngã.

Làm thế nào để người bạn trẻ gặp được Giêsu,

để lấy lại niềm tin, để tìm được hướng sống,

để vững vàng bình an giữa sóng gió cuộc đời.

Tôi phải giới thiệu Ðức Giêsu cho người khác,

nhưng tôi cũng phải trở thành một Giêsu gần gũi

để đến với những ai bơ vơ quanh tôi.

Cầu nguyện:

Giữa những ồn ào của đám đông,

giữa những sôi nổi của thành công

và ê chề của thất bại,

xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.

Giữa những đam mê quay cuồng,

giữa những khát khao thèm muốn

và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,

xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.

Giữa lúc bị cuộc đời từ khước,

giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,

chẳng có ai để cậy dựa,

xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,

để một mình ở đó,

trầm lắng và bình an.

NHỊP SỐNG KITÔ HỮU

TGM. Ngô Quang Kiệt

Hoạt động và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Vì con người có thể xác nhưng cũng có linh hồn. Vì đời sống trong xã hội, con người có bổn phận đối với làng xóm, với đất nước. Để thăng tiến bản thân, gia đình và đất nước, ta phải học hành, lao động hết sức vất vả. Đó là nhiệm vụ bắt buộc. Một người có tinh thần trách nhiệm không thể nào xao lãng những nhiệm vụ đó. Tuy nhiên sẽ là thiếu sót rất lớn nếu con người chỉ biết có đời sống thể xác mà quên đi đời sống tâm linh. Thật vậy, con người không chỉ có thể xác mà còn có linh hồn. Đời sống tâm linh cũng cần phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Sẽ là khập khiễng, lệch lạc, què quặt nếu chỉ lo phát triển đời sống vật lý mà quên đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh được nuôi dưỡng bồi bổ ở bên Chúa. Chính Chúa là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Vì thế những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giờ phút cầu nguyện mà con người được phát triển quân bình, song song cả hồn lẫn xác.Trời có lúc mưa lúc nắng. Mưa để tưới cho cây lúa mọc nhanh. Nắng để cho hạt lúa vào mẩy chín vàng. Thời gian có ngày có đêm. Ngày để con người làm việc. Đêm để con người nghỉ ngơi phục hồi sức lực. Con người có đời sống riêng tư những cũng có đời sống xã hội. Có lúc phải ra ngoài góp mặt với đời. Có lúc phải rút lui vào chốn riêng tư để sống cho mình. Nhịp hai chi phối đời sống con người ấy cũng chi phối những hoạt động thiêng liêng của người môn đệ Chúa. Trong bài Tin Mừng Chủ nhật tuần trước, ta đã thấy Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Hôm nay, khi các ông về tường trình lại những việc đã làm. Người bảo các ông tìm chỗ vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Sống riêng tư thân mật với Chúa. Hoạt động và cầu nguyện, đó là nhịp sống của người môn đệ Chúa.

Hơn thế nữa việc cầu nguyện sẽ hỗ trợ hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chức quyền. Một xã hội chỉ phát triển về vật chất mà không phát triển về đạo đức sẽ khó tồn tại. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời, ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa lỗi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.

Riêng trong lãnh vực tông đồ, cầu nguyện tuyệt đối cần thiết. Thật vậy, việc tông đồ bắt nguồn từ nơi Chúa. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Làm việc của Chúa mà không kết hiệp mật thiết với Chúa thì không những không thể có kết quả tốt đẹp mà còn có nguy cơ đi sai đường, làm hỏng công việc của Chúa. Không cầu nguyện ta sẽ dễ chú ý tới những hoạt động thuần tuý phô trương bề ngoài. Không cầu nguyện ta sẽ dễ biến việc của Chúa thành của riêng ta và vì thế sinh ra tự phụ, kiêu hãnh. Không cầu nguyện, việc tông đồ sẽ chỉ là một hoạt động xã hội từ thiện không hơn không kém. Vì thế, cầu nguyện rất cần thiết. Cần cầu nguyện đế biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cần cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cần cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Thiên Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.

Hoạt động và cầu nguyện. Đó là hai nhịp trong đời sống Kitô hữu. Nhưng có lẽ ta thường chú trọng tới hoạt động mà quên cầu nguyện. Hôm nay, Chúa dạy ta phải biết giữ quân bình giữa hai nhịp của đời sống. Có hoạt động nhưng cũng phải có cầu nguyện. Hoạt động phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Cầu nguyện để tổng kết lượng giá những hoạt động cũ và định hướng những hoạt động mới. Hoạt động là bề mặt. Cầu nguyện là bề sâu. Giữ được quân bình giữa hai nhịp sống, con người mới phát triển toàn diện. Duy trì sự ổn định của hai nhịp sống mọi hoạt động của con người mới có nền tảng và bền vững.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Một ngày kết thúc mà bạn chưa cầu nguyện, bạn có cảm thấy như thế là thiếu sót như thể bạn chưa ăn gì trong ngày hôm ấy không?
  2. Trước khi đi làm việc tông đồ, bạn có cầu nguyện không?
  3. Hai nhịp trong đời sống bạn đã hài hoà chưa? Bạn sẽ làm gì để chỉnh đốn lại những lệch lạc trong nhịp sống?
  4. Gia đình bạn có cầu nguyện chúng với nhau trước khi đi ngủ không?

 

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*