• Lời Chúa và Thánh Thể- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  • Đồng hành-Am Trần Bình An
  • Phục sinh cho đời-Lm Jos Tạ Duy Tuyền
  • Đường Emmaus-ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
  • Đường hy vọng-ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
  • Gặp Gỡ Chúa Phục Sinh -Lm Giuse Nguyễn Hữu An
  • Tìm gặp được Chúa hôm nay-Lm Mark Link S.J.
  • Cuộc sống mới-Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
  • Hiệp sống Lời Chúa-Lm Đan Vinh
  • Chỉ cách mặt hồ-Khổng Nhuận
  • Niềm vui phục sinh-Kha Đông Anh dịch
  • Sự Hiện Hữu Của Thiên Chúa-Lm John Nguyễn Tươi
  • Bắt gặp Chúa trên mọi nẻo đường đời-Huệ Minh
  • Cần Chúa giải phóng-Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  • Trên đường Emmaus-Mai Tá dịch
  • Chuyện Phiệm-trần ngọc mười Hai
  • Nhận biết Đấng Phục Sinh-Trầm Thiên Thu
  • Nhận ra Chúa Phục Sinh khi người bẻ bánh-P Trần Đình Phan Tiến

LỜI CHÚA VÀ THÁNH THỂ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Suy niệm Chúa nhật III Phục Sinh năm – A

(Lc 24, 13-35)

 

Ít ai biết đến ” một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm (Lc 24, 13), nếu không có một Người Bộ Hành mà hai môn đệ coi là “khách hành hương” cùng đi với họ thì ngôi làng Emmaus ấy đã bị lãng quên từ lầu rồi. Theo hai ông, đây là khách hành hương duy nhất ” không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay “(Lc 24, 18).

Chúng ta không biết tên của một trong hai môn đệ, chỉ biết một người tên là Clêophas, còn người kia thì không, có thể là mỗi người trong chúng ta, vào những giờ đen tối nhất của nghi ngờ, buồn thảm, mệt mỏi và chán nản, cuộc sống dường như thất bại, không thay đổi được quá trình của các sự kiện. Chúng ta không tiến bước, mà lại quay về với thực tại của quá khứ, trở thành gánh quá nặng, hoặc một mớ rối bòng bong, trốn chạy bằng con đường Emmaus. Hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh trong đời sống chúng ta.

Hai môn đệ trên đường Emmaus đã gắn bó với Đức Giêsu thành Nagiarét ” với hy vọng Người sẽ cứu Israel ” (Lc 24, 21). Rõ ràng, hai ông đã không ” nghe ” những lời cảnh báo lặp đi lặp lại của Thầy dành cho tất cả những ai muốn theo Người : ” Phàm ai không vác khổ giá mình mà đi sau Ta, ắt không thể làm môn đồ của Ta ” ( Lc 14, 27). Trong sự hào hứng của mình, họ đã ” không ngồi mà trù liệu phí tổn, xem có đủ vốn đến lúc hoàn thành hay không ? ” (Lc 14 , 28). Họ đã đặt nền móng, nhưng khi có thử thách về cuộc Khổ Nạn, họ bỏ dở : làm thế nào họ có thể tiếp tục mà không có một kế hoạch và không có người đứng đầu, tức là thợ cả ?  Bằng chứng lời Chúa chứng minh rằng họ thiếu cái gì đấy để tiếp tục và đi đến cùng việc xây dựng Nước Trời ở giữa họ.

Vì đã tham gia vào cuộc hành trình buồn bã của họ, giữa bóng đêm của ngày đang qua và bóng tối đang phủ kín tâm trí họ, Chúa Giêsu Phục Sinh bắt đầu gợi chuyện : “Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy ?” (Lc 24, 17)  Nghe hỏi thế, họ đã bộc bạch về sự đau khổ, thất vọng, đắng cay của chính mình sau khi Thầy chết, các môn đệ tản mác mỗi người một ngả, đức tin của họ bị tan vỡ, mọi sự xem ra đã hết, các xác tín sụp đổ, niềm hy vọng tắt ngúm. Chúa nói chuyện với hai ông và  ” giải thích  ” Kinh Thánh. Chúa chủ động trình bày cho họ, ” bắt đầu từ Môsê và các tiên tri“, mà tất  cả Sách Thánh đều hướng về mầu nhiệm Con Người (x. Lc 24, 27), làm cho tâm hồn họ “ bừng cháy”. Lời Chúa đem lại một tia sáng khơi lên niềm hy vọng, đưa họ ra khỏi bóng tối của phiền muộn và thất vọng, đánh thức nơi họ lòng khao khát muốn được ở gần Người, khiến họ nài ép : “Mời ông ở lại với chúng tôi, với lý do “vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn ” ( Lc 24, 29 ).

Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn” (Lc 24, 29 ). Đây là lời mời xin tha thiết của hai ông vào ngày thứ nhất trong tuần, lúc mà tâm hồn đang trĩu nặng vì buồn nản, đang trên đường trở về quê. Họ không bao giờ nghĩ rằng người khách lạ ấy lại chính là Thầy mình mới sống lại. Hai ông đã nhận ra Người tại bàn ăn chỉ với một hành vi ” bẻ bánh ” đơn giản ( Lc 24, 35 ). Khi trí khôn được chiếu sáng, con tim được đốt nóng, những dấu chỉ bắt đầu gợi lên lòng sốt mến và thôi thúc họ ” chỗi dậy trở về Giêrusalem ” ( Lc  24, 33 ) để thuật lại tất cả những gì họ đã thấy và đã nghe cho ” mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp ” (Lc 24, 33).

Hình ảnh hai môn đệ trên đường Emmaus có thể hình ảnh của mỗi chúng ta giữa biết bao vấn đề và khó khăn, ngay cả những thất vọng nặng nề, Người Bộ Hành Thần Linh vẫn tiếp tục đồng hành bên cạnh chúng ta, mở ra cho chúng ta những trang Kinh Thánh và hướng dẫn chúng ta hiểu sâu hơn những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chúng ta hãy van nài : Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con.

Chúa luôn ở với chúng ta, hãy năng đến gặp Người nơi Bí tích Thánh Thể và lắng nghe Lời Chúa. Chính Ðấng Cứu Thế đã bảo đảm cho chúng ta về sự hiện diện hữu hình của Người ở giữa chúng ta, ngang qua Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể. Lời Chúa giúp tâm hồn các ông nóng lại, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Cử chỉ bẻ bánh giúp các môn đệ nhận ra Chúa Giê-su (x. Lc 24,35).

Chúng ta cũng vậy, bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể luôn dọn sẵn cho chúng ta, chúng ta nghe Chúa nói, gặp gỡ và đón rước Chúa trong khi cử hành Thánh lễ và rước lễ. Hai môn đệ nhận ra Ðức Giêsu khi người bẻ bánh, liền về Giêrusalem kể lại kinh nghiệm ngoại thường mà họ đã sống: đó là cuộc gặp gỡ với Ðấng Phục Sinh.

Thánh Phaolô cũng bảo chúng ta : ” Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền sự chết của Chúa cho tới khi Người đến” ( 1 Cr 11, 26 ). Như thế, chúng  ta phải nỗ lực phấn đấu trở thành những chứng nhân, sẵn sàng loan báo cái chết và sự phục sinh của Ðức Kitô với lòng hăng say và niềm vui vì được gặp gỡ Chúa. Niềm vui ấy phải lây sang người khác làm cho Giáo Hội tăng trưởng. Giáo Hội lớn mạnh nhờ những chứng tá nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và được biến thành lời loan báo. Ðó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa.

Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như gương mẫu để  bắt chước. Xin Mẹ giúp chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể và nghe Lời Chúa, nhất là hăng say loan báo Tin Mừng Chúa sống lại để mọi người tin mà được cứu độ. Amen.

ĐỒNG HÀNH

Am Trần Bình An

Chia sẻ Tin Mừng CN 3 Phục Sinh Năm A 2017 (Lc 24, 13-35)

Đồng hành

Năm 1991, khi mẹ gọi tôi tới khu nhà nghỉ mát ở Hood Canal để gặp gỡ một nhóm bạn, bao gồm cả Warren, tôi đã không muốn đi. Tôi lấy lí do là quá bận rộn với công việc, nhưng mẹ cố thuyết phục tôi rằng Warren Buffett là một người rất thú vị. Mặc dù vậy, tôi vẫn rất kiên quyết: “Mẹ nhìn xem, ông ta chỉ mua và bán những mẩu giấy, chúng không đem lại giá trị thực sự. Con không nghĩ con và anh ta có nhiều điểm chung.” Cuối cùng, tôi vẫn bị mẹ thuyết phục, dù trong lòng không thực sự sẵn sàng.

Khi gặp Warren ở bữa tiệc, ông hỏi tôi một số câu hỏi về kinh doanh phần mềm và tại sao một công ty nhỏ như Microsoft lại mong đợi có thể cạnh tranh với IBM (Tập đoàn máy tính đa quốc gia lớn nhất thế giới thời điểm đó, thành lập từ năm 1911) và các phần mềm được thiết lập thế nào, giá cả ra sao? Đó quả thật là những câu hỏi tuyệt vời mà chưa ai từng hỏi tôi. Chúng tôi hoàn toàn say mê với cuộc trò chuyện cùng nhau mà quên cả thời gian. Trong cuộc trò chuyện, Warren không phải một nhà đầu tư lớn, ông ấy đã rất khiêm tốn khi nói về những điều ông đã làm. Warren thật thú vị và tôi ấn tượng nhất với cách ông suy nghĩ về thế giới. Cuộc trò chuyện đó là khởi đầu cho một tình bạn sâu sắc.

 

Tại văn phòng làm việc, tôi chỉ lưu 2 số điện thoải khẩn cấp: số của gia đình và số của Warren Buffett. Thật tuyệt nếu ông ấy có thời gian để nghe điện thoại của tôi. Khi đó tôi sẽ liên tục học được những điều mới mẻ từ ông ấy. Warren và tôi đều thích nói chuyện về các công ty, chính trị, các sự kiện nổi bật và những đổi mới đang diễn ra trên thế giới. Thực sự thú vị khi nói chuyện với một người có cùng mối quan tâm với bạn, nhưng lại có cách phân tích dựa trên nền tảng khác biệt. Khi nhìn nhận các vấn đề, Warren dùng đôi mắt của một nhà đầu tư kinh tế và tôi thì dùng kĩ năng của một chuyên gia công nghệ.

Warren là một người hướng dẫn tuyệt với đối với tôi và Melinda. Trước mỗi thách thức, chúng tôi thường tự hỏi: “Trong tình huống này, Warren sẽ làm gì?” Bằng cách đó, chúng tôi tìm ra giải pháp tốt nhất. Tôi và Warren gần như đồng trang lứa, nhưng thực sự đôi khi ông ấy khôn ngoan hơn nhiều. Đối với tôi, ông ấy có lẽ giống như một người cha.

 

Và ông ấy cũng rất tài năng khi đầu tư vào con người. Tôi luôn ngạc nhiên về cách ông ấy thu hút mọi người và khiến mọi người vui vẻ khi tiếp thu, học hỏi từ ông. Mặc dù rất bận rộn, Warren luôn sắp xếp thời gian để nuôi dưỡng tình bạn của chúng tôi. Ông thường xuyên gọi điện và gửi những bài viết ông ấy nghĩ tôi và Melinda sẽ thích.

Hơn 25 năm qua, tôi đã học rất nhiều điều từ Warren, nhưng có lẽ điều quan trọng nhất là cách ông ấy nuôi dưỡng tình bạn của chúng tôi. Thật may mắn khi có một người bạn thân ái và tử tế như Warren. Ông sẵn sàng giúp mọi người cảm thấy tốt hơn về bản thân và chia sẻ niềm vui trong cuộc sống. Cho đến bây giờ, mỗi khi có dịp tới Omaha, Warren vẫn lái xe tới sân bay để đón tôi. (Thu Hoài, Thâm tình hơn 1/4 thế kỉ của hai tỷ phú giàu nhất thế giới: Bill Gates và Warren Buffett, Tri thức trẻ)

Hai tỷ phú Warren Buffett và Bill Gates đang đồng hành cùng nhau, dù khác ngành nghề kinh doanh, nhưng đều hiệp nhất, chia sẻ quan niệm sống, giúp nhau hướng thượng, làm từ thiện. Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu phục sinh  cũng âm thầm, lặng lẽ đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau. Người chia sẻ tâm tư, Lời Chúa đến Thánh Thể, khiến nhị vị nhận ra chính Người.

Chia sẻ tâm tình

 

“Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra.” Đức Giêsu mong muốn các môn đệ luôn kết hiệp với nhau vì danh Chúa. Nên thấy hai người buồn nản, đau khổ, mất phương hướng, sau khi Người chịu chết và mai táng trong mồ, Người đã phục sinh, hiện ra an ủi, chia sẻ tâm tình thất vọng, lo âu, sợ hãi quyền lực đen tối. “Ở đâu có hai, ba người họp lại vì danh Ta, thì có Ta ở đó, giữa họ.”(Mt 18, 19-20)

Cầu nguyện chung là phương thức cổ võ và duy trì bác ái và hiệp nhất trong cộng đoàn, qua tâm đầu hiệp ý và nhân danh Đức Giêsu.“Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau.” (Ep 4, 3)

Khi đồng hành cùng hai môn đệ, Đức Giêsu liền thân ái thăm hỏi:“Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?” Người luôn ân cần quan tâm đến người đi cùng, tích cực an ủi, chia sẻ và nâng đỡ.  

 

Chia sẻ Lời Chúa

 

Sau khi ân cần hỏi han sự tình mới xảy ra ở Giêrusalem, hiểu rõ tâm tình thất vọng của hai môn đệ, vì còn chìm đắm u mê, Người liền chia sẻ, giải thích sứ vụ của Đấng Cứu Thế, phải trải qua bao khổ nạn và chịu đóng đinh, rồi sống lại, y như Kinh Thánh đã tiên báo. “Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người.” Khiến lòng trí họ mở ra đón nhận ánh sáng Tin Mừng: “Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?” Bởi vì Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi. (Tv 119, 105)

 

Chia sẻ Thánh Thể

Nhờ Lời Chúa khai hoá, xua tan mây mù thế gian, đốt lên ngọn lửa mến, niềm tin, lòng cậy trông, hai môn đệ hiệp nhất, đồng tâm, đồng thanh mời Đức Giêsu ở lại. Họ muốn chia sẻ với Người nơi ăn nghỉ, cùng tha thiết được chia sẻ hơn nữa.“Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người.”

Ánh sáng Lời Chúa lại thêm tỏ tường, rạng rỡ, chói loà khi Người lập lại cử chỉ bẻ bánh. Hai môn đệ hân hoan nhận ra ngay chính Người là Đức Giêsu phục sinh, vị Thầy muôn thuở, đã tận tình dìu dắt, chỉ dạy cho họ suốt ba năm qua. Người đã lập nên Bí Tích Thánh Thể, vốn là tuyệt đỉnh tình yêu, hoàn toàn dâng hiến, hy sinh, trở nên lương thực cho nhân loại.“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.” (Ga 15, 13)

Hằng ngày cùng với Chúa Giêsu, con dâng hiến mình, sẵn sàng từng giây phút, để “bị nộp” vì anh em con, để “đổ máu ra cho nhiều người được tha tội,” (Đường Hy Vọng, số 377)

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin thương xót đồng hành cùng chúng con, để chúng con luôn được chia sẻ Lời Chúa và Mình Máu Chúa .

Khấn xin Mẹ thương yêu cầu bầu cho chúng con luôn được Chúa Giêsu đồng hành trong từng giây phút cuộc đời. Amen.

PHỤC SINH CHO ĐỜI

Lm Jos Tạ Duy Tuyền

Chúa nhật III phục sinh, năm A-2017

Cuộc đời vốn dĩ bấp bênh, vô định. Con người luôn đứng trước phong ba bão tố. Cái khổ, cái đói, và bệnh tật cứ lận vào kiếp người khiến chúng ta cảm thấy khổ nhiều hơn vui, lo nhiều hơn bình an.

Trước những đau khổ bủa vây, người Việt nam xưa vẫn tin vào Ông Trời. Họ cầu mong Trời phù hộ. Họ kêu cầu Trời giúp họ vượt qua tai ương hoạn nạn. Ông Trời không phải là sản phảm do con người tự vẽ ra để tìm cách trấn an lòng mình. Nhưng ông Trời luôn có mắt để trông xem vạn vật và đòi lại công bằng cho con người.

Thế nên, trong mọi niềm đau và oan trái người Việt Nam đều chạy đến với Trời. Họ cầu khẩn Trời phù hộ và giúp họ vượt qua, như câu ca dao xưa dân gian vẫn đọc.

Ngồi buồn đốt một đống rơm

Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào

Khói bay tới tận thiên tào

Ngọc Hoàng phán hỏi thằng nào đốt rơm?

Hóa ra Ông Trời thật dễ thương, thật gần gũi. Khi con người buồn quá, đau quá họ trút mọi nỗi đắng cay ấy vào đống rơm và cho bốc cháy thành khói đen nặc mùi khổ đau. Ông Trời cũng xót xa phận người khổ đau liền hỏi: “thằng nào đốt rơm?”.

Trong câu hỏi đã có câu trả lời. Ông Trời đã biết ai đang khổ, ai đang cay đắng những bể dâu. Ông Trời sẽ giải cứu mọi nỗi oan gia cho con người, miễn là con người còn có niềm tin vào Trời thì mọi sự sẽ vượt qua, bởi vì: “Trời nào có phụ ai đâu! Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ!”

Có thời kỳ người ta tưởng sự tiến bộ của văn minh sẽ xóa sổ Ông Trời. Sẽ không còn ai tin vào Trời, vào thần thánh. Thế nhưng, điều đó đang diễn ra ngược lại. Con người văn minh họ càng thấy mình nhỏ bé so với vũ trụ bao la. Sự văn minh lại đẩy con người vào biết bao những oan gia, những thị phi, khổ đau. Con người vẫn cảm thấy bế tắc trước bao vấn nạn cho nhân sinh quan của con người. Niềm tin vào Trời hôm nay lại rộn ràng hơn, lại sầm uất hơn. Đặc biệt Việt Nam với hơn 8.000 lễ hội là một con số khổng lồ. Nó phản ánh một nhu cầu tâm linh khi con người càng bế tắc trong cuộc sống họ càng chạy đến cầu khẩn thần linh nhiều hơn.

Câu chuyện Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmaus thật gần gũi với con người hôm nay. Hai môn đệ đang mang trong tâm trạng chán chường thất vọng. Họ bị cuộc đời vùi dập đến nỗi đánh mất tất cả niềm hy vọng. Họ đã từng hy vọng đi bên Thầy Giê-su trong vương quốc của Ngài. Thế mà, Ngài lại bị đóng đinh vào thập giá. Ước mơ tan thành mây khói. Niềm tin về cuộc sống, về công lý đã không còn. Các ông chỉ thấy “khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào” mà còn cay cay nghẹn lòng xót xa!

Nhưng Đức Giê-su phục sinh đã cảm thông với nỗi niềm tang thương nơi các ông. Ngài dẫn chứng Kinh Thánh cho các ông thấy mọi sự đang trong đường lối Thiên Chúa. Chương trình cứu độ của Thiên Chúa đang được thực hiện qua cái chết của Thầy Giê-su. Và rồi, mắt họ bừng lên niềm hy vọng khi họ nhận ra Thầy mình vẫn sống, vẫn đang hiện diện bên mình. Sự chết đã bị đánh bại. Niềm đau đã không còn mà biến thành niềm vui vì từ nay Chúa không chỉ đồng hành mà còn đồng bàn với họ.

“Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời húc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền bừng mở, và họ nhận ra Người” (Luca 24:30-31).

Quả thực, hai môn để đã hoàn toàn thay đổi nhờ gặp được Chúa Giê-su. Một Giê-su là Chúa của họ đã đánh bại thần chết để sống lại vinh quang. Chính cuộc gặp gỡ này đã mang lại cho họ một niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Chính cuộc gặp gỡ này đã thay đổi hoàn toàn não trạng của họ từ thất vọng đến tin tưởng, lạc quan. Từ nay họ hiểu rằng Thiên Chúa vẫn hằng sống và hằng quan tâm đến họ.

Xin cho chúng ta luôn xác tín về sự hiện diện của Chúa để dám sống làm chứng cho Chúa. Ước gì chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng nhưng luôn tin tưởng phó thác nơi Chúa trước những khó khăn trong dòng đời. Xin đừng vì những nghi nan mà chối bỏ Chúa nhưng luôn biết cậy dựa vào Chúa để vượt qua sóng vỗ ba đào. Nhất là hãy tin tưởng: “Chúa đã thắng thế gian”. Hãy vui mừng luôn trong mọi hoàn cảnh. Amen

ĐƯỜNG EMMAUS

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Chúa Nhật III Phục sinh, năm A

ĐƯỜNG EMMAUS

Đường Emmaus thật lạ kỳ. Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi thì đường xa vời vợi, mãi không thấy đến. Lúc về thì sao chóng vánh, chưa đi đã đến. Khi đi thì ảo não u sầu. Lúc về lại phấn khởi hân hoan. Khi đi trời còn sáng mà tưởng như đi trong đêm đen. Lúc về trời đã tối mịt mà tưởng đi giữa ban ngày. Khi đi tuyệt vọng chán chường. Lúc về tràn đầy hi vọng. Chắc hẳn ai cũng hiểu, lúc về có kết quả tốt đẹp như thế là vì hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Chúa Kitô Phục Sinh làm nên khác biệt. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc đời có ý nghĩa, có niềm vui, có hi vọng và có lẽ sống.

Nhưng làm thế nào để gặp được Chúa Kitô Phục Sinh? Thực ra sau khi phục sinh, Chúa không còn bị giới hạn trong không gian. Chúa ở khắp mọi nơi. Chúa ở ngay bên ta. Nhưng ta không thấy được Ngài và có khi thấy nhưng không nhận ra Ngài. Muốn gặp Ngài và nhận ra Ngài, ta hãy học hỏi bí quyết của hai môn đệ Emmaus: bí quyết đó là xây dựng những cộng đoàn chia sẻ.

Trước hết là chia sẻ Lời Chúa. Hai môn đệ không đi một mình nhưng lúc nào cũng bên nhau. Hai môn đệ không nói chuyện vu vơ, nhưng cùng nhau nhớ đến Chúa, nói chuyện về Chúa, chia sẻ tâm tư về Chúa. Các ngài đã thực hành Lời Chúa: “Ở đâu có hai ba người tụ họp nhân danh Thày thì Thày ở giữa họ.” Chúa đã thực hiện lời hứa nên đã đến đồng hành với các môn đệ. Hơn nữa, Chúa còn chia sẻ Lời Chúa giúp các ngài hiểu biết và yêu mến Lời Chúa.

Tiếp đến là chia sẻ bác ái. Chúa giả vờ muốn đi xa hơn. Nhưng các môn đệ van nài: “Xin ở lại với chúng tôi vì trời đã chiều và ngày sắp tàn.” Thật cảm động khi lỡ đường mà được mời chia sẻ một mái nhà, dù chỉ là quán trọ. Và chia sẻ một bữa ăn dù đơn sơ đạm bạc. Nếu các môn đệ không có lòng bác ái chia sẻ như thế, có lẽ Chúa đã bỏ đi. Cảm động trước tấm lòng chia sẻ chân thành nên Chúa đã ở lại. Các môn đệ đã thực hành Lời Chúa: “Mỗi lần các con làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40). Nhờ chia sẻ bác ái, các ngài đã được gặp Chúa. Và chính Chúa đã ở lại để chia sẻ tâm tình với các ngài.

Sau cùng là chia sẻ Thánh Thể. Ngồi vào bàn, Chúa Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.” Đúng như cử chỉ Chúa làm khi lập phép bí tích Thánh Thể. Mắt các môn đệ mở ra và nhận ra Chúa. Phép Thánh Thể cho các ngài bảo chứng về sự hiện diện của Chúa. Phép Thánh Thể ban cho các ngài niềm vui được gặp gỡ Chúa. Phép Thánh Thể ban cho các ngài sức sống mới để tiếp tục xây dựng các cộng đoàn chia sẻ rộng lớn hơn. Từ đó nhân lên các cộng đoàn chia sẻ Lời Chúa, chia sẻ bác ái và chia sẻ Thánh Thể đi khắp thế giới.

Tôi rất vui mừng vì giáo xứ nhà thờ chính tòa chúng ta đang phấn đấu xây dựng thành một cộng đoàn theo gương các môn đệ. Cha Xứ và Anh chị em đang tích cực khuyến khích nhau học hỏi, chia sẻ và thực hành Lời Chúa, khuyến khích tổ chức các nhóm họat động từ thiện bác ái, và khuyến khích mọi người đến tham dự thánh lễ ngày càng đông đảo. Đó là dấu hiệu Chúa đang ở giữa chúng ta. Có Chúa hiện diện tôi tin chắc cộng đoàn giáo xứ chúng ta sẽ được ơn biến đổi, sẽ tràn đầy niềm vui, niềm bình an, sẽ ngày càng thêm đoàn kết yêu thương và sẽ hăng hái đi loan Tin Mừng. Xin Chúa cho con đường cộng đoàn chúng ta đang đi trở nên con đường Emmaus, khi đi dù có khó khăn vất vả, nhưng với sự phấn đấu ta sẽ gặp Chúa và đường về sẽ tràn ngập niềm vui.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn. Amen!

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Có những cuộc gặp gỡ đốt nóng lên ngọn lửa yêu mến, hăng hái nhiệt tình trong tâm hồn. Bạn có kinh nghiệm này bao giờ chưa?

2) Gặp Chúa Giêsu đã biến các môn đệ thành những con người khác hẳn. Bạn có mong ước được gặp Chúa để thay đổi cuộc đời không?

3) Để sống tinh thần chia sẻ, bạn phải làm gì?

ĐƯỜNG HY VỌNG

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH

Bài Tin Mừng hôm nay thật đẹp. Đẹp vì lời văn óng ả. Đẹp vì tình tiết ly kỳ. Đẹp vì tình nghĩa đậm đà. Đẹp vì những tư tưởng thần học thâm sâu. Nhưng đẹp nhất là vì bài tin Mừng chất chứa một niềm hy vọng trong sáng, xua tan mọi bóng tối thất vọng não nề.

Hai môn đệ rời Giêrusalem trở về làng cũ. Giêrusalem là trung tâm tôn giáo. Rời Giêrusalem là dấu hiệu của sa sút niềm tin. Giêrusalem là trung tâm hoạt động. Rời Giêrusalem là dấu hiệu của chán nản buông xuôi. Trước kia hia ông đã bỏ nhà cửa, gia đình để đi theo Chúa Giêsu. Nay hai ông trở về như hai kẻ thua cuộc. Ngày ra đi ôm ấp giấc mộng thành đạt. Ngày trở về ôm nặng một mối sầu. Sầu vì đã mất Người Thầy yêu quí. Sầu vì giấc mộng không thành. Hai linh hồn sầu não, thất vọng lê bước trong ánh mặt trời chiều.

Những giữa lúc buồn tủi, thất vọng ấy, Chúa Giêsu đã xuất hiện. Lập tức ánh sáng rực lên giữa màn đêm đen. Niềm vui rộn rã xoá tan u sầu. Ngọn lửa bừng lên sưởi ấm những trái tim lạnh giá. Vì Chúa Giêsu đã đem đến cả một trời hy vọng.

Đọc trong bài Tin Mừng, ta thấy Chúa Giêsu đã nhen nhúm niềm hy vọng trong tâm hồn các môn đệ Emmau bằng ba loại ánh sáng.

1) Ánh sáng đức tin thắp lên niềm hy vọng.

Hai môn đệ đã chứng kiến cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu từ đầu cho đến cuối. Các ông đã thấy biết bao nhiêu phép lạ Người làm. Các ông đã nghe biết bao lời hay ý đẹp từ miệng Người phán ra. Các ông đã công nhận Người là một “Ngôn sứ đầy uy thế xét về việc làm cũng như lời nói”. Các ông đã hy vọng Người là Đấng giải thoát Israel. Nhưng cuộc thương khó và cái chết của Đức giêsu khiến các ông chán nản và thất vọng. Đến nỗi khi các phụ nữ ra mộ, gặp Thiên Thần báo tin Chúa đã phục sinh, về kể lại cho các ông vẫn không tin.

Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông “Lòng trí các anh sao mà chậm tin lời các ngôn sứ vậy”. Chúa Giêsu kêu gọi đức tin trở về. Chúa Giêsu khơi dậy đức tin đã lụi tàn bằng cặp mắt phàm trần và các ông không hiểu gì. Khi có đức tin, các ông sẽ hiểu tất cả. Đức tin là nguồn ánh sáng giúp ta nhìn ra ý nghĩa của các biến cố trong cuộc đời. Đức tin là đốm lửa thắp lên niềm hy vọng giữa đêm đen tuyệt vọng.

2) Ánh sáng lời Chúa gieo mầm hy vọng.

Hai môn đệ đã đọc Kinh Thánh. Các ông thuộc vanh vách sách Lề Luật Môsê, các Ngôn sứ và Thánh vịnh. Thế nhưng các ông vẫn thất vọng. Vì các ông đọc Kinh Thánh mà không hiểu Kinh Thánh. Các ông học Kinh Thánh như học một bài thuộc lòng. Các ông đọc Kinh Thánh như đọc một bản văn cổ, chỉ có những con chữ vô hồn.

Chúa Giêsu phải giải thích Kinh Thánh cho các ông. Bắt đầu từ sách Lề Luật, rồi lời các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh. Khi nghe Chúa nói, tim các ông rộn ràng niềm vui, trí các ông bừng sáng như thể một ngọn lửa nhen nhúm trong lòng. Chúa Giêsu đã dạy các ông một cách đọc Kinh Thánh mới mẻ. Phải đọc giữa những hàng chữ để thấy rõ những ý nghĩa nhiệm mầu. Phải tìm sau những hàng chữ để thấy được ý định kỳ diệu của Thiên Chúa. Phải đọc Kinh Thánh dưới sự hiện diện của Thiên Chúa. Phải thấy bóng dáng Thiên Chúa thấp thoáng suốt những trang sách. Và phải đọc Kinh Thánh với một trái tim yêu mến tha thiết.

Khi trái tim mở rộng đón nhận, lời Chúa sẽ gieo vào hồn ta những mầm mống hy vọng. Và cuộc đời sẽ thấy lại ý nghĩa, tìm được niềm vui.

3) Ánh sáng Thánh Thể nuôi dưỡng niềm hy vọng

Niềm hy vọng trở thành hiện thực khi Chúa Giêsu bẻ bánh. Chính qua cử chỉ bẻ bánh mà các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Niềm hy vọng không còn là hy vọng nữa, nhưng đã trở thành hiện thực. Hết còn những bàn tin bán nghi. Hết còn những hoang lo lắng. Hết còn những thấp thỏm lo âu. Vì các ông đã gặp được chính niềm hy vọng.

Cuộc gặp gỡ chỉ thoáng qua, nhưng các ông đã mãn nguyện. Chúa Giêsu bẻ bánh là nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người các ông đổi mới. Dường như một linh hồn mới vừa nhập vào những xác thân mệt mỏi rã rời. Dường như dòng máu đã trở nên đỏ thắm. Dường như những tế bào đã trở nên tươi trẻ. Dường như trái tim đã trở nên rộn rã nhịp yêu đời. Lập tức các ông trở lại Giêrusalem. Đường đi khi trời còn sáng mà thấy xa xôi ngại ngùng. Đường đi về lúc trời đã tối đen mà sao thấy tươi vui gần gũi. Lúc đi có Chúa ở bên mà vì con mắt đức tin mù tối nên vẫn thấy buồn sầu. Lúc về tuy vắng bóng Chúa vẫn an tâm vì con mắt đức tin đã mở ra, vì vẫn biết có Chúa ở bên. Thánh Thể Chúa chính là lương thực nuôi dưỡng niềm hy vọng.

Nhờ có Thánh Thể, đường xa trở nên gần. Nhờ có Thánh Thể, đường buồn trở nên vui. Vì nhờ có Thánh Thể, ta luôn được ở bên Chúa.

Đời sống ta không thiếu những giờ phút khó khăn. Cuộc đời đầy thử thách nhiều lúc đẩy ta vào hố thẳm tuyệt vọng. Ta hãy học bài học Chúa dạy các môn đệ trên đường Emmau: Hãy biết nhìn các biến cố trong cuộc đời bằng con mắt đức tin. Dưới ánh sáng đức tin, mị đau khổ sẽ xuất hiện với một ý nghĩa tốt đẹp cho cuộc đời. Ánh sáng đức tin sẽ thắp sáng niềm hy vọng. Hãy biết nghe, đọc và suy gẫm Lời Chúa. Đừng đọc Kinh Thánh như đọc tiểu thuyết. Đừng học hỏi Kinh Thánh như học một lý thuyết. Hãy đọc với tình yêu. Hãy tìm bóng dáng Chúa xuyên qua các hàng chữ. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa. Lời Chúa sẽ như một hạt giống gieo vào lòng ta mầm hy vọng xanh tươi. Và sau cùng hãy đến với Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.

Hãy kết hiệp với Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Thánh Thể sẽ là lương thực nuôi dưỡng niềm hy vọng của ta.

Đường đời chúng ta cũng như quãng đường từ Giêrusalem đi Emmau. Khi ta không có niềm hy vọng thì con đường ta đi thật dài, thật xa, thật buồn, thật tối dù ta đi giữa ban ngày. Nhưng khi ta có niềm hy vọng, con đường sẽ trở nên gần gũi, vui tươi, và sáng sủa dù ta đi trong bóng đêm.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh là niềm hy vọng của con. Xin cho đường con đi trở thành đường hy vọng vì luôn có Chúa ở bên con.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Chúa Giêsu đã chiếu soi các môn đệ Emmaus bằng những ánh sáng nào?

2) Có khi nào đang buồn, bạn cảm nhận được niềm vui vì gặp Chúa không?

3) Bạn đọc Kinh Thánh thế nào? Tìm kiến thức hay tìm Chúa?

4) Khi tham dự Thánh Lễ, bạn có cảm nhận mãnh liệt sự hiện diện của Chúa trong phép Mình Thánh không?

GẶP GỠ CHÚA PHỤC SINH

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Nhật 3 Phục Sinh năm A

Gặp Gỡ Chúa Phục Sinh

Trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dùng làm bản văn nền của Tông Huấn “Mane Nobiscum Domine”: Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con.

Từ nay, mỗi lần đọc đến câu chuyện “Hai môn đệ trên đường Emmau”, chúng ta thật xúc động và cầu nguyện với Thánh Gioan Phaolô II. Trong năm cuối cùng của triều đại Giáo hoàng, Ngài đã mở ra Năm Thánh Thể, mời gọi cộng đoàn Dân Chúa qui hướng về Thánh Thể, nơi Chúa Giêsu hiện diện thường trực và sống động.

Khi để lại cho Dân Chúa lòng sùng kính Bí Tích Thánh Thể, Thánh Gioan Phaolô II muốn công bố và nhắc nhớ về Đức Giêsu Phục Sinh. Bởi vì có phục sinh thật, Đức Giêsu mới đang thật sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, như thánh Phêrô công bố sự kiện Phục Sinh cho người Do thái sau khi Chúa sống lại (theo bài đọc 1). Ngài xác tín là, chúng ta sẽ gặp Đức Giêsu Phục Sinh khi mộ mến Bí Tích Thánh Thể. Ngài mời gọi, hãy nhớ đến Đấng đã cứu độ nhân loại, nhớ đến thân phận con người và diễm phúc là đã được cứu nhờ Đức Giêsu hy sinh mạng sống và đổ máu vì chúng ta; hay nói như thánh Phêrô trong bài đọc 2, được cứu khỏi nếp sống phù phiếm và sự chết đời đời, không phải nhờ vàng bạc hay hư nát mà nhờ Máu châu báu của Đức Giêsu.

Câu chuyện “Hai môn đệ trên đường Emmau” là một trong những câu chuyện Tin Mừng tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca.

Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối với các môn đệ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc.Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục. Hai môn đệ quyết định trở về quê nhà. Bước chân mỏi mệt chán chường, tuyệt vọng và cô đơn trên cuộc lữ hành. Nỗi buồn mất mát và nỗi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh.

Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to của các ông. Người ấy tiến về phía các ông, trò chuyện và đồng hành với các ông mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó, vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông còn được vị khách này giải thích tường tận những gì đã nói về Đấng Messia mà Môisen và các Ngôn sứ, tức là toàn bộ Kinh thánh đã loan báo.

Cho đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục Sinh chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kitô, Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành, người đã giảng dạy Kinh Thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục Sinh.

Niềm vui vì được gặp Chúa Phục Sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn tiệc Thánh, khiến cho hai môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên đường với niềm vui trở về Giêrusalem. Hội ngộ với các môn đệ khác và công bố Tin Mừng Phục Sinh. Kể từ đó, Tin Mừng Phục Sinh theo dấu chân của các Tông Đồ lan rộng khắp hoàn cầu.

Đường Emmau thật kỳ lạ. Đường dẫn đưa những lữ khách từ Giêrusalem về Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về lại hoá nên gần gũi thân quen. Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi thì đường xa vời vợi, đi mãi không đến. Lúc về sao ngắn ngũi, chưa đi đã đến. Khi đi thì chán nản u sầu. Lúc về phấn khởi hân hoan. Khi đi chán chường chậm chạp. Lúc về nhanh nhẹn vui tươi. Điều kỳ diệu của đường về là hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Người làm nên khác biệt giữa hai lần đi về. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc sống có ý nghĩa, có niềm vui, có hy vọng và có lẽ sống.

Sứ điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có thể được tóm kết trong ba chữ T : Thánh Kinh, Thánh Thể và Hội Thánh. Đó cũng là cũng chính là ba con đường chính yếu để chúng ta gặp gỡ Đấng Phục Sinh và thể hiện niềm tin của mình trong đời sống.

Gặp gỡ Chúa Phục Sinh nhờ Thánh Kinh

Chúa Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Người chăm chú lắng nghe họ kể nỗi đau buồn. Người đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh “Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các Tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh”. Người đã giải thích cho các ông: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môisen, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24, 44).Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Người và chỉ có ý nghĩa vì Người. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của “Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một”. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi. Chúa Phục Sinh cũng soi lòng mở trí cho các môn đệ đang quy tụ ở Giêrusalem. Người giúp các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Người cũng giúp các ông hiểu những thành quả tinh thần của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân nước. Bài đọc 1, sách Công vụ kể lại diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân chúng Giêrusalem, thánh Phêrô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mêsia.

Thánh Giêrônimô đã nói : Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô. Thánh Kinh là bức tâm thư Thiên Chúa gởi cho Dân được tuyển chọn.Cần có đức tin và lòng mến để tiếp nhận như giáo huấn của CĐVTC II đã dạy: “Trong các Sách Thánh,Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ.Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội Thánh và là sức mạnh của đức tin,lương thực nuôi linh hồn,nguồn sống thiêng liêng,tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội Thánh”(MK21).

Học hỏi Thánh Kinh để tìm được nguồn năng lực cho sức mạnh đức tin, lương thực thần thiêng nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu (MK 21), trau dồi và phát triển kiến thức thần học, nhưng điều căn bản vẫn là để giúp biết rõ hơn về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu Kitô (MK 26); Đấng mà cả hai Giao ước đều nhắm đến: Cựu ước nhìn với tất cả lòng mong đợi, Tân ước nhìn Người như Đấng hoàn tất các lời hứa cứu độ, cả hai đều đặt Người như trung tâm. Việc đọc và suy niệm Lời Chúa mang lại nguồn sáng, soi dẫn cuộc đời và lương thực thần thiêng cho cuộc sống, sau nữa là để “khi phải truyền đạt kho tàng bao la của Lời Chúa, không ai trở thành kẻ huênh hoang rao giảng Lời Chúa ngoài môi miệng vì không lắng nghe Lời trong lòng” (MK 26).

Gặp gỡ Chúa Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.

Trên đường Emmau, có một khách bộ hành đi cùng, hai môn đệ không nhận ra Thầy kính yêu của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao ban, hai ông mới nhận ra. Chính qua cử chỉ bẻ bánh mà các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúa bẻ bánh, nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người các ông được đổi mới.

Chúng ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.

Thánh Thể là trung tâm của cộng đoàn phụng vụ cử hành biến cố Vượt Qua của Chúa Giêsu. Thánh Thể quy tụ các tín hữu hiệp thông trong đức ái. Hội Thánh “duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” biểu lộ căn tính của mình rõ nét nhất lúc cử hành Thánh Thể. Thánh Thể làm nên thân thể Chúa Kitô. Thánh Thể là thần lương nuôi dưỡng con cái Hội Thánh. Qua bí tích Thánh Thể, mọi tín hữu không những được hiệp nhất với Thiên Chúa mà còn được nên một với nhau trong Hội Thánh.Thánh Thể là bài học yêu thương tuyệt hảo nhất, yêu thương đến tột cùng, trao ban đến tận cùng. Nhờ tham dự việc cử hành Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu trở thành một thực thể sống động, hiệp thông, liên kết trong đức ái, làm nên một thân thể mầu nhiệm. (x.Tông Huấn “Mane Nobiscum Domine”, số 11-18, Đức Gioan Phaolô II, ban hành ngày 7.10.2004).

Chúng ta gặp Chúa Phục Sinh khi cử hành Bí Tích Thánh Thể: cầm bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho nhau. Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức.

Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần cùng nhau cử hành Bí Tích Thánh Thể. Miễn là có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước mầu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Người và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Người.

Gặp gỡ Chúa Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh 

Hai môn đệ hân hoan trở về gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục Sinh. Tin vui phải được loan đi. Tin Mừng Phục Sinh phải được công bố. Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẻ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen. Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục Sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các ngài nữa vì Đấng Phục Sinh đang cùng đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.

Chính Đức Kitô đã củng cố niềm tin Phục Sinh cho các Tông Đồ. Thành thánh Giêrusalem là nơi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng và cũng là nơi Hội Thánh khởi sự thi hành sứ mạng của mình.

Tất cả những ai đã gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Chúa Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói : “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.

Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được diễm phúc cử hành cao điểm của niềm tin, mầu nhiệm cái chết thập giá và sự sống lại của Đức Kitô Giêsu. Người đang ban Lời chân lý (Thánh Kinh) và Bánh Trường Sinh (Thánh Thể), đang ủi an và chia sẻ tình yêu, đang động viên và soi sáng giúp chúng ta trở thành một cộng đoàn huynh đệ hiệp nhất (Hội Thánh).

Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được đồng hành bên nhau trong tình hiệp nhất, được chia sẻ Lời Chúa và được rước Thánh Thể. Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh.

CUỘC SỐNG MỚI

Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH

Chủ đề: Cuộc sống mới của kẻ tin vào Ðức Giêsu phục sinh.

I. Dẫn vào Thánh lễ

Ngày xưa trên đường Emmau có hai môn đệ hoang mang đã tìm lại được đức tin và niềm vui cho cuộc sống. Phải chăng nhiều lúc chúng ta cũng hoang mang như thế. Hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng hai môn đệ ấy dấn bước trên con đường Emmau để cũng tìm gặp những điều tốt lành như hai môn đệ ấy.

II. Gợi ý sám hối

-Chúng ta nhiều lần được nghe Lời Chúa nhưng tâm hồn vẫn nguội lạnh thờ ơ chứ không bừng cháy lên như hai môn đệ Emmau.

-Chúng ta nhiều lần tham dự lễ bẻ bánh nhưng cặp mắt đức tin vẫn khép kín không nhận ra Ðức Giêsu đang đồng hành với chúng ta.

-Chúng ta ít quan tâm tìm đến với Chúa qua việc đọc và cầu nguyện Thánh Kinh.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I: Cv 2,14.22-28

Ðoạn thư này của Thánh Phêrô gồm 2 ý chính:

-Ông nhắc lại cho dân Do Thái nhớ những nét chính về cuộc đời Ðức Giêsu: Ngài là người được Thiên Chúa sai đến với họ; Ngài đã làm “nhiều phép mầu, dấu lạ và những việc phi thường để chính minh sứ mạng của Ngài”; Ngài đã bị giết chết. Tất cả những điều này người do thái đều biết, nay chỉ cần nhắc lại là họ nhớ.

-Thiên Chúa đã làm cho Ðức Giêsu sống lại. Ðiều này làm ứng nghiệm Tv 15 và chứng minh Ðức Giêsu chính là Ðấng Messia.

2. Ðáp ca: Tv 15

Tác giả hát lên niềm vui vì đã dám đặt cuộc tất cả vào Chúa, và đã thắng cuộc. Chúng ta có thể dùng những lời Thánh vịnh này để biểu lộ niềm vui mừng và tin tưởng của chúng ta vì có Ðức Giêsu phục sinh đang ở bên chúng ta.

3. Bài đọc II: 1 Pr 1,17-21

Ðây là một lời kêu gọi hãy tin cậy vào Thiên Chúa và Ðức Giêsu phục sinh:

-Việc Ðức Giêsu chết và sống lại ấy đã giải thoát tín hữu khỏi lối sống phù phiếm xưa nay.

-Vậy từ nay tín hữu hãy đặt trọn niềm tin cậy phó thác vào Thiên Chúa và Ðức Giêsu phục sinh.

4. Bài Tin Mừng: Lc 24,13-35

Câu chuyện này diễn ra qua nhiều giai đoạn:

-Tâm trạng hoang mang chán chường của hai môn đệ trên đường Emmau.

-Ðức Giêsu phục sinh đã ban lại cho họ đức tin và niềm vui, bằng hai cách: giúp cho họ hiểu Lời Chúa, cử hành lễ Bẻ bánh. Ðây chính là 2 phương tiện giúp mọi tín hữu được gặp Ðức Giêsu phục sinh.

-Sau cảm nghiệm được gặp Ðức Giêsu, hai ông trở về Giêrusalem và loan báo Tin Mừng ấy cho các môn đệ khác.

IV. Gợi ý giảng

1. Làm thế nào để có được cảm nghiệm của hai môn đệ Emmau

Mong sao độc giả Tin Mừng hiểu được rằng câu chuyện này nhắm đến họ. Ðến lượt mình, họ tự hỏi làm sao thấy được Ðấng phục sinh. Câu trả lời là: mắt trần hoàn toàn vô dụng. Sự hiện diện của Ðấng phục sinh khác hẳn sự hiện diện của Ðức Giêsu Nadarét. Ðây là một sự hiện diện mới mẻ, chỉ tỏ hiện với con mắt đức tin được nuôi bằng kinh thánh và việc chia sẻ bữa ăn với Ðức Giêsu.

Nếu muốn thấy và sống sự hiện diện của Ðấng phục sinh, các tín hữu phải trang bị cho mình hai điều kiện ấy vì họ luôn sẵn có trong tay Thánh Kinh và Thánh Lễ. (M. Sevin, trích dịch bởi Fiches dominicales, trang 135)

2. Ðể khỏi rơi vào sự đơn điệu của đời thường

Lễ Phục sinh đã trôi qua 15 ngày. Chúng ta dễ buông mình rơi lại vào sự đơn điệu của đời thường, trở về với những lỗi phạm quen thuộc.

Nhưng đức tin không phải chỉ để dự lễ, mà là để sống cả đời. Ðức tin là một ơn gọi phải theo suốt đời.

Bởi thế, trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phêrô đưa ra rất nhiều chỉ dẫn để chúng ta luôn sống niềm tin vào Ðức Giêsu phục sinh:

– Ðừng tự ru ngủ bằng ý tưởng mình đã là con cái Thiên Chúa: “Thiên Chúa không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mà xét xử”. Phải biết “sợ” Cha mình, một nỗi sợ hiếu thảo và đầy tình yêu mến.

– Hãy luôn vui mừng vì mình là những con người tự do, tự do vì “được giải phóng khỏi lối sống phù phiếm do cha ông để lại”, để hướng tới sự thánh thiện. Nếu không hướng tới sự thánh thiện, chúng ta sẽ rơi lại nếp sống nô lệ cũ.

– Ý thức mình đã được cứu chuộc bằng giá máu của Ðức Giêsu. Ngài đã yêu thương ta đến thế, lẽ nào ta đành phụ bạc Ngài.

3. Một cách hiện diện mới

Cách viết của Luca chứa đựng một ngụ ý thần học sâu sắc: Khi hai môn đệ đang đi trên đường, mặc dù Ðức Giêsu đang ở bên cạnh họ nhưng họ không nhận ra “vì mắt họ còn bị ngăn cản” (câu 16). Ðến khi Ðức Giêsu bẻ bánh thì “mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài” (câu 31). “Nhưng Ngài lại biến mất” (câu 31).

Ngụ ý thần học của cách viết này là: Ðức Giêsu phục sinh vẫn hiện diện ngay bên cạnh ta, nhưng theo một cách mới. Chúng ta không thể nhận ra cách hiện diện mới ấy vì cặp mắt thể xác của ta như “bị ngăn cản” bởi một bức màn. Chỉ khi nào Ngài muốn và cho những ai Ngài muốn thì Ngài mới cất bức màn ấy đi và khi đó mắt chúng ta mới “mở ra” và thấy được Ngài.

Vì thế, một mặt chúng ta hãy vững tin rằng Ðức Giêsu phục sinh lúc nào cũng ở sát bên cạnh chúng ta; mặt khác hãy xử dụng những phương tiện mà Ngài đã để lại hầu có thể nhận ra Ngài, đó là Lời Chúa và Thánh lễ.

4. Bức họa của Rembrandt

Trong các tác phẩm của danh họa Rembrandt, có một bức rất ấn tượng vẽ cảnh Ðức Giêsu đang ngồi cùng bàn với hai môn đệ Emmau. Ðiều gây ấn tượng là vẻ mặt sung sướng vô ngần của hai môn đệ lúc họ nhận ra Chúa. Bức họa nổi tiếng này được đặt trong một nhà bảo tàng, và có một chuyên viên phụ trách giải thích ý nghĩa của nó cho các khách tham quan.

Lần kia một cặp vợ chồng vừa có đứa con duy nhất bị chết vì tai nạn. Họ buồn quá không biết làm gì nên cùng nhau đến nhà bảo tàng ấy để giải khuây. Họ cũng được người hướng dẫn ấy dẫn đến bức họa này. Ban đầu, hai vợ chồng chẳng buồn để ý tới những lời giải thích. Nhưng dần dần họ bị cuốn hút vào. Và cuối cùng, khi người hướng dẫn dứt lời thì họ tâm sự với người hướng dẫn: “Chúng tôi đã nghe nói về bức họa này nhiều lần, nhưng chưa lần nào chúng tôi được nghe người nào trình bày một cách hấp dẫn như ông. Chúng tôi thực sự xúc động.”

Người hướng dẫn đáp: “Thực ra, không phải lần nào tôi cũng trình bày một cách xác tín như vậy đâu. Có lần tôi đã nói một cách rất hời hợt qua loa.” Rồi ông ta kể: “Ba năm trước, vợ tôi bị ung thư, sức khoẻ cạn kiệt dần, rồi nàng chết một cách hết sức đau đớn. Tôi không thể nào chấp nhận nỗi các chết này, vì nàng là một người rất tốt, không đáng bị chết như thế. Tôi tưởng như cả thế giới sụp đổ. Tim tôi như vỡ tan. Nhưng vì bổn phận, tôi vẫn phải đến làm việc ở nhà bảo tàng này. Tôi giải thích ý nghĩa các bức họa một cách hết sức máy móc, vô hồn. Thế rồi một hôm, tôi chợt hiểu ra rằng bức họa này không chỉ liên can đến hai người môn đệ tuyệt vọng này, mà cả đến tôi nữa. Cũng như hai ông ấy, tôi đã tuyệt vọng và trở thành một người lữ hành cô đơn. Dù tôi là một người tín hữu, nhưng đối với tôi Ðức Giêsu chỉ là một nhân vật mờ mịt trong những trang sách Tin Mừng. Tuy nhiên hôm đó tôi cảm thấy Ngài đang hiện diện thực sự bên cạnh tôi, Ngài ở bên tôi như một người bạn hiểu rất rõ mọi nỗi khổ đau của loài người. Từ lúc đó “mắt tôi mở ra, lòng tôi cháy bừng lên” như hai môn đệ ấy. Tôi đã tìm lại được hy vọng và lẽ sống cho đời mình. Bởi vậy từ đó trở đi, mỗi khi tôi kể câu chuyện Emmau là tôi kể về chính cảm nghiệm của mình.”

Cặp vợ chồng không cầm được nước mắt: “Chúng tôi cũng thế. Chúng tôi đã ‘mở mắt ra và thấy lòng mình cháy bừng lên’. Hôm nay chúng tôi cũng tìm lại được hy vọng và lẽ sống cho đời mình, vì biết rằng Ðức Giêsu phục sinh đang thực sự ở bên cạnh chúng tôi”. (Flor McCarthy)

V. Lời nguyện cho mọi người

CT: Anh chị em thân mến

Niềm tin của hai môn đệ đi làng Emmau được củng cố vững chắc, và niềm vui gặp Chúa tràn ngập tâm hồn hai ông. Trong niềm hân hoan mừng Chúa đã sống lại, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.

  1. Hội Thánh tôn kính Lời Chúa ngang với Mình Máu Thánh Chúa / và không ngừng kêu gọi con cái mình siêng năng học hỏi Lời Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người kitô hữu / ý thức được tầm quan trọng của Lời Chúa trong đời sống đức tin thường ngày.
  1. Kinh Thánh là quyển sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất / và được nhiều người đọc nhất trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho ngày càng có nhiều người mộ mến tìm đọc / và nhận ra được giá trị thực sự của quyển sách quý báu này.
  1. Trong đời sống hằng ngày / có biết bao người chán nản và tuyệt vọng vì gặp quá nhiều đau khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / ban cho những anh chị em đang gặp thử thách gian nan / một niềm tin sắt đá / và một niềm cậy trông vững bền vào tình thương / và sự quan phòng của Người.
  1. Rộng rãi giúp đỡ những người khốn khổ bất hạnh / là một trong những bổn phận căn bản của đời sống đức tin / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thật tình chia sẻ cơm áo cho những ai thật sự đói nghèo.

CT: Lạy Chúa Kitô phục sinh, Chúa luôn đồng hành cùng chúng con trong cuộc sống. Xin cho tất cả chúng con biết nhận ra Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống thường ngày của chúng con, để chúng con vẫn luôn vui sống giữa muôn phiền toái của cuộc đời. Chúa hằng sống và hiển trị…

VI. Trong Thánh Lễ

– Kinh tiền tụng: nên dùng Kinh tiền tụng phục sinh số 2, vì có nói tới cuộc sống mới.

– Trước kinh Lạy Cha: Làm con thì phải phó thác theo ý cha mình. Chúng ta hãy hợp ý với Ðức Giêsu dâng lên Chúa Cha tâm tình phó thác của chúng ta.

VII. Giải tán

Sau khi gặp được Ðức Giêsu phục sinh, hai môn đệ Emmau đã làm chứng cho những người khác tin Chúa. Anh chị em cũng thế, hãy đi làm chứng cho mọi người rằng Chúa đã sống lại.

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

Lm Đan Vinh

CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH A

Cv 2,14.22-33 ; 1 Pr 1,17-21 ; Lc 24,13-35

ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚA TRONG CUỘC ĐỜI

  1. HỌC LỜI CHÚA
  2. TIN MỪNG: Lc 24,13-35

(13) Cùng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem sáu mươi dặm. (14) Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. (15) Đang lúc trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. (16) Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (17) Người hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu. (8) Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”.  (19) Đức Giê-su hỏi: “Chuyện gì vậy ?” Họ thưa: “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một Ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. (20) Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá (21) Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. (22) Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, (23) không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. (24) Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói: còn chính Người thì họ không thấy”. (25) Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: “Ôi những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ ! (26) Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? (27) Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. (28) Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. (29) Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn”. Bấy giờ Người vào ở lại với họ (30) Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. (31) Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. (32) Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (33) Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở về Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp lại đó (34) Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon” (35) Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.

  1. Ý CHÍNH: CHÚA PHỤC SINH HIỆN RA VỚI HAI MÔN ĐỆ LÀNG EM-MAU:

Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã hướng dẫn hai môn đệ về đức tin để họ từ tâm trạng chán nản và vấp ngã trước mầu nhiệm thập giá (18 và 21), đã tìm lại được niềm tin yêu vào mầu nhiệm Phục Sinh qua việc nghe lời Người giải thích Kinh Thánh (25-27.32), và được tham dự nghi thức Bẻ Bánh do chính Người thực hiện (30-31).

  1. CHÚ THÍCH:

– C 13-16: + Cùng ngày hôm ấy: Tức là ngày Thứ Nhất trong tuần. + Có hai người trong nhóm môn đệ: Hai môn đệ này thuộc nhóm 72 (x. Lc 10,1), không thuộc nhóm 12. Tin Mừng nhắc đến tên một trong hai ông là Cơ-lê-ô-pát (18). Còn ông thứ hai không được nêu tên và được suy đoán là chính Lu-ca, tác giả đã tường thuật câu chuyện này. + Làng Em-mau: Một nơi cách Giê-ru-sa-lem khoảng 11 km về phía Tây. Nhưng cho tới nay các nhà chú giải vẫn chưa xác định được vị trí của ngôi làng này. + Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra: Biến cố tử nạn của Đức Giê-su là mối bận tâm sâu đậm của các môn đệ, đến nỗi dù đang buồn chán thất vọng, các ông vẫn bàn tán với nhau đang khi đi đường. + Chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ: Đức Giê-su Phục Sinh luôn yêu thương và quan tâm đến các môn đệ. Khi họ gặp hoàn cảnh khó khăn nan giải, thì Người liền hiện đến để ban ơn nâng đỡ. + Mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người: Bị ngăn cản có thể do tâm trạng buồn sầu thất vọng, nên không nghĩ người khách lạ kia lại có thể là Thầy Giê-su của họ. Cũng có thể do khuôn mặt Đức Giê-su Phục Sinh đã được biến dạng khác với khi còn sống. Trước đó vào sáng Ngày Thứ Nhất trong tuần, bà Ma-ri-a Mác-đa-la cũng đã không nhận ra Chúa Phục Sinh khi Người hiện ra gần bên ngôi mộ đã an táng Người.

– C 17-18: + “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?” : Chúa Phục Sinh chủ động bắt chuyện để các ông dễ dàng tâm sự những lo buồn chất chứa trong lòng. + Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem…: Các ông nghĩ đây là một khách hành hương đi lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua, và không quan tâm đến một biến cố lớn lao mới xảy ra trong thành mấy ngày qua.

– C 19-21: + Chuyện ông Giê-su Na-da-rét…: Cho đến lúc này, các môn đệ mới công nhận Đức Giê-su là Ngôn sứ có quyền lực trong lời rao giảng và các phép lạ đã làm. Các ông đi theo Người với hy vọng có được một địa vị trong Vương quốc của Người. + Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình: Sự kiện mới xảy ra đã làm các ông chán nản thất vọng: các nhà lãnh đạo dân Ít-ra-en đã nộp Người để quan Phi-la-tô kết án đóng đinh thập giá. Còn Thiên Chúa thì không làm gì để cứu vị Ngôn sứ của Người. Sự việc xảy ra tới nay đã sang ngày thứ ba rồi !

– C 22-24: + Cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi…: Tâm trạng của các ông vẫn hoang mang, dù mấy phụ nữ và các Tông đồ đã nhìn thấy mồ trống, và thiên thần hiện ra bảo rằng “Người vẫn còn sống”, nhưng riêng các ông này thì cho điều đó thật khó tin. Câu này cho thấy hai môn đệ này không phải thuộc loại người dễ tin. Do đó, một khi họ tin thì chắc đã phải có những bằng chứng xác đáng không thể phản bác được.

– C 25-27: + Ôi những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ !: Lời Chúa quở trách đức tin yếu kém của hai ông có hơi nặng nề, nhưng thực ra vẫn hàm chứa một tình cảm âu yếm. + Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?: Chúa Giê-su nhắc lại lời Người đã từng báo trước về số phận của Người trước đó: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,22; 17,25). + Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ…: Luật Mô-sê và sấm ngôn của các ngôn sứ ám chỉ tòan bộ Thánh Kinh Cựu Ước, đã làm chứng về con đường cứu thế mà Đức Giê-su đã chọn theo là: « Qua đau khổ vào trong vinh quang » (x. Lc 24,44 tt).

– C 28-31: + Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa: Thái độ giả vờ ở đây không phải là giả dối, nhưng là cách thử để xem phản ứng của các môn đệ, xem các ông có thực lòng muốn nghe và muốn Người ở lại hay không. Một đức tin chỉ có giá trị khi người tin tự nguyện mở lòng đón nhận, chứ không bị ép buộc. + Họ nài ép Người: Đây là thái độ hiếu khách quen thuộc của Người Pa-lét-tin (x. Lc 14,23). Chính Lời Chúa giải thích Kinh Thánh đã đánh tan những lo lắng bất an trong lòng hai môn đệ, nên các ông đã xin Người ở lại nhà các ông để có thể tiếp tục nói chuyện với các ông. + Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn: Đây là lời hai môn đệ mời vị khách lạ kia ở lại một cách khép léo tế nhị. Đây cũng là lời cầu nguyện tâm tình của các tín hữu muốn kết hiệp mật thiết với Chúa.

– C 32-31: + Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ: Khó có thể nghĩ rằng Đức Giê-su đã truyền phép Thánh Thể như đã làm trong bữa Tiệc Ly. Nhưng ở đây, Lu-ca cố ý dùng kiểu nói quen thuộc trong phụng vụ Thánh Thể (x. Lc 22,19). Đó là cử chỉ Đức Giê-su đã làm khi nhân bánh ra nhiều (x. 9,16), ám chỉ nghi lễ Bẻ Bánh (x. Cv 2,46; 20,7.11). Sau này mỗi khi tham dự thánh lễ, các tín hữu cũng được nghe lời Chúa giáo huấn và được tham dự bàn tiệc Thánh Thể giống như hai môn đệ làng Em-mau. + Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người: Tiến trình đức tin của các tín hữu cũng bắt đầu từ việc lắng nghe Lời Chúa, rồi tin theo Chúa và được thánh hóa nhờ tham dự bàn tiệc Thánh Thể như bà Ly-đi-a thời Giáo Hội sơ khai (x. Cv 24,13-15). + Nhưng Người lại biến mất: Từ đây Chúa Giê-su sẽ hiện diện cách thiêng liêng vô hình khi các tín hữu đọc Thánh Kinh, nghe lời giảng của các mục tử, tham dự thánh lễ hay phục vụ người nghèo…

– C 32-35: + Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?: Nhờ được nghe giảng Thánh Kinh, các môn đệ đã thấy được ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su như một chặng đường Người phải trải qua để vào trong vinh quang phục sinh. + Ngay lúc ấy, họ đứng dậy…: Việc nhận ra Chúa Phục Sinh và lòng tin yêu Chúa đã biến đổi hai môn đệ từ chỗ thất vọng muốn buông xuôi, trở thành con người mới đầy phấn khởi và hy vọng. Tâm trạng ấy làm các ông hăng hái đi lại quãng đường dài 11 cây số trở về Giê-ru-sa-lem để báo tin vui cho các tông đồ và môn đệ khác. + Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon: Sự kiện Si-mon Phê-rô được Chúa Phục Sinh hiện ra trước các tông đồ khác đã được chính Chúa Giê-su tiên báo trước cuộc khổ nạn (x Lc 22,31-32) và sau này cũng được thánh Phao-lô nhắc đến trong thư Cô-rin-tô (x 1 Cr 15,5). + Thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường: Cuối cùng hai môn đệ làng Em-mau đã chia sẻ niềm vui Phục Sinh cho Nhóm Mười Một tông đồ và các môn đệ ở Giê-ru-sa-lem.

  1. CÂU HỎI:

1) Hai môn đệ quê làng Em-mau kể trên thuộc nhóm 12 tông đồ hay nhóm 72 môn đệ ? Tên của các ông là gì ? 2) Tại sao hai môn đệ làng Em-mau và bà Ma-ri-a Mác-đa-la lại không nhận ra ngay người đang nói chuyện với mình là Chúa Phục Sinh? 3) Việc Chúa Phục Sinh hiện ra với hai môn đệ làng Em-mau nói lên điều gì về tình yêu của Người đối với các tín hữu chúng ta ? 4) Câu trả lời của hai môn đệ cho thấy đức tin của các ông về sứ mạng của Đức Giê-su thế nào ? Các ông đi theo Đức Giê-su nhằm mục đích gì ? Tại sao giờ đây các ông lại chán nản tuyệt vọng ? 5) Hai môn đệ này có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm sống lại của Chúa Giê-su không ? Tại sao ? 6) Chúa Giê-su trong vai khách bộ hành đã làm gì để củng cố đức tin còn non yếu của hai môn đệ ? 7) Chúa Giê-su giả vờ muốn đi xa hơn nhằm mục đích gì ? 8) Câu nào của hai môn đệ là lời cầu nguyện mẫu về lòng tin yêu Chúa cho các tín hữu chúng ta hôm nay ? 9) Hai môn đệ đã nhận ra người khách lạ chính là Thầy Giê-su Phục Sinh khi nào ? 10) Hai ông cho biết lòng mình bừng cháy lên ngọn lửa tin yêu Chúa vào lúc nào ? 11) Điều gì khiến hai môn đệ nhiệt tình loan báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho người khác ?

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. LỜI CHÚA: Họ mới bảo nhau: “Dọc đường khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (Lc 24,32)
  3. CÂU CHUYỆN:

1) CHÚA BỒNG TA TRÊN ĐÔI TAY CỦA NGƯỜI ?

Một người tân tòng sau khi theo đạo đã gặp phải nhiều tai ương hoạn nạn: bệnh tật, rủi ro mất xe, mất tiền bạc… Anh đã nhiều lần xin Chúa cho tai qua nạn khỏi mà xem ra Chúa vẫn ngỏanh mặt làm ngơ khiến anh đâm ra chán nản và thôi không cầu nguyện và cũng không đến nhà thờ dự lễ nữa. Thế rồi một đêm kia, anh nằm mơ thấy mình đang đi bách bộ với Chúa Giê-su trên bãi biển. Anh quay nhìn ra sau thì thấy trên nền cát ướt có 4 dấu chân: hai dấu chân lớn của Chúa, và hai dấu chân nhỏ của anh. Khi gặp chỗ lởm chởm nhiều sỏi đá thì anh không thấy Chúa đi bên cạnh nữa. Quay lại nhìn thì anh chỉ thấy hai dấu chân trên cát của anh. Anh chán nản ngồi nghỉ mệt trên một tảng đá thì Chúa Giê-su lại hiện đến ngồi bên. Anh thắc mắc hỏi Người: “Lạy Chúa, vừa qua Chúa biến đi đâu để con phải một mình đương đầu với những khó khăn như vậy ?” Bấy giờ Chúa Giê-su mới âu yếm nhìn anh và nói: “Con hãy thử nhìn kỹ lại xem hai dấu chân trên cát kia là của ai ?” Lúc đó, anh ta mới nhìn kỹ và nhận ra đó hai dấu chân to là của Chúa Giê-su. Anh lại hỏi: “Lạy Chúa, thế thì dấu chân của con đâu ?” Chúa liền trả lời: “Con ơi, hãy nhớ rằng: Ta luôn ở bên con mọi giây phút trong cuộc đời con. Những khi con gặp phải sự gian nan thử thách thì đó là lúc Ta đang bồng con trên cánh tay Ta đó !”

2) CHÚA ĐẾN VỚI CHÚNG TA QUA THA NHÂN CẦN ĐƯỢC TRỢ GIÚP :

Vào một buổi sáng cuối đông, bác thợ giầy thức dậy rất sớm dọn dẹp nhà cửa và cho thêm củi than vào lò sưởi để đón chờ khách quý là Chúa Giê-su. Người đã hiện ra với bác trong giấc mơ ban đêm và hứa sẽ đến nhà thăm bác vào ngày hôm sau. Khi ánh bình minh vừa ló rạng, thì bác thợ  giầy đã nghe thấy có tiếng gõ ngoài cửa. Tưởng là Chúa đã đến, bác liền vội ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đứng mặt bác không phải là Chúa Giê-su, mà là anh phát thư như mọi lần. Băng tuyết ngoài trời khiến mặt mũi và tay chân của anh ta đỏ lên như gấc. Bác thợ giầy cảm thông liền mời anh ta vào nhà ngồi bên lò sưởi và pha trà nóng mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đã nói lời cám ơn và từ giã đi lo công việc.

Ít phút sau, nhìn qua khung cửa kính, bác thấy một bé gái khoảng 7-8 tuổi đang co ro đứng trước cửa nhà khóc, bác liền ra hỏi thăm thì được biết em bị lạc mẹ ngoài chợ và đang tìm đường về nhà nhưng không tìm thấy đường vì tuyết rơi trắng xóa. Bác thợ giầy liền lấy bút viết vài chữ trên tờ giấy và gắn ngoài cửa nhà để thông báo cho Chúa Giê-su biết mình cần đi ra ngòai một lát. Nhưng tìm đường dẫn cô bé về nhà không đơn giản. Mất mấy tiếng đồng hồ bác mới tìm được nhà của đứa bé, và khi ra về thì trời đã xế chiều.

Về đến nhà, bác lại thấy có người đang ngồi đợi nhưng không phải là Chúa, mà là một bà mẹ trẻ gần nhà với vẻ mặt buồn bã. Chị cho biết đứa con nhỏ của chị đang lên cơn sốt ở nhà và chị chạy sang tìm bác để nhờ giúp đưa bé đi nhà thương. Bác thợ giầy liền hối hả theo chị về nhà giúp đưa cháu bé đến bệnh viện chăm sóc. Nửa đêm bác mới trở về nhà mình và nằm lăn ra giường ngủ quên cả việc ăn uống. Trong giấc mơ, bác thợ giầy đã nghe thấy tiếng Chúa Giê-su: « Hôm nay Ta cám ơn con đã sẵn sàng tiếp đón và cho Ta vào nhà để sưởi ấm và còn dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn Ta bị lạc có thể trở về nhà mình. Cám ơn con đã giúp đưa Ta đến bệnh viện để kịp thời thuốc thang chữa trị ». Thì ra hôm nay Chúa Giê-su đã giữ lời hứa đến thăm bác thợ giầy không phải một mà là ba lần. Người hiện thân qua những người cần được trợ giúp như Người đã nói: « Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy » (Mt 25,40).

3) TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CHA TRÊN TRỜI :

Một sĩ quan công giáo, người Anh được sai đến phục vụ tại một nơi xa xôi hẻo lánh. Ông cùng với gia đình xuống tầu đến một nơi được chỉ định. Tầu rời bến được vài ngày thì biển động dữ dội. Một cơn bão ập đến làm tầu có nguy cơ bị đắm.  Mọi người trên tầu hết sức sợ hãi. Bà vợ của vị sĩ quan là người mất bình tĩnh hơn cả vì bà đã không tiếc lời trách móc chồng  đã đưa cả gia đình vào mối nguy hiểm, nhất là khi thấy chồng vô tư chẳng mấy quan tâm.  Chính thái độ bình tâm này của chồng mà bà vợ  xem như là một biểu hiệu thiếu lo lắng, thông cảm, yêu thương đối với vợ con nên bà càng tức giận xỉ vả hơn.

Trước tình thế khó xử đó, khi đã có đôi lời giãi bầy vắn tắt, viên sĩ quan rời căn phòng một lát rồi quay trở lại với thanh kiếm tuốt trần trên tay. Bằng ánh mắt đau khổ ông tiến lại bên vợ và dí mũi kiếm vào ngực bà. Mới đầu bà ta tái xanh mặt mày, nhưng sau đó bà bỗng cười lớn tiếng không chút gì nao núng cả.

Viên sĩ quan hỏi :

– Làm sao mình có thể cười khi nhận thấy mũi kiếm sắp đâm vào ngực?

Bà vợ trả lời :

– Làm sao em lại phải sợ khi biết lưỡi kiếm ấy nằm trong tay một người thương yêu em.

Bấy giờ viên sĩ quan nghiêm giọng nói :

– Vậy tại sao em lại muốn anh sợ hãi cơn bão tố này khi anh biết rằng nó ở trong tay của Chúa  là Đấng luôn luôn yêu thương anh ?

4) LỜI CHÚA PHÁN KHIẾN MỌI SÓNG GIÓ LIỀN YÊN LẶNG :

Được thăng  giáo hoàng là một việc rất trọng đại. Khi Đức Pi-ô  XI đăng quang, sau khi thực hiện xong các lễ nghi rồi, ngài về phòng riêng, ngồi vào chiếc bàn viết của Đức Giáo hoàng trước ngài Bê-nê-dic-tô XV, thì tự nhiên ngài cảm thấy một mối lo âu ập xuống trên ngài, vì Giáo hội đang bị kẻ thù tấn công tư bề, Hội Thánh đang phải trải qua một giai đoạn thử thách mới : Tuy Thế Chiến Thứ Nhất đã chấm dứt, nhưng Thế chiến Thứ Hai lại đang âm ỉ và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nghĩ đến những chuyện ấy, lòng Đức Pi-ô XI lại ngập tràn lo âu. Bấy giờ ngài qùi gối trước Thánh Giá và cầu nguyện sốt sắng. Đang lúc cầu nguyện, tự nhiên tay ngài chạm phải một tấm ảnh đặt trên bàn làm việc của Đức tiên giáo hoàng. Bấy giờ Đức Pi-ô liền cầm tấm ảnh lên xem và tự nhiên ngài thấy nỗi lo sợ trong lòng biến mất, và ngài lại cảm nghiệm được sự bình an trong tâm hồn. Đó là bức hình vẽ Chúa Giê-su đang đứng trên mũi thuyền và truyền cho sóng gió yên lặng. Từ ngày đó, Đức Pi-ô XI luôn để bức hình ấy trên bàn làm việc, và mỗi khi gặp hoàn cảnh khó khăn không biết phải làm gì, Đức Pi-ô XI ngồi nhìn vào bức ảnh rồi cầu xin Chúa Giê-su hãy phán một lời, thế là mọi khó khăn đang gặp phải đều tự nhiên tan biến hết (W.J. Diamond- Đồng cỏ non).

  1. SUY NIỆM:

1) Tâm trạng của hai môn đệ về làng Em-mau:

Đây là hai trong số 72 môn đệ của Đức Giê-su đã được Người sai từng hai người đi giảng đạo (x. Lc 10,1a). Hai ông đã đến Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Giờ đây đại lễ đã xong, hai ông quay trở về nhà riêng tại làng Em-mau. Một trong hai ông tên là Cờ-lê-ô-pát, còn người kia không được nêu tên, có thể là chính tác giả Lu-ca. Hai ông này vừa đi vừa trò chuyện với nhau với vẻ mặt buồn bã thất vọng. Sở dĩ họ mang tâm trạng như thế là vì mấy lý do như sau:

– Một là vì Đức Giê-su « là một Ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá » (Lc 24,19b-20).

– Hai là biến cố đau thương của Đức Giê-su đã xảy ra trái với ước vọng của các ông khi đi theo làm môn đệ của Thầy, khiến các ông hoàn toàn thất vọng muốn buông xuôi: « Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Nhưng các sự việc ấy đã xẩy ra đến nay là ngày thứ ba rồi » (Lc 24,21).

2) Vai trò của Kinh Thánh và Phụng Vụ trong việc củng cố đức tin:

– Lời Kinh Thánh đã làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu nơi lòng các ông: Trong vai một người khách bộ hành, Đức Giê-su đã « giải thích cho hai ông tất cả lời Thánh Kinh chỉ về Người ». Còn về “vụ ông Giê-su” thì sau khi lắng nghe quan điểm của hai ông về vụ án, về cuộc tử nạn, và việc Người bị treo trên thập giá, Đức Giê-su đã giải thích Kinh Thánh và khích lệ tinh thần của các ông như sau: ”Nào Đấng Ki-tô chẳng phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang sao”? (Lc 24,26). Sau đó các ông đã nói với nhau : « Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (Lc 24,32).

– Chính cử chỉ yêu thương đã mở mắt đức tin của các ông : Để được nhận biết tin yêu Chúa, đòi các môn đệ phải khao khát lắng nghe Lời Chúa qua lời cầu: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn”. Bấy giờ Người vào ở lại với họ (Lc 24,29). Rồi chính bầu khí yêu thương giữa cộng đoàn đã mở mắt đức tin cho các ông, như Tin Mừng thuật lại: « Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất » (Lc 24,30-31).

3) Vai trò của Tin, Cậy, Mến trong sứ vụ loan báo Tin Mừng:

Sau khi nhận ra Chúa Phục Sinh thì Người lại biến mất. Chính lòng tin và lòng mến đã thúc bách hai môn đệ lập tức quay lại Giê-ru-sa-lem loan báo Tin Vui như Tin Mừng ghi nhận : « Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở về Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp lại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon” Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh (Lc 24,33-35).

4) Sống và chu toàn sứ vụ loan báo tin mừng Phục Sinh cho thế giới hôm nay:

– Trong cuộc sống, mỗi lần gặp thử thách, nhiều tín hữu thường nghĩ rằng: Chúa đã bỏ rơi mình rồi. Chúa không còn quan tâm giúp đỡ mình nữa… và từ đó sinh ra chán nản, bỏ bê đọc kinh cầu nguyện, lười biếng dự lễ Chúa Nhật và có khi còn mê tín dị đoan: đi coi bói tóan, cậy nhờ thầy bùa thầy ngải…

– Lẽ ra chúng ta phải xác tín rằng: Chúa Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta. Không những Người ở bên chúng ta khi ta được bình an, mà ngay cả những lúc gặp gian nan khốn khó như bệnh tật tai nạn, chúng ta vẫn tin rằng Chúa đang đồng hành với chúng ta. Người luôn đi bên ta và sẵn sàng giơ tay trợ giúp và bồng ẵm ta trên tay nếu ta biết cậy trông vào Người, như « ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước và đến với Đức Giê-su. Nhưng thấy gió thổi thi ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: Lạy Thầy xin cứu vớt con. Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi! » (Mt 14,29-31).

– Nếu mỗi ngày chúng ta quyết tâm từ bỏ các thói hư như : tham lam, gian ác, ích kỷ, tự mãn cùng các đam mê tội lỗi khác, sẵn sàng vác thập giá là chu tòan các việc bổn phận của mình mà theo chân Chúa Giê-su, thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc Nước Trời đời sau. Nếu chúng ta cùng chết với Chúa Giê-su, thì chúng ta sẽ cùng được sống lại với Người.

– Mỗi người sẽ làm gì để noi gương hai môn đệ làng Em-mau, lập tức đi loan báo Tin Mừng cho tha nhân và phải loan báo thế nào để giúp họ dễ nhận biết tin yêu Chúa ?

  1. THẢO LUẬN: 1) Khi gặp một người lỡ đường xin tá túc ban đêm, chúng ta nên làm gì để vừa bảo đảm an toàn cho gia đình, vừa thực hành bác ái “Cho khách đỗ nhà” như kinh Thương Người đã dạy ? 2) Hát bài: Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không còn sợ chi. Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không còn thiếu gì. Dù trời tăm tối, bước đi không lo lạc lối. Đường dù nguy nan, không chút vấn vương tâm hồn.
  2. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ở lại với chúng con, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn rồi, vì lòng chúng con đang khao khát được nghe lời Chúa. Xin ở lại với chúng con, vì đức tin chúng con mỏng dòn yếu đuối, rất cần được Chúa trợ giúp vượt qua khó khăn của cuộc đời. Xin ở lại với chúng con, vì chúng con dễ sa chân lạc bước, hay chạy tìm kiếm thỏa mãn những đam mê bất chính, dễ chán nản buông xuôi khi gặp thử thách gian nan. Xin ở với chúng con, để chúng con thấy Chúa đang hiện diện nơi những người đau khổ và chân thành phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Xin ở lại với chúng con, vì khi gặp được Chúa, chúng con sẽ được ơn biến đổi cuộc đời. Xin ở lại với chúng con, vì tâm hồn chúng con vẫn còn xao xuyến mãi, cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa.

– LẠY CHÚA. Hai môn đệ làng Em-mau đã sằn sàng đón tiếp một người khách lạ đang cần một bữa ăn tối và một chỗ nghỉ đêm. Chính nhờ lòng quảng đại ấy, mà hai ông đã nhận ra Chúa Phục Sinh, và được biến đổi nên vui tươi phấn khởi. Xin cho chúng con cũng biết quảng đại đi bước trước để làm quen với một người lạ đang bị đau khổ, cho chúng con biết sẵn sàng lắng nghe những tâm sự của họ và năng tham dự thánh lễ moi ngày. Nhờ được gặp Chúa, chắc chắn chúng con sẽ được ơn biến đổi trở nên người mới và chu toàn được sứ mệnh loan Tin Mừng cho tha nhân, như hai môn đệ làng Em-mau xưa.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

CHỈ CÁCH MẶT HỒ

Khổng Nhuận

Số 315. Chủ nhật 3 Phục Sinh – năm A.

Chỉ cách một mặt hồ mà muôn trùng xa nhau 

Khổng Nhuận

               Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường

và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.  (Luca 24: 35)

 

Bài Tin Mừng này chúng tôi đã đọc, nghe rất nhiều lần.

Thầy Giêsu giờ đây chắc chắn không hiện ra bằng xương bằng thịt để bẻ bánh chia cho chúng ta…

Nhưng trong Thánh Lễ, Chúa đã dùng tay Linh mục bẻ bánh và phân phát cho chúng ta chính Mình Thánh của Ngài…

Khi đón rước Mình Thánh Chúa

Tôi đã có những tâm tình chuyển biến theo thời gian

Lúc còn thơ: Công thức

Trước khi rước lễ tôi đọc Kinh Dọn Mình Rước Lễ…

Rồi sau khi rước lễ tôi đọc Kinh Cảm ơn sau khi Rước Lễ…

Thế là xong bổn phận. Chúa cứ vui vẻ cao sang trên Thiên Đàng.

Lớn lên: Máy móc

Rước lễ xong, tôi cũng giả vờ quỳ cung kính như những người chung quanh…

Sau đó ngồi lên…chẳng biết làm gì !!!

Chúa vẫn ở đâu đó …rất xa xôiMột mình tôi lênh đênh giữa dòng đời…

Buồn, khổ, chán …nhiều hơn vui, sướng, hăng…

Gia nhập cộng đoàn: Khá hơn một chút.

Khi rước lễ, tôi nhìn Bánh Thánh thú nhận mình yếu đuối trước tình yêu bao la của Ngài…

Tôi cung kính rước Chúa vào lòng và thấy Chúa có vẻ gần mình hơn một chút….

Thêm vào đó,  có những buổi chia sẻ Lời Chúa hàng tháng nên tôi cảm thấy mình có vẻ đạo đức hơn nhiều người…

Nhưng khổ nỗi… dù gần mấy đi nữa ….

Tôi và Chúa vẫn như bị ngăn cách bằng một bức tường thủy tinh trong suốt…

Khiến cho tôi vẫn cảm nhận rất rõ…

Chúa một bên và tôi một bên…

Chỉ cách một mặt hồ mà muôn trùng xa nhau…

Tại sao vậy???

Có người chia sẻ rằng:

Lý do chính đó là chúng tôi bị người ta cài đặt vào đầu óc ngay từ thủa còn thơ:

Chúa nghìn trùng thánh đức – tôi tội lỗi phàm hèn..

Chúa khác tôi khác

Không thể nào có sự hòa hợp Thiên Tính cao siêu của Chúa

với nhân tính băng hoại chết tiệt của nhân loại được…Đừng có mơ..!!!

Vì thế chuyện kết hiệp nên một với Chúa chỉ để chúng tôi đua nhau hăng hái chia sẻ cho vui mà thôi.

Chẳng bao giờ có thể thành hiện thực được…

Kết luận: dù tôi dự lễ Bẻ Bánh hàng ngàn lần..

tôi vẫn không thể nào thực sự đón nhận Chúa vào lòng mình được…

NIỀM VUI PHỤC SINH

Kha Đông Anh dịch

Tôi rất thích câu Kinh Thánh: “Khi Chúa Giêsu thấy Maria Mađalêna khóc ở cửa mộ thì Ngài hỏi: Này chị, sao chị khóc?” (Ga 20:15).  Lúc đó Ngài không hỏi một câu văn hoa bóng bẩy.  Ngài muốn biết lý do chúng ta lo âu, khóc lóc và phiền muộn khi niềm hy vọng tiềm ẩn trong mọi sự – nếu chúng ta lưu ý.

Phục sinh mang ý nghĩa giải thoát, rầt ý nghĩa đối với một người như tôi, vì tôi luôn cảm thấy buồn sầu và tiêu cực.  Mừng lễ Phục sinh là dịp để chúng ta nói: “Vâng, lạy Chúa Giêsu, con tin.”  Khi làm vậy, hãy nắm bắt niềm hy vọng có sẵn đó.

  1. Tiến Lên Và Chạm Vào Ngài

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và nói: “Sao anh em phiền muộn?  Sao anh em nghi ngờ?  Hãy sờ vào Thầy và xem đây, ma không có xương thịt như anh em thấy Thầy.”

Nếu tôi là một trong số họ, tôi không chỉ phiền muộn mà chắc rằng tôi sẽ không đến gần sờ thử.  Tôi nghi ngại.  Nhưng tôi tìm thấy sự an tâm trong sự bảo đảm của Chúa Giêsu rằng sự phục sinh của Ngài là thật.  Chúa Giêsu là thật, sự phục sinh là thật, do đó mà các lời hứa của Ngài là thật.  Nghĩa là chúng ta khả dĩ tin Ngài khi Ngài nói với chúng ta rằng Ngài sẽ ở với chúng ta đến tận thế (Mt 28:20).

  1. Thiên Chúa Tốt Lành

Trước khi chịu chết, Chúa Giêsu nhắc lại rằng Ngài được sai đến nhân danh Chúa Cha.  Thật vậy, qua nhiều phép lạ, nhất là việc cho Ladarô sống lại, cho thấy tính tốt lành của Thiên Chúa: “Vì Cha yêu Con và cho Chúa Con thấy mọi sự Người làm, và Người sẽ cho Chúa Con thấy những việc vĩ đại hơn vậy, đến nỗi anh em có thể ngạc nhiên” (Ga 5:20).

Chân phước Angela Foligna, thế kỷ 14, là người mẹ và người vợ, rồi là người viết xuất chúng về các điều thần bí, đã viết: “Bước đầu tiên mà linh hồn phải có khi đi vào con đường yêu thương là biết Thiên Chúa qua chân lý, nhờ đó mà muốn đạt tới Thiên Chúa…  Biết Chúa qua chân lý là biết Ngài như chính Ngài, hiểu sự xứng đáng của Ngài, vẻ đẹp của Ngài, sự ngọt ngào của Ngài, sự tuyệt luân của Ngài, sức mạnh của Ngài, sự tốt lành của Ngài, bản chất cực tốt lành của Ngài.”

Tôi nghĩ rằng tin Chúa tốt lành là điểm phục sinh.  Thiên Chúa có tốt lành?  Có.  Chúng ta có thể nói vậy với niềm xác tín vào sự Phục sinh.

  1. Phó Thác

Hãy phó thác ý muốn và cuộc đời mình cho Chúa quan phòng.  Thánh Thomas Tiến sĩ viết: “Tính thánh thiện không gì hơn là quyết định dứt khóat, một hành động anh dũng của một linh hồn phó thác cho Thiên Chúa.  Nhờ ý muốn thẳng thắn mà chúng ta yêu mến Chúa, chạy về phía Chúa, đạt tới Ngài và sở hữu Ngài.”

Mỗi khi chúng ta nói với Chúa: “Hãy lấy điều đó khỏi con,” chúng ta đang sống niềm vui Phục sinh, vì chúng ta đang nhớ lời hứa của Chúa rằng Ngài sẽ cung cấp cho chúng ta, Ngài không bỏ chúng ta, và dù chúng ta nghi ngờ thì Ngài vẫn thực sự đáng tin.

  1. Loại Bỏ Sợ Hãi

Trong trình thuật của thánh Mát-thêu, thiên thần Chúa hiện ra với Maria và một Maria khác ở nơi mộ trống, rồi nói với họ: “Đừng sợ, vì tôi biết các chị đang tìm Giêsu bị đóng đinh.  Ngài không còn ở đây.  Ngài đã sống lại như Ngài đã nói.”  Sau đó Chúa Giêsu gặp các chị và lặp lại: “Đừng sợ!” (Mt 28:10).

Có thể điều Chúa Giêsu nói ở đây là đừng sợ.  Loại bỏ sợ hãi là điều không dễ làm.  Nhưng nếu chúng ta có thể loại bỏ sợ hãi, dù loại bỏ dần dần, chúng ta sẽ tránh xa nỗi buồn thập giá và đến gần sự tuyệt vời của ngôi mộ trống.

Cố tu sĩ Thomas Merton, dòng Trap, viết: “Nỗi sợ hãi thu hẹp lối vào trái tim, co rút khả năng yêu thương và làm đóng băng khả năng trao tặng chính mình.”

  1. Công Khai

Mệnh lệnh của Chúa Giêsu là rao giảng công khai.  Cho dù bạn có thể giống như kẻ khờ dại, cứ nói với người ta rằng sự sống lại đã xảy ra thực sự.  Không nhất thiết chúng ta phải là người rao giảng Tin Mừng từ xa.  Chúng ta khả dĩ làm và nói mọi thứ, ngôn ngữ và hành động của chúng ta luôn trở lại với sự Phục sinh, truyền niềm hy vọng cho mọi người chúng ta gặp.

  1. Khiêm Nhường

Nếu Chúa Giêsu là Thiên Chúa, và chỉ có một Thiên Chúa, điều đó nghĩa là không ai trong chúng ta là Thiên Chúa.  Đó là sự thật quan trọng khác về sự sống lại: Thiên Chúa trở nên con người, con người không thể trở nên Thiên Chúa.  Tôi biết tôi thường lẫn lộn hai điều đó, nhất là khi tôi nói qua điện thoại với nhân viên bảo hiểm y tế, vì tôi cảm thấy mình có quyền hơn người đó.

Thánh nữ Catarina Siena viết: “Hãy nhỏ bé và khiêm nhường.  Hãy nhìn vào Thiên Chúa, Ngài tự hạ làm con người.  Đừng làm mình bất xứng với những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta.”  Với sự khiêm nhường, chúng ta sẽ có khả năng hơn nhờ sự phục sinh.  Điều đó như sự bù đắp những gì chúng ta không thể có, nhưng Thiên Chúa khả dĩ cung cấp cho chúng ta nếu chúng ta tin rằng ngôi mộ trống.

  1. Hành Trình Emmaus

Tôi luôn được đánh động bởi trình thuật của thánh Luca về hành trình Emmaus.  Hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa Giêsu đến gần và hỏi họ đang nói chuyện gì.  Một người nói: “Sao ông hỏi vậy?  Ông không nghe xôn xao chuyện gì ư?”  Và họ chợt nhận ra Ngài khi Ngài cùng ngồi ăn với họ.  Nhưng ngay khi họ nhận ra Ngài thì Ngài biến đi.

Hằng ngày chúng ta có dịp đi Emmaus nếu chúng ta đồng ý với thánh Leo Cả: “Chia sẻ sự phục sinh của Chúa Kitô là không bị ràng buộc bởi những gì tạm thời, nhưng chỉ ràng buộc bởi sự sống vĩnh hằng mà Ngài trao ban cho chúng ta…  Sự phục sinh đã khởi sự nơi Đức Kitô, và Ngài muốn dẫn chúng ta đến sự viên mãn của sự sống và sự chữa lành.”

  1. Cầu Nguyện Liên Lỉ

Trong trình thuật của thánh Luca, tôi thích câu: “Họ hỏi nhau: Lòng chúng ta không sốt sáng khi Ngài nói chuyện với chúng ta trên đường đi và giải nghĩa Kinh thánh cho chúng ta sao?” (Lc 24:32).

Hành trình tới Emmaus là lời cầu nguyện, các nhiệm vụ nhỏ mọn của chúng ta hằng ngày cũng là những lời cầu nguyện.  Thánh bổn mạng của tôi, Têrêsa Hài đồng, đã định nghĩa: “Lời cầu nguyện là điều bộc phát từ đáy lòng, là ánh mắt hướng về trời cao, là lời tạ ơn, là tình yêu giữa cơn thử thách và giữa niềm vui.”  Đó là cách cầu nguyện khi chúng ta sống niềm vui Phục sinh.

  1. Nhận Biết Chúa Trong Mọi Sự

Nếu mùa Chay là sống tĩnh lặng để lắng nghe tiếng Chúa thì lễ Phục sinh là ca vang Alleluia với Ngài.  Và nếu 40 ngày bắt đầu bằng thứ tư lễ Tro là tách mình ra khỏi ai đó, nơi nào đó và thương mình hơn thì lễ Phục sinh là đón nhận mọi người, mọi nơi, mọi thứ gì thúc đẩy sự tốt lành, vẻ đẹp và tình yêu thương.  Thánh GH Gioan-Phaolô II đã viết: “Chúng ta có thể tìm thấy Chúa trong mọi sự.  Chúng ta có thể hiệp thông với Ngài trong mọi sự và qua mọi sự.”  Thiên Chúa hằng sống và hiện hữu khắp nơi.

Hãy sống niềm vui Phục sinh ở mọi nơi và mọi lúc.  Hãy cầm lấy, tạ ơn, bẻ ra và trao cho người khác chính cuộc đời mình!

Therese Borchard

Kha Đông Anh (chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA

Lm John Nguyễn Tươi

Chúa nhật III mùa phục sinh, năm A

Trong hành trình đức tin nhiều khi chúng ta tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Nhiều người vẫn nghi ngờ và đặt câu hỏi, có Thiên Chúa không? Thiên Chúa có hiện hữu trong thế gian này không? Triết gia người Đức Friedrich Nietzsche nói: “Chúa đã chết.” Câu nói này còn được tìm thấy trong tác phẩm kinh điển của Nietzsche,  khiến cho câu nói trở nên phổ biến. Hai chữ “vô thần” luôn gợi lên trong tâm trí chúng ta một ý thức hệ đối nghịch với các niềm tin tôn giáo. Hệ thống chính trị này luôn phê phán, tuyên truyền bóp méo, kỳ thị, thậm chí là tìm cách xóa bỏ niềm tin tôn giáo, thì Tin Mừng về Chúa Giêsu phục sinh hôm nay, Chúa Giê-su đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau sẽ trả lời cho chúng ta vấn đề thắc mắc này.

Tin mừng của thánh Luca thuật lại: “Trời đã về chiều, ngày sắp tàn, đêm tối sắp đến. Tâm hồn của hai ông bị chìm trong đêm tối, cái đêm tối của nghi ngờ, đêm tối của thất vọng. Bởi vì các ông đặt tất cả niềm tin vào Thầy Giêsu mà cuối cùng Thầy Giêsu bị bắt, bị đánh đập, bị đóng đinh, giết chết trên Thập Giá. Tất cả niềm tin và hy vọng tan biến, chỉ còn lại nghi ngờ và tuyệt vọng. Đêm tối ấy đáng sợ hơn là đêm tôi về mặt không gian và thời gian tự nhiên. Chính trong tâm trạng ấy các ông thưa với Chúa Giêsu: “Xin Thầy ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”.

Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, có những lúc thất bại, có những đắng cay, có chán nản đến độ chúng ta đâm ra nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa. Như Đức Thánh Cha Phanxico nói: “Trong bối cảnh xã hội hôm nay, vô thần không chỉ là khái niệm dành cho những người kỳ thị tôn giáo hoặc vô tín ngưỡng, mà còn diễn tả một tình trạng đáng lo ngại nơi người Kitô hữu: đó là những người tín hữu, nhưng lối sống của họ ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong bài giảng thánh lễ tại nhà nguyện thánh Mátta sáng 23-3-2017 vừa qua.

Thực trạng ngày nay, chúng ta kém lòng tin vì chúng ta không chăm chú nghe Lời Chúa, chúng ta sẽ lánh xa Ngài và quay lưng lại với Ngài. Nếu chúng ta không lắng nghe Lời Ngài, thì chúng ta sẽ tìm nghe những lời khác. Khi khước từ Lời Chúa và khi cứng lòng tin, chúng ta sẽ trở thành những người công giáo bất trung, những người dân ngoại, và tệ hại hơn là những người công giáo vô thần, bởi vì chúng ta không yêu mến Thiên Chúa hằng sống. Khi chúng ta khước từ Lời Chúa, chúng ta sẽ thờ ngẫu tượng, tức là tôn thờ vật chất và những đam mê trần tục. Việc chối bỏ Lời Chúa sẽ dẫn đến hậu quả lầm lẫn trong nhận định, trong phân biệt giữa điều thiện và điều ác.

Hiện nay, tại Hoa Kỳ có một nhóm tự xưng là vô thần, phổ biến nhiều sách và bài báo trên mạng, họ phi bác sự hiện diện của Thiên Chúa và tôn giáo, cách riêng Kitô giáo. Trong nhóm này phải kể đến Richard Dawkins, một giáo sư đại học, ông Dennett cho rằng: “Chỉ có thiên nhiên, kể cả nhân loại và các tạo dựng của vũ trụ là thực, còn Thiên Chúa thì không hiện hữu.”

Trái lại, nhà thiên văn vĩ đại Johannes Kepler nói rằng: “Thiên Chúa thật vĩ đại. Quyền năng Ngài vĩ đại và sự khôn ngoan thì vô hạn. Hãy ca tụng Ngài bằng ngôn ngữ của mình, hỡi trời và đất, mặt trời và mặt trăng, các tinh tú. Lạy Thiên Chúa và là Đấng Tạo Dựng nên con! Với trí khôn giới hạn của con, con muốn loan báo sự kỳ diệu của các công trình Ngài cho mọi người hiểu được.” Còn Nhà sáng lập vật lý lý thuyết cổ điển, Isaac Newton nói: “Điều ta biết được chỉ là một giọt nước, điều ta chưa biết là cả một đại dương bao la. Những xếp đặt và hài hòa của vũ trụ chỉ có thể xuất phát từ bản vẽ của một Đấng toàn năng và toàn tri.”

Thế thì, chúng ta đang nghĩ gì về Chúa phục sinh và sự hiện diện Thiên Chúa trong thế giới này và trong tâm hồn chúng ta hôm nay! Như Thánh Phaolô đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.”

BẮT GẶP CHÚA TRÊN MỌI NẺO ĐƯỜNG ĐỜI

Huệ Minh

Chúa nhật III PS

Lc 24, 13-35

BẮT GẶP CHÚA TRÊN MỌI NẺO ĐƯỜNG ĐỜI

Sau khi các phụ nữ đã mang sứ điệp Phục Sinh đến cho cộng đoàn (23,55–24,12), tác giả Luca mô tả hai cuộc hiện ra của Đức Giêsu Phục Sinh: Đức Giêsu cùng đi đường với hai môn đệ Emmau (24,13-35) và hiện ra giữa cộng đoàn (24,36-53).

Riêng cho truyện Emmau, chúng ta không có đoạn văn Nhất Lãm song song nào cả. Bản văn có ngữ cảnh sau: Sau khi các phụ nữ đã viếng (cả Phêrô: 24,12) ngôi mộ mở và trống của Đức Giêsu (24,2t), ta biết rằng Đức Giêsu đã sống lại và đang sống, nên không thể gặp Người giữa kẻ chết.

Trang Tin Mừng hôm nay ghi lại cảm nghiệm về Ðấng Phục Sinh của hai người môn đệ đang trên đường đi về lành Emmaus. Cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô Phục Sinh đã diễn ra trong lúc họ đang trên đường trở về làng cũ trong tâm trạng chán nản, buồn bã. Chúa Giêsu đã xuất hiện, không phải để mang lại giải đáp cho những câu hỏi được đặt ra, mà trái lại, Người gây nên thắc mắc và dẫn họ đi cho đến cùng sự tìm kiếm của mình.

Hai môn đệ cùng đi với nhau, họ chia sẻ các tâm tình với nhau, nhưng dường họ cũng không đồng quan điểm với nhau; có chuyện gì đó đã xảy ra khiến họ bị chao đảo và họ vẫn chưa có thể đồng ý với nhau về chuyện ấy hoặc tìm lại được bình an. Đức Giêsu tiến đến cùng đi với họ, rồi hỏi họ (cc. 15-19a). Họ kể lại các sự cố đã xảy ra cho Đức Giêsu theo quan điểm của họ (cc. 19b-24).  Sau đó, Đức Giêsu đã trình bày cho thấy là tất cả những gì đã xảy ra đều phù hợp với Kinh Thánh (cc. 25-27).

Sau khi Đức Giêsu đã trở thành bạn đồng hành của họ, dù họ vẫn không biết Người là ai (cc. 15-16), hai bên đã trao đổi ba câu hỏi (cc. 17-19a), đưa đến chỗ họ kể chuyện rõ ràng hơn. Tác giả nhắc lại rằng con người đến gần hai môn đệ và bắt đầu bước đi với họ đúng là Đức Giêsu. Chính tác giả đã kể lại rằng hành vi cuối cùng Đức Giêsu đã làm sau khi kêu lên với Chúa Cha (23,46) là “tắt thở”. Bây giờ các hành động mới của Người là: đến gần, cùng đi, hỏi, cho thấy rằng Người thật sự đang sống (x. 24,5) và quan tâm trước tiên đến các môn đệ Người. Rõ ràng Đức Giêsu đến như mộtngười lữ khách bình thường, nhưng hai người môn đệ không nhận ra Người. Kế đó, Lc đưa vào ba câu hỏi (24,17.18.19). Câu thứ nhất là của Đức Giêsu, Người tham gia vào cuộc thảo luận của họ (c. 17).

Phản ứng đầu tiên của họ là dừng lại. Cho tới nay, chỉ toàn là chuyển động: đi đến (c. 13), cùng đi (c. 15), đi (c. 17). Việc dừng lại dường như là do sự ngạc nhiên được diễn tả trong câu hỏi tiếp sau (c. 18). Tác giả cho biết “vẻ mặt họ buồn rầu”. Phản ứng thứ hai là câu hỏi của một ông tên là Cơlêôpát. Ông này cho biết là trong những ngày này, người ta chỉ có thể nói về mộtchuyện duy nhất, nên mộtngười lạ cũng phải biết; thế mà người bạn đồng hành này lại không biết! Tâm trí của Cơlêôpát còn đầy các biến cố vừa xảy ra. Đức Giêsu trả lời bằng mộtcâu hỏi thứ hai, rất ngắn: Những chuyện gì vậy?”.

Là nhân vật chính trong các biến cố ấy, Người lại tỏ ra như không biết. Người chứng tỏ sẵn sàng lắng nghe và đã tạo cơ hội cho họ diễn tả các tư tưởng và các mối bận tâm.

Cảm nghiệm về Ðấng Phục Sinh của hai người môn đệ đang trên đường đi về làng Emmaus cũng có thể diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người tín hữu Kitô. Ðấng Phục Sinh luôn là người đồng hành với chúng ta. Trên mọi nẻo đường của cuộc sống chúng ta, Ngài luôn đi bên cạnh kể chuyện, hỏi han, tra vấn và tham dự vào mọi sinh hoạt của chúng ta. Cuộc sống của mỗi ngày chính là nơi Ngài đến để gặp gỡ con người.

Cuộc sống mỗi ngày mới là nơi hẹn hò của Ðấng Phục Sinh với con người, là bởi vì cuộc sống ấy không bao giờ có thể làm cho con người thỏa mãn. Bên kia niềm vui và nỗi khổ, bên kia thành công và thất bại, con người vẫn nhận ra sự vong thân và thân phận nghèo hèn của mình.

Ta thấy rằng nỗi khao khát về tuyệt đối con người không thể thỏa mãn được trong cuộc sống này, hoặc nếu có tìm cách xoa dịu thì lại tuyệt đối hóa những giá trị chóng qua của cuộc sống, để rồi cuối cùng vẫn thấy mình bị vong thân và bất lực. Bất lực trước cảnh khốn cùng, bất lực trước chiến tranh nghèo khổ, bệnh tật, bất lực trước hận thù, ích kỷ và nhất là bất lực trước cái chết. Sống trong thân phận ấy, con người không khỏi nêu lên câu hỏi: “Ðâu là ý nghĩa của tất cả những điều đó? Ðâu là ý nghĩa của thân phận con người?”

Chính lúc ấy, Chúa Kitô Phục Sinh xuất hiện, Ngài đến không phải để mang lại câu giải đáp, mà trước hết, như một con người giữa chúng ta, một con người cũng từng nêu lên những câu hỏi ấy, và cũng đã từng nổi loạn trước những nghiệt ngã của thân phận con người. Ngài đã từng mơ ước về một nhân loại tốt đẹp hơn. Ngài đã nói tất cả và đã làm hết sức có thể để xây dựng nhân loại ấy. Và cuối cùng, với cái chết đau thương trên thập giá, xem ra Ngài cũng đành bó tay bỏ cuộc. Nhưng chính lúc ấy, vì đã vâng phục Chúa Cha một cách tuyệt đối để sống tận kiếp người và sống trọn vẹn cho con người, Ngài đã mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.

Ðây chính là kinh nghiệm mà người bạn đồng hành, Chúa Giêsu Phục Sinh, đã chia sẻ cho hai người môn đệ trên đường Emmaus. Tâm hồn họ nóng bừng lên khi Ngài chia sẻ kinh nghiệm của Ngài, và nhất là khi Ngài nói lên ý nghĩa về cái chết của Ngài qua cử chỉ bẻ bánh và trao ban. Mắt của hai người môn đệ đã mở ra để nhận biết Ngài, hiểu được các biến cố vừa xảy ra, và dĩ nhiên thấy được ý nghĩa của chính cuộc sống của họ.

Qua trang Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện của Chúa trong Thánh Kinh và Thánh Thể. Ngài hiện diện cách vô hình chúng ta chỉ nhận ra Ngài bằng đức tin. Chúa Giêsu luôn hiện diện với chúng ta trong cuộc lữ hành về quê trời, chúng ta phải biết lắng nghe lời Chúa, học hỏi, suy niệm Kinh Thánh, để lòng chúng ta được sưởi ấm, mắt đức tin chúng ta mở ra để nhận ra Chúa Giêsu trong Thánh Thể, và thể hiện niềm tin bằng việc đi đến với anh chị em của mình. Chúng ta cần tin tưởng vào Chúa, cả lúc chúng ta thất vọng chán nản. Chúng ta cũng có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa để đón nhận giáo huấn của Ngài qua các dấu chỉ nơi những người cùng đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Chúng ta siêng năng học hỏi, đọc và suy niệm lời Chúa, để củng cố đức tin và sưởi ấm tâm hồn chúng ta thêm sốt sắng đạo đức, thêm lòng khao khát gặp gỡ Chúa trong các việc đạo đức, và chúng ta trở nên những tông đồ loan báo tin mừng phục sinh cho người khác.

Ngày nay, trong từng biến cố của cuộc sống chúng ta, Chúa Kitô Phục Sinh cũng đang đến và đồng hành với chúng ta trong từng sinh hoạt và gặp gỡ của chúng ta. Ngài có mặt trong từng niềm vui và nỗi khổ của chúng ta. Nếu chúng ta đón nhận Ngài như người bạn đồng hành, chuyện vãn và chia sẻ với chúng ta, đôi mắt đức tin của chúng ta sẽ mở ra, và lúc đó, trong ánh sáng Phục Sinh của Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống.

CẦN CHÚA GIẢI PHÓNG

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH NĂM A

Hai môn đệ trên làng Emmaus, có lẽ vừa mới dự lễ Vượt qua tại Giêrusalem, bây giờ, sau khi tan lễ, họ trở về làng mình.

Khác mọi cuộc hành hương hàng năm, hành hương Giêrasalem năm nay, các môn đệ trở về, mang theo cả một tâm trạng ngổn ngang, run rẩy. Bởi Thầy của họ vừa mới bị giết chết thê thảm.

Họ trở về, nhưng tâm tưởng vẫn vươn đầy hình ảnh tàn khốc về tất cả những gì mà những nhà lãnh đạo đã dành cho Thầy. Họ trở về, nhưng chắc chắn, bên trong cõi lòng, vẫn còn đó những nỗi bàng hoàng, xao xuyến, sợ hãi, đau buồn, chán nản…

Khác mọi cuộc hành hương trong đời họ, lần hành hương này mang tính vĩnh biệt, vì Chúa đã chết. Có thể họ sẽ còn những lần hành hương khác, nhưng đấy chỉ là hành hương theo nghi thức tôn giáo và vì lòng đạo đức. Nó sẽ thiếu niềm hy vọng, niềm vui, sự háo hức vì có Chúa, nguồn tin tưởng của họ…

Chính những biến cố xảy ra bên ngoài cùng những tâm tư đầy thất bại bên trong tâm hồn như thế, làm bước chân hai môn đệ trên làng Emmaus trĩu nặng. Họ bước bên nhau lầm lũi, tương lai xa vắng. Trước mắt, sự tối tăm của cuộc đời như đang giăng mắc, chẳng khác một ngày của họ đang khuất và bóng chiều đang đổ.

Họ bước bên nhau nhưng không chút niềm vui, trái lại, nỗi buồn của cả hai như cộng vào nhau, làm tăng thêm, làm mạnh hơn. Đã buồn, càng buồn!

Những bước đi của họ là những bước của kẻ dại khờ: Trước đây từng tự trói buộc mình vào ước mơ đổi đời hảo huyền, không tưởng. Nay lại tự trói buộc mình vào nỗi ám ảnh thất bại, nỗi ám ảnh của kẻ đi tìm ánh sáng, nhưng chỉ đối diện sự tối tăm của đoạn cuối con đường hầm.

Nghĩ như thế mà thấy hai môn đệ đáng thương. Thấy họ càng điêu đứng, càng thất thỉu, càng quay quắt…

Nghĩ như thế mà thương cho thân phận của những ai mải miết rong ruỗi trong đời chỉ để thực hiện giấc mơ trần thế, một giấc mơ rẻ rúng đến độ chỉ có cơm-áo-gạo-tiền, chỉ có quyền-lực-danh cho một kiếp “quán trọ-trần gian”. Đó là một sự trói buộc đầy nô lệ.

Nhưng Đấng Phục Sinh không đứng bên lề cuộc đời con người. Người là Đấng giải phóng. Người yêu chuộng sự giải phóng. Người tìm đến để có thể giải phóng tất cả những gì trói buộc, những gì gây nên nỗi áp bức và nô lệ.

Cũng như xưa, Thiên Chúa đã từng đi tìm Adong, Evà trao lời hứa cứu độ. Người tìm Cain, kẻ sát hại em ruột để ngỏ với Cain rằng, người tôn trọng sự sống và không muốn bất cứ ai xúc phạm sự sống. Người tìm dân riêng và trao sự lãnh đạo toàn dân cho Môsê, để Môsê có thể trực tiếp liên đới với dân và với chính Người. Sau này, Người lại tiếp tục dẫn dân trở về quê cha đất tổ của họ để lập quốc, để ổn định đời sống sau thời gian lưu đàu khổ ải…

Đó là những hành trình giải phóng, Thiên Chúa thực hiện để cởi bỏ mọi trói buộc, mọi ách nô lệ mà con người, hoặc vì hoàn cảnh, hoặc tự mình mang vào. Vô số những bằng chứng từ Lời Chúa, Thiên Chúa cho thấy Người trung thành với ơn giải phóng mà từ ngàn xưa Người đã thực hiện…

Cũng vậy, Đấng Phục Sinh đồng hành để lắng nghe tâm tư nặng trĩu của môn đệ, để giải phóng họ khỏi những trói buộc, mà vì mê muội, khiến họ tự chuốc lấy. Giữa lúc ề chề, thất vọng, yếu đuối, và bất ngờ nhất, họ được Chúa tìm thấy. Chúa không muốn họ chìm sâu trong tuyệt vọng.

Phương thế Chúa dùng để giải phóng họ, cởi trói họ là Thánh Kinh, là bí tích Thánh Thể:

– Bằng Thánh Kinh, “bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông tất cả những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”. Chúa Giêsu mở trí để môn đệ hiểu kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Chúa giúp họ nhận ra, đau khổ là nhịp cầu để Chúa vượt qua, tiến về vinh quang. Đau khổ không là chuyện may rủi, nhưng có vị trí trong chương trình cứu độ.

Chính nhờ Lời Chúa mà các môn đệ được cởi trói. Tin Mừng mà Đấng Phục Sinh trao tặng là Tin Mừng ngọt ngào, khiến nỗi đau dịu đi và cõi lòng được hâm nóng, trở nên ấm áp diệu kỳ. Sự giải phóng thiêng liêng khiến họ hạnh phúc thốt lên: “Khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”.

– Bằng hành động của buổi chiều thứ năm tuần Thánh khi lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cử hành lại nghi thức bẻ bánh, sau khi đã giảng dạy Lời của Chúa, đã thêm sức cho các môn đệ. Họ đã thực sự được giải phóng khỏi tất cả những gì mà chỉ trước đây ít phút, họ từng bị cột trói.

Giờ đây, họ phục hồi niềm tin. Họ tìm lại được Chúa, tìm lại Đấng luôn giải phóng trên suốt dọc đường đời của họ. Chúa vẫn tiếp tục ở cùng họ. Người tỏ mình cho họ qua những dấu chỉ của lòng tin. Người tiếp tục lôi kéo họ vào mầu nhiệm phục sinh của Người.

Từ đây, họ vững vàng hơn, tin tưởng hơn, can đảm hơn để có thể ra đi, không phải chỉ quay về Giêrusalem, nhưng là vươn ra mọi nẻo đời để công bố tin mừng phục sinh, công bố tình yêu cứu độ, tình yêu giải phóng của Thiên Chúa.

Chắc chắn, không ai là không có ước mơ. Chúng ta hãy để ước mơ trường sinh chi phối đời mình, chứ đừng để “mộng vàng” trần thế trói buộc.

Bởi biết bao nhiêu lần, ta chỉ loay hoay với mưu sinh, với việc kiếm tiền, mà tấm thân thành ra phờ phạc, xót xa.

Biết bao nhiêu lần ta phạm tội vì thói tham lam, vì muốn vượt quyền, đoạt chức, nên tâm trí mù tối, cuộc sống diễn ra nhiều bi thương.

Biết bao nhiêu lần vì tranh giành, tranh chấp, ta mất hết lẽ sống, mất nghĩa ân.

Bị trói buộc nhiều thứ, mà lẽ ra phải cảnh giác để không bị trói buộc, vì thế, ta chẳng còn khám phá Chúa đang hiện diện, chẳng còn nhận thấy tình thương quan phòng của Chúa.

Kinh nghiệm của hai môn đệ trên làng Emmaus cũng là kinh nghiệm của chúng ta: Do bị cột trói bởi nhiều thứ, mà đời ta cứ mãi bất hạnh. Chúa có đến, ta không ngờ. Chúa có đi, ta chẳng biết mà giữ lại. Chúa ở lại với ta mà ta không cảm được, không nhìn thấy. Lúc tưởng Chúa vắng mặt, thì Chúa ở gần bên. Lúc nhận ra Chúa gần bên, thì Chúa đã biến mất.

Hãy trở về với nguồn mạc khải là Lời Chúa và với nguồn sống thần linh là Thánh Thể, ta sẽ tìm lại năng lực sống, để từ nay, Chúa giải phóng cõi lòng ta, giải phóng những u tối vây bủa ta.

Hãy cầu nguyện nhiều, hãy suy niệm Thánh Kinh bền bỉ, siêng năng kết hợp với Thánh Thể, để chính khi ta tưởng Chúa biến mất, sẽ là giây phút ta cảm nghiệm sâu hơn sự hiện diện của Chúa.

Bởi những lúc ta tưởng mình phải đi một mình, càng là lúc ta được Chúa đồng hành. Chỉ có cảm nghiệm thiêng liêng như thế, ta mới thực sự mở ngỏ để Chúa chạm đến cõi tâm hồn. Chỉ có mở lòng lãnh nhận ơn được giải phóng, ta mới thuộc trọn về Chúa, mới không vướng bận cõi đời.

TRÊN ĐƯỜNG EMMAUS

Mai Tá dịch

Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 3 Phục Sinh 23/4/2017-Mai Tá dịch

Tin Mừng (Lc 24: 13-35)

Vào ngày thứ nhất trong tuần, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Ngài. Ngài hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.

Một trong hai người tên là Clêôpás trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” Đức Giêsu hỏi: “Chuyện gì vậy?” Họ thưa: “Chuyện ông Giêsu Nadarét. Ngài là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Ngài để Ngài bị án tử hình, và đã đóng đinh Ngài vào thập giá. Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Israel. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Ngài đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.

Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Ngài sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh.

Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Ngài rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Bấy giờ Ngài mới vào và ở lại với họ. Khi đồng bàn với họ, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài, nhưng Ngài lại biến mất Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Ngài nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao? “

Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn.” Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Ngài bẻ bánh.

“Có lần tôi thấy một người đi,”

“chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì.

Chân bước hững hờ theo bóng lẻ,

một mình làm cả cuộc phân ly.”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Thấy người đi hôm ấy, nhà thơ cứ ngỡ mình làm cuộc “phân ly”. Biết Chúa đã sống lại, nhà Đạo lại ngờ rằng: đó không phải. Vì nghĩ không phải, nên mới hững hờ. Thờ ơ. Tranh cãi.

Trình thuật thánh Luca, nay đưa ra luận cứ về điều mà nhiều thành viên Hội thánh xem ra vẫn cãi tranh, giành giựt mọi thắng lợi để thuyết phục người người chấp nhận lý lẽ mình đưa ra.

Về sống lại, nhiều sự kiện xảy đến với Chúa, không theo hướng quen thuộc, nên nếu người người sử dụng ngôn ngữ bình thường để suy nghĩ, sẽ thấy cũng khó mà tin. Khó, nhưng đó là việc có thật, từng xảy đến. Chúa sống lại, tuy gây dao động, nhưng đã tạo cho mọi người xác tín rằng niềm tin chính là quà tặng Chúa ban để mọi người có dịp suy nghĩ. Suy và nghĩ, những gì xảy đến với Chúa, rất hợp tình. Hợp lý. Chẳng nghi nan.

Xét bề ngoài, ta thấy nhiều việc xảy đến với Chúa xem ra khá mâu thuẫn. Nên trên thực tế, không phải ai ai cũng đều công nhận Chúa đã sống lại làm người thường. Nhưng, nếu Ngài lại bằng cách mặc lấy xác phàm làm người thường, thì sau đó, chắc Ngài sẽ phải chết thêm lần nữa.

Sự thật, không phải thế. Trình thuật hôm nay, thánh Luca mô tả việc Chúa đến đồng hành với môn đệ bằng hình hài ta thấy và sờ chạm được bằng chân tay, nhưng không thể tưởng tượng được là: Ngài sẽ phải chết, thêm lần nữa. Thật ra, không thể có chuyện như thế. Điều, thánh Luca kể ở Tin Mừng, là để nói lên ý nghĩa nào đó mà nhiều vị gọi là truyện “Đường Emmaus, hành trình với môn đệ”.

Về thể lý, một khi đã chết rồi, thì những gì là xác thân hoặc vật thể vũ trụ, đều rữa nát, vỡ tan. Không ai có thể trở lại sống với xác thân có xương thịt vẹn toàn như khi trước. Chẳng người nào lại có thể duy trì cùng một xác thân, suốt miên trường. Khi đã chết rồi, mà lại tái sinh với nguyên vẹn hình hài như khi trước, thì đó chỉ có thể là vòng chuyển luân, luẩn quẩn hết kiếp này đến kiếp khác, khoanh tròn quanh thành vòng quay sống-chết/chết-sống, không lối thoát.

Truyện hai môn đệ hướng về thành đô Giêrusalem được thánh Luca ghi chép, còn để nói lên rằng: Đức Giêsu được đồ đệ nhận ra Ngài đích thực là Đức Chúa Ngôi Hai, vẫn tồn tại với mọi người. Ngài chẳng là quỉ ma hiện hồn theo qui cách của người thật. Nhưng, Ngài hiển hiện qua hình hài sao đó, rất sống động (Mc 16: 12).

Ở đây nữa, khi viết Tin Mừng Phục Sinh, thánh Luca tập trung nhấn mạnh vào điểm, bảo rằng: Chúa tỏ cho mọi người thấy hình hài của Ngài theo qui cách rất khác, nên khi gặp lại Ngài, đồ đệ thấy mình sợ hãi, đến khiếp kinh (Lc 24: 37). Vì kinh khiếp, nên đồ đệ mới nói năng những điều chẳng có nghĩa. Theo nhà chú giải Kinh thánh Herbert McCabe, thì: khi đồ đệ gặp Thầy Chí Ái, các thánh cứ tưởng Thầy là Vị đồng hành chẳng hề quen biết. Kịp đến khi Thầy nhắc lại toàn bộ chi tiết về lịch trình cứu độ, các thánh mới vỡ lẽ ra đó là Thầy.

Xem thế thì, Phục Sinh là điều mà người phàm xác thịt chúng ta chẳng thể nghiệm ra bằng lý lẽ của đời thường, để kiểm chứng. Bởi, dù biết Chúa sống lại thật, các thánh vẫn không coi đó như một chứng cứ hiển nhiên, tựa khi Ngài còn sống. Nhận biết hình hài Chúa rất nhãn tiền, điều đó có nghĩa: các thánh đã có động thái tin-yêu rất khác thường, trong cuộc sống. Và, đây là thực tại chỉ xảy đến với những người cũng trỗi dậy như Chúa và với Chúa bằng niềm xác tín yêu thương của người vẫn tin. Tin, theo qui cách và ý nghĩa khác. Khác ra sao, đó là vấn đề. Là, sự thực. Thực ra sao? Cũng nên suy xét.

Trở về với lập trường chú giải của các tổ phụ thuộc Giáo hội Đông phương thời tiên khởi, như: Thượng phụ Origen, Grêgôriô thành Nyssa… khi gọi sự việc gì là ‘cảm nhận linh thiêng’, các ngài có ý nói về cảm xúc thiêng liêng, sốt sắng. Điều mà các đấng bậc trên nói đến, có ý bảo rằng: tất cả chúng ta đều mang trong người cung cách yêu thương có nhận thức sự vật mà não-bộ-thần-kinh-thuộc-mé-trái không thể lĩnh nhận.

Nhờ yêu thương như thế, con người ‘định hình’ sự vật thành những ảnh hình như do chính mình tạo ra. Làm như thế, là để tác tạo thực thể như mọi người vẫn làm cho chính mình, nơi phần sâu thẳm của con người. Làm như thế, là để nhận thức rằng: thực thể ấy có thật. Vượt quá phạm vi và qui cách của ảnh hình. Nói theo ngôn từ triết học, thì các triết gia gọi đó là “tiềm thức”. Coi đó là giòng chảy sống, rất diệu kỳ. Là, sờ chạm thế giới nguyên uỷ không hư nát, mà thường ra, ta không sống ở trong đó.

Nhận thức sự vật như thế, giống hệt cảm giác thấy được ‘lửa ngọn’ rực cháy trong người mình. Lửa rực cháy, khiến mình sống yêu thương, hạ mình. Thúc bách mình sống bừng sáng luôn tiến về phía trước. Có tiến như thế, mới cảm nhận được ‘lửa ngọn bùng bừng’ đang trào dâng với mức độ rất mới mẻ. Khác thường. Có kinh nghiệm từng trải rồi, người người sẽ nhận ra cuộc sống lại thực sự đang dâng trào nơi con người mình.

Đó là cung cách mà dân con đồ đệ dám sử dụng thơ văn như chưa từng làm, và cũng chẳng ai nghĩ tới để diễn tả tình huống Chúa Phục Sinh hiện hình với dân con của Ngài, thật như thế. Có thể nói, các thánh đã sờ chạm Chúa. Cảm nhận được nhịp đập nơi tim mạch cùng vết thương đầy máu của Ngài. Thấy được Thầy mình bẻ bánh rồi cầm lên ăn. Các thánh không thể quên được vị ngọt nơi bánh thánh Thầy trao tặng. Tự thân, các thánh đều biết rõ chính Thầy là Đấng đã bẻ bánh phân phát cho người nghèo hèn, rất đói kém. Tương lai mai ngày, rồi ra các ngài cũng sẽ tạo nên thơ/văn như thế để kể về Thầy đến với mình, nơi nào đó. Thầy đến để bẻ bánh, ban phát tình thương yêu nồng thắm, cho chúng nhân.

Thực tế là như thế. Nhưng ngày nay, điều đáng buồn là rất nhiều tín hữu Đức Kitô cứ khăng khăng tin rằng thân xác Chúa trỗi dậy với cuộc sống theo hình thức rất thể lý. Rất nghĩa đen. Và, họ coi đó như thực tại duy nhất, không bàn cãi nữa. Buồn hơn nữa, lẽ đáng ra, ta phải hiểu Phục Sinh nhiều hơn thế.

Nếu hiểu Phục Sinh chỉ là Chúa hiện diện với hình hài xác thể như khi trước thôi, tức là ta tự mình để luột mất ý nghĩa chính đáng, của nhiệm tích có thực. Buồn biết bao, khi nhiều người/nhiều vị vẫn lên án các đấng bậc nào khác nhận thức Chúa sống lại theo kiểu cách thơ văn mà thánh Luca viết theo dạng dụ ngôn, hay sao đó. Buồn nhiều cả, là: các vị không nghe và không thấy giòng chảy thi ca/âm nhạc vẫn tiềm tàng ẩn mình ở trong đó. Thực tại Sống Lại rất thật. Thật, một cách đích thực.

Quả thật, Chúa sống lại THỰC. Ngài khiến ta THỰC THỤ sống lại với tình

Thương như bao giờ sống vậy. Trong tâm tình đó, tưởng cũng nên ngâm nga tiếp nguồn thơ/văn của thi sĩ trên, còn viết tiếp:

“Có lần tôi thấy một bà già

Đưa tiễn con đi, trấn ải xa

Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng

Lưng còng đổ bóng, xuống sân ga.”

(Nguyễn Bính – Những Bóng Người Trên Sân Ga)

“Thấy một bà già” hay thấy nhiều bà mẹ còn đó bóng hình đổ trên sân ga cuộc đời, là thực tại. Thấy lưng bà còng. Thấy bóng hình chờ con của bà “sống lại” rồi chợt đến để sẻ bánh/chia cơm, mà sống thực. Thực tình sống cõi đời đầy yêu thương, như Chúa dạy. Suốt miên trường. Đó cũng là ý nghĩa và tác động của thơ văn, trong đời.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

CHUYỆN PHIỆM

Trần Ngọc Mười Hai

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 4 Phục Sinh năm A 07/5/2017

“Thôi, thôi, tôi van xin”

Tôi van xin đừng đến nữa tình yêu ơi.”

(Nguyễn Ánh 9 – Không 2)

(Mt 5: 33-37)

Ối chà chà, là âm-nhạc! Nhạc gì mà, cứ hết hát chữ “Không 1” rồi lại “Không 2”, toàn những “Không” và Không”, đến rợn người. Thơ gì mà cứ nói, hết tiếng “Thôi” cho xong, rồi lại phán tiếp những từ và những ngữ “Đừng”, rồi “Chớ” và “Thôi” đến liên hồi?

Này nhé, bạn thử xem: bàn chuyện tình-yêu, mà người viết nhạc cứ kể nhiều chi-tiết như thể bảo:

“Tình yêu cho tôi chi nhiều ngây ngất.

Tình yêu cho tôi chi lắm men say.

Để tình yêu đem thương đau và nước mắt.

Để tình yêu đem cho tôi lắm chua cay.

Người ơi cho tôi chi lời ân ái.

Người ơi cho tôi chi phút mê say.

Để giờ đây ai cho tôi lời cay đắng.

Để giờ đây ai cho tôi lắm phũ phàng.”

(Nguyễn Ánh 9 – bđd)

Thôi thì, hôm nay đây, bần đạo chả dám mạn-đàm về những câu ca/tiếng hát đầy tiêu-cực, đến như thế. Cũng hệt như thể, bần đạo đây, chỉ muốn sưu-tầm các nhạc buồn vời vợi, mãi không…thôi, ư?

Thôi thì, hôm nay đây, nhân lúc đàm-đạo dăm ba câu chuyện rất ư là “tiêu-cực” để bạn và tôi, ta thấy được rằng: trong cuộc đời người, nhiều điều/nhiều thứ cũng đa-dạng, tích-cực và tiêu-cực đầy đủ hết.

Thôi thì, hôm nay đây, trước khi đi vào chủ-đề chính-yếu và chính-chuyên, xin mời bạn/mời tôi, ta cứ dấn bước đi vào vùng trời truyện kể, có sự thể rất tiêu-cực đối-chọi với điều tích-cực, hoặc về: kiếp trước/kiếp sau đối-chọi nhau, như sau:

“Bạn hỏi mình: Có kiếp trước hay không?

Sao mỗi con người sanh ra lại khác nhau đến thế?

Có kẻ đẹp kẻ xấu. Có người khôn người ngu. Có đứa sang đứa hèn.

Nhưng bạn ơi, xấu – đẹp, khôn – ngu, sang – hèn … là do bạn nhìn nó như vậy.

Chứ bản thân mỗi người đều là mỗi tuyệt tác đấy thôi.

Máu ai cũng đỏ. Nước mắt ai cũng trong. Trái tim ai cũng đập.

Sự phân-biệt đến do bạn nhìn như vậy.

 

Bạn lại hỏi mình: Có kiếp sau hay không?

Mình mới hỏi lại: Bạn cần kiếp sau để làm gì?

Để thấy người sống thiện được đền đáp,

người tội lỗi bị dầu sôi, người tu đạo được giải thoát.

Nhưng bạn ơi, đâu cần tới kiếp sau.

Nhân quả nhãn tiền.

Chỉ do bạn không thấy.

Bạn có bao giờ nhìn sâu vào cuộc sống.

Người có lòng Từ, khuôn mặt sẽ dịu nhẹ bao dung, vòng tay sẽ ân cần rộng mở.

Kẻ thủ ác, trong tim chứa đầy lửa dữ. Tự đốt mình, đâu cần địa ngục xa xôi. Đôi mắt láo liên, hằn những đường gân máu. Luôn cau mày, luôn nhức nhối thân tâm.

Ai xức nước hoa, người sẽ thoang thoảng hương thơm.

Trái tim ai đẹp sẽ lung linh như vầng trăng ấy.

 

Và bạn ơi, phút giây này hạnh phúc. Được mỉm cười, được chiêm ngắm đổi thay. Tìm cầu chi nữa quá khứ vị lai. Chẳng nơi nào đẹp như bây giờ hiện tại. Cành sen trắng đang rưng rưng trong nắng. Bụt mỉm cười lấp lánh đoá Vô Ưu.

“Đừng bao giờ giữ lại một cái gì mà chờ cơ-hội đặc-biệt cả. Mỗi ngày sống, đã là một cơ-hội đặc-biệt rồi!”

 

Tôi suy đi nghĩ lại câu nói này, và nó đã thay đổi cuộc đời tôi. Hiện nay tôi đọc sách nhiều hơn trước và bớt dọn dẹp nhà cửa. Tôi ngồi trước mái hiên mà ngắm cảnh chứ không buồn để ý đến cỏ dại mọc trong vườn.

 

Tôi dành nhiều thì giờ cho gia đình và bạn hữu, hơn là cho công việc. Tôi hiểu rằng, cuộc đời là những cảm-nghiệm mình cần phải nếm. Từ ngày ấy, tôi không còn cất giữ một cái gì nữa. Tôi đem bộ ly pha-lê ra sử-dụng mỗi ngày; tôi mặc áo mới để đi siêu-thị, nếu mình bỗng thấy thích. Tôi không cần dành nước hoa hảo-hạng cho những ngày đại lễ, tôi xức nước hoa khi nào mình thấy thích.

Những cụm-từ như: “một ngày gần đây” và “hôm nào”, đang bị loại khỏi vốn tự-vựng của tôi. Điều gì đáng bỏ công, thì tôi muốn xem, muốn nghe, muốn làm ngay bây giờ. Tôi không biết chắc là vợ của bạn tôi hẳn sẽ làm gì, nếu cô ấy biết trước rằng mai đây mình không còn sống nữa. (một ngày mai mà tất cả chúng ta xem thường)

Tôi nghĩ rằng, cô ấy hẳn sẽ mời mọi người trong gia-đình, mời bạn bè thân-thích đến. Có thể cô sẽ điện cho vài người bạn cũ, và làm hòa hay xin lỗi về một chuyện bất hòa trước đây. Tôi đoán rằng: cô ấy sẽ đi ăn các món Tàu (vì cô rất thích ăn đồ Tàu!)

Chính những chuyện vặt-vãnh mà tôi chưa làm, khiến cho tôi áy náy, nếu tôi biết rằng: thì giờ tôi còn rất có hạn. Tôi sẽ rất áy-náy vì không đi thăm một vài người bạn mình cần phải gặp, mà cứ hẹn lần hồi. Áy náy, vì không nói thường hơn, với những người thân của mình rằng: mình yêu thương họ. Áy náy, vì chưa viết những lá thư, mà mình dự định ‘hôm nào’ sẽ viết.

Giờ đây, tôi không chần-chờ gì nữa, tôi không hẹn lại và không cất giữ điều gì, có thể đem lại niềm vui và nụ cười cho cuộc sống chúng tôi. Tôi tự-nhủ rằng mỗi ngày là một ngày đặc biệt. Mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút đều đặc-biệt cả. Nếu bạn nhận được thư này, ấy là vì có một ai muốn điều hay cho bạn, và vì bạn cũng có quanh mình những người bạn quý yêu. 

Nếu bạn quá bận, đến độ không thể dành ra vài phút gửi đến cho ai khác và tự nhủ: “mai mốt tôi sẽ gửi” thì mai mốt đó, có thể là một ngày thật xa hoặc là bạn không bao giờ gửi được.” (trích điện-thư bạn gửi cho nhau, trên mạng, cũng rất nhiều).

Vâng. Những nhắn-nhủ và tự-nhủ như trên, đã đưa người kể và người đọc hãy cứ suy-tư đôi chút về những điều được nói đến, ở Kinh/Sách nhà Đạo, có những câu/những chữ “Đừng”, “Chớ” và không được” như sau:

-“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ.” (Mt 5: 17)

“Nhưng cũng có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi.” (Mt 4: 7)

-“Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (Mt 5: 33-37)

Quả là, các lời khuyên răn trong Đạo, luôn luôn bao gồm rất nhiều chữ như: Chớ, đừng, Không nên, không được… đều là những từ và những chữ nói lên tính tiêu-cực, trong hành-động.

Quả là, trên thực-tế, có những luật “bất thành văn” vẫn được nhiều vị cứ là bảo nhau phải tuân giữ, như: việc hãm mình/phạt xác, làm việc đền tội đến “khó thở”, chịu đựng cực nhọc quá sức mình, kiêng ăn nhịn uống đủ mọi loại-hình có hại cho cơ thể.

Cứ như thế, nếu bạn và tôi, ta có thì giờ mà tản-mạn trong vười Kinh Sách sẽ thấy rất nhiều thứ tiêu-cực được diễn-tả trong nhiều truyện kể, câu nói hoặc phán bảo của nhiều đấng bậc, ở trong Đạo.

Cứ như thế, đấng bậc thuộc nhà Đạo nọ lại đã minh-chứng tính tiêu-cực ở Kinh Sách bằng lời lẽ, cũng tiêu cực không kém như sau:

“Hàng thế kỷ lâu nay, sau khi các đoạn văn Kinh Sách được viết xuống và được gọi là “Lời Chúa”, ông Phaolô cũng trích-dẫn rất nhiều lời từ Kinh Sách tiếng Do-thái cổ để hỗ-trợ lập-trường “tiêu-cực của ông đối với phụ-nữ; và ngang qua Phaolô, các lời lẽ như thế đã đúc thành lối hiểu/biết rất khuynh-loát của Tân-Ước về người nữa. Nữ-giới không được tạo-dựng theo hình-ảnh của Thiên-Chúa. Các bà được định-mẫu thành người “bạn đời” của nam-nhân, chứ không như con người biệt-lập. Bởi lẽ, câu truyện tạo-dựng này lâu nay vẫn tạo ảnh-hưởng khá mạnh trong việc định-nghĩa giới-tính cho con người mãi đến hôm nay…” (X. TGm John Shelby Spong, Recasting the Negativity, The Sins of Scripture, Exposing the Bible’s Texts of Hate to Reveal the God of Love, HarperCollinsPublishers 2005 tr. 73, 101-109)

Tính-cách tiêu-cực hiện rõ trong tư-tưởng hoặc hành-động, vẫn được kể lể nhiều qua các truyện dài/ngắn ở đời người. Có một truyện được kể cũng kha khá, dù có được coi là hư-cấu hoặc tự-tạo, cũng nói lên được một bài học để đời về những đối chọi/kình-chống giữa tiêu-cực và tích-cực.

Đó là câu truyện kể về cuộc đối-thoại giữa thày/trò Khổng-Tử và Nhan Uyên, như sau:

“Nhan Uyên ham học hỏi, tính tình tốt bụng, là một đệ tử đắc ý của Khổng Tử. Một ngày nọ, trên đường đi làm việc, Nhan Uyên thấy một đám đông ồn ào trước cửa tiệm vải. Anh bước đến hỏi mới biết là đang có tranh chấp giữa người mua và người bán vải.

Chỉ nghe người mua hét lớn:

-Ba nhân tám là 23, sao ông cứ đòi ta 24 đồng?

Nhan Uyên đến trước mặt người mua, lễ phép nói:

-Vị đại ca này, ba nhân tám là 24, sao có thể là 23 được? Anh tính sai rồi, không nên cãi lộn ầm ĩ nữa.

Người mua không phục, chỉ thẳng mặt Nhan Uyên nói:

-Ai cần ngươi phân xử hay sao? Ngươi biết tính toán sao? Muốn phân xử chỉ có cách tìm Khổng phu tử, đúng hay sai hãy để ông ấy định đoạt! Đi, ta hãy tìm ông ấy để phân xử!”

Nhan Uyên đáp:

-Được. Nếu Khổng phu tử nói anh sai, vậy xử lý sao?

Người mua nói:

-Nếu ta sai, hãy lấy đầu ta. Nhà ngươi sai thì sao?

Nhan Uyên trả lời:

-Nếu tôi sai, tôi sẽ từ quan.

Hai người đánh cuộc với nhau như thế, cũng đã tìm gặp được Khổng Tử.

Sau khi hỏi rõ đầu đuôi, Khổng Tử quay sang Nhan Uyên cười nói:

-Ba nhân tám là 23 đó! Nhan Uyên, con thua rồi, lấy mũ quan xuống đem cho người ta đi!

Nhan Uyên từ trước giờ chưa bao giờ cãi lại sư phụ. Nghe Khổng Tử nói mình sai, anh đành tháo mũ xuống giao cho người mua kia nhưng trong lòng không phục. Người mua nhận mũ, đắc ý rời đi.

Nhan Uyên cho rằng Khổng Tử già rồi đâm ra hồ đồ, liền không muốn ở lại học tập Khổng Tử nữa. Ngày hôm sau, Nhan Uyên quay lại lấy cớ nhà có việc muốn xin nghỉ học… Khổng Tử rất rõ tâm tư Nhan Uyên, nhưng không nói gì, chỉ gật đầu đồng ý.

Trước khi đi, Nhan Uyên quay lại cáo biệt Khổng Tử. Khổng Tử muốn Nhan Uyên trở về nhà bình an, cũng dặn dò hai câu:

“Ngàn năm cổ thụ không náu thân, sát nhân không rõ chớ động thủ”.

Nhan Uyên đáp lại một câu:

-Con xin ghi nhớ”, rồi rời đi.

Trên đường về, gió thổi mây dâng, sấm rung chớp giật, trời muốn đổ mưa to. Nhan Uyên tiến đến một cây đại thụ, muốn tránh mưa. Anh đột nhiên nhớ lại lời Khổng Tử đã nói: “Ngàn năm cổ thụ không náu thân”…

Nghĩ thầm, sư đồ nhất tràng, anh nghe theo lời sư phụ, tránh xa khỏi cái cây mục rỗng. Vừa rời đi không xa thì nghe một tiếng sấm, sét đã đánh tan cây cổ thụ kia. Nhan Uyên kinh ngạc: “Câu đầu sư phụ nói đã ứng nghiệm sao! Chẳng lẽ ta còn có thể sát nhân ư?”

Khi về tới nhà thì trời cũng đã khuya. Không muốn kinh động người nhà, Nhan Uyên dùng bảo kiếm mang theo bên người để đẩy chốt cửa phòng nơi thê tử của anh đang ngủ.

Đến bên giường, sờ lại thấy hai người nằm hai bên giường. Nhan Uyên vô cùng tức giận, giơ kiếm định chém, lại nghĩ đến câu nói thứ hai của Khổng Tử: “Sát nhân không rõ chớ động thủ”, bèn đốt đèn lên xem, hóa ra một người là vợ, người kia là em gái của anh.

Ngày hôm sau, Nhan Uyên quay trở lại, thấy Khổng Tử liền quỳ xuống nói: “Sư phụ, hai câu người nói đã cứu ba người là con, vợ con và muội muội của con đó! Sao người lại biết trước chuyện sẽ xảy ra vậy?”

Nhan Uyên cảm thấy kính phục thầy sâu sắc, cũng đã biết được ẩn ý của Khổng Tử. Khổng Tử đỡ Nhan Uyên dậy và nói: “Ngày hôm qua thời tiết khô nóng, đoán chừng sẽ có cơn dông, nên ta nhắc nhở con: “ngàn năm cổ thụ không ai náu thân”, con lại mang khí bực trong người, trên thân đeo bảo kiếm, cho nên ta khuyên con “sát nhân không rõ chớ động thủ”!”

Nhan Uyên vừa vái lạy vừa nói: “Sư phụ liệu sự như thần, đệ tử mười phần kính nể!”

Khổng Tử lại nói tiếp: “Ta biết rõ con xin phép về nhà nghỉ là mượn cớ, thật ra cho rằng ta đã già nên hồ đồ rồi, không muốn học ta nữa. Con nghĩ xem, ta nói 3 nhân 8 bằng 23 là đúng, con thua, bất quá là thua cái mũ quan kia, nếu ta nói 3 nhân 8 bằng 24 mới đúng, người mua bán kia thua, đây là một mạng người đó! Vậy con nói xem, chức vị quan trọng hay mạng người quan trọng hơn?”

Nhan Uyên bỗng giật mình tỉnh ngộ, quỳ gối trước mặt Khổng Tử mà thưa: “Sư phụ trọng đại nghĩa coi nhẹ tiểu tiết, đệ tử còn tưởng rằng Sư phụ vì lớn tuổi mà thiếu minh mẫn, đệ tử hổ thẹn vạn phần!”

Từ đó về sau, bất luận Khổng Tử đi đến đâu, Nhan Uyên theo đến đó không rời sư phụ… Câu chuyện này gợi cho chúng ta nhớ đến một lời dạy của người xưa: “Lùi một bước biển rộng trời trong”, đúng như vậy, đôi khi bạn tranh đấu giành được điều bạn cho là lẽ phải, nhưng điều mất đi có lẽ còn quan trọng hơn. Và nếu bạn biết nhường nhịn và lắng nghe thì có lẽ bạn sẽ học hỏi được nhiều điều hơn. Hãy luôn luôn phân rõ sự tình nặng nhẹ. Đừng gắng sức tranh giành, rồi sau hối hận cũng không kịp!

Trong thực tế, khi chúng ta hơn thua với khách hàng, thì thắng ấy cũng là thua (khi sản phẩm mới cần đổi mẫu, bạn sẽ biết); khi hơn thua với ông chủ, thì thắng ấy cũng là thua (cuối năm lúc đánh giá thành tích, bạn sẽ biết); khi hơn thua với người già, thì thắng ấy cũng là thua (người ta không để ý tới bạn đâu, bạn vẫn phải tự mình làm thôi); khi hơn thua với bằng hữu, thắng ấy cũng là thua (làm không tốt sẽ mất đi một người bạn).

Trong tất cả vấn đề thì chữ nhẫn rất là trọng yếu, bất luận điều gì chưa rõ, thì không nên tức giận hay lỗ mãng, hãy tìm hiểu kỹ sự việc, rất có thể nguyên nhân đó ở chính bản thân bạn, khi hiểu được vấn đề thì hãy cùng nhau bàn bạc để giải quyết. Nếu không, sai một niệm có thể sẽ hỏng một đời…

Hãy tranh đấu với chính bản thân để trở thành người Khiêm Tốn, Bao Dung,… thì lúc đó bạn mới thật sự THẮNG. Tự chế để tránh một cuộc tranh cãi tức là bạn đã thắng bản thân, cái thắng đó mới đáng kể.

Không cần biết 3 nhân 8 có đúng là 23 hoặc 24, vẫn là chuyện để ta và mọi người nhớ mãi một lời khuyên để đời trong cuộc sống, Một cuộc sống có những vấn-nạn ngay sau khi nghe kể truyện nhân chia, rằng:

“Vì sao Khổng tử dạy học trò: 3 x 8 = 23? Trong cuộc sống hàng ngày, người ta thường hay bị sa vào những cuộc tranh cãi, đôi co. Ai cũng nghĩ là mình phải, mình đúng, mình biết nhiều hơn… do đó phải đỏ mặt tía tai cãi cho lấy thắng. Họ không hiểu rằng dính vào một cuộc tranh cãi là họ đang thua. Vì sao?

– Tranh cãi với khách hàng? Bạn thắng rồi, khách mất đi.

– Tranh cãi với đồng nghiệp? Bạn thắng rồi, đoàn đội tiêu tan.

– Tranh cãi với người nhà? Bạn thắng rồi, tình thân biến mất.

– Tranh cãi với bạn hữu? Bạn thắng rồi, bạn hữu dần xa.

– Tranh cãi với vợ chồng? Bạn thắng rồi, tình cảm nhạt phai…

Nói tóm lại, tranh cãi với bất kỳ ai, bạn thắng rồi thì sao? Bạn sẽ THUA!”

Xem thế thì, có thắng hay thua trong tranh-cãi hoặc nhận-định ở đời, vẫn là chuyện của người đời còn sống mãi với người đời, rất hôm nay.

Để kết luận, tưởng cũng nên đề-nghị bạn, đề-nghị tôi, ta quay về với lời ca ở trên không cần biết lời ca có là tích-cực hoặc tiêu-cực, một ý-nghĩa, vẫn cứ hát, rằng:

“Không, không, đến với tôi đến với tôi nữa làm gì.

Không, không, đến với tôi đến với tôi nữa làm gì.

Thôi, thôi, tôi van xin

Tôi van xin đừng đến nữa tình yêu ơi.

Tình yêu cho tôi chi nhiều ngây ngất.

Tình yêu cho tôi chi lắm men say.

Để tình yêu đem thương đau và nước mắt.

Để tình yêu đem cho tôi lắm chua cay.

Người ơi cho tôi chi lời ân ái.

Người ơi cho tôi chi phút mê say.

Để giờ đây ai cho tôi lời cay đắng.

Để giờ đây ai cho tôi lắm phũ phàng.”

(Nguyễn Ánh 9 – bđd)

Hát thế rồi, nay xin mời bạn/mời tôi ta cứ hiên-ngang đi vào cuộc đời để sống hãnh-tiến suốt một đời, dù đời người có ra tiệc-cực hoặc tích-cực, cũng mặc.

Thế đó, là lời kết xin được gửi đến bạn đọc và người viết những tình-tự rất tương-tự, để còn sống mãi mãi một tương-lai xa vời vợi gần như là vĩnh-cửu.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ suy-tư nhiều về tiêu-cực, tích-cực

Và vĩnh cửu, thiên thu rất mai ngày

Một cuộc đời ở nhà Đạo hay ngoài đời

Cũng đều thế.

NHẬN BIẾT ĐẤNG PHỤC SINH

Trầm Thiên Thu

(Chúa Nhật III Phục Sinh, năm A)

Có tin thì mới yêu, có yêu thì mới muốn gặp, và khi đã gặp rồi thì “hai năm rõ mười”, nhận biết tỏ tường, sự thật minh nhiên, không thể chối cãi – đúng hoặc sai, yêu hoặc ghét. Đó là một quy trình đơn giản mà cần thiết, có mối liên kết chặt chẽ với nhau.

Trong cuộc sống đời thường, có nhiều dạng khoảng cách – địa lý, tinh thần, tâm linh. Tuy nhiên, chúng ta đi được khoảng cách xa bao nhiêu cũng không quan trọng bằng những người chúng ta gặp dọc đường, qua đó chúng ta sẽ nhận biết được gì? Quả thật, sự nhận biết rất quan trọng. Sống ở đời không thể không gặp gỡ nhau, nhưng gặp nhau rồi có nhận biết nhau hay không lại là chuyện khác.

Gặp nhau chắc chắn nhìn thấy nhau, và thường liên quan cuộc đối thoại – có thể đối thoại bằng ngôn ngữ, bằng ánh mắt, bằng động thái, bằng cử chỉ, thậm chí người ta vẫn có thể đối thoại ngay trong sự im lặng, gọi là “ngôn ngữ không lời”.

Người ta gặp gỡ nhau để làm gì? Gặp nhau để nhận ra nhau, để yêu thương, để chia sẻ với nhau, để giúp đỡ nhau, để biến đổi nhau,… Rất đa dạng. Gặp người đời mà còn cần thiết như vậy huống chi được gặp gỡ Thiên Chúa, đặc biệt là nhận biết chính Đức Kitô là Đấng Phục Sinh.

Chắc chắn cuộc gặp gỡ đó rất diệu kỳ, cuộc gặp gỡ đó có sức mạnh khó cưỡng lại, và cuộc gặp gỡ đó đã được Lm Ns Yuse Tiến Lộc (DCCT) mô tả trong một ca khúc thế này: “Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh, gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình, gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh” (Gặp Gỡ Đức Kitô).

Cuộc gặp gỡ đó có kết quả tốt: nhận biết Đức Kitô qua tha nhân. Quá trình gặp gỡ Đức Kitô còn là một dạng được sống lại – tâm linh hoặc thể lý. Trường hợp sống lại của La-da-rô (Ga 11:1-44), em trai của Mác-ta và Ma-ri-a, và con trai bà góa thành Na-in (Lc 7:11-17) chỉ là sống lại về thể lý bình thường, không đổi khác và sẽ lại chết, nhưng trường hợp sống lại của Đức Kitô là sống lại đặc biệt và không thể chết nữa. Thân xác nhục thể và thân xác phục sinh vẫn là một, nhưng chắc chắn khác thường, rất kỳ diệu, vì thế mà chính Chị Ma-ri-a Mác-đa-la và hai môn đệ trên đường Em-mau đều không nhận ra Thầy Giêsu của mình, mặc dù rất quen. Chị Ma-ri-a Mác-đa-la chỉ có thể nhận ra Ngài khi Ngài gọi đích danh mình bằng giọng nói thân thương và quen thuộc, còn hai môn đệ kia chỉ có thể nhận ra Ngài khi Ngài làm động tác quen thuộc: bẻ bánh.

Và thậm chí còn hơn như thế nữa. Thật vậy, khi các tông đồ thấy Chúa hiện ra đứng ở giữa và chúc bình an cho họ mà họ lại kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma và ngờ vực. Nỗi lo sợ đã khiến họ hoa mắt chăng? Cửa thì đóng kín, thế mà bỗng dưng có người “đi xuyên tường”. Thế thì ma thật!

Có lẽ lúc đó Chúa Giêsu mỉm cười vì thấy các đệ tử co rúm vào nhau, mắt chữ O mà miệng chữ A. Ngài thấy tội nghiệp các trò lắm, thế là Ngài cho họ rờ vào Ngài, họ thấy Ngài vẫn có xương thịt và Ngài còn ăn khúc cá nướng họ đưa cho, lúc đó họ mới thấy mình không hề mộng du và tin là Thầy mình đã sống lại thật (Lc 24:36-43). Thân xác phục sinh khác thật và lạ thật đấy, nhìn giống như xưa mà lại không như xưa. Thảo nào chẳng ai nhận ra Ngài là Đức Kitô Phục Sinh!

Trong cuộc sống, bất kỳ ai gặp gỡ Đức Kitô thì đều biến đổi từ trong ra ngoài, biến đổi hoàn toàn, biến đổi thực sự chứ không “có vẻ”. Thấy ai biến đổi thì biết chắc người đó gặp được Đức Kitô. Biến đổi ở đây phải hiểu theo nghĩa tích cực, khiêm nhường và can đảm làm chứng về Chúa, chứ không “tỏ vẻ biến đổi” để “lấy tiếng” hoặc để được người khác khen ngợi.

Cuộc đời các thánh đã cho chúng ta biết chắc về việc họ được gặp gỡ Đức Kitô một cách thần bí. Vâng, cuộc đời họ biến đổi mau chóng và lạ lùng đến nỗi bị người khác nghi ngờ, thậm chí có những vị thánh bị nghi ngờ là tâm thần. Thế nhưng sự thật vẫn là sự thật, chân lý mãi là chân lý. Không thật thì không bao giờ có thể giả vờ hoặc ra vẻ như thật được!

Tông đồ Phêrô, người được Thầy Giêsu tín cẩn trao trọng trách làm Giáo hoàng tiên khởi, và đã từng nói mạnh là dám liều chết với Thầy, nhưng rồi chính con người ấy đã chạy trốn vì khiếp nhược khi Thầy bị bắt, đã chối bỏ Thầy vì nhát đảm, thế nhưng sau khi ông đã gặp gỡ và nhận biết Đức Kitô Phục Sinh thì ông hoàn toàn khác hẳn, không còn nhát đảm như trước. Cụ thể là vào một ngày nọ, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một (không còn Giu-đa Ít-ca-ri-ốt), và lớn tiếng nói với họ: “Thưa anh em, miền Giu-đê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây” (Cv 2:14).

Sự biến đổi rất rõ nét. Ông Phêrô dõng dạc và thao thao bất tuyệt: “Thưa đồng bào Ít-ra-en, xin nghe những lời sau đây. Đức Giêsu Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi. Quả vậy, vua Đa-vít đã nói về Người rằng: Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan” (Cv 2:22-28).

Một Phêrô của ngày hôm nay hoàn toàn biến đổi tích cực chứ không còn là một Phêrô hèn nhát và tiêu cực của ngày hôm qua. Ông thực sự trở nên một nhân chứng sống động, một nhân chứng nhiệt thành. Quả thật, khi đã biết đúng cái gì là thật thì người ta không còn sợ bất cứ thứ gì khác, kể cả cái chết.

Tiếp theo, ông Phêrô nói với giọng điệu quả quyết: “Thưa anh em, xin được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ Đa-vít rằng: người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Kitô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát. Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy, đang nghe” (Cv 2:29-33). Thật tuyệt vời khi người ta được Thiên Chúa biến đổi!

Chắc chắn Thiên Chúa rất vui lòng khi chúng ta hoàn toàn tâm phục khẩu phục Ngài, nói theo ngôn ngữ thời nay là “triệt buộc”. Nghe chừng miễn cưỡng nhưng không phải vậy, vì đó là cách “triệt buộc” của tình yêu, của Lòng Chúa Thương Xót. Ngài làm vậy để chúng ta hoàn toàn tín thác nơi Ngài và chúng ta được lợi ích là hưởng nhờ Lòng Thương Xót khôn lường của Ngài – hoàn toàn có lợi cho chúng ta chứ chẳng thêm gì cho Ngài. Khi đã gặp gỡ và nhận biết Đấng Kitô Phục Sinh, đồng thời tín thác vào Ngài, chúng ta sẽ không thể không vui mừng thân thưa: “Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?” (Tv 15:1-2).

Tại sao như vậy? Bởi vì lúc đó chúng ta biết chắc chỉ có Thiên Chúa mới thực sự là cứu cánh và là cùng đích của cuộc đời chúng ta: “Lạy Chúa, Ngài là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Do đó, chúng ta có thể không ngần ngại mà thề hứa: “Con chúc tụng Chúa hằng thương chỉ dạy, ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con. Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:7-11). Niềm tin tưởng như vậy thật là tuyệt vời, niềm tín thác như thế đẹp biết bao!

Một khi đã thực sự tin tưởng nhau, người ta có thể gặp gỡ nhau bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, phàm nhân thường có mức độ ưu tiên khác nhau, và thường thì ai “ngon” hơn sẽ được “ưu tiên” hơn – “ngon” hơn nhờ “dễ nhìn” hơn, giàu có hơn hoặc “vai vế” hơn người khác. Thế nhưng Thiên Chúa không hề như vậy, đừng lấy cớ là “quen biết” Ngài nhiều (đi lễ nhiều, đọc kinh nhiều, cầu nguyện nhiều, làm từ thiện nhiều, làm việc tông đồ nhiều,…) mà tưởng mình “ngon” hơn người khác. Ảo tưởng thì chết chắc!

Thật vậy, Thánh Phêrô đã thẳng thắn: “Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử. Vậy nếu anh em gọi Người là Cha, anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này(1 Pr 1:17). Rất rõ ràng, rất rạch ròi, rất nghiêm túc, rất công bình.

Và rồi ông còn giải thích thêm: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa” (1 Pr 1:18-21). Nghe có vẻ “dài dòng” một chút, nhưng lại không thấy thừa chút nào. Thế mới lạ!

Tin tức về Đức Giêsu chịu chết làm rúng động dân chúng, tin tức đó chưa đủ lắng xuống thì tin tức về sự phục sinh của Ngài lại tiếp tục khuấy động lòng người. Chuyện lạ này nối tiếp chuyện lạ khác. Nhưng cũng chính ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến làng Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Họ cũng thấy thất vọng vì không biết tương lai ra sao, thôi thì về quê cắm câu cho chắc ăn, chứ giờ thì chưa biết chuyện ngã ngũ thế nào. Tướng mất thì quân cũng tan hàng. Buồn thật!

Trình thuật Lc 24:13-35 cho chúng ta biết rằng đang lúc họ vừa đi đường vừa trò chuyện và bàn tán, chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ, nhưng họ không hề nhận ra Ngài. Ngài thử “giả nai” mà hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?”. Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu vì thấy ông khách lạ này là người vô tình nhất thế gian rồi, vì chuyện xảy ra rùm beng khắp nơi mà ông ta lại chẳng biết gì ráo trọi. Sao lại có người vô tâm vô tính thế nhỉ?

Nghe “người lạ” hỏi vậy, một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”. Đức Giêsu vẫn tỏ vẻ “vô tư” nên hỏi họ: “Chuyện gì vậy?”. Họ kể lại vụ ông Giêsu Na-da-rét là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân, thế mà các thượng tế và thủ lãnh đã kết án tử hình cho Ngài, rồi đóng đinh Ngài vào thập giá. Họ bảo trước đây họ vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en, thế nhưng những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Họ còn bảo họ cũng thấy kinh ngạc khi mấy người đàn bà ra mộ hồi sáng sớm, nhưng không thấy xác Ngài đâu cả, mấy bà còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo Ngài vẫn sống. Họ kết luận: “Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Ngài thì họ không thấy”.

Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?”. Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan Ngài trong tất cả Sách Thánh. Thế mà hai ông vẫn chưa hết “ngu đột xuất” đấy!

Chúng ta cảm thấy “nhột” và phải giật mình khi thấy Chúa Giêsu trách các ông “chậm tin”. Thật vậy, cuộc sống đời và đạo cứ hằng ngày trôi qua, chúng ta cứ sống theo hoàn cảnh mình riết thành quen, đến nỗi mọi thứ trở thành như một phản xạ, và rồi hầu như cũng mất luôn cảm xúc. Cứ thế và cứ thế, ngay cả việc làm dấu Thánh Giá cũng như một hành động của con robot được lập trình sẵn, hoặc đọc kinh như được nhấn play, gắn thẻ nhớ hoặc gắn USB, rồi cứ thế mà “phát âm” vậy thôi. Và rồi chúng ta vẫn cho rằng mình đang sống đức tin, nhưng khi gặp chuyện gì không xuôi xắn “như ý” mình thì chúng ta lại… ngại ngần. Ôi chao, hóa ra chúng ta vẫn “chậm tin” lắm, chẳng oan ức chi cả!

Thánh sử Luca cho biết rằng khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa, nhưng họ nài ép Ngài ở lại với họ vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn. Chúa Giêsu đồng ý. Khi ăn tối, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra vì thấy hành động này quen lắm, mới vài ngày thôi mà. Thế là họ nhận ra Thầy Giêsu, nhưng rồi Ngài lại biến mất. Tiếc hùi hụi! Họ gãi đầu gãi tai và bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”.

Thế là ngay lúc ấy, họ liền đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn”. Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Ngài bẻ bánh. Thế là mọi vấn đề được giải tỏa, không thèm về quê nữa!

Người ta nói rằng Chữ phải có Nghĩa – gọi là chữ nghĩa. Trong Việt ngữ, chữ “gặp gỡ” cũng độc đáo quá chừng luôn: GẶP để GỠ chuyện gì hoặc việc gì đó. GẶP thì mới GỠ được, KHÔNG GẶP thì KHÔNG GỠ được. Tương tự, NHẬN thì phải BIẾT, nếu KHÔNG BIẾT thì chắc hẳn “có vấn đề”. Những người được gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, dù là nam hay nữ, họ đều biến đổi hoàn toàn, thay đổi cả con người từ trong ra ngoài, bởi vì họ nhận biết Ngài. Họ được “gặp” Đức Kitô Phục Sinh và được Ngài “gỡ” mọi khúc mắc của con người cũ để trở nên con người mới hoàn toàn. Họ nhận biết Ngài nên họ cũng muốn nên giống Ngài hoàn toàn!

Lạy Thiên Chúa, xin cho con nhận thấy Chúa trong bất kỳ ai mà con gặp hằng ngày, nhất là đối với những người hèn mọn, và xin cho mọi người gặp con cũng nhận thấy Ngài sống động nơi con. Xin giúp con biết CẦM LẤY tấm-bánh-cuộc-đời-mình, rồi TẠ ƠN Chúa, sau đó BẺ RA và TRAO CHO mọi người, đồng thời can đảm làm nhân chứng về Đức Kitô Phục Sinh. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Amen.

NHẬN RA CHÚA PHỤC SINH KHI NGƯỜI BẺ BÁNH

-P. Trần Đình Phan Tiến

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT III PHỤC SINH 2017 (Lc 24 , 13 -35)

  Vâng,  thưa quý vị, thưa các bạn , Tin Mừng Chúa Nhật III P/S hôm nay ( Lc 24, 13 -35) , là Đoạn Tin Mừng nói về : “ Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau”. Cũng như theo Tin Mừng thánh Gioan ghi lại sự việc sau khi Phục Sinh, thì Chúa Giêsu, hiện ra với bà Maria Mac-đa-la đầu tiên, thì thánh Luca ghi lại biến cố sau Phục Sinh của Chúa Giêsu với hai môn đệ trên đường Em-mau. Vậy, khi được đề cập đến chi tiết nầy, thì chúng ta biết rằng, chỉ có ở Luca.

Theo đó, có hai chi tiết để nhận ra Chúa Giêsu phục sinh là :

  • Dấu chỉ bẻ bánh.
  • Dấu chỉ giải thích Thánh Kinh ( lời Chúa ).

Rõ ràng dấu chỉ ”Bẻ Bánh” là dấu chỉ “ đặc trưng “ của Kitô giáo, bởi vì sự bẻ bánh lá một “Lời truyền” của Chúa Giêsu với các môn đệ, có thể nói là “di chúc” của Người.

Dấu chỉ “bẻ bánh” lá dấu chỉ bác ái, chia sẻ. Cũng như làm dấu Thánh giá là dấu chỉ biểu lộ đức tin công giáo. Dấu chỉ chúc bình an là để ban Thánh Thần và tha tội. Vậy, dấu chỉ bẻ bánh là tín hiệu “chia sẻ” “lương thực” tự nhiên cũng như siêu nhiên cho tha nhân.

Vậy, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra đầu tiên với hai môn đệ trên đường Em-mau là Người biểu lộ dấu chỉ “bẻ bánh”. Điều nầy cho thấy, Người trao ban và nhắc lại mầu nhiệm Đức tin trong ngày Tiệc Ly. Dấu chỉ “bẻ bánh” cho thấy sự chia sẻ mầu nhiệm “tử nạn và vinh quang phục sinh” nơi Đức Kitô cho nhân thế. Dấu chỉ “bẻ bánh” tuy đơn sơ, nhưng là “chia sẻ” chính Thân Mình Mầu Nhiệm cứu chuộc của Người. Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô là mầu nhiệm được trao ban, chứ không giữ kín cho riêng ai. Vâng, điều nầy thể hiện nơi dấu chỉ “bẻ bánh”, bẻ bánh là phân phát lương thực tự nhiên, đồng thời là lương thực siêu nhiên. Theo đó, chính là mầu nhiệm của sự sống, mầu nhiệm nuôi sống từ Thần Linh là Thiên Chúa vô biên.

Thiên Chúa yêu thương nhân loại qua mầu nhiệm Nhập Thể làm Người của Đức Giêsu- Kitô, là Thiên Chúa chia sẻ mầu nhiệm Thần Linh cho thế nhân. Thiên Chúa chia sẻ và phân phát tình yêu và sự sống viên mãn nơi Thiên Chúa cho nhân loại qua hình thức là bánh để ăn. Hình thức ăn uống là mầu nhiệm của sự sống từ Thiên Chúa mà con người được lãnh nhận.

Như vậy, dấu chỉ bẻ bánh sau phục sinh là dấu chỉ trao ban sự sống cho nhân thế, trao ban cách cụ thể cho nhân loại. Bởi vì, khi nhận ra dấu chỉ bẻ bánh, thì hai môn đệ mới nhận ra Chúa. Rõ ràng, “dấu chỉ bẻ bánh” có hiệu nghiệm ngay tức khắc, khi hai môn đệ gặp gỡ Đấng Phục Sinh. Nhưng, đồng thời dấu chỉ nầy xuất hiện, khi họ nhận ra Chúa, thì Người biết mất. Chi tiết nầy cho thấy, Chúa phục Sinh không còn ở trong giới hạn của trần gian, Người đã hoàn tất mầu nhiệm khổ nạn, thì không thế lực nào làm chủ được Người nữa.

Niền vui làm theo ý mình, là niềm vui giả tạo, vì khi nhân thế không tự tìm niềm vui cho họ, theo ý muốn họ, thì họ cho là bất hạnh, chán nản, bực dọc . Nhưng, khi người nào biết tìm niềm vui từ Thiên Chúa, thì niềm vui ấy đích thực, vì niềm vui làm theo ý Thiên Chúa, thì niềm vui ấy mới mang lại hạnh phúc vững bền cho mình và tha nhân. Dấu chỉ  bẻ bánh là trao ban “niềm vui phục sinh” từ Thiên Chúa, Đấng là niềm vui đã tự hiến, trao ban và đồng hành cùng nhân thế.

Theo đó, chi tiết “bẻ bánh” là chi tiết đồng giá trị với việc giải thích Thánh Kinh, vì , khi được chính Chúa Giêsu giải thích Thánh Kinh, thì lòng họ bừng sáng lên, nhưng, chưa nhận ra Người.

Như vậy, Chúa Giêsu phục sinh là chi tiết, hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau, giải thích Thánh Kinh, bẻ bánh và đồng bàn với họ. Theo đó, hai môn đệ trên đường Em-mau là hai người hạnh phúc nhất, vì họ đã gặp Đấng Phục Sinh.

Như vậy, ý nghĩa chính của Đoạn Lời Chúa hôm nay là củng cố đức tin cho hai môn đệ trên một đoạn đường ngắn, biểu lộ niềm tin phục sinh bằng dấu chỉ bẻ bánh là Chúa muốn nhắc nhở cho họ niềm tin vững chắc vào sự chia sẻ cho tha nhân điều họ nhận lãnh.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hiện ra củng cố đức tin cho hai môn đệ trên đường Em-mau. Xin cho chúng con khi được khát khao gặp Chúa, cũng được diễm phúc gặp Người, và dấu chỉ giải thích Thánh Kinh và bẻ bánh cũng được Người truyền cho chúng con, để chúng con rao truyền ơn phục sinh trong chia sẻ vì bác ái cho tha nhân./. Amen


[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]

 

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*