- Khiêm tốn-ĐTGM Ngô Quang Kiệt
- Hãy ở Khiêm Nhường- Lm Giuse Đinh lập Liễm
- Thiên Chúa nâng cao kẻ khiêm nhường-Lm Ngà
- CHARLIE BROWN CHÍNH CỐNG-Lm Mark Link, SJ
- Sống cho người nghèo-Tạ Duy Tuyền
- Con là không, Chúa là tất cả (Lc 14,1. 7-14)-Thiên Phúc
- Người đẹp lòng Chúa - Lm. Minh Vận, CMC
- Khuyến khích sống khiêm hạ-Lm Hồ Bạc Xái
- Khiêm tốn-Lm. Giuse Trần Việt Hùng
- Dự tiệc và đãi tiệc- LM Giuse Nguyễn Hữu An
- Tôi thường xuyên tôn mình lên-Tamlinhvaodoi
- Khiêm hạ phục vụ noi gương đức Giêsu-Lm. Đan Vinh –HHTM
- Tự hạ & yêu thương phục vụ-Am Trần Bình An
- Chúa Yêu Thích Những Kẻ Khiêm NhườngLm. Antôn Nguyễn Văn Độ
- Thiên Chúa phân phối các chỗ ngồi-Lm FX Vũ Phan Long, ofm
- Học sống khiêm nhường-Lm Inhaxio Tran Nga
- Title 3
KHIÊM TỐN
ĐTGM Ngô Quang Kiệt
Chúa Nhật XXII thường niên – Năm C
1) Nhân một bữa tiệc
Chúa Giêsu được một thủ lãnh nhóm Pharisêu mời dùng bữa. Thời Chúa Giêsu, người Do thái chia thành nhiều nhóm. Có nhóm của Hêrôđê. Có nhóm cách mạng chống đế quốc La-mã. Có nhóm Essenien khắc kỷ. Có nhóm Saduce tư tế. Nhóm Pharisêu gồm các tiến sĩ và luật sĩ chuyên giải thích lề luật. Nhóm này tự cho là mình thông hiểu lề luật, sống đạo đức, là mẫu mực và là thày dạy của dân, nên họ tách biệt khỏi quần chúng. Như thế thủ lãnh của nhóm Pharisêu phải là người có thế lực rất lớn.
Được mời dự bữa tiệc hôm nay, Chúa Giêsu quan sát thấy ai cũng muốn ngồi cỗ nhất. Một phần vì theo thói thường, ai cũng muốn tỏ mình nổi nang, được mọi người kính trọng. Phần khác vì chủ nhà là thủ lãnh nhóm Pharisêu, là một người rất có thế lực, nên ai cũng muốn ngồi gần ông hoặc để gây uy tín, hoặc có dịp nhờ vả ông giúp cho một việc gì.
Vì ai cũng muốn ngồi gần ông chủ ở chỗ nhất nên cỗ nhất thiếu chỗ. Có những bậc vị vọng đành phải xuống cỗ dưới. Có lẽ Chúa Giêsu, vốn không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm, nên đã tự động ngồi vào cỗ chót.
Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những khách không mấy quan trọng xuống khỏi cỗ nhất. Chủ nhà mời Chúa Giêsu lên cỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói mà dò xét, bắt bẻ.
2) Chúa Giêsu đã dạy một chân lý trong đời sống xã hội.
Nhân hoàn cảnh đó, Chúa Giêsu đã lên tiếng dạy ta bài học khiêm tốn.
Kiêu ngạo là thói thường ở đời. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Nổi nang hơn, giỏi giang hơn, giàu có hơn, thế lực hơn. Vì muốn nổi hơn người, nhiều người không ngần ngại tìm cách chà đạp người khác.
Kiêu ngạo chống lại kiêu ngạo. Nên không ai ưa người kiêu ngạo. Và nhất là những người kiêu ngạo càng không ưa nhau. Trái lại, người khiêm tốn được mọi người yêu mến. Sách Trang tử thuật chuyện: Dương Chu sang nước Tống vào một trọ nhà kia. Chủ nhà có hai nàng hầu, một đẹp, một xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý trọng nàng hầu xấu mà khinh rẻ nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu hỏi thằng bé trong nhà. Chú bé nói: Người thiếu đẹp tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự biết mình xấu mà quên xấu. Không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn: Các con nhớ ghi lấy. Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu quý tôn trọng.
Vì thế Chúa Giêsu đã khuyên ta nên biết khiêm nhường. Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật xấu hổ.
3) Nhưng nhắm đến thực tại Nước Trời
Lời Chúa Giêsu dạy, không chỉ nhắm sửa đổi một lề thói xã hội, nhưng trên hết, Người nhắm tới những sự thực về Nước Trời.
Trong bàn tiệc Nước Trời, những ai càng khiêm tốn lại càng được nâng lên cao. Vì khiêm tốn là đi vào con đường của Thiên Chúa, là trở nên giống Thiên Chúa.
Hãy nhìn vào gương Chúa Giêsu. Người luôn luôn chọn chỗ cuối cùng. Là Thiên Chúa, nhưng Người không đòi cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại, Người đã tự huỷ mình, mặc lấy thân phận nô lệ hèn yếu như ta, trừ tội lỗi.
Hãy nhìn vào hình ảnh bữa Tiệc Ly. Trong bàn tiệc ai là người cao trọng nhất? Thưa là Chúa Giêsu. Thế mà Người đã quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại. Thực là một sự khiêm tốn thẳm sâu. Trong khi con người kiêu ngạo muôn vươn lên làm Chúa, thì Thiên Chúa lại khiêm tốn hạ mình xuống làm người. Trong khi con người hèn hạ muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác, thì Chúa Trời cao cả lại hạ mình xuống để nâng con người lên. Hạ mình, đó là con đường của Thiên Chúa. Khiêm nhường, đó là khuôn mặt của Thiên Chúa. Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống Thiên Chúa, xứng đáng ngồi đồng bàn với Thiên Chúa trên Nước Trời. Nói xứng đáng không phải là do công phúc của ta, nhưng là do tình thương của Chúa.
Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, giá trị có đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên Chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quý, bền vững. Mà Chúa chỉ nâng cao những người khiêm tốn.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát. Trái lại chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ. Trái lại khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quý. Khiêm tốn hạ mình phục vụ là thoát khỏi cái tôi chật hẹp ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của Thiên Chúa, của Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết khiêm tốn phục vụ như Chúa đã làm gương. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có những khiêm nhường giả tạo. Theo ý bạn, khiêm nhường thực sự phải như thế nào?
2) Bạn dễ quan tâm phục vụ người có địa vị chức quyền, hay bạn thường quan tâm đến những người khốn khổ, bị bỏ rơi?
3) Bạn đã bắt đầu tập đi vào con đường khiêm nhường chưa?
4) Chúa Giêsu nêu gương khiêm nhường thế nào?
HÃY Ở KHIÊM NHƯỜNG
Lm Giuse Đinh lập Liễm
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN C
+++
- DẪN NHẬP
Đức Giêsu là con người nhẹ nhàng, dễ thương, hòa đồng với hết mọi ngườiø, không phân biệt giai cấp, giầu nghèo, tốt xấu. Xem chừng ra Ngài muốn xa lánh bọn luật sĩ và biệt phái vì, theo Tin mừng của thánh Matthêu và Marcô, họ là những kẻ thù của Đức Giêsu. Nhưng thánh Luca cho biết Đức Giêsu vẫn giao du với người biệt phái vì trong số họ vẫn có nhiều người tốt, có cảm tình với Ngài, và hôm nay cho biết Ngài còn đến dùng tiệc tại nhà một ông biệt phái . Còn về phía những người biệt phái, họ vẫn nghi kỵ và theo dõi Ngài, và có thể bắt bẻ Ngài về bất cứ một phương diệân nào.
Hôm nay Đức Giêsu được mời đến dự tiệc tại nhà một thủ lãnh biệt phái. Trong bữa tiệc thường có những câu chuyện vui trao đổi giữa các thực khách để làm cho bữa tiệc càng thêm ngon miệng. Nhân dịp này, Đức Giêsu không nói chuyện vui, nhưng lại đưa ra những lời giáo huấn mạnh mẽ làm cho những khách mời cảm thấy khó chịu , vì những lời ấy đánh trúng tim đen của họ. Ngài khuyên họ hãy ở khiêm nhường, đừng tranh nhau chỗ nhất, chỗ danh dự trong đám tiệc. Đừng tự đánh giá mình, hãy để cho người ta đánh giá và định đoạt. Ngoài ra, Ngài còn khuyên họ hãy có tinh thần bác ái vô vị lợi khi mời khách đến dự tiệc, đừng tính toán hơn thiệt… Và giáo huấn của Ngài được kết tụ trong câu :”Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”(Lc 14,11).
Theo kinh nghiệm hằng ngày, trong con người chúng ta có sẵn mầm mống của sự kiêu ngạo và kiêu ngạo là một trong bảy mối tội đầu từ đó phát sinh ra các nết xấu khác. Sở dĩ chúng ta kiêu ngạo là vì chúng ta chưa biết mình, chưa nhận ra chân dung con người thật của mình. Nếu nhìn thẳng vào mình, chúng ta sẽ thấy mình quá yếu đuối, bất toàn, đầy những nết xấu. Một khi đã nhìn ra con người thật của mình thì chúng ta chỉ chú tâm vào việc sửa mình, canh tân con người mình cho nên hòan hảo. Với cái nhìn thẳng thắn và thành thật đó, tự nhiên chúng ta sẽ có thái độ khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Hc 3,19-21.30-31.
Đọan sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm nhường. Bài học mà người thầy muốn huấn dụ học trò là : hãy ở khiêm nhường. Các vị công hầu vương bá thì theo đuổi mộng làm chủ thế giới và loài người, những người tín hữu của Chúa thì biết rằng mọi sự mình có là do Chúa thương ban. Vì thế, họ khiêm tốn tận dụng những ơn Chúa ban để phục vụ và tôn vinh Thiên Chúa.
Theo bài huấn dụ hôm nay thì :
– Ai làm việc khiêm tốn thì được người ta yêu mến.
– Chính Thiên Chúa cũng yêu thương những kẻ khiêm tốn.
– Ai kiêu căng thì rước lấy sự tai hại vô phương cứu chữa.
+ Bài đọc 2 : Dt 12,18-19.22-24a.
Thánh Phaolô so sánh bầu khí giữa Cựu ước và Tân ước. Trong đạo cũ, người Do thái có ông Mai- sen làm trung gian, họ đến cùng Thiên Chúa trong bầu khí e dè sợ sệt với những hiện tượng bên ngòai làm cho người ta khiếp sợ.
Nay trong Tân ước, các Kitô hữu có Đức Kitô làm trung gian, họ được sống trong bầu khí cởi mở thân tình, họ tiến tới cùng Thiên Chúa, được tham gia vào cộng đoàn con cái Thiên Chúa, họ được tự do tụ họp về trong “Thành đô Thiên Chúa hằng sống để dự hội vui”(Dt 12,22), họ cung kính thờ Chúa và sống hiệp thông cùng các thiên thần và các thánh trong niềm an vui tin cậy.
+ Bài Tin mừng : Lc 14,1.7-14.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại những lời giáo huấn của Đức Giêsu trong bữa tiệc tại nhà một ông thủ lãnh biệt phái tại Pêrê.
Chính trong khung cảnh một bữa ăn tại nhà một ông biệt phái để cho Đức Giêsu tham gia vài “câu chuyện trong bàn ăn”, những lời khá bất ngờ trong dịp này. Theo tập tục, trong bàn tiệc, các khách mời lần lượt góp chuyện, nhưng thường là những vấn đề nhẹ nhàng dễ chịu. Còn Đức Giêsu, Ngài không ngại làm người nghe khó chịu khi chọn đề tài là sự khiêm tốn (Lc 12,7-11).
Qua bàn tiệc Chúa dạy ta :
– Thái độ nên có là khiêm tốn nhũn nhặn, đừng nhảy tót lên chỗ cao, mà bị mời xuống thì quê mặt.
– Đối với khách mời, nên vì lòng quảng đại hiếu khách mà mời, không nên vì lợi lộc.
Hai lời dạy áp dụng vào Nước Trời cũng hợp : Nước Trời chỉ dành cho kẻ khiêm nhường và có tinh thần khó nghèo (Lc 14,21).
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy biết nhìn xuống.
- ĐỨC GIÊSU ĐI DỰ TIỆC.
- Đức Giêsu được mời đi dự tiệc.
“Một ngày sabát, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa”(Lc 14,1).
ĐứcGiêsu không xa lánh những người biệt phái, Ngài cũng giao du với họ, đôi khi còn ăn uống với họ. Hôm đó, vào một ngày sabát, Đức Giêsu được mời vào nhà ông thủ lãnh biệt phái để dùng bữa. Người biệt phái này được gọi là thủ lãnh vì ông có nhiệm vụ điều khiển nhóm biệt phái, thường trong nhóm biệt phái có nhiều thủ lãnh khác nhau.
Biến cố này xẩy ra vào khoảng tháng giêng hay tháng hai năm 30. Họ thường dùng bữa với nhau một cách vui vẻ và thoải mái. Họ là những người biết luật và giữ luật kỹ lưỡng. Họ đã nghe nói về Đức Giêsu qua các dư luận khác nhau. Hôm nay họ mới lợi dụng cơ hội hiếm có này để quan sát Ngài lần đầu tiên.
Việc Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà một người biệt phái chứng tỏ là một con người dễ thương, hòa đồng, có khả năng đi đến với hết mọi người. Việc dùng bữa tại nhà ông biệt phái cho thấy thái độ của Đức Giêsu đối với người biệt phái không nhất thiết là tiêu cực như quan niệm trong Tin mừng Matthêu và Marcô, coi hạng biệt phái là thù địch của Ngài. Và như vậy, cho thấy Đức Giêsu muốn nêu lên khía cạnh Ngài sẵn sàng ban ơn cứu độ cho cả những người biệt phái nữa.
Vào bàn tiệc, Đức Giêsu quan sát một vòng, và thấy ngay một thói xấu thường xẩy ra nơi những người biệt phái là chọn chỗ nhất, chỗ danh dự (Mt 23,5-7). Họ cho đây là một thói quen nên không thấy ngượng ngùng gì.
- Giáo huấn của Đức Giêsu.
Trong bữa tiệc, người ta thường nói chuyện vui vẻ, có những câu chuyện vui, có cả những chuyện tiếu lâm nữa, cốt làm cho bữa tiệc càng thân tình, làm cho khách ăn càng ngon miệng. Riêng Đức Giêsu trong dịp này, Ngài không nói chuyện vui mà Ngài đưa ra một giáo huấn làm cho người nghe phải khó chịu. Giáo huấn ấy đề cập tới hai điểm : việc dự tiệc và đãi tiệc, nghĩa là nói đến sự khiêm nhường và bác ái vô vị lợi.
- a) Việc dự tiệc.
Khi thấy người ta chen lấn nhau chọn chỗ nhất, chỗ danh dự, Đức Giêsu đưa ra cho họ những lời giáo huấn. Lời giáo huấn của Ngài là bài học xử thế khéo léo ở trong xã hội khi giao tế với nhau. Ngài nói với họ dựa theo một đoạn trong sách Châm ngôn :”Trước mặt vua, con đừng kiêu hãnh, đừng dành giật chỗ người vị vọng. Vì thà để người ta mời con :”Xin mời ông lên” còn hơn là bị hạ xuống trước mặt quan tướng”(Cn 25,6-7).
Đàng khác, việc sắp xếp chỗ là của chủ nhà, vì chủ nhà mới biết địa vị ngôi thứ của khách mời. Còn người tự chọn chỗ danh dự cho mình là người tự tô vẽ cho mình có khi không đúng sự thật, có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, danh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhận nơi mình và đặït mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ danh dự có thể bị vỡ mặt.
Từ trong quan niệm về cách xử sự giao tế ở trần gian, Đức Giêsu bước sang lãnh vực tôn giáo. Theo đó, danh dự thật không phải là người trần gian gán cho mà danh dự đó phải do Thiên Chúa ban cho. Mà Thiên Chúa thường nâng cao kẻ thấp hèn. Vì thế Ngài nói :”Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
- b) Việc đãi tiệc.
Đức Giêsu lại tiếp tục đưa ra lời khuyên khác về tinh thần bác ái vô vị lợi. Theo thói người đời, trong tiệc cưới thì người ta mời người thân, bạn bè, ân nhân…chứ ai mời người nghèo khó đến dự tiệc ? Thế mà Đức Giêsu lại khuyên người ta làm những việc có vẻ ngược đời :”Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”(Lc 14,13).
Khi mời dự tiệc, người Do thái luôn làm theo óc tính toán, phải có lợi. Cái lợi là sẽ được người ta đền đáp, đúng là “ăn sang ăn giả”. Ngược lại, Đức Giêsu dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp, vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp và sẽ được đền đáp trọng hậu. Vì những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù là những người loan báo Nước Trời. Do đó, đến với người nghèo khó là dấu hiệu ta thủ đắc Nước Trời cách chắc chắn.
- NÓI VỀ KIÊU NGẠO VÀ KHIÊM NHƯỜNG.
Trong câu nói của Đức Giêsu :”Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, chúng ta thấy câu nói này có hai vế với hai tính cách trái ngược nhau, đó là kiêu ngạo và khiêm nhường.
- Ai nâng mình lên.
Ai cũng muốn bản thân mình là một cái gì có gía trị và được mọi người công nhận, và tôn trọng giá trị của mình. Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài (x. St 1,26-27; 9,6), nhưng ở mức độ hòan hảo của một tạo vật giới hạn, đương nhiên kém Ngài rất xa vì Ngài ở mức độ hòan hảo của một Thiên Chúa vô hạn. Mức hòan hảo của con người về sau lại bị tổn thương vì tội nguyên tổ. Vì thế, từ sâu thẳm, con người vẫn muốn vươn lên hoàn hảo, muốn sống yêu thương, muốn thực hiện Chân Thiện Mỹ, nghĩa là muốn càng ngày càng trở nên giá trị hơn, giống Thiên Chúa hơn. Đấy quả là một chiều hướng rất tốt.
Nhưng do tội lỗi và nhất là tính kiêu ngạo, sự xấu đã nhập vào bản thể của con người, khiến cho chiều hướng tốt ấy bị lạc hướng. Thay vì cố gắng trở nên hòan hảo, có giá trị thật (điều này khó, đòi hỏi con người cố gắng nhiều và quên mình đi), thì con người lại muốn trở nên có vẻ hay được coi như hoàn hảo, như yêu thương, như có giá trị, như giống Thiên Chúa. Điều này giảm bớt cho con người biết bao khó khăn và nỗ lực. Thay vì tìm cách tạo nên giá trị thật sự từ bên trong, con người tìm cách để mình có vẻ như, hay được coi như, và được đối xử như có giá trị, bất chấp bên trong có giá trị thực hay không (JKN).
Như chúng ta đã biết kiêu ngạo dẫn đến thảm họa cho nhân lọai qua lời cám dỗ của ma quỉ :”Ông bà sẽ nên như những vị thần, biết điều thiện ác”(St 3,5) trong câu chuyện ông A dong và bà Evà ăn trái cấm, và được gọi là tội tổ tông truyền.
Theo sách giáo lý công giáo, số 1866 thì kiêu ngạo được xếp vào “các mối tội đầu” phát sinh ra các tội và các nết xấu khác. Đó là : Kiêu ngạo, hà tiện, ghen tương, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh”.
Chúng ta thừa hiểu rằng ai cũng mang trong mình mầm mống của sự kiêu ngạo. Nó thường núp bóng dưới nhiều hìønh thái khác nhau :
– Tự ái là khi bị sỉ nhục liền cảm thấy mất mặt, sinh ra tức giận và tìm cách hạ bệ đối phương ngay.
– Khoe khoang tức là lợi dụng mọi cách mọi dịp để làm cho mình được nổi bật hơn kẻ khác.
– Ganh đua là khi thấy người khác hơn mình thì khó chịu, rồi tìm dịp xoi mói hay tìm cách đưa mình lên.
Tất nhiên, tất cả những biểu hiện đó là xấu, đôi lúc là tội nữa và trái ngược lại với sự khiêm nhường.
Truyện : Chiếc tầu Titanic
Kỷ niệm đáng ghi nhớ và đáng học hỏi nhất cho con người thời nay là câu chuyện chiếc tầu Titanic. Người ta nghĩ rằng bàn tay con người có thể làm nên một con tầu không thể chìm là một sự vô cùng kiêu ngạo. Mọi con tầu do con người chế tạo đều có thể chìm. Bằng việc tuyên bố chúng ta có thể làm ra một con tầu không có thể chìm được với kỹ thuật tân tiến hiện đại đã thách thức quyền năng của Thiên Chúa. Đúng như lời thánh Phaolô nói về tinh thần của thời đại này là kiêu căng (Rm 12,3; 1Cr 4,7). Tinh thần kiêu căng đó đã thúc đẩy người ta viết vào mạn tầu mấy chữ :”No Pope, no God” : không có giáo hoàng, không có Thiên Chúa ! Và trong chuyến hải hành đầu tiên từ Anh sang Mỹ, sự gì đã xẩy ra như chúng ta đã biết. Một tai họa đã giáng xuống như câu chuyện xây tháp Bebel trong Cựu ước(St 11,4).
- Ai hạ mình xuống.
Đối lại với tính kiêu ngạo, Đức Giêsu đã khuyên ta hãy ở khiêm nhường. Chính Ngài đã phán :”Các con hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”(Mt 11,29).
Vậy khiêm nhường là gì ? Và thế nào mới được gọi là khiêm nhường ? Phải chăng khiêm nhường là tự hạ mình xuống , phủ nhận giá trị thực của mình hay giảm thiểu nó đi ?Không phải thế, Đức Khiêm nhường mang nhiều chiều kích sâu xa hơn và tốt đẹp hơn nhiều. Khiêm nhường không phải là ít nghĩ về mình, mà là không nghĩ gì về mình, bởi vì :”Con Người không đến để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ”(Mc 10,45).
Nhà giảng thuyết trứ danh của nước Pháp, cha Lacordaire đã nói :”Khiêm nhường không phải là thấy mình xấâu xa hơn, tầm thường hơn, nhưng là biết rõ những gì ta còn thiếu”. Khiêm nhường lấy sự thật làm nền tảng. Tự gắn cho mình cái sai ta không có, phóng đại những lỗi lầm ta không phạm, từ chối không nhìn nhận những khả năng của mình, tự cho mình thua kém mọi người, đó không phải là cách sống khiêm nhường; nhưng đó là dấu hiệu của một quan điểm sai lầm, hay một khuynh hướng bệnh hoạn. Muốn thực hiện khiêm nhường chỉ cần nhìn nhận những khuyết điểm, thấy mình tội lỗi, giới hạn, biết rằng trong tất cả mọi lãnh vực có nhiều người khác vượt xa tôi :
Ở nhà nhất mẹ nhì con,
Ra đường lắm kẻ con dòn hơn mẹ con ta.
Một lần nữa, ta phải khẳng định rằng, khiêm nhường không là gì mà chính là chấp nhận sự thật về mình. Trong Anh ngữ, chữ khiêm nhường là “humility”. Chữ Humility do chữ La tinh “Humus” có nghĩa là đất, tro bụi mà từ đó con người đã được tạo dựng theo như sách Sáng thế đã mô tả (St 2,7). Do đó, khiêm nhường có nghĩa là hạ mình xuống tới đất. Nó nhắc nhở chúng ta lời kêu gọi của Giáo hội trong ngày thứ Tư lễ Tro về sự thật của thân phận con người :”Hãy nhớ mình là bụi tro, và sẽ trở về cùng tro bụi”.
Truyện : Đọc truyện Tây du ký.
Ai trong chúng ta cũng đã có lần được xem phim Tây du ký của Trung quốc. Một cuốn phim thật hay và hấp dẫn người xem từ đầu tới cuối và còn muốn xem nhiều lần. Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta thấy các nhân vật trong phim cũng hợp với lời của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay : “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Những hạng tôn mình lên làm Tề Thiên Đại Thánh : bằng Trời, bằng thánh vĩ đại, làm Đại vương, Ma vương, Nữ vương, Hòang hậu, Hòang tử, Công chúa đều bị lột mặt nạ là những đồ khỉ, nhện, thỏ, rắn rết, heo, bò, dê ngựa, hổ báo, sư tử, quỷ vương, buộc phải hiện hình trở về kiếp sống quái vật.
Những thứ nâng mình lên như thế thì vô kể.
Những thứ hạ mình xuống thì ít lắm. Chỉ thấy có Đường Tăng. Ông luôn luôn xưng mình là bần tăng, vô tài, bất lực trước mọi thử thách nguy hiểm, ông chỉ biết thương người, cầu kinh, khấn Phật, cầu kẻ này, nhờ kẻ kia, nhờ cả đến con khỉ Ngộ Không dẫn đường chỉ lối, cứu giúp, giải vây. Chính nhờ hạ mình xuống mà ai cũng thương mến, kính phục và liên kết với ông. Chính nhờ sự hạ mình xuống mà ông tránh được hiểm họa tranh chấp, đánh lộn, oán thù. Chính nhờ hạ mình xuống mà ông đã lãnh được bộ Kinh dạy ông thành Thánh, thành Phật. Ông đã hạ mình xuống thì được mọi người tôn lên.
Ngoài thứ khiêm nhường thật ra, lại còn thứ khiêm nhường giả tạo nữa. Điều quan trọng ta cần phải đạt được là sự khiêm nhường đích thực bên trong, chứ không phải là sự khiêm nhường giả bộ bề ngòai. Khuynh hướng giả trá nói trên cũng có thể thúc đẩy chúng ta làm ra vẻ khiêm nhường. Chẳng hạn, khi mình có tài hoặc khả năng đặc biệt được nhiều người chiếu cố, nhờ cậy thì mình giả vờ hạ bệ mình bằng cách thoái thác, từ chối, nhưng kỳ thực đó là thủ thuật buộc người ta phải lụy phục, nài nỉ thêm. Lại có người vì để được một lợi lộc gì hay để đạt được một tham vọng nào đó thì luôn tỏ ra nhã nhặn, hiền lành, dễ bảo trước mặt người có quyền để lấy lòng, mua chuộc. Hoặc vì yếu thế mà phải tỏ ra lụy phục, nhưng sau lưng thì phê bình chỉ trích, nói xấu người ta.
Người khiêm nhường đích thực không tự coi mình là gì cả, nên không cảm thấy bực bội khi bị xúc phạm, cũng không cảm thấy có gì đáng phải lên mặt vênh vang khi được ca ngợi tôn vinh. Chỉ có những người khiêm nhường đích thực ấy mới luôn luôn cảm thấy mình hạnh phúc, thanh nhàn, nhẹ nhàng, và được Thiên Chúa yêu quí.
Phải thành thật với mình, nhận ra cái ưu đểm và khuyến điểm của mình và luôn nhận ra mình còn yếu đuối cần có sự trợ giúp của Chúa vì :”Không có Thầây, các con không thể làm gì được” ! “Các con hãy ngồi vào chỗ cuối” ! Đức Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại lời đó. Trước mặt Thiên Chúa, phải biết mình yếu đuối, nhỏ bé, ở chỗ cuối, để rồi hoàn toàn trông cậy vào Chúa, đồng thời hoàn toàn từ bỏ niềm cậy trông vào sức lực của riêng mình. Phải nhỏ bé như trẻ thơ mới được vào Nước Trời (Lc 9,48).
Truyện : Nhận thức đúng thân phận mình.
Tương truyền rằng trước cánh cửa nhà mồ bị khóa chặt, hồn nữ hòang Sissi gõ cửa. Từ nơi thăm thẳm vang lên giọng nói oai nghiêm của vị Cha Già giữ cửa :
– Ai đó ?
Hồn nữ hòang kiêu sa đáp :
– Tôi là nữ hòang Aùo quốc, hòang hậu xứ Hungari.
Tiếng vị Cha Già lạnh lùng :
– Ta không biết.
Tưởng người giữ của chưa hiểu biết về mình, hồn nữ hoàng lại gõ của. Lần này tiếng hỏi của vị Cha Già gắt hơn :
– Ai đó ?
Hồn nữ hoàng lại cao giọng đáp :
– Ta là nữ hòang Elizabeth Sissi của Aùo quốc, hòang hậu xứ Hungari, hoàng hậu xứ Bôhême, hoàng hậu của Giêrusalem, nữ lãnh chúa của xứ Transylvanie, đại quận chúa của Toscane và Cracovie…
Lại một lần nữa Cha Già trả lời :
– Ta không biết.
Nghe xong tiếng trả lời của Cha Gia :”Ta không biết”, vừa thất vọng đau đớn vừa tủi nhục xấu hổ, hồn nữ hoàng vội quì xuống, lột bỏ hết mọi chức tước cao ngạo của trần thế và khiêm tốn thưa lại một cách giản dị :
– Con là Elizabeth Sissi, một kẻ có tội đáng thương và con tha thiết cầu xin Chúa nhân từ xót thương.
Tức thì tiếng chìa khóa tra vào ổ, vị Cha Già lên tiếng ân cần nói :
– Con hãy vào đi.
Dù câu chuyện chỉ là giả tưởng, nhưng dụng ý của nó muốn nói rằng : giá trị đích thực của một con người ở đời này và đời sau không hệ tại nơi những gì bên ngoài mình có được hay mình chiếm được, mà là do biết rõ mình thế nào. Nghĩa là khi còn sống phải biết sống làm sao để mọi người yêu mến kính phục và khi đã qua đời lại được Chúa xót thương và được thần thánh hỗ trợ thì mỗi người chúng ta gắng sức học hỏi và sống theo bí quyến căn bản này : “Khiêm nhường”. Vì đây chính là chìa khóa để mở được cánh cửa vào thiên đàng (Quê Ngọc).
- Hạ mình xuống để phục vụ.
Đức Giêsu phán :”Con Người đến không phải được phục vụ nhưng đến để phục vụ”(Mc 10,45). Phục vụ là hành động của một người tôi tớ, mà người tôi tớ thì phải phục vụ cho ông chủ. Đức Giêsu đã hạ mình xuống để phục vụ chúng ta để tôn chúng ta lên làm Chúa, còn Ngài lại trở thành tôi tớ. Ngài làm gương cho chúng ta về tinh thần bác ái vô vị lợi.
Sách có chữ rằng :”Phú quí đa nhân hội, bần cùng thân thích ly” : Giầu có thì thiên hạ bâu, nghèo khó thì bà con rời rạc.
Theo cách xử sự thông thường người ta thích những người giầu có, giao du với họ trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Nếu có phục vụ người ta thì cũng chỉ phục vụ “theo nguyên tắc :”Do ut des” : cho đi để lấy lại. . Chỉ những ai có tinh thần siêu nhiên và siêu thóat thì mới có thể có được một sự phục vụ vô vị lợi.
Phục vụ là :”Cho đi”, nhưng cái cho đi cũng có nhiều lý do :
– Người ta có thể ban cho vì bổn phận. Chúng ta dâng cho Thiên Chúa và cho lòai người có thể như cách chúng ta trả thuế lợi tức, như phải thanh toán một bổn phận không thể trốn tránh được, lòng không vui chút nào.
– Người ta có thể cho hoàn toàn vì động cơ tư lợi. Dầu có ý thức hay không, người đó có thể coi của mình cho như một thứ vốn đầu tư. Họ kể mỗi món tiền cho đi cho thêm một con số vào trương mục của mình trong ngân hàng của Chúa. Cho cách này không phải do lòng rộng rãi, mà chỉ là sự ích kỷ có tính toán.
– Có người cho để cảm thấy mình là người trên. Cho như thế có thể là một sự độc ác. Việc đó làm tổn thương người nhận hơn là từ chối thẳng thừng. Làm như vậy, người ban cho đứng trên bậc cao của mình để nhìn xuống người thọ nhận. Người đó có thể vừa cho vừa thuyết giáo trên đầu kẻ nhận một bài giảng vắn tắt và đầy tự mãn. Thà không cho gì hết còn tốt hơn là chỉ cho để thỏa mãn tính khoe khoang và tính thích cậy quyền. Các rabbi Do thái có câu nói rằêng : cách cho tốt nhất là khi kẻ ban không biết mình cho ai và kẻ nhận cũng không biết mình nhận từ đâu.
– Có người cho vì không thể không làm thế. Đó là cách cho duy nhất thành thật. Luật của Nước Trời là kẻ nào ban cho để được thưởng công, kẻ đó sẽ được phần thưởng, nhưng kẻ nào ban cho mà không nghĩ đến phần thưởng thì phần thưởng của kẻ ấy sẽ chắc chắn. Chỉ có một sự ban cho đích thực là cho vì sức mạnh của tình yêu tràn ra không thể kìm chế. Thiên Chúa ban cho vì Ngài yêu thương thế gian và chúng ta cũng phải làm như vậy.
III. BÀI HỌC CHO NGÀY HÔM NAY.
Đức Giêsu không dạy điều gì mà Ngài đã không làm trước, lời nói luôn đi đôi với việc làm. Bài học về khiêm nhường và bác ái hôm nay được minh họa bằng chính cuộc sống của Ngài mà thánh Phaolô đã ca tụng trong thư gửi cho tín hữu Philipphê :”Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu”(Pl 2,6-9).
Đọan thư Philipphê ngầm so sánh Đức Giêsu với A dong và nói lên cái nghịch lý giữa “lên” và “xuống”. Adong đã muốn lên “bằng Thiên Chúa” và kết quả là đẩy loài người xuống vực sâu. Còn Đức Giêsu tuy vẫn là Thiên Chúa mà không nhất quyết phải đòi cho luôn luôn được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã khước từ tất cả , mặc lấy thân nô lệ thấp hèn. Kết quả là Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban chính hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu… Thật đúng như lời Đức Giêsu đã nói :”Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Chúng ta cũng thường theo con đường của Adong tưởng rằng khẳng định được mình khi nâng mình lên trước mặt những người khác. Những cái “mình” mà ta khẳng định ấy chỉ là những dáng vẻ bề ngòai chứ không phải là bản thân đích thực của ta.
Triết gia Socrate đã khởi đầu triết lý của mình bằng câu :”Anh hãy tự biết mình”. Biết mình là cái khó vô cùng. Người ta có thể biết được nhiều sự trên trời dưới đất, biết được những cái xa xôi, biết được cả những cái cực kỳ tinh vi, nhưng có cái gần nhất màø không biết. Đó là bản thân mình. Còn triết gia Blaise Pascal thì nói :”Tôi chỉ biết có một điều là tôi chẳng biết gì cả”. Nếu không biết được gì khác thì làm sao biết được mình vì biết mình là một điều khó.
Vì vậy, mọi sự cần bắt đầu với việc tu thân, canh tân chính đời sống của mình. Để làm được điều căn bản này cần phải biết nhìn xuống và nhìn vào bản thân mình, biết khiêm tốn nhìn vào cuộc sống của mình theo ánh sáng Lời Chúa để được soi sáng mà nhìn thấy những gì tiêu cực, xấu xa cần được thanh luyện sửa chữa.
Truyện vui : Phải biết nhìn xuống.
Có một hòang tử nọ tên là Mukasaki, có một thái độ tự cao tự đại đến độ cả khi đi, ông cũng không bao giờ nhìn xuống đường. Ông bước đi trong tư thế làm oai, ngực đứng thẳng, mắt ngước lên, mọi người trong vùng đặt cho hoàng một tên riêng là :”Người không bao giờ nhìn xuống” và hoàng từ Mukasaki xem ra cũng rất thích biệt hiệu này, ông tuyên bố :”Những bậc vĩ nhân không bao giờ nhìn xuống, họ chỉ biết nhìn lên trời cao mà thôi”.
Một ngày nọ, hoàng tử được mời đến dự đại tiệc tại cung đình. Để khoe cho mọi người nhìn thấy bộ áo cẩn ngọc qúi giá có một không hai của mình, hoàng tử quyết định không ngồi xe ngựa nhưng hiên ngang đi bộ từ nhà đến cung đình, dĩ nhiên là với thái độ kiêu hãnh không bao giờ nhìn xuống. Dân chúng tuốn ra hai bên đường trầm trồ khen áo đẹp và quí, điều này lại làm cho hoàng tử thêm kiêu hãnh. Hoàng tử đến cung đình sau hết mọi người và hiên ngang bước vào. Mọi người cười rộ lên, hoàng tử kiêu hãnh nói :
– Tại sao mọi người cười tôi như vậy ?
Một trong những người khách mới trả lời :
– Xin hoàng tử nhìn xuống đôi chân mình sẽ biết lý do tại sao ?
Hoàng tử nhìn xuống, mặt bỗng đỏ bừng lên vì hổ thẹn. Cả hai đế giầy của hoàng tử đều dính đầy phân ngựa, vì không bao giờ nhìn xuống, hoàng tử giẫm lên không biết bao nhiêu đống phân ngựa từ nhà đến cung đình để dự tiệc.
Hoàng tử trong câu chuyện vui trên không bao giờ nhìn xuống và đã giẫm lên những đống phân ngựa. Nếu chúng ta không biết nhìn lại mình, kiểm điểm cuộc sống mình để biết canh tân khỏi những khuyết điểm và tật xấu, thì chắc chắn chúng ta sẽ chồng chất không biết bao nhiêu tật xấu. Tự phụ kiêu ngạo làm ta nên mù quáng trước những tật xấu của chính mình. Thêm vào đó, chúng ta lại dễ chiều theo khuynh hướng moi móc chuyện xấu của anh chị em, và như thế càng ngày chúng ta càng lún sâu vào trong tật xấu mà không hay biết gì cả( R.Veritas).
THIÊN CHÚA NÂNG CAO KẺ KHIÊM NHƯỜNG
Lm Ngà
Chúa Nhật Thứ 22 Mùa Thường Niên, Năm C – Luca (Lc 14, 7-14)
Khi đề cập về Chúa Giê-su, người ta thường giới thiệu Người là Thiên Chúa Ngôi Hai cao cả, là Vua hoàn vũ, là Thẩm Phán tối cao, là Đấng quyền năng phép tắc… nhưng Chúa Giê-su còn có một phẩm chất cao đẹp khác ít được đề cập đến: Người là Đấng rất khiêm nhường!
Trong thư Philip (2, 6-11), thánh Phao-lô trình bày sự khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giê-su như sau:
Mặc dù Chúa Giê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa quyền năng, đồng hàng với Thiên Chúa Cha, nhưng Người đã hủy mình ra không! Từ tột đỉnh danh dự và vinh quang, Người đã gieo mình xuống cõi đời ô trọc, hoá thân thành một trẻ sơ sinh yếu đuối, được sinh ra trong nơi rốt hèn; khi lớn khôn thì sống bằng nghề mộc ngày ngày đổ mồ hôi đổi lấy áo cơm. Thiên hạ còn gọi Người là “bạn bè của quân thu thuế và phường tội lỗi”; rồi cuối cùng, Người đón nhận cái chết thấp hèn và đau thương trên thập giá cùng với hai kẻ bất lương.
Chúa Giê-su là Đấng rất khiêm nhường nên Người cũng muốn cho chúng ta trở nên khiêm nhường như Chúa. Chúa Giê-su không kêu mời chúng ta hãy học cùng Người vì Người thông thái, vì Người có tài hùng biện thu phục quần chúng, vì Người khôn ngoan… nhưng trước hết, Người kêu gọi chúng ta hãy học với Người, vì Người có lòng dịu hiền và khiêm nhường.” (Mt 11, 29)
Chúa Giê-su còn thuyết phục chúng ta sống khiêm nhường bằng một dụ ngôn rất cụ thể và thực tế như sau: “Khi anh em được mời dự tiệc, đừng chọn chỗ nhất, kẻo khi có người khách khác quan trọng hơn đến sau, chủ nhà sẽ đến nói với anh em: Mời anh xuống ngồi chỗ dưới nầy cho… Trái lại, khi được mời dự tiệc, anh em hãy chọn chỗ cuối…. Vì hễ ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống và ai tự hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên” (Lc 14, 8-11).
Cây cao, tàng lớn, đứng trên đỉnh cao thì nguy cơ bật gốc hay gãy đổ càng cao. Cây nhỏ, thân mềm như lau sậy, dù đứng ở vị trí nào cũng được an toàn trước cuồng phong bão tố.
Khi huấn dụ các chủng sinh về khiêm nhường, Đức Cố Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận nói: “Khi ta ngồi lên ngai cao, nhiều người muốn đạp ta xuống; khi ta nằm xuống sát đất, nhiều người muốn nâng ta lên.”
Nước mưa rơi xuống trên những đỉnh núi cao sẽ chảy tuôn đi hết chẳng đọng lại giọt nào. Rốt cuộc, mọi giòng nước đều tuôn về chỗ trũng. Chính thế người ta thường nói: “Biển cả là mẹ của tất cả sông ngòi vì biển hạ mình thấp hơn mọi con sông.”
Ai hiền lành khiêm nhượng, biết hạ mình xuống thì tình trạng tâm hồn của họ như là chỗ trũng, là lũng sâu. Ơn phúc của Thiên Chúa cũng như tình yêu của bạn bè sẽ chảy tuôn vào những con người ấy.
* * *
Một trong những hình tượng rất sinh động để diễn tả cuộc đời khiêm hạ là hình tượng về nước. Nước lúc nào cũng khiêm tốn. Nước luôn tìm chỗ rốt hèn. Nước luôn mềm mỏng dịu dàng không hề xô xát va chạm với ai.
Nước không hề kháng cự hay đối đầu nhưng rốt cục nước vẫn chiến thắng nhờ sự mềm mỏng của mình. Búa tạ giáng vào tường, tường đổ; búa đập vào đá, đá tan; nhưng nếu có ai quai búa đập mạnh vào vũng nước, nước không cần kháng cự, nhưng búa sẽ phải cắm xuống đáy bùn! Đúng là “nhu thắng cương, nhược thắng cường”!
Nước luôn tìm chỗ rốt hết, tìm chỗ thấp mà chảy xuống, chẳng bao giờ muốn leo cao nên mới tạo ra thủy năng, một nguồn năng lượng phi thường!
Khi bị hỏa thần tấn công, nước nhẹ nhàng bốc mình lên cao thành những lớp mây trời và khi hỏa thần hừng hực thiêu rụi những cánh rừng tươi tốt, nước có thể gieo mình xuống dập tắt hỏa thần.
Tuy mềm mại nhưng nước có sức xói mòn tất cả; dù rắn như đá thì “nước chảy đá cũng phải mòn”.
Nhờ mềm mỏng, nước rửa sạch tất cả, cuốn trôi tất cả.
Nhờ biết hóa mình thành muôn hạt li ti, nước có thể len lỏi vào mọi ngõ ngách của các địa tầng, thấm nhập khắp muôn nơi.
Tuy hạ mình thấp hèn, nước đem lại sự sống cho mọi loài. Nơi đâu thiếu nước, ở đó chỉ còn là sa mạc, khô cằn. Nơi đâu nước ngấm đến, ở đó sự sống sẽ phong nhiêu.
Lạy Chúa Giê-su, Đấng hiền lành khiêm nhượng, xin cho chúng con, những người môn đệ Chúa, biết chọn chỗ rốt hèn như nước, biết sống khiêm hạ như Chúa đã nêu gương.
CHARLIE BROWN CHÍNH CỐNG
Lm Mark Link, SJ
Chủ đề: “Khiêm tốn có nghĩa sống như Chúa Giêsu,
không sống cho mình nhưng cho người khác”
Nhiều năm trước đây ở Floria, tờ St. Petersburg Times có đăng một câu chuyện lý thú của ông Don Shula, huấn luyện viên của đội banh Dolphins nổi tiếng của Miami. Ông đi nghỉ hè với gia đình trong một tỉnh lẻ ở phía bắc thành phố Maine.
Một chiều kia, trời mưa tầm tã, ông Shula cùng bà vợ và năm đứa con quyết định đi xem xinê trong rạp hát duy nhất của tỉnh.
Khi họ đến, trong rạp lúc ấy đèn còn sáng và chỉ có sáu người. Khi ông Shula và gia đình bước vào, tất cả sáu người này đứng dậy và vỗ tay. Ông vẫy tay mỉm cười với họ.
Ông ngồi xuống rồi xoay sang nói với vợ, “Mình ở Miami cách đây cả ngàn dặm vậy mà họ đứng dậy hoan hô. Chắc họ đã thấy tài nghệ của đội banh Dolphins trên truyền hình.”
Sau đó một người tiến đến bắt tay ông. Ông Shula cười hớn hở và hỏi, “Làm sao mà ông biết tôi?”
Ông này trả lời, “Thưa ông, tôi không biết ông là ai. Tất cả những gì tôi biết là trước khi ông và gia đình bước vào, người quản lý rạp hát nói với chúng tôi rằng, nếu không có thêm bốn người nữa thì ngày hôm nay họ sẽ không chiếu phim.”
Tôi thích câu chuyện này vì nó làm sáng tỏ điều giáo huấn trong bài đọc hôm nay, có thể nói đó là lời cam kết của một Kitô Hữu, chúng ta phải trở nên người khiêm tốn.
Câu chuyện này mời gọi chúng ta trở nên loại Kitô Hữu mà ông Don Shula đã kể trong câu chuyện.
Ông là một người nổi tiếng khắp nước không chỉ vì tài huấn luyện nhưng còn là một con người tuyệt vời.
Đó chỉ là điều tự nhiên khi ông nghĩ rằng người kia đến bắt tay ông vì biết ông là ai.
Nhưng khi vỡ lẽ, ông Shula lại là người đầu tiên cười nhạo chính mình. Thật vậy, ông thích sự kiện đó đến nỗi ông thường kể lại cho người khác nghe. Chỉ một người khiêm tốn mới có thể làm như vậy.
Điều đó nêu lên một câu hỏi. Khiêm tốn là gì? Trở nên khiêm tốn có nghĩa gì?
Có phải nó có nghĩa chúng ta phải tự hạ? Có phải nó có nghĩa ít nghĩ đến chính mình? Có phải nó có nghĩa khước từ giá trị thực sự của mình, hoặc coi thường giá trị ấy?
Tất cả không phải vậy! Khiêm tốn là một điều sâu xa hơn và mỹ miều hơn những điều ấy. Khiêm tốn không phải ít nghĩ đến chính mình.
Trong ý nghĩa sâu xa và mỹ miều, khiêm tốn có nghĩa trở nên giống như Chúa Giêsu, Người đã nói, “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường…” Mt 11:29
Nó nghĩa trở nên giống như Chúa Giêsu, Người đã nói, “Con Người không đến để được phục vụ; nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình để cứu chuộc nhiều người.” Mc 10:45
Khiêm tốn có nghĩa sống như Chúa Giêsu đã sống–không cho chính mình, nhưng cho người khác.
Nó có nghĩa sử dụng khả năng của chúng ta như Chúa Giêsu đã dùng khả năng của Người–không cho chính mình và vinh dự của mình, nhưng cho người khác và các nhu cầu của họ.
Sau đây là một thí dụ điển hình.
Ông Charles Schulz đã tạo ra nhân vật Charlie Brown rất nổi tiếng trong dân chúng qua các hí họa Peanuts. Tuy nhiên, ít người biết rằng Charlie Brown được dựa trên một con người có thực. Charlie Brown thực tế cùng làm việc với ông Schulz trong Phòng Trạm Trổ ở Minneapolis.
Sau đó cả hai bỏ việc ở đây. Ông Schulz trở nên một nhà hí họa. Ông Charlie Brown trở nên một người cố vấn cho các thiếu niên phạm pháp, và ông thường cho các em trú ngụ ngay tại nhà của ông. Vào tháng Mười Hai 1983 ông Charlie từ trần vì ung thư. Sau cái chết của ông, một người cùng sở viết:
“Charlie là ông xếp của tôi ở Trung Tâm Phạm Pháp trong ba năm… Sau khi các em đi ngủ, chúng tôi trò chuyện với nhau thật lâu.
“Charlie là một người Công Giáo đạo đức… Ông thấy cuộc đời ông là để thi hành các công việc bác ái hằng ngày, noi gương Đức Kitô và các thánh.”
Người cùng sở cho biết thêm là trong thời gian làm việc tại Trung Tâm Phạm Pháp, không một thiếu niên nào đã từng sống với ông Charlie mà lại tái phạm trở vào tù. Và đây là một trong các lý do tại sao ông Charlie thường được mời nói chuyện cho các chuyên gia và diễn thuyết về hình phạt học và công việc xã hội tại Đại Học Minnesota.
Ông Charlie Brown và Charles Schulz là đôi bạn thân cho đến suốt đời. Ông Schulz thỉnh thoảng có đề nghị chia sẻ với ông Charlie những lợi nhuận từ việc buôn bán các sản phẩm có hình ảnh của nhân vật Charlie Brown, như áo thung hay đồ chơi. Nhưng ông Charlie không bao giờ nhận một đồng nào cả.
Ngay cả ông cũng không tự ý cho ai biết ông thực sự là Charlie Brown.
Và vì thế, cho đến ngày nay, nhiều thiếu niên đến gõ cửa Trung Tâm Phạm Pháp vào đêm khuya, rồi hỏi “Có Charlie Brown ở nhà không?” mà thực sự chúng không biết ông là ai.
Câu chuyện này là một thí dụ sống động về điều Chúa Giêsu muốn nói khi Người tuyên bố, “Hãy học cùng ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường…”
Đó là một thí dụ sống động về điều Chúa Giêsu muốn nói khi Người cho biết, “Con Người đến không để được phục vụ; nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình để cứu chuộc nhiều người.”
Đó là một thí dụ sống động về sức mạnh và sự mỹ miều của nhân đức khiêm tốn khi được thể hiện một cách can đảm trong cuộc đời của một Kitô Hữu đích thực.
Đó là một thí dụ sống động của lời mời mà Chúa Giêsu đưa ra cho bạn và tôi hôm nay.
Chúng ta hãy kết thúc phần chia sẻ bằng việc suy niệm về sự khiêm tốn qua những lời trong bài Huấn Ca hôm nay: “Con ơi, hãy khiêm tốn trong mọi việc con làm, và người ta sẽ quý trọng điều đó hơn cả quà cáp. Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ đẹp lòng Đức Chúa.”
SỐNG CHO NGƯỜI NGHÈO
Tạ Duy Tuyền
CN 22 TN-C-2013
Người xưa có câu: “Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất đương phong lập”, nghĩa là khi có mùi hương thì tự nó thơm, không cần phải ra đứng ở đầu ngọn gió. Khi một người thực sự là một người tài giỏi, đạo đức, thánh thiện thì hãy để mọi người nhìn nhận chứ đừng tự mình nói ra. Và Người xưa cũng đã từng dạy : “Tự khiêm thì người ta càng phục, tự khoe thì người ta càng khinh”.
Có người kể rằng: Một ngày trong năm 11 tuổi, tôi trở về nhà khóc vì chỉ được giao một việc nhỏ của chương trình Thiếu nhi tại nhà thờ, trong khi các bạn khác được phân công vai chính. Thản nhiên, mẹ tôi lấy chiếc đồng hồ của bà và đặt vào tay tôi.
– Con có thấy gì không ?
– Một hộp vàng, mặt và những cây kim.
Rồi bà mở phía sau hộp và nhắc lại câu hỏi. Tôi nhìn thấy những bánh xe nhỏ và những đinh vít. Bà nói : “Chiếc đồng hồ này sẽ vô dụng nếu thiếu đi mỗi phần, ngay cả những phần con không thể nhìn thấy”.
Bài học của bà làm tôi vui sướng hơn tất cả. Tôi đã không còn mặc cảm vì mình đóng vai phụ. Tôi không còn lệ thuộc bởi vai naỳ vai nọ mà quan yếu ở việc mình hết lòng với việc được giao.
Thế nhưng, ở đời người ta vẫn thích khoe khoang, vẫn thích phô trương công đức của mình nơi đầu đường phố chợ. Con người vẫn thích làm trung tâm điểm của mọi người. Ngay cả các linh mục, vẫn có những người thích được cất nhắc lên chức này chức nọ hay ít ra cũng ở những chỗ phố thị rộn ràng mới cân xứng tài đức của mình. Lòng tự tôn, tính tự kiêu khiến họ luôn xem trọng mình, để cao mình đến mức độ trở thành lố bịch trước anh em.
Chúa Giê-su không bao giờ muốn có những môn đệ như thế! Chúa Giê-su từng thao thức cho các môn đệ mình đừng mắc phải tính giả hình của nhóm biệt phái tự kiêu. Ngài mong muốn các môn sinh luôn khiêm tốn để dễ dàng cúi mình phục vụ bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào. . . Ngài mong muốn các môn sinh đừng tìm đến những nhà cao cửa rộng, những đại gia sang trọng mà bỏ rơi người nghèo hay coi khinh người nghèo. Chúa mong muốn các môn sinh sống nghèo và gần gũi hòa đồng với người nghèo. Hãy sống đối xử tốt với người nghèo dù rằng họ chẳng có gì cho lại ta, nhưng họ vẫn là hình ảnh của Chúa, là anh em của ta, thế nên cần phải thương yêu họ như chính mình.
Nhưng đáng tiếc, vẫn có những người muốn thể hiện đẳng cấp ưu việt của mình bằng việc đi xe sang trọng, đến những nơi sang trọng và kết giao với những người sang trọng. Họ xấu hổ, mặc cảm khi đi chung với người nghèo. Tính tự tôn khiến họ xa lánh người nghèo và gần gũi kẻ quyền thế giầu có. Họ chỉ rao giảng cho người nghèo nhưng lại không sống cho người nghèo. Thế nên, người nghèo vẫn cô đơn, vẫn lẻ loi, vẫn sống trong tủi hận lầm than . . .
Chúa Giê-su luôn sống nghèo và vì người nghèo. Ngài đã chọn mái nhà nghèo để cư ngụ. Ngài đã chọn công việc tầm thường để kiếm kế sinh nhai. Ngài đã sống chung với dân nghèo làng Nagiaret. Cuộc đời công khai, Ngài luôn đi cùng người nghèo và đi đến người nghèo để thi ân, để phục vụ. Ước gì đời sống ky-tô hữu chúng ta cũng phác họa lại chân dung tình yêu Chúa cho tha nhân. Xin cho chúng ta luôn khiêm tốn để sống gần gũi hòa nhập với đám đông nghèo khó. Xin đừng vì thói trưởng gia, thích xa hoa mà tự kiêu, xa lánh người nghèo luôn có ở bên. Amen
Khiêm nhường phục vụ-Lm Tạ Duy Tuyền
Chúa nhật 22 thường niên năm C
Là người được sinh ra và lớn lên trong cùng một quê hương, ai cũng mong cho quê hương mình được bình an, cho mọi người được no ấm. Ai cũng mong cho quê hương mỗi ngày được giầu đẹp hơn. Ai cũng khát khao niềm an hoà trên quê hương đất nước. Thế nhưng ước mơ đó không thể từ trời rơi xuống. Ước mơ đó cần phải có những con người dựng xây, biết kiến tạo bằng cả cuộc sống dấn thân vì lợi ích của dân tộc. Một đất nước muốn an vui thịnh vượng, không thể có những con người “ăn trên ngồi trốc” mọi người, càng không thể có những loại người dùng địa vị của mình để vun quén cho bản thân, để hưởng thụ đến mức độ tha hoá đạo đức, những loại người như thế chỉ làm nghèo đất nước và khổ người dân. Một đất nước muốn được yên vui đầm ấm không thể có sự chia rẽ nội bộ hay phân biệt giai cấp và chủng tộc. Cần phải có sự đoàn kết yêu thương, và biết tôn trọng quyền lợi chung của mọi người. Mỗi người bất luận là ai, già hay trẻ, khoẻ mạnh hay tật nguyện đều phải được đối xử trong tôn trọng và yêu thương. Có như vậy cuộc sống mới yên vui, tình người mới đầm ấm.
Lời Chúa hôm nay cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta cần phải biết sống khiêm tốn với mọi người và sống hoà hợp với nhau trong yêu thương chân thành. Người làm lớn phải biết cúi mình phục vụ. Biết khiêm tốn khi sống giữa anh em, biết lấy tình yêu để đối xử với nhau một cách vô vị lợi. Chúa đã kết án thói trưởng giả của những người biệt phái. Thích dệnh dạng trong đám tiệc. Thích ngồi”mân cao cỗ đầy”. Họ dùng quyền bính để được người khác cúi mình phục vụ. Lối sống của họ chẳng có ích cho cộng đoàn mà còn làm khổ anh em. Chúa còn dạy chúng ta khi đãi tiệc, hãy thiết đãi cả những kẻ không có khả năng mời lại chúng ta một ly rượu. Đừng mời nhau theo kiểu “có qua có lại”, mà quan yếu là tình người với nhau. Con người cao qúy hơn tiền bạc, hơn mọi thứ vật chất trần gian, thế nên, phải biết đặt tình người hơn những tính toán lợi nhuận. Đừng vì những lợi nhuận vật chất mà loại trừ anh em, nhưng hãy dùng của cải mà mua lấy bạn hữu Nước Trời.
Đó cũng chính là cách sống mà Chúa đã thực thi trong suốt cuộc đời dương gian. Ngài đã chọn sinh ra trong cảnh cơ hàn. Ngài đã sống khiêm tốn ẩn dật giữa làng quê Nagiaret. Ngài đã đến trần gian không phải để được phục vụ mà là để phục vụ. Chính trong bữa tiệc ly, Ngài đã làm bổn phận của người tôi tớ khi cúi mình rửa chân cho các môn sinh. Chúa là Chúa, là Thầy nhưng chẳng màng đến địa vị cao qúy của mình, chỉ biết một điều là tự hủy chính mình để trở nên tôi tớ cho mọi người. Chúa cũng không chọn một đối tượng nào để phục vụ. Chúa cũng không loại trừ một giai cấp nào trong bàn tiệc mà chính Chúa thiết đãi. Tất cả mọi người từ đông chí tây đều được mời gọi tham dự yến tiệc mà Chúa đã dọn sẵn.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta đi tiếp con đường Chúa đã đi. Con đường khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.
Thế nhưng, giữa dòng đời này vẫn còn đó những kẻ lấy quyền bề trên để ức hiếp kẻ dưới, vẫn còn đó những người cha người mẹ sinh con ra chỉ mong con lớn khôn để có kẻ hầu người hạ, vẫn còn đó những người chồng đang hành hạ vợ mình như những tôi tớ trong nhà. Giữa dòng đời này vẫn còn đó những giọt nước mắt của những kẻ nghèo khó, tật nguyền, những kẻ bất hạnh, già nua không tìm được sự ủi an nâng đỡ của đồng loại. Thế giới sẽ không có an vui thịnh vượng, nếu con người không biết sống khiêm tốn, nhường nhịn và nâng đỡ nhau. Thế giới sẽ chỉ có tiếng khóc than, oan ức nếu trên mặt địa cầu này vẫn còn đó những kẻ kiêu căng, ngạo mạn và sống thiếu tình người. Thế giới sẽ đổ vỡ nếu không còn ai biết cúi mình để phục vụ anh em.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: trên còn đường nhỏ hẹp sát sườn núi, một bên là vách núi cheo leo, một bên là vực sâu thăm thẳm, hai con dê núi đi ngược chiều nhau. Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con vật đi qua, nên hai con dê qúa bối rối không biết tính toán thế nào để vượt qua nhau. Nếu chen lấn, chúng có thể rơi xuống vực thẳm và tan xương nát thịt. Chúng chợt nghĩ ra một cách: một con đã qùy mọp xuống đất để con kia bước qua mình. Thế là chúng ta tiếp tục con đường của mình.
Vâng, thế giới hôm nay nếu muốn cứu mình khỏi hố diệt vong cần phải biết xây dựng tình người hơn là xây dựng những cơ sở vật chất lộng lẫy nguy nga. Thế giới hôm nay muốn an vui thịnh vượng cần phải có những con người biết quên mình phục vụ anh em. Ước gì mỗi người chúng ta luôn học lấy bài học khiêm nhu của Chúa để đến với anh em, để tự hủy chính mình, để trở nên kẻ có ích cho tha nhân, ngõ hầu chúng ta cùng góp sức xây dựng cho quê hương được quốc thái dân an, cho nơi nơi thắm được tình Chúa tình người, cho mỗi người tìm được niềm vui trong việc lãnh nhận và trao ban những nghĩa cử yêu thương. Amen.
CON LÀ KHÔNG, CHÚA LÀ TẤT CẢ (Lc 14,1. 7-14)
Thiên Phúc
Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc.
Cậu bé tiết lộ:
– Người thiếp đẹp hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn:
– Các con hãy ghi nhớ lời này: Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.
***
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14, 11). Chúa Giêsu rất ưa thích sự khiêm nhường mà còn làm gương trước cho mọi người. Là một vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã hạ mình làm kiếp phàm nhân. Là bậc thầy trong thiên hạ, lại quì xuống rửa chân cho các đệ tử. Chỗ của Người là “chỗ nhất” trên trời cao, nhưng lại chọn “chỗ cuối” dưới chân con người.
Chúa Giêsu tự hạ mình xuống như thế: không phải là để được tôn lên, vì dưới vòm trời này ngôi báu nào có thể chứa được Người. Người khiêm nhường đến tự huỷ như thế, cũng là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Vì thế, khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên, mà không nhằm phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi.
Có thể nói, khiêm nhường như Chúa dạy, chính là “tự nhận mình là không và Chúa là tất cả”, nên chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà phục vụ và yêu thương mọi người. Chỉ có những ai hạ mình xuống như thế mới đáng được Chúa tôn lên.
Thánh Giuse đã khiêm nhường phục vụ, yêu thương Đức Mẹ và Đức Giêsu tại quê nghèo Nadarét, nên đã được tôn làm cha nuôi Chúa Cứu Thế.
Đức Maria đã khiêm nhường nhận mình là nữ tì của Thiên Chúa, để suốt đời phục vụ chăm lo cho Con Chúa Trời, nên đã được tôn làm Mẹ Thiên Chúa.
Noi gương Chúa biết bao con người đang âm thầm xả thân cho đồng loại, họ khiêm nhường làm những công việc dơ dáy hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong cùi lở loét, những bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối nhặt được từ đường phố, những trẻ em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, lạc hậu.
Chính khí yêu thương vô vị lợi, chính khi chúng ta “đãi tiệc những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại”, thì chúng ta “mới thật có phúc”, vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta. Người không có ý phân biệt giàu nghèo, thân sơ, vì trước mắt Thiên Chúa, chúng ta là anh em. Nhưng Người muốn lưu ý chúng ta rằng: dù người được mời giàu hay nghèo, thân hay không thân, chúng ta cũng đừng mong họ đáp trả lại theo kiểu “ăn miếng trả miếng”. Đó là lòng bác ái vô vị lợi mà Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay.
Có thể chúng ta thực thi việc bác ái cho anh em chỉ vì vụ lợi, vì khoe khoang, vì muốn hơn người, vì trách nhiệm hay vì phần thưởng. Nhưng sự trao ban đích thực chính là trao ban vì yêu thương. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người” (Ga 3, 16). Chỉ những ai trao ban vô vị lợi, trao ban vì yêu thương, trao ban chính bản thân mới trờ nên giống Thiên Chúa.
***
Lạy Chúa, Chúa thương những kẻ khiêm nhường, vì họ luôn nhận mình yếu hèn và chỉ cậy dựa vào Chúa mà thôi.
Xin Chúa dạy chúng con biết khiêm nhường mà phục vụ, dấn thân và trao ban mà không mảy may tính toán, vì Chúa sẽ yêu thương chúng con nhiều hơn. Amen.
NGƯỜI ĐẸP LÒNG CHÚA
Lm. Minh Vận, CMC
Goliat là vị tướng tổng chỉ huy của quân đội Philitinh, ông là một người to lớn phi thường, cao 6 feet, mặc áo giáp bằng sắt nặng 10 ký, đeo gươm dài. Ông thường hay khiêu chiến với người Do Thái, nhưng luôn “Bách chiến bách thắng”, không trận nào ông chịu thua, không một tướng lãnh tài giỏi nào của Do Thái mà không bị ông đánh bại, khiến mọi người đều khiếp sợ kinh hãi. Chính vì thế, mà tướng Goliat ngày càng sinh kiêu căng tự phụ, khinh miệt và nguyền rủa Dân Riêng của Thiên Chúa. Hơn nữa, ông còn dám lộng ngôn, phạm thượng, khinh mạn cả Thiên Chúa của dân Do Thái nữa.
Một ngày kia, tướng Goliat đang hênh hoang tác oai tác quái với mọi người đang vây quanh ông, thì Đavid một cậu bé chăn cừu mới 12 tuổi sinh tò mò, cậu lẻn vào giữa đám đông coi xem sự việc. Thấy Goliat tự cao tự đại, xúc phạm đến Thiên Chúa và cười chê dân Do Thái. Đavid thầm nguyện cầu: “Lạy Chúa, xin cho con triệt hạ con người hỗn xược này!” Rồi Đavid ra về, cậu tới triều yết Vua Saolê và xin Vua ban chiếu chỉ sai cậu đi hạ sát tướng Goliat. Vua Saolê tưởng Đavid là một con trẻ đơn sơ nói chơi, nên ngài không chấp nhận và can ngăn, vì sợ rằng Đavid chỉ là một con trẻ, Goliat có thể một tay cầm chân Đavid quật như quật một con nhái. Thấy Đavid cứ năn nỉ mãi cách thành thật, và cảm thấy cậu là người được Thiên Chúa dùng, Vua Saolê đã chấp nhận lời cậu thỉnh nguyện.
Lập tức, Vua Saolê ra chiếu chỉ truyền cho Đavid đi nghinh chiến và hạ sát tướng Goliat. Trước khi Đavid lên đường, Vua Saolê truyền lấy áo giáp của Vua mặc cho cậu; trao chính gươm của Vua cho cậu. Nhưng áo giáp thì quá nặng Đavid không mặc được; gươm lại quá dài Đavid không đeo được. Đavid liền đi ra bờ suối lượm mấy viên sỏi làm đạn bắn “trành cao su”, rồi với niềm cậy trông mãnh liệt nơi Thiên Chúa, Đavid tới tuyên chiến với tướng Gioliat.
Thấy Đavid là một đứa trẻ con, lại không có khí giới binh đao, Goliat cười khinh miệt không thèm để ý tới; đang lúc đó, Đavid vung mạnh chiếc trành cao su, viên sỏi nhỏ găm sâu trúng giữa trán Goliat, khiến ông ta bị choáng váng, lắc lư, rồi ngã quị xuống đất, nằm xõng xượt giữa vũng máu đào chảy lai láng, Đavit dùng chính gươm của Goliat chặt đầu ông ta đem về nộp cho Vua Saolê (xem Samuel 17:1-54).
- AI NÂNG MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG
Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca thuật lại việc Chúa Giêsu được mời, đến dùng bữa tại nhà một vị thủ lãnh của người biệt phái. Đang khi dùng bữa, Chúa quan sát thấy những kẻ đã được mời, ai cũng muốn chọn chỗ danh dự, nên người dùng dụ ngôn tiệc cưới, mà dạy họ một “Bài Học Khiêm Nhu” như chúng ta vừa nghe. Sau khi chỉ dạy cách thức phải giữ khi tới dự tiệc, để tỏ ra lòng khiêm nhu biết tôn trọng kẻ khác và tự nhận địa vị thấp bé của mình trong xã hội, để đừng trồi mình lên, kẻo bị xấu hổ trước mặt mọi người, rồi Chúa đã kết luận: “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Câu truyện tướng Goliat tự kiêu tự đại, nâng mình lên, khinh dể kẻ khác, lại dám lộng ngôn phạm thượng và khinh miệt cả Thiên Chúa nữa, nên ông đã bị Thiên Chúa dùng một em nhỏ mới 12 tuổi hạ nhục; không cần phải dùng đến gươm đao súng đạn, mà chỉ cần một viên sỏi nhỏ với cái trành cao su của một đứa con nít. Đúng như lời Chúa đã phán: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống” (Lc 14:11). Còn Đavid chỉ là một cậu bé chăn cừu vô danh tiểu tốt, nhưng vì lòng kính tôn yêu mến Thiên Chúa, đau lòng vì danh Thiên Chúa tối cao bị xúc phạm, đồng thời thấy Dân Riêng của Chúa bị khinh dể miệt thị, cậu đã muốn hạ sát tướng Goliat, không phải vì cậy vào cái thân phận hèn mọn của mình; cũng chẳng cậy vào cái tài lanh lợi của một thiếu niên; trái lại, cậu hoàn toàn tin cậy ở sức phù trợ của Thiên Chúa, dám đương đầu với con người đầy dũng mạnh với đầy đủ binh khí; sau cùng, cậu đã chiến thắng và hạ sát được vị tướng hùng mạnh tổng chỉ huy quân đội Philitinh. Nhờ chiến thắng vẻ vang này, Đavid là một cậu bé chăn cừu đã được Vua Saolê và toàn dân cảm phục, tôn cậu lên làm Vua Dân Israel. Lời Chúa đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi con trẻ Đavid: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 14:11).
- TRỞ NÊN NGƯỜI ĐẸP LÒNG THIÊN CHÚA
Muốn trở nên người đẹp lòng Thiên Chúa và hài lòng mọi người, chúng ta hãy lắng nghe và thực hành lời Đấng Khôn Ngoan trong sách Đức Huấn Ca dạy: “Hỡi con, con hãy thi hành công việc của con cách hiền hòa, thì con sẽ được người đẹp lòng Chúa quí chuộng”. Muốn cho sứ mạng tông đồ Chúa ủy thác và những phận vụ Chúa trao phó đạt được nhiều thành quả tốt đẹp, chúng ta hãy sống theo lời Chúa căn dặn: “Càng ở địa vị cao con càng phải hạ mình xuống trong mọi sự, thì con sẽ được đẹp lòng Thiên Chúa” (xem Sir 3:19-21. 30-31).
Thánh Phêrô và Giacobê đồng thanh quả quyết: “Chúa chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn phúc cho người khiêm hạ” (1 Pet 5:5 và Jac 4:6). Lời Chúa Thánh Thần còn tuyên phán: “Tai họa dành cho kẻ kiêu căng thì vô phương cứu chữa” (xem Sir 3:30-31). Ca dao Việt Nam cũng có lời quả quyết rất phù hợp với giáo huấn của Chúa: “Càng cao càng cản gió lay, càng kiêu ngạo lắm càng cay đắng nhiều”.
Căn cứ vào các giáo huấn của Chúa và lời răn dạy của các Thánh, chúng ta có thể kết luận không sai lầm rằng: “Lòng khiêm nhu là chìa khóa mở kho ơn thánh, vì Chúa hằng được hài lòng trào đổ muôn ơn phúc và mạc khải các mầu nhiệm Nước Trời cho những kẻ khiêm hạ” (xem Mt 11:25). Lòng nhiêm nhu còn là một bí thuật hữu hiệu để chinh phục lòng người, để đạt được thành công trên trường đời, được mọi người yêu thương mến chuộng.
Thánh Gioan Maria Vianney, lúc còn là một chủng sinh học quá chậm vì tối trí. Ngày kia, một giáo sư thần học thừa lệnh Đức Giám Mục đến khảo sát Thầy Vianney xem có tạm đủ khả năng học vấn, để có thể vớt cho Thầy tiến tới chức Linh Mục được không.
Không thấy Thầy Vianney trả lời được một câu nào thỏa đáng, vị Giáo Sư này nổi nóng đập bàn quát: “Vianney, Thầy dốt đặc như con lừa vậy. Với một con lừa như Thầy, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì!”. Vianney khiêm tốn bình tĩnh và đơn sơ đáp lại: “Thưa Cha Giáo, ngày xưa ông Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại được ba ngàn quân Philitinh. Vậy cả một con lừa như con đây, Thiên Chúa lại không làm được việc gì sao?”
Kết Luận
Để trở nên một người con luôn làm hài lòng Chúa và một người bạn thân luôn làm vui lòng mọi người, cũng như để đạt thành công trên đường đời, chúng ta hãy sống khiêm tốn. Thánh Gioan Maria Vianney đã thấu hiểu và sống trọn cái bí thuật đó, nên Chúa đã thể hiện nơi ngài nhiều sự lạ lùng để vinh danh Chúa, đã trở nên mẫu gương khiêm tốn đáng mọi người phải khâm phục và noi theo. Còn chúng ta, chúng ta đã sống thế nào trong khi chúng ta thi hành sứ vụ tông đồ của chúng ta?
Lạy Mẹ, Mẹ luôn tự nhận mình là nữ tỳ hèn mọn của Chúa, xin Mẹ dạy chúng con luôn biết sống khiêm nhu như Mẹ, để chúng con cũng được chia phần vinh phúc với Mẹ, trở nên người được Chúa hài lòng.
KHUYẾN KHÍCH SỐNG KHIÊM HẠ
Lm Hồ Bạc Xái
“Xin ông hãy nhường chỗ” (Lc 14, 9)
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ba khuynh hướng xấu lớn nhất của con người là “danh, lợi và thú”. Lời Chúa hôm nay sẽ dạy chúng ta về khuynh hướng hám danh, nói cách khác là tính kiêu căng.
Chúng ta hãy chăm chú nghe Lời Chúa dạy bảo và hãy ngoan ngoãn sống theo giáo huấn của Chúa.
- Gợi ý sám hối
Chúng ta đều mang tính kiêu căng, mỗi người thể hiện một cách.
Vì ham danh vọng, chúng ta đã làm nhiều điều đáng trách
Chúng ta đối xử đặc biệt tốt đối với những người có địa vị, và khinh miệt những kẻ thấp hèn.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Hc 3, 17-18. 20. 28-29)
Đoạn sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm tốn:
Kẻ làm việc cách khiêm tốn thì được người khác mến yêu
Chính Thiên Chúa yêu thương những kẻ khiêm tốn
Kẻ kiêu căng khi lâm cảnh khốn khổ thì vô phương cứu chữa.
- Đáp ca (Tv 67)
Thánh vịnh này được gọi là Bài ca của kẻ nghèo hèn: Lòng yêu thương của Thiên Chúa đặc biệt dành cho những người yếu đuối, cô thế cô thân và nghèo hèn.
- Tin Mừng (Lc 14, 1. 7-14)
Khung cảnh của câu chuyện này là Chúa Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa, và nhóm Pharisêu cố dò xét Ngài. Trong khung cảnh bữa tiệc ấy, Chúa Giêsu dạy hai bài học:
a/ Bài học về việc chọn chỗ ngồi (cc 7-11): chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị.
Không nên tự mình tranh dành địa vị, vì có thể địa vị ấy không tương xứng với khả năng và phẩm giá của mình.
Địa vị ấy, hãy để cho người khác sắp xếp cho mình, do sự đánh giá khách quan của họ đối với mình.
Và tốt nhất là hãy để chính Chúa lo việc đó, vì “hễ ai tự nâng mình lên sẽ bị (Thiên Chúa) hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được (Thiên Chúa) nâng lên”.
b/ Bài học về việc phục vụ vô vị lợi: bài học phục vụ vô vị lợi. Chúa Giêsu lấy thí dụ bằng việc mời khách dự tiệc:
“Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người đui”: ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ “người nghèo”. Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (2Sm 5, 8; Lv 21, 18).
“Họ không có gì đáp lễ”: người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời (“ông sẽ được đáp lễ”: thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là kẻ chủ động).
- Bài đọc II (Dt 12, 18-19. 22-24a) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư Do Thái tiếp tục khích lệ các kitô hữu gốc do thái: khi họ bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo, xem ra như họ bỏ núi Sinai (một trong những biểu tượng của Do thái giáo), nhưng bù lại họ được tiến lên núi Sion trên trời, trên đó có thành Giêrusalem trên trời, họ được đến với chính Thiên Chúa.
- Gợi ý giảng
* 1. Hai bài học ngược đời
Nhân cơ hội được mời dự tiệc, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bữa tiệc để dạy hai bài học: bài học khi được mời dự tiệc và bài học khi đứng ra đãi tiệc. Cách dự tiệc và cách đãi tiệc là hình ảnh của những cách sống.
a/ Khi được mời dự tiệc:
Chúa Giêsu thấy người Do Thái hay chọn chỗ nhất mà ngồi. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn, mà vì chỗ đó danh dự hơn (tiếng “chủ tịch” nghĩa là làm chủ chiếu tiệc, lớn nhất trong chiếu). Như vậy “chỗ ngồi” là danh dự.
Những người Do Thái tự chọn chỗ danh dự nghĩa là tự tô vẽ danh dự cho mình. Việc tự tô vẽ như thế có khi không đúng sự thật, cho nên có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, danh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhân nơi mình và đặt mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ danh dự có thể bị hố và xấu hổ.
– Chú ý câu cuối “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”: Động từ “Bị hạ xuống” ở thể thụ động, một kiếu tránh nói trực tiếp tới Thiên Chúa: không phải người đời mà chính cả Thiên Chúa cũng hạ kẻ tự tô vẽ danh dự của mình. Như vậy, điều khám phá thứ hai là Danh dự của mình là do Thiên Chúa đặt mình vào. Mà Thiên Chúa thì thường nâng cao kẻ thấp hèn (Abel/Cain Giacóp/Êsau Giuse/Các anh Đavít/các anh Đức Maria v. v)
b/ Khi đứng ra đãi tiệc:
Người Do Thái làm theo óc tính toán. Cái lợi là được người ta đền đáp
Chúa Giêsu dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp, vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp, và như thế chắc chắn trọng hậu hơn.
* 2. Con là không, Chúa là tất cả (Lc 14,1. 7-14)
Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc.
Cậu bé tiết lộ:
– Người thiếp đẹp hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn:
– Các con hãy ghi nhớ lời này: Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.
***
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14, 11). Chúa Giêsu rất ưa thích sự khiêm nhường mà còn làm gương trước cho mọi người. Là một vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã hạ mình làm kiếp phàm nhân. Là bậc thầy trong thiên hạ, lại quì xuống rửa chân cho các đệ tử. Chỗ của Người là “chỗ nhất” trên trời cao, nhưng lại chọn “chỗ cuối” dưới chân con người.
Chúa Giêsu tự hạ mình xuống như thế: không phải là để được tôn lên, vì dưới vòm trời này ngôi báu nào có thể chứa được Người. Người khiêm nhường đến tự huỷ như thế, cũng là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Vì thế, khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên, mà không nhằm phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi.
Có thể nói, khiêm nhường như Chúa dạy, chính là “tự nhận mình là không và Chúa là tất cả”, nên chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà phục vụ và yêu thương mọi người. Chỉ có những ai hạ mình xuống như thế mới đáng được Chúa tôn lên.
Thánh Giuse đã khiêm nhường phục vụ, yêu thương Đức Mẹ và Đức Giêsu tại quê nghèo Nadarét, nên đã được tôn làm cha nuôi Chúa Cứu Thế.
Đức Maria đã khiêm nhường nhận mình là nữ tì của Thiên Chúa, để suốt đời phục vụ chăm lo cho Con Chúa Trời, nên đã được tôn làm Mẹ Thiên Chúa.
Noi gương Chúa biết bao con người đang âm thầm xả thân cho đồng loại, họ khiêm nhường làm những công việc dơ dáy hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong cùi lở loét, những bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối nhặt được từ đường phố, những trẻ em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, lạc hậu.
Chính khí yêu thương vô vị lợi, chính khi chúng ta “đãi tiệc những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại”, thì chúng ta “mới thật có phúc”, vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta. Người không có ý phân biệt giàu nghèo, thân sơ, vì trước mắt Thiên Chúa, chúng ta là anh em. Nhưng Người muốn lưu ý chúng ta rằng: dù người được mời giàu hay nghèo, thân hay không thân, chúng ta cũng đừng mong họ đáp trả lại theo kiểu “ăn miếng trả miếng”. Đó là lòng bác ái vô vị lợi mà Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay.
Có thể chúng ta thực thi việc bác ái cho anh em chỉ vì vụ lợi, vì khoe khoang, vì muốn hơn người, vì trách nhiệm hay vì phần thưởng. Nhưng sự trao ban đích thực chính là trao ban vì yêu thương. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người” (Ga 3, 16). Chỉ những ai trao ban vô vị lợi, trao ban vì yêu thương, trao ban chính bản thân mới trờ nên giống Thiên Chúa.
***
Lạy Chúa, Chúa thương những kẻ khiêm nhường, vì họ luôn nhận mình yếu hèn và chỉ cậy dựa vào Chúa mà thôi.
Xin Chúa dạy chúng con biết khiêm nhường mà phục vụ, dấn thân và trao ban mà không mảy may tính toán, vì Chúa sẽ yêu thương chúng con nhiều hơn. Amen (TP)
* 3. Những bậc thang xã hội
Tổ chức xã hội nào cũng có những bậc thang cao thấp: trong cơ quan, trong trường học, trong hội đoàn v. v. Chủ tịch hay Giám đốc là cao nhất, kế đến là Phó, rồi Thư ký, quản lý v. v.
Ngay trong Giáo Hội cũng thế: có một số người luôn được ngồi ghế danh dự, luôn có quyền phát biểu trước… trong khi nhiều tín hữu khác chấp nhận thân phận thấp cổ bé miệng của mình.
Lời Chúa Giêsu hôm nay phải khiến chúng ta đặt lại vấn đề: “Những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và những kẻ hàng đầu sẽ hạ xuống chót”. Làm thế nào để thực hành lời Chúa mà không khiến cộng đoàn bị xáo trộn và cũng không phải thay thế một kiểu chủ nghĩa hình thức này bằng một chủ nghĩa hình thức khác?
Sau đây là một số hoàn cảnh chúng ta cần suy nghĩ:
Cách chọn người đại diện cho những thành phần tín hữu.
Những hình thức ưu tiên trong cộng đoàn.
Cách đối xử với người nghèo, người ít học và cả người “tội lỗi” v. v.
* 4. Đức tin bị vỡ mộng
Đoạn thánh thư hôm nay được viết cho những tín hữu Do Thái bị vỡ mộng về đức tin: họ đã rời bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo. Nhưng sau một thời gian, họ bị vỡ mộng và có cảm giác bỏ mồi bắt bóng. Họ tưởng phụng vụ kitô giáo huy hoàng hơn Do thái giáo, nhưng thực tế ngược hẳn lại; họ tưởng nếp sống kitô giáo sung sướng hơn nếp sống cũ, nhưng thực tế ngược hẳn lại… Những tín hữu gốc Do Thái này tiếc nuối thứ tín ngưỡng ngày xưa của họ, cũng giống như dân Israel trong sa mạc tiếc nuối củ hành củ tỏi lúc còn ở Ai cập.
Nhiều tín hữu thích sống với thứ tín ngưỡng thời thơ ấu xa xưa vì họ thấy rất đẹp, rất ngọt ngào: những chuyện thánh với rất nhiều phép lạ, những bài giáo lý dạy cho trẻ em với những lối giải thích rất đơn giản về những vấn đề của cuộc sống đời này và đời sau, những cách giải quyết vấn đề rất đơn giản hễ có công thì được thưởng và hễ có tội thì bị phạt v. v.
Thế rồi, khi họ đụng chạm với thực tế ngày nay, cái đức tin trẻ thơ ấy không trả lời được những vấn nạn hóc búa. Và họ bị vỡ mộng.
Nhưng sự vỡ mộng này là cần thiết, vì nó thúc giục chúng ta phải bồi dưỡng đức tin, củng cố đức tin. Bởi vì không thể sống một cuộc sống trưởng thành chỉ với đức tin của một đứa bé.
- Chuyện minh họa
a/ Chỗ ngồi và người ngồi
Một người chủ nhà kia mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách mời, có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, người chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối, nói rằng ông muốn được ngồi chung với những người bình dân nghèo nàn. Sau Daniel còn có nhiều người khách lần lượt đến. Ai cũng dành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Rốt cuộc chỉ có cái bàn tận dưới cùng, bàn mà Daniel đang ngồi, là còn chỗ trống. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất cứ bàn nào khác, nên người chủ nhà buộc lòng mời Ông Thị Trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với ông Daniel. Vị Thị Trưởng thắc mắc: “Nhưng đây là chiếc bàn cuối mà!” Người chủ nhà nhanh trí đáp: “Thưa không, đây là bàn danh dự, vì là bàn có Ông Daniel đang ngồi”. Vị Thị Trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ.
Ý nghĩa câu chuyện này là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự; ngược lại chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
b/ Cho thế nào mới có giá trị
Nicholas là một người nổi tiếng về lòng quảng đại vì đã dùng rất nhiều của cải để cho rất nhiều người. Ông chết và được dẫn tới cửa thiên đàng.
Thánh Phêrô chỉ cho ông thấy 2 đống vàng, một đống to và một đống nhỏ, đống nào cũng gồm nhiều cục vàng có kích cỡ khác nhau. Nicholas hỏi:
– Những cục vàng kia để làm gì thế?
Thánh Phêrô giải thích:
– Đó là phần thưởng dành cho những người có lòng quảng đại. Mỗi cục vàng tương đương với một lần cho đi mà con người thực hiện khi còn sống.
Nicholas phấn khởi trong lòng, tin chắc mình sẽ được thưởng rất nhiều. Nhưng ngay lúc đó Thánh Phêrô nói tiếp:
– Tuy nhiên không phải lần nào người ta cho cũng đều là thật lòng cả đâu. Đa số những lần cho đều do tính toán vụ lợi. Chúng là những cục trong đống vàng lớn này, không được kể.
– Sao vậy?
– Đống vàng lớn tượng trưng cho những thứ mà người ta cho bà con, bạn bè thân thích. Chúng chẳng có giá trị gì cả, vì ngay cả những tên trộm cướp cũng biết cho những người thân của mình như thế.
Thánh Phêrô vừa nói xong thì đống vàng lớn tan thành bụi.
Tiếp đến, thánh Phêrô lấy một cái sàng có những lỗ khá to. Rồi Ngài lấy những cục vàng trong đống còn lại để lên sàng mà sàng. Rất nhiều cục vàng bị lọt xuống. Và Thánh Phêrô giải thích:
– Những cục vàng bị lọt xuống ấy là những của người ta cho đi với tính toàn sẽ được lại. Đó không thực sự là cho, mà là đầu tư, vì thế cũng không kể.
Thế là những cục vàng ấy trở thành bụi.
Thánh Phêrô chỉnh các lỗ sàng cho rộng ra một chút. Ngài lấy những cục vàng còn lại đặt lên sàng và sàng lần nữa. Lại một số lọt xuống:
– Đây là những của người ta cho đi để được người khác khen ngợi. Cũng là một hình thức mua bán, cho nên cũng không kể.
Mớ vàng ấy lại tan thành bụi.
Thánh Phêrô lại chỉnh những lỗ sàng cho rộng hơn nữa và lại sàng mớ vàng còn lại. Một số lại lọt xuống:
– Đây là những của người ta cho đi để được cảm giác mình đã làm một việc tốt. Chúng cũng không được kể.
Và mớ vàng đó cũng lập tức tan thành bụi.
Sau lần sàng thứ tư, thánh Phêrô nói:
– Đây là những của người ta cho vì bổn phận. Cũng không được kể. Và chúng cũng tan thành bụi.
Thánh Phêrô chuẩn bị sàng lần thứ năm thì Nicholas đưa tay chặn lại: “Thôi thôi, xin Ngài đừng sàng nữa, vì nếu cứ tiếp tục thì tôi sẽ chẳng còn gì cả”. Thánh Phêrô ôn tồn đáp:
– Đúng thế, những của cho thực sự thì rất ít, cũng như vàng nguyên chất thì rất ít vậy. Tuy nhiên anh đừng nản lòng, tôi có một tin vui cho anh.
– Tin vui gì?
– Thiên Chúa là người quảng đại thật lòng nhất. Nào chúng ta hãy đến gặp Ngài.
– Nhưng mà hai bàn tay của con rỗng không, con không có gì cả.
– Nghĩa là anh nghèo chứ gì! Thì càng tốt, bởi vì Thiên Chúa đối xử quảng đại hào phóng nhất đối với những người nghèo mà tự biết mình nghèo.
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, lý tưởng người Kitô hữu cần đạt được trong cuộc sống trần gian là mỗi ngày một nên giống Chúa Giêsu hơn. Luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Chúa Giêsu nói: / Anh em hãy học với tôi / vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn noi gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu, Vị Mục tử nhân hậu.
- Con người vốn có rất nhiều tham vọng: / muốn được giàu sang / đam mê quyền lực / thích được địa vị cao trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / nhận thấy được tính mau qua của mọi thực tại trần gian.
- Chúa ghét kẻ kiêu căng và thương người khiêm tốn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu hiểu được chân lý này / để cố gắng khiêm tốn và hiền lành trong cung cách xử sự của mình.
- Đức bác ái buộc người tín hữu phải tôn trọng nhân phẩm / và chia sẻ cơm áo cho người nghèo khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống bác ái như Chúa đã dạy.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi chúng con hãy nên trọn lành như Cha trên trời, mà một trong những phương thế hữu hiệu giúp người Kitô hữu đạt được mục tiêu này chính là sống theo Lời Chúa dạy trong Tin mừng. Xin cho chúng con ý thức được tầm quan trọng của Lời Chúa trong đời sống đức tin thường ngày. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
- Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Kinh Lạy Cha nhắc chúng ta nhớ rằng mọi người chúng ta là anh em với nhau do cùng một Cha là Thiên Chúa trên trời. Vậy chúng ta hãy đối xử với nhau một cách quảng đại, thật tình chứ đừng tính toán thiệt hơn.
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là thói kiêu ngạo, hám danh, vụ lợi… Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”
VII. Giải tán
Xin Chúa giúp anh chị em trong tuần này biết sống khiêm tốn và quảng đại, vì “ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, và nếu chúng ta giúp đỡ những người không có khả năng đáp trả thì chính Thiên Chúa sẽ thay mặt họ đáp trả bội hậu cho chúng ta.
KHIÊM TỐN
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN. C
(Luca 14: 1. 7-14)
KHIÊM TỐN
Một ông thủ lãnh mời ăn,
Mấy người biệt phái, đứng căn chỗ ngồi.
Vào bàn chỗ nhất phần tôi,
Dụ ngôn Chúa dậy, đừng ngồi chỗ cao.
Nhiều người ân trọng đức cao,
Xứng danh trọng vọng, bước vào ngay bên.
Khi mời dự tiệc trong đền,
Chọn bàn rốt hết, ngồi yên dưới cùng.
Chủ nhà nhận biết bao dung,
Ngỏ lời mời bạn, hãy cùng bước lên,
Xin mời qúi vị lên trên,
Thật là vinh dự, xứng tên phận người.
Ai mà kiêu ngạo ở đời.
Tự mình cất nhắc, danh hời đáng chê.
Khiêm cung hạ xuống chẳng nề,
Người đời khen ngợi, cận kề mến yêu.
Chúa rằng khi dọn cơm chiều,
Đừng mời bạn hữu, rủ nhiều bà con.
Người nghèo tàn tật héo hon,
Đón vào dùng bữa, điểm son phúc lành.
Theo thói thường, người đời coi trọng chỗ ngồi nơi bàn tiệc hơn là mâm cỗ. Chúng ta rất quen thuộc với kiểu cáchở đời là ngồi vào bàn tiệc phải theo vai vế và địa vị trong xã hội. Người ta coi rất trọng hình thức và vị thế trong cộng đoàn xã hội. Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu lại có cơ hội dạy chúng ta bài học về sự khiêm nhường. Chúa Giêsu nói với ông chủ nhà rằng: Khi dọn tiệc, hãy mời những người nghèo khó, què quặt đui mù, ông sẽ có phúc. Khó thật! Mấy ai có thể áp dụng.
Quan sát việc chọn chỗ ngồi trong bữa tiệc theo phong tục tập quán, người ta rất quan trọng hóa về địa vị và phẩm giá con người. Chúa Giêsu đi ngược lại với những suy nghĩ của những người đương thời. Chính Chúa đến bằng con đường khiêm nhu. Khiêm nhượng chính là một nhân đức. Khiêm nhượng là chấp nhận đúng sự thật mình có. Nếu chúng ta biết mở mắt nhìn đời, thấy rằng chúng ta còn thua kém biết bao nhiêu người về lòng đạo đức, về khả năng, về sự hiểu biết và về kinh nghiệm cuộc sống. Chúng ta có gì mà không phải là do hồng ân đã lãnh nhận. Trước mặt Chúa, chúng ta còn nghèo túng hơn nhiều. Chúng ta chỉ là tro bụi và chỉ như là hơi thở thoáng qua. Chúa rút hơi thở, chúng ta trở về hư vô.
Chúa Giêsu khi xưa ra rao giảng trong hoàn cảnh của hai nền văn hóa Hy Lạp và Do Thái. Người Hy Lạp coi sự khiêm nhường như là một sự thoái hóa và nhu nhược. Còn người Do Thái coi là một nhân đức. Chúa Giêsu dạy chúng ta về sự khiêm tốn. Kiêu ngạo là thói thường ở đời. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Họ muốn nổi nang hơn, giỏi giang hơn, giầu có hơn và có thế lực hơn. Vì thế, họ đã không ngần ngại tìm cách hạ thấp hay chà đạp người khác xuống. Đúng thế, kiêu ngạo chống lại kiêu ngạo. Không ai ưa người kiêu ngạo. Ngay cả những người kiêu ngạo cũng không ưa nhau. Trái lại, người khiêm tốn được mọi người yêu mến.
Truyện kể: Có hai vị bô lão ngồi lại với nhau tâm sự. Một người nói: Khi tôi còn trẻ, tôi hay kiêu ngạo. Sự kiêu ngạo làm tôi lo lắng. Tôi lo về những cái người khác nghĩ hay nói về tôi. Khi tôi trưởng thành và khôn ngoan hơn. Tôi không để ý tới những lời người khác nói về tôi. Nay tôi già rồi, tôi nhận ra rằng chẳng có ai để ý hay nghĩ gì về tôi cả. Thật ra, nhiều người nghĩ mình là quan trọng, để rồi nghĩ rằng người khác lúc nào cũng để ý đến mình và rồi chúng ta trở nên kiêu căng.
Khiêm tốn không phải là sự hèn nhát mà là sự can đảm và dũng mạnh. Chỉ những ai mạnh mẽ mới dám hạ mình phục vụ anh chị em. Khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ đầy yêu thương và là một thái độ hoàn toàn tự do. Khiêm tốn mở đường tự do cho chúng ta đi vào Nước Trời.
THỨ HAI, TUẦN 22 THƯỜNG NIÊN
(Lc 4, 16-30).
ĐẤNG XỨC DẦU
Hội đường Sa-bát cầu kinh,
Đọc lời giao ước, tâm linh gọi mời.
Giê-su đọc rõ từng lời,
Thánh Thần Chúa ngự, sáng ngời trí khôn.
Xức dầu rao giảng siêu tôn,
Tin mừng loan báo, mở hồn thế nhân.
Kêu mời sám hối tội trần,
Chữa lành bệnh tật, chia phần phúc vinh.
Loan truyền giải thoát cực hình,
Người mù được thấy, an bình thiện tâm.
Hồng ân Năm Thánh quang lâm,
Giải trừ áp bức, giam cầm phóng sinh.
Hôm nay ứng nghiệm chứng minh,
Người thương kẻ ghét, lộ hình tư duy.
Đồng hương từ chối xét suy,
Nói lời xúc phạm, nghĩ suy trần đời.
THỨ BA, TUẦN 22 THƯỜNG NIÊN
(Lc 4, 31-37).
ĐẤNG THÁNH
Chúa vào giảng dậy nơi đây,
Có người quỷ ám, hay gây bất bình.
Tại sao tiêu diệt bọn mình,
Kêu to hét lớn, thật tình tuyên xưng.
Thời kỳ Chúa đến phục hưng,
Ngài là Đấng Thánh, Tin Mừng truyền rao.
Quỷ ma ghen tức thét gào,
Chuyện chi gây rối, tại sao xua trừ.
Cứu sinh sửa chữa tật hư,
Giê-su quyền thế, loại trừ dối gian.
Câm đi ra khỏi, đừng van,
Mọi người kinh hãi, ơn ban bởi trời.
Lạ lùng phép tắc cao vời,
Quyền năng ra lệnh, mọi người ngạc nhiên.
Danh người truyền khắp mọi miền,
Chữa trừ bệnh hoạn, cửa thiên cứu đời.
THỨ TƯ, TUẦN 22 THƯỜNG NIÊN
(Lc 4, 38-44).
CHỮA LÀNH
Si-mon đón Chúa vào thăm,
Tại gia nhạc mẫu, bao năm mong chờ.
Bà đang sốt nặng bơ phờ,
Chúa cùng môn đệ, đợi chờ ghé qua.
Cảm thương yếu đuối tuổi già,
Chúa liền truyền lệnh, cho bà khỏi ngay.
Bà liền chỗi dậy tiếp tay,
Dọn cơm nấu nước, đẹp thay tấm lòng.
Nhiều người bệnh hoạn cầu mong,
Van xin chữa trị, bệnh phong hao gầy.
Quỷ ma ám ảnh quấy rầy,
Kêu lên Con Chúa, Đức Thầy Ki-tô.
Chúa rằng im tiếng đừng hô.
Âm thầm sứ mệnh, Chúa vô mọi miền.
Tin Mừng rao giảng trước tiên,
Kêu mời hối cải, gom chiên về đàn.
THỨ NĂM, TUẦN 22 THƯỜNG NIÊN
(Lc 5, 1-11).
THẢ LƯỚI
Chúa đi rao giảng Tin mừng,
Xuống thuyền cách bãi, đậu dừng loan tin.
Si-mon chài lưới đứng nhìn,
Chuyên môn thả lưới, vững tin nơi Thầy.
Nước sâu bắt cá sa lầy,
Phê-rô thưa Chúa, sáng ngày vô công
Suốt đêm cực nhọc ngóng trông,
Vâng lời thả lưới, bên hông mạn thuyền.
Cá nhiều nặng lưới kéo lên,
Bạn bè đồng nghiệp, thuyền bên góp phần.
Si-mon sụp lạy dưới chân,
Con người tội lỗi, thế nhân sống đời.
Xin Thầy hãy tránh xa rời,
Mọi người kinh ngạc, ơn trời khấng ban.
Chúa rằng đừng sợ thiên nhan,
Hãy đi chinh phục, thế gian tội tình.
THỨ SÁU, TUẦN 22 THƯỜNG NIÊN
(Lc 5, 33-39).
CẦU NGUYỆN
Môn đồ cầu nguyện ăn chay,
Gio-an Tẩy Giả, hăng say rao truyền.
Tông đồ của Chúa nhân hiền,
Bên Thầy cuộc sống, điền viên lữ hành.
Thầy trò không sống tìm danh,
Tân lang hiện diện, lòng thành sống vui.
Bao giờ đi khỏi, ngậm ngùi,
Tông đồ môn đệ, rút lui khẩn cầu.
Rượu nào bầu ấy giữ lâu,
Bầu da rượu mới, mong hầu tốt hơn.
Áo nào vải đó không sờn,
Không ai vá áo, vải đơn một chiều.
Ăn chay cầu nguyện giới điều,
Đúng thời đúng điểm, nhận nhiều ân thiêng.
Thực tâm sám hối tội khiên,
Hãm mình dẹp xác, ăn kiêng nguyện cầu.
THỨ BẢY, TUẦN 22 THƯỜNG NIÊN
(Lc 6, 1-5).
SA-BÁT
Bứt bông lúa miến vò tay,
Mấy thầy Biệt Phái, chê ngay lỗi này.
Hôm nay Sa-bát có hay,
Làm điều không được, cấm ngày hôm nay.
Các thầy khó chịu lắm thay,
Phàn nàn với Chúa, sao Thầy không can.
Chu toàn điều luật bảo ban,
Thiện toàn lề luật, sẻ san tình người.
Chúa bênh môn đệ vài lời,
Đúng ngày Sa-bát, trong nơi thánh đền.
Đọc điều Đa-vít chẳng nên.
Cùng nhau ăn bánh, bên trên bàn thờ.
Dành riêng trưởng tế đụng sờ,
Tùy tùng lỗi luật, mong nhờ luật tha.
Giữ ngày Sa-bát đặt ra,
Con Người làm chủ, thứ tha lỗi lầm.
DỰ TIỆC VÀ ĐÃI TIỆC
LM Giuse Nguyễn Hữu An
- Khi được mời dự tiệc
Được mời dùng bữa, Đức Giêsu quan sát thấy ai cũng muốn ngồi chỗ nhất. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn mà vì chỗ đó danh dự hơn. Chỗ ngồi là danh dự. Những người Pharisêu là những người rất mộ đạo, và tự coi mình là những người gương mẫu. Tuy nhiên, ở đây họ tranh giành những chỗ ngồi danh dự. Điều đó cho thấy, thực ra họ rất tự mãn, phù phiếm và ích kỷ. Họ không ở đó để làm vinh dự cho chủ nhà nhưng để làm vinh dự cho chính họ.
Chỗ ngồi và người ngồi cái nào quan trọng hơn? Có câu chuyện kể về một người chủ nhà mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách đến dự có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối và nói rằng ông muốn ngồi chung với những người bình dân nghèo hèn. Sau Daniel còn có nhiều khách lần lượt đến. Ai cũng giành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Chỉ có cái bàn tận cuối cùng, bàn của Daniel đang ngồi là còn trống chỗ. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất kỳ bàn nào khác nên chủ nhà buộc lòng mời ông thị trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với bàn của Daniel. Vị thị trưởng thắc mắc: nhưng đây là bàn cuối cùng mà! Chủ nhà nhanh trí đáp: thưa không, đây là bàn danh dự vì là bàn có ông Daniel đang ngồi. Vị thị trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ. Ý nghĩa câu chuyện là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự, ngược lại, chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
Phần lớn, những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh những chiếc ghế. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước. Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Người Pharisiêu thích ngồi ghế danh dự trong hội đường. Giacôbê và Gioan thích ngồi ghế bên tả, bên hữu Đức Giêsu. Philatô cho đóng đinh Đức Giêsu vô tội vì ông sợ mất ghế.
Bài Phúc Âm cho thấy, ai cũng muốn ngồi chỗ nhất nên chỗ nhất thiếu chỗ, có những bậc vị vọng đành phải ngồi xuống chỗ dưới. Có lẽ Đức Giêsu không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm nên đã tự động ngồi vào ghế chót. Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những vị khách không mấy quan trọng xuống khỏi chỗ nhất. Chủ nhà mời Đức Giêsu lên chỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói. Nhân hoàn cảnh đó, Đức Giêsu dạy bài học cách sống khiêm tốn: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Không có đời sống tâm linh chân thật nếu không có sự khiêm nhường.
Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật là xấu hổ.
Khiêm tốn không phải là giả vờ tự hạ để được nâng lên, coi thường mình hay sợ người khác, rụt rè không dám nhận trách nhiệm. Khiêm tốn là biết mình đã nhận được tất cả từ Chúa và lớn lên mỗi ngày nhờ tha nhân. Bài đọc 1 ca ngợi đức khiêm tốn. Sự hiền hoà và khiêm tốn là nhân đức căn bản và quý giá của con người. Nhờ khiêm tốn, con người khám phá được sự cao trọng của Thiên Chúa và mở ngõ cho con người đi vào sự khôn ngoan. Lời dạy này là kết tinh của kinh nghiệm biết bao bậc hiền triết khôn ngoan từ thuở xưa. Chính Chúa Giêsu cũng lấy đức khiêm tốn làm một trong các mối phúc của bài giảng trên núi và mời gọi mọi người hãy học cùng Người là Đấng hiền lành và khiêm tốn trong lòng. Ai sống hiền lành và khiêm tốn thì được nghĩa trước mặt Chúa và được mọi người yêu mến.
Ngày nay, khiêm nhường thường bị người đời coi là thua kém, là yếu hèn, là nhu nhược. Trái lại Thiên Chúa nâng cao những ai khiên nhường. Khiêm nhường được ví như nền móng của ngôi nhà. Nền móng càng sâu, ngôi nhà càng cao, càng vững chắc.
- Khi đứng ra đãi tiệc
Người ta dễ đánh giá người khác dựa trên chiếc ghế của họ. Thật ra, một người quét đường có lương tâm lại có giá trị gấp nhiều lần một giám đốc tham ô lãng phí. Người ta thường thích giao lưu với những người có thế giá, có học thức, có của cải để dễ nhờ vả khi cần. Nhưng Đức Giêsu khuyên rằng: khi mời tiệc nên mời những người nghèo khó, tật nguyền. Đây cũng là một trong các nghịch lý của Tin Mừng đi ngược nhiều với thế gian. Ngài dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp. Như thế Đức Giêsu mong muốn người tín hữu vượt qua óc tính toán vụ lợi để yêu thương phục vụ những người bất hạnh.
Đức Giêsu muốn minh định cái nguyên tắc thuộc linh cao cả, cái động lực vô vị lợi cho các hành vi thiện đức: đừng bao giờ ban ơn để rồi được nhận lại. Ngài không bảo đừng bao giờ mời người giàu hay chỉ mời người nghèo, nhưng đừng phục vụ với hậu ý kiếm lợi. Nếu chỉ phục vụ với chủ ý mưu lợi cho tha nhân mà không nghĩ tới mình được trả trong đời này hay đời sau, thì hành vi đó lại chắc chắn được thưởng trong ngày Chúa quang lâm vinh hiển.
Đức Giêsu muốn nói đến bữa tiệc Nước Trời, nơi đó mọi người đều được mời đến dự, không phân biệt đối xử, đặc biệt mời những người nghèo, vì người nghèo dễ dàng nhận lời mời hơn những người giàu có, quyền thế. Bữa tiệc Nước Trời, Thiên Chúa đã dọn sẵn, và chỉ những ai khiêm tốn, bé nhỏ, nghèo khó mới được vào dự tiệc. “Chúa sẽ hạ bệ những ai quyền thế và lòng trí kiêu căng. Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, phận nhỏ. Người nghèo đói Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1, 51-54). Quyền thế trần gian đối với Thiên Chúa chỉ là yếu hèn. Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài mà ban sức mạnh cho người yếu đuối.
Chúa Giêsu dạy bài học khiêm nhường và bác ái, bài học về cách dự tiệc và cách đãi tiệc. Đó là bài học về những cách sống trong cuộc đời. Lời Chúa dạy xem ra đảo lộn mọi trật tự xã hội trần thế. Nhưng sống Tin mừng luôn là lội ngược dòng và Thiên Chúa luôn đứng về phía những người khiêm nhường, những người thấp hèn trong địa vị xã hội, những người bị áp bức bất công. Sống khiêm nhường và yêu thương người nghèo là con đường đi đến Nước Trời. Người tín hữu đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để kín múc tận nguồn sự khiêm hạ trong tình yêu.
TÔI THƯỜNG XUYÊN TÔN MÌNH LÊN
Tamlinhvaodoi
Số 280. Chủ nhật 22 Thường niên- năm C.
Trích Tin mừng Luca 14: 1, 7-14
1 Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa : họ cố dò xét Người. 7 Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này : 8 “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, 9 và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng :
‘Xin ông nhường chỗ cho vị này.’
Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. 10 Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói :
‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’
Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. 11 Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
12 Rồi Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng :
“Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. 13 Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. 14 Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc :
vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”
Ai tôn mình lên??? Tôi đây chứ ai.
Xét về tâm lý thường tình con người..
Ai cũng muốn tôn mình lên cả… Từ công khai tới âm thầm..
Đặc biệt khi được khoác lên bộ áo thánh thiện thì bộ mặt tôn mình lên rất khó nhận ra.
nhưng nó vẫn có mặt sau hậu trường và âm thầm ảnh hưởng lên tôi
như nó đang điều khiển một con rối…
Thí dụ : khi thực hiện công trình của Chúa, tôi hăng say nhiệt tình phục vụ anh em bất kể giờ giấc, bất kể nắng mưa…miễn sao anh em được hưởng nhiều điều tốt lành..
Nhưng bất ngờ có người tôn tôi lên chín tầng mây trước một số người khác..
Lập tức, cái tôi khiêm nhường bỗng cảm thấy mình hãnh diện khi được tôn vinh
Và cũng từ đó, tôi như ngồi lên lưng cọp, không thể xuống được nữa..
Vì thế, tôi phải tìm mọi cách để bảo tồn danh dự mà người ta đã ban tặng cho tôi.
Đó chính là lúc mà tôi muốn tiếp tục được tôn vinh…một cách rất phải đạo.
Xét về mặt tâm linh
Dựa trên nền tảng tương quan một mình tôi với Chúa…
Theo như bề trên dạy:
Nếu tôi luôn cúi đầu nhận mình là yếu hèn tội lỗi, là không trước mặt Chúa.
Tôi chỉ là thụ tạo trước Đấng tạo dựng đất trời..
Như vậy ắt hẳn là tôi khiêm nhường số một La Mã rồi còn gì…
Nhưng theo ánh mắt Tâm Linh thì ngược hẳn lại.
Nếu tôi luôn cúi đầu nhận mình là yếu hèn tội lỗi, là không trước mặt Chúa,
Thì hóa ra là chính tôi tự đẩy Chúa ra khỏi lòng mình..rồi đặt Chúa lên thật cao…
Hoặc đặt Chúa nơi thật tôn nghiêm như nhà tạm chẳng hạn..
Mà vì tôi tự đẩy Chúa ra khỏi lòng mình..
Nên CÁI TÔI vô hình kỳ quái không biết ở đâu…bỗng nhảy tót vào nơi đền thánh hoang tàn là tâm hồn tôi đây…
Và CÁI TÔI vô hình kỳ quái này…chiếm luôn quyền làm chủ, với đòi hỏi liên lỷ.
phải tôn vinh CÁI TÔI bằng mọi giá, dù âm thầm hay công khai…
Đây chính là tình trạng: Tôi thường xuyên tôn mình lên. Còn Chúa bị đẩy ra xa.
Tóm lại, khi cứ tưởng mình yếu hèn tội lỗi, là không trước mặt Chúa
Tôi đã đẩy Chúa ra khỏi lòng mình, biến đền thánh tâm hồn thành nơi hoang vắng
Tạo dịp thuận lợi cho CÁI TÔI vô hình kỳ quái đòi hỏi phải được thường xuyên tôn vinh bằng mọi giá.
Mở cửa cho CÁI TÔI vào rất dễ, nhưng đuổi CÁI TÔI thì cực kỳ khó. No way!!
Nhưng chúng tôi vẫn cố thúc đẩy nhau: HÃY từ bỏ CÁI TÔI thích tôn mình lên!
Thiên Chúa nâng tôi lên
Chúa nâng ai?
Mọi người
Chúa nâng tôi bằng cách nào?
Không phải chuyện Từ bụi tro, Chúa nâng con lên hàng “ông tướng” !!!
“ông tướng” chẳng ích lợi gì.. chỉ tổ khiến cho Cái Tôi phình to ra mà thôi..
Thực ra, Chúa không muốn nâng tôi lên tới đâu cả, Ngài chỉ yêu thương tôi vô vàn với trọn vẹn bản tính Ngài. Chúa là tình yêu mà…
Ngay từ lúc tôi còn trong lòng mẹ, Chúa đã nâng tôi bằng cách:
-Thánh hóa tôi: tôi vốn thánh từ đầu tới chân. – không một chút tội lỗi nào…
-và Chúa trao cho tôi sứ mệnh làm ngôn sứ cho Ngài
-Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi ; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân. (Gr 1:5)
-Chúa còn chuẩn bị gì để nâng tôi lên nữa không?
Có chứ, Chúa gọi tôi là con yêu dấu qua xác tín của Gioan :
-Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào : Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa -mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. (1Ga 3 : 1)
-Như thế này tưởng là quá đủ … Chưa… chưa đủ…
-Thiên Chúa còn tuôn đổ tình yêu của Ngài bằng chính Thần Khí của Ngài
Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí
làm cho chúng ta trở nên nhút nhát,
nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được
đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ.(2Tm 1:7)
Tóm lại, Chúa nâng tôi lên bằng cách thánh hóa tôi và trao cho tôi sứ mệnh: làm ngôn sứ cho Ngài… ngay khi tôi còn trong làng mẹ, chưa biết gì..
Rồi Ngài còn gọi tôi là con Thiên Chúa và ban Thần Khí giúp tôi đầy sức mạnh tình thương, và biết tự chủ.
Ấy thế mà chúng tôi cứ cố nhét vào đầu óc nhau:
Tôi là vật phàm hèn, yếu đuối, tội lỗi…
Thật là uổng biết bao cho công sức… mà Chúa đã tìm mọi cách nâng tôi lên…
KHIÊM HẠ PHỤC VỤ NOI GƯƠNG ĐỨC GIÊSU
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN C
Hc 3,19-21.30-31 ; Dt 12,18-19.22-24a ; Lc 14,1.7-14
- HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Lc 14,1.7-14
(1) Một ngày Sa-bát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa: Họ cố dò xét Người. (7) Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: (8) “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, (9) và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này”. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. (10) Trái lại, khi anh được mời thì hãy ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho”. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. (11) Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. (12) Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. (13) Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. (14) Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: Vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”.
- Ý CHÍNH:
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các người Pharisêu và cũng dạy các môn đệ của Người hai bài học về cách đối nhân xử thế: Một là khi được mời dự tiệc phải biết hành xử khiêm tốn bằng cách tránh tranh giành chỗ ngồi hơn kém. Hai là các người chủ tiệc phải tránh phân biệt đối xử để mời cả những người nghèo khó, tàn tật… đến tham dự. Đây là điều kiện để được Chúa mời tham dự bàn tiệc Nước Trời đời sau.
- CHÚ THÍCH:
– C 1: + Đức Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu: Tin mừng Luca cho thấy người đứng đầu nhóm Pharisêu ở đây có thiện cảm với Đức Giêsu, nên đã mời Người đến nhà mình dùng bữa (x Lc 11,37), + Dùng bữa: Tin mừng ghi lại nhiều sinh hoạt của Đức Giêsu liên quan đến việc dùng bữa: Dự tiệc cưới tại Cana (x. Ga 2,2), dự tiệc do người Pharisêu khoản đãi (x. Lc 14,1), ăn bữa cơm gia đình ở làng Bêtania (x. Lc 10,38-42), đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi (x. Mt 9,10), hai lần nhân bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng (x. Mt 14,19-21; 15,36-38), dùng bữa Tiệc Ly với các môn đệ trước cuộc khổ nạn (x. Lc 22,14-20). Ngoài ra, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu cũng dùng bữa tối với hai môn đệ tại làng Emmau (x. Lc 24,30), Người ăn cá nướng trước mặt các môn đệ (x. Lc 24,41-43), và cùng ăn bữa sáng với các ông tại bờ hồ Galilê (x. Ga 21,9-13).). + Họ cố dò xét Người: Ở đây những người Pharisêu dò xét không phải để bắt lỗi, nhưng chỉ để tìm hiểu về Đức Giêsu.
– C 7-9: + Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi: Đây là thái độ biểu lộ thói kiêu ngạo của người Pharisêu khi luôn tìm kiếm hư danh trước mặt người khác. + Khi anh em được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất…: Đức Giêsu dạy bài học khôn ngoan và phép xã giao khi tham dự tiệc cho người Pharisêu và các môn đệ.
– C 10-11: + Thì hãy ngồi vào chỗ cuối, để người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho”…: Điều kiện để được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa là phải trở nên như trẻ nhỏ (x. Mt 18,3-4). Cần ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình, coi mình chỉ là đầy tớ vô dụng (x. Lc 17,10), để không cậy vào sức riêng khi làm các công việc siêu nhiên, nhưng biết cậy trông vào ơn Chúa giúp (x. Ga 15,5). + Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống…: Tội nặng nhất chính là tội kiêu ngạo và ngược lại, nhân đức lớn nhất là đức khiêm nhường như lời ca ngợi Thiên Chúa của Đức Maria: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52). Thánh Phaolô cũng đề cao sự khiêm hạ của Đức Giêsu trong thư gửi tín hữu Philip (x Pl 2,6-11). Chính Người đã hạ mình rửa chân cho môn đồ trước khi dạy các ông bài học thể hiện tình yêu thương lẫn nhau (x Ga 13,14).
– C 12-14: + Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè… Lời dạy của Đức Giêsu trái với lối ứng xử của người đời. Những hạng người được Đức Giêsu đề cập tới ở đây đều là những người nghèo: Nghèo tiền bạc (so sánh với Tin Mừng Mátthêu nhấn mạnh đến sự nghèo khó trong tâm hồn), bé mọn (x. Lc 10,21), khiêm hạ (x. Lc 18,14). Chính Đức Giêsu cũng được sinh ra như một người nghèo. Qua câu này Người kêu gọi mọi người hãy đối xử tốt với những ai đang lâm cảnh khốn cùng, làm ơn cho những người không có khả năng báo đáp. Đó là điều kiện để được vào Nước Trời đời sau.
- CÂU HỎI:
1) Hãy kể ra những lần Đức Giêsu dùng bữa được ghi trong Tin mừng ? 2) Khi dạy người dự tiệc chọn ngồi chỗ cuối để được chủ nhà mời lên cỗ trên. Phải chăng đó cũng là một hành động kiêu ngạo ? 3) Đức Giêsu đã dạy thế nào về giá trị của đức khiêm nhường ? 4) Thánh Phaolô dạy về gương khiêm nhường tự hạ của Đức Giêsu ra sao trong thư thứ hai gửi giáo đòan Philíp ? 5) Tội nặng nhất khiến Luxiphe và các thần dữ phải sa hỏa ngục và ông bà nguyen tổ Ađam Evà bị đuổi ra khỏi địa đàng là tội gì ? 6) Đức Giêsu đã dùng phương thế nào để ban ơn cứu độ, giải thóat lòai người khỏi chết và chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11).
- CÂU CHUYỆN:
- KHIÊM TỐN SẼ ĐƯỢC MỌI NGƯỜI KÍNH TRỌNG YÊU MẾN:
Sách Trang Tử có thuật lại câu chuyện như sau: Dương Chu sang nước Tống vào một trọ nhà kia. Chủ nhà có hai nàng hầu, một đẹp, một xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý trọng nàng hầu xấu mà khinh rẻ nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu hỏi thằng bé trong nhà. Chú bé nói: Người thiếu đẹp tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự biết mình xấu mà quên xấu. Không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa. Dương Chu liền gọi học trò đến dặn: Các con nhớ ghi lấy. Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu quý tôn trọng.
- CUỘC BIẾN DẠNG KỲ LẠ SAU BẢY NĂM PHÓNG ĐÃNG:
Họa sỹ kiêm điêu khắc gia thiên tài LEONARDO DA VINCI đã vẽ bức tranh nổi tiếng Bữa Tiệc Ly trong vòng 7 năm. Đó là bức tranh Đức Giêsu và 12 Tông đồ đang dùng bữa ăn cuối cùng trước khi Người chịu tử nạn. Cuộc đi tìm khuôn mặt làm người mẫu rất khó khăn: Giữa hàng ngàn thanh niên, họa sĩ mới chọn được một chàng trai có gương mặt thánh thiện và thanh khiết tuyệt vời để vẽ Đức Giêsu.
Sáu năm tiếp theo ông mới vẽ xong 11 Tông đồ, chỉ còn người môn đồ phản Thầy Giuđa là chưa vẽ. Họa sỹ đã bỏ ra nhiều công sức để tìm kiếm một người đàn ông có khuôn mặt cực kỳ gian ác làm mẫu vẽ Giuđa. Cuối cùng ông đã tìm được tên tử tội ở Rôma có khuôn mặt thích hợp để vẽ kẻ phản bội. Người tử tù này đã từng giết người và cướp của. Được phép của Hoàng đế, tên tử tội được đưa tới Milan nơi bức tranh đang vẽ dở dang. Khi nét vẽ cuối cùng được hoàn thành, Leonardo bảo người lính gác mang người tử tù đi, nhưng bỗng nhiên hắn ta vùng vẫy và quỳ xuống bên người họa sỹ khóc nức nở: “Ôi, ngài Da Vinci, ngài không nhận ra tôi sao? Tôi chính là người mà 7 năm trước ngài đã chọn làm mẫu vẽ Đức Giêsu!”.
Quả thật, chỉ có 7 năm thôi mà cuộc sống trác táng tội lỗi đã làm biến dạng một người có khuôn mặt thánh thiện của Chúa Giêsu trở thành người mang gương mặt xấu xa của Giuđa! Đó là sự biến đổi lạ kỳ trong quá trình hình thành bức tranh “Bữa Tiệc Ly” nổi tiếng.
Nhưng cũng trong bữa tiệc ly này còn có một sự đảo ngược kỳ lạ hơn nữa: Đức Giêsu, vốn là Thầy là Chúa nhưng đã tình nguyện làm việc của người tôi tớ phục vụ, khi quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Đó chính là bài học khiêm hạ mà Đức Giêsu muốn dạy cho mọi tín hữu chúng ta hôm nay.
- CÂU CHUYỆN XỬ SỰ CỦA HAI CON DÊ NÚI:
Một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: trên con đường nhỏ hẹp sát bên sườn núi, một bên là vách núi cao cheo leo, bên kia lại là vực sâu thăm thẳm, có hai con dê núi đi ngược chiều nhau. Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con đi qua, nên hai con dê đứng đối đầu nhau không biết làm gì để tiếp tục đi. Nếu chen lấn, chúng chắc sẽ bị rơi xuống vực thẳm tan xương nát thịt. Sau cùng chúng đã nghĩ ra một cách hoàn hảo: một con dê đã chịu qùy mọp xuống đất để con kia bước qua thân mình. Thế là sau đó cả hai lại có thể tiếp tục đi theo con đường của mình.
- NGƯỜI HUẤN LUYỆN CÁ HEO KHIÊM TỐN:
Cách đây ít lâu, tại bang Phờloriđơ (Florida) Hoa Kỳ, tờ Thời báo Xanh Pitơbớc (St Petersburg Times) có đăng một câu chuyện thú vị về Đông Sulơ (Don Shula), huấn luuyện viên của đoàn cá heo ở Maiơmi (Miami). Ông đang cùng vợ con nghỉ hè tại một thị trấn nhỏ ở miền Bắc tiểu bang Maiơmi. Vào một buổi chiều nọ, vì trời mưa nên Sulơ cùng vợ và 5 đứa con quyết định đi xem một xuất phim đang chiếu tại rạp hát của thị trấn. Khi họ đến nơi thì đã trễ mất 10 phút. Thế nhưng họ thấy đèn trong rạp vẫn còn sáng báo hiệu phim vẫn chưa bắt đầu. Khi Sulơ và gia đình bước vào trong rạp thì tất cả 6 người đang ngồi ở băng ghế đầu liền hân hoan đứng dậy hướng về phía họ và vỗ tay hoan hô. Sulơ vừa vẫy tay chào lại vừa mỉm cười đáp lễ. Sau khi đã ngồi vào chỗ, Sulơ quay sang nói với bà vợ: “Chúng ta từ Maiơmi cách xa cả ngàn dặm đến đây, thế mà người ta vẫn nhận ra và đón tiếp anh thật nồng nhiệt! Chắc hẳn là đám cá heo trình diễn trên truyền hình đã lan đến tận nơi ngõ ngách này!” Ngay lúc đó, một người đàn ông tiến lại bắt tay và Sulơ đã vui vẻ hỏi ông ta rằng: “Làm sao ông bạn biết tôi sắp đến đây xem phim để chào đón tôi như vậy?” Ông ta trả lời: “Thưa ông, tôi chẳng biết ông là ai cả. Chẳng qua là ngay trước khi gia đình ông bước vào rạp hát, viên quản lý rạp có nói với chúng tôi rằng: “Trong vòng 15 phút nữa, nếu không có thêm 4 khán giả nào vào rạp thì ông ta sẽ buộc phải trả lại tiền vé và hủy bỏ xuất chiếu này”. Vì thế khi thấy gia đình ông đến vừa đủ 4 người theo yêu cầu của quản lý rạp, nên chúng tôi rất vui mừng và giờ đây tôi đến để cám ơn gia đình ông đã đến kịp thời, giúp chúng tôi khỏi phải về không”.
Câu chuyện trên làm sáng tỏ giáo huấn của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: Người đòi các tín hữu chúng ta phải khiêm tốn noi gương Người. Đông Sulơ đã thể hiện sự khiêm tốn ấy: Là một huấn luyện viên cá heo tài giỏi, nên cũng thật tự nhiên khi Sulơ nghĩ rằng những người trong rạp hát đã nhận ra ông là ai. Đến khi người đến bắt tay cho biết mình chẳng hề biết ông thì Sulơ lại là người đầu tiên tự chế giễu mình. Ông rất vui khi phát hiện ra điều này, nên đã kể chuyện đó trên báo cho nhiều người biết về thói háo danh của ông, điều mà bình thường lẽ ra ông đã phải giấu kín. Chỉ người nào thực sự khiêm tốn mới làm được như Sulơ mà thôi !
- SUY NIỆM:
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các người biệt phái hai bài học như sau: Một là nếu họ là khách được mời thì cần khiêm tốn để ngồi vào chỗ xứng hợp với mình, tránh cảnh “trèo cao té đau”. Hai là nếu họ là chủ nhà thì phải quan tâm mời cả những người nghèo khó bệnh tật đến dự tiệc nữa. Cũng vậy, bàn tiệc Nước Thiên Chúa cũng chỉ dành cho những ai có lòng khiêm hạ và có tinh thần nghèo khó (x. Lc 14,21). Vậy khiêm hạ là gì ? Phải chăng khiêm hạ là phủ nhận giá trị thực sự của mình ? Ta phải làm gì để học gương khiêm hạ của Đức Giêsu ?
1) Gương khiêm hạ của Đức Giêsu và Thánh Mẫu Maria:
– Khiêm hạ hay khiêm nhường là thái độ tự hạ mình xuống trong khi giao tiếp với tha nhân. Người tín hữu cần học tập theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu vè sự khiêm hạ này như Người đã dạy: ”Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30). Đức Giêsu «vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế… » (Pl 2,6-7). Tuy là Thầy là Chúa, nhưng Người đã nêu gương khiêm nhường cho các môn đệ khi tự hạ mình rửa chân cho các ông trong bữa tiệc ly và sau đó dạy các ông cũng phải khiêm hạ rửa chân phục vụ lẫn nhau (x Ga 13,14-15). Hơn nữa, Đức Giêsu còn nêu gương khiêm hạ «vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá» (Pl 2,8). Tin mừng hôm nay cũng thuật lại câu chuyện: Khi được viên thủ lãnh các người biệt phái mời đến nhà dự tiệc, Đức Giêsu thấy một số khách thuộc nhóm biệt phái tranh nhau ngồi chỗ nhất trong bàn tiệc. Người đã dạy họ như sau: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia đành phải đến nói với anh: “Xin ông nhường chỗ cho vị này”. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ để xuống ngồi chỗ cuối” (Lc 14,8-9).
– Khiêm nhường tự hạ noi gương Đức Maria: Trong biến cố truyền tin, khi được sứ thần chào là đấng «đầy ân phúc luôn có Chúa ở cùng», Đức Maria đã tự xưng là nữ tì của Thiên Chúa và đã cúi đầu «xin vâng» như lời sứ thần truyền (x Lc 1,38). Sau khi nghe biết bà Êlisabét đã có thai được sáu tháng, Đức Maria đã vội vã lên đường đến thăm và chào hỏi bà trước. Cuối cùng ngài còn ở lại để giúp đỡ phục vụ bà trong suốt ba tháng cuối, cho đến khi bà sinh con mới trở về nhà mình (x Lc 1,39-56).
2) Phân biệt giữa khiêm nhường thật với khiêm nhường giả tạo: Đức khiêm nhường không phải là giả vờ tự hạ để chờ được người khác tôn lên. Khiêm tốn cũng không phải là thái độ tự ti mặc cảm, tự khinh bản thân hay trốn tránh trách nhiệm… Nhưng là ý thức khả năng và ưu điểm của mình là do Chúa ban, rồi quy mọi vinh quang về cho Thiên Chúa, noi gương Đức Maria khi được bà Êlisabét khen có phúc, Mẹ đã dâng lời ca ngợi Chúa trong kinh Manhiphicát như sau: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới. Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn !” (Lc 1,48-49). Người khiêm tốn không sợ chức vụ cao hay sợ ngồi vào ghế nhất, nhưng đối với họ: chiếc ghế không phải là mục tiêu phải đạt được, nhưng chỉ là phương tiện để có thể phục vụ tha nhân hữu hiệu hơn. Người khiêm tốn sẽ luôn ý thức về thân phận yếu đuối của mình nên sẽ bình tĩnh khi nghe người khác phê bình, và sẵn sàng nhận lỗi để khắc phục những sai sót. Người khiêm tốn không tự tìm vinh danh cho mình, nhưng luôn cố gắng làm hết sức mình rồi phó thác thành bại cho Chúa quan phòng.
3) Thiên Chúa yêu thương kẻ khiêm nhường và ghét kẻ kiêu ngạo: Đức Giêsu đã ca tụng Chúa Cha “Vì đã mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn…” (x Mt 11,25). Những kẻ bé mọn ở đây là những người khiêm nhường tự hạ. Đức Giêsu đã yêu thương những kẻ khiêm nhường và quở trách bọn người tự cao giả hình: ”Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình ! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong là giả hình và gian ác”(Mt 23,27-28).
4) Ta phải làm gì để học tập gương khiêm nhường tự hạ của Đức Giêsu ?
– Phải tránh thói kiêu ngạo:
Tránh tự ái cao: Không dễ nổi nóng khi nghe người khác phê bình mình hay kể tội người thân của mình. Tránh nói to tiếng xúc phạm đến người khác.
Tránh “nổ” nghĩa là khoe khoang thành tích để tự đề cao mình, và chứng tỏ mình trổi vượt hơn người khác.
Tránh thái độ ganh ghét đố kỵ những ai hơn minh qua việc dèm pha nói xấu những ai hơn mình, nhằm hạ giá trị của họ.
Tránh thái độ độc đoán háo thắng: Người kiêu ngạo thường cao ngạo nên không chấp nhận những ý kiến đối lập, không muốn nghe những sự góp ý của thuộc cấp, nên công việc họ làm khó thăng tiến phát triển.
– Tập sống khiêm nhường như sau:
Cần nhìn nhận cả ưu lẫn khuyến điểm của mình. Trong việc tông đồ cần nhận ra sự yếu đuối bất toàn của mình để khiêm tốn xin ơn Chúa giúp, như Đức Giêsu đã dạy môn đệ: ”Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được !” (Ga 15,5b).
Tập nhận ra những ưu điểm của người khác và thành thật khen ngợi họ.
Tập chọn phần thua thiệt: quyền lợi ít hơn và trách nhiệm nhiều hơn anh em.
Tập đi bước trước đến với tha nhân hơn là đòi họ phải đến với mình trước.
Tập nói năng bình tĩnh vừa đủ nghe khi sửa dạy con cái hay thuộc cấp.
Tập làm những việc nhỏ bé tầm thường ít ai muốn thực hiện.
Tập nhận nguyên nhân thành công là do ơn Chúa giúp và là kết quả của tập thể. Khi thất bại thì nhận là do sự thiếu sót bất toàn của mình và tránh đổ lỗi cho hoàn cảnh hay cho người dưới.
Chỉ những ai biết hóa nên như trẻ nhỏ mới được Thiên Chúa yêu thương và được Người đón nhận vào Nước Thiên Chúa sau này (x Lc 9,48).
Tóm lại, khiêm nhường là học tập theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu như Người đã nói: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Khiêm nhường còn là sẵn sàng rửa chân phục vụ tha nhân trong tình yêu thương (x. Ga 13,4.14), nhất là hiến thân phục vụ người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi để nên giống Đức Giêsu, Đấng “đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 35-45).
- SỐNG LỜI CHÚA:
1) Kẻ kiêu ngạo thường biểu lộ qua cử chỉ lời nói nào khi tiếp xúc với tha nhân ? 2) Người khiêm nhường giả tạo thường biểu lộ qua những câu nói nào ? 3) Người hay la lối to tiếng và dễ tức giận khi kẻ dưới làm trái ý mình có đức khiêm nhường không ? 4) Khi nghe người khác phê bình mình trực tiếp hay qua người trung gian, chúng ta nên phản ứng thế nào để thể hiện đức khiêm nhường noi gương Đức Giêsu ?
- NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊSU. Thích được người khác khen ngợi, thích được ăn trên ngồi trước, thích được danh vọng chức quyền… cũng chính là thói xấu của chúng con. Hôm nay Chúa dạy các người Pharisêu bài học khiêm nhường và cũng là dạy chúng con: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất… Nhưng hãy vào ngồi chỗ cuối”. Con biết Chúa không dạy con giả đò theo kiểu khiêm nhường giả tạo, nhưng Chúa muốn chúng con coi thường danh vọng hão huyền và luôn sống nhỏ bé khiêm hạ. Chúa cũng dạy chúng con phải noi gương Chúa rửa chân phục vụ lẫn nhau.
– LẠY CHÚA. Chúa đã đi con đường khiêm hạ và mời gọi chúng con bước theo. Xin dạy chúng con biết khiêm tốn nhận ra những sai sót và quyết tâm sửa đổi. Xin cho chúng con biết cảm thông và mở lòng đón nhận tha nhân. Xin giúp chúng con tránh lên mặt xét đoán ý trái cho kẻ khác, nhưng biết học tập những điều tốt đẹp nơi họ. Nhờ đó chúng con hy vọng sẽ được Chúa đón nhận chúng con vào Nước Trời sau này.
- X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
TỰ HẠ & YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ
Am Trần Bình An
Chia sẻ Tin Mừng CN 22 TN NC 2016 (Lc Lc 14, 1. 7-14)
Vào ngày Thứ Sáu, 28.11.2014, Đức Giáo Hoàng Phanxicô bắt đầu chuyến công du quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi máy bay hạ cánh tại phi trường Ankara-Esenboga, thay vì lên một chiếc xe limousine Mercedes bóng nhẫy, lộng lẫy, dành cho quốc khách, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại tự ý lên một chiếc xe Volkswagen Passat tầm thường, cùng ở trong đoàn xe đón ngài, khiến các quan chức Thổ bất ngờ, lúng túng không biết phải ứng xử ra sao.
Trước khi bắt đầu cuộc công du Thổ Nhĩ Kỳ, Đức Giáo Hoàng đã ngỏ ý không muốn đi xe sang trọng, nhưng chính phủ Thổ làm ngơ. Nhưng rồi họ cũng đành chấp nhận, khi ngài lên chiêc xe Volkswagen Passat không bọc sắt chống khủng bố. Khi đến thăm bảo tàng Hagia-Sofia-Museum, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng dùng xe Renault Clio rất nhỏ thay vì xe Mercedes sang trọng.
Quan sát viên cho rằng đây là một tấm gương khiêm nhường. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, hiện thân của sự khiêm nhường đạm bạc, muốn bày tỏ với Tổng thống Thổ Recep Tayyip Erdogan vừa cho xây xong dinh thự tổng thống tốn đến hơn 500 triệu Euro. TT Erdogan là người chuộng sang trọng, xa xỉ, hệt như chính trị gia ở nhiều nước khác. (Duong Hong-An, Tấm Gương Khiêm Nhường)
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Đầy Tớ các đầy tớ của Chúa, đã dứt khoát từ chối sự ưu ái đặc biệt dành cho quốc khách, để hoà mình vào công chúng, theo như huấn dụ Tin Mừng. Trình thuật Tin Mừng Luca hôm nay, Đức Giêsu được mời dự tiêc trong ngày Sabat tại nhà một thủ lãnh Biệt phái. Thấy thực khách tranh giành nhau chỗ ngồi trên, Người giảng huấn về lòng khiêm nhường và yêu thương phục vụ.
Tự hạ
-“Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa; vì chỉ có một mình Thiên Chúa có quyền năng cao cả, và mọi kẻ khiêm nhường phải tôn vinh Chúa.” (Hc 3, 18) Lời giáo huấn của kinh sư Ben Xira sau này được Đức Giêsu tóm tắt cụ thể và súc tích hơn: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người.” (Mc 9, 35) Lời Chúa không chỉ dành cho những người lãnh đạo có chức có quyền, mà còn dành cho tất cả mọi người, đều cần khiêm tốn, tự hạ đối với Thiên Chúa và tha nhân.
Khiêm hạ trước Thiên Chúa, vì con người chỉ là tạo vật đầy khiếm khuyết, bất toàn, hữu hạn trước Đấng Tạo Hoá chí tôn toàn năng, vĩnh cửu. Tất cả những gì con người có đều là hồng ân của Chúa trao ban nhưng không, từ thân xác, tinh thần, linh hồn, sở trường, trí tuệ, tài năng.”Tất cả là hồng ân,” như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã cảm nghiệm sống, tuy đời ngài ngắn ngủi, đầy gian nan, thử thách.
Trong tâm tình khiêm hạ, biết ơn, cảm tạ, nhạc sĩ Phanxicô đã thành tâm cảm nhận phận hèn con người, chẳng biết lấy gì báo đáp Đấng Tạo Hoá: “Lạy Chúa con chỉ là tạo vật, Chúa thật (í a) sang giàu. Có gì mà dâng Chúa đâu, có gì mà dâng Chúa đâu. Vì trước mặt Chúa Thái Sơn cũng mọn hèn, dòng sông cả mấy sâu có là mấy đâu. Giữa đời con đây nhỏ bé, biết tìm chi dâng tiến Ngài.” (Ns Phanxicô, Con chỉ là tạo vật)
Tiếp đến, mỗi người còn cần khiêm tốn với đời, vì biết bao học thuật, nghệ thuật, kiến thức được chắt lọc, tích luỹ từ hàng bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu công sức sáng tạo, tìm tòi, thử nghiệm, của các nhà thông thái, học giả, khoa học gia, nghệ sĩ. Chẳng qua, ai đó biết làm mới lại, đào sâu thêm, hay dựa vào đó sáng chế. “Điều đã có, rồi ra sẽ có, chuyện đã làm, rồi lại sẽ làm ra: Dưới ánh mặt trời, nào có chi mới lạ?” (Gv 1, 9)
Cuối cùng, ai cũng thật cần khiêm nhường với tha nhân, vì chẳng ai tài sắc vẹn toàn. Người được cái này, thì mất cái nọ. Cũng chẳng ai nắm tay thâu đêm. Nên luôn phải hãm mình khiêm hạ, chớ tự cao, tự đắc, tự đại, kiêu căng, ngạo mạn, kinh rẻ, xúc phạm tha nhân, kẻo bị luận phạt. “Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Ðồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hoả ngục thiêu đốt.” (Mt 5, 22) Hơn nữa, có khiêm nhường mới có thể nhận ra cái sai, cái thiếu sót, lỗi phạm của mình, để học hỏi, canh tân, nhờ tha nhân giúp đỡ, chỉ dạy.
Tóm lại, khiêm nhường là đức tính thiết yếu của thân phận làm người, dám can đảm chấp nhận sự thật của chính mình, về những ưu khuyết điểm, về tài năng đức độ và cả giá trị của mình đối với người xung quanh, dẫu có bẽ bàng, yếu đuối, khiếm khuyết, tội lỗi, xấu xa, để biết ứng xử đúng đắn, lễ độ, cung kính, với Chúa và tha nhân. Với người Kitô hữu, càng nhất thiết phải sống thật khiêm hạ, vì Đức Giêsu “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6), vì Người đã hết sức chân tình khuyên nhủ và mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hòa và khiêm nhượng, tâm hồn anh em sẽ được nghỉ yên bồi dưỡng.” (Mt 11, 29. Nếu không thì “kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó.” (Hc 3, 28)
Trước nhan Thánh Chúa, dù đã làm tròn bổn phận và trách nhiệm cũng cần luôn khiêm nhường thân thưa:“Chúng con là những đầy tớ vô dụng, chúng con đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.” (Lc 17, 10) Đừng vênh váo, kiêu căng kể lể, khoe khoang công đức, như dụ ngôn người Biệt phái và người thu thuế cầu nguyện trong Đền Thờ:“Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 19, 10-14)
Yêu thương phục vụ
Bữa tiệc của một thủ lãnh Biệt phái hôm nay phục vụ thật chu đáo, nhằm phô trương thanh thế, bánh ít đi bánh qui lại, vừa có tiếng lẫn có miếng. Nên ngoài Đức Giêsu và các môn đệ, thực khách còn lại toàn là các bậc vị vọng, đáng kính, đồng trang lứa, đồng vai vế, chức sắc, quyền cao chức trọng, “phe ta” cả. Chẳng hề thấy bóng dáng một người nghèo khó tàn tật, què quặt, và đui mù, sứt mẻ nào dám bén mảng đến. Nếu ông chủ tiệc hào phóng, tha thiết mời cả những kẻ bần cùng khốn khó ấy vào chung vui, thì chắc hẳn “ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại.” Nhưng sự khôn ngoan thế gian chẳng bao giờ dễ dàng chấp nhận như thế.
Tin Mừng luôn nghịch lý thế gian. Người thủ lãnh “không dùng quyền uy mà thống trị,” trái lại trở nên người phục vụ thân thương và chu đáo, như Đức Giêsu đã xác định công khai sứ vụ: “Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22, 24-27). Vì thế, Người khuyên nhủ các môn đệ, các tín hữu Kitô hãy noi gương phục vụ: “Các con hãy biết rửa chân cho nhau.” (Ga 13, 1-15)
Theo Đức Giêsu, phục vụ tha nhân hoàn toàn vô vi lợi, thắm tình yêu thương, bác ái, nhân ái, không phân biệt hay loại trừ bất cứ ai. Dân Việt ta có câu: “Thương người như thể thương thân,” cũng giống với Tin Mừng: “Hãy yêu người thân cận như chính bản thân mình.” (Mt 22, 35-40) Người thân cận nghèo khổ, đói rách, bệnh hoạn cần được giúp đỡ, chính là Đức Giêsu ẩn mình: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; …(Mt 25, 35-36)
“Khi con tự hạ mình, chưa hẳn con khiêm nhượng. Khi người ta hạ con, chưa hẳn con khiêm nhượng. Khi người ta hạ con, mà con vui lòng chấp nhận vì Chúa, lúc ấy con khiêm nhượng thật.” (Đường Hy Vọng, số 509)
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
Khấn xin Mẹ Maria, cầu bầu và soi sáng chúng con nhận biết mình là “những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” trước Thiên Chúa chí thánh, để chúng con luôn biết khiêm hạ với Chúa và với tha nhân. Xin Mẹ luôn nhắc nhủ chúng con luôn yêu thương phục vụ mọi người trong mọi nơi, mọi lúc. Amen.
CHÚA YÊU THÍCH NHỮNG KẺ KHIÊM NHƯỜNG
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa nhật XXII năm – C
(Luca Lc 14, 1a.7-14)
«Nhằm một ngày sabbat » (Lc 14, 1), chi tiết quan trọng này hé mở ra chân trời của Vương Quốc, nơi ấy Đức Giêsu chuẩn bị bữa tiệc dành cho chúng ta là những người được mời. Đây không phải là bữa tiệc bình thường, vì được diễn ra « trên núi Sion, thành trì của Thiên Chúa hằng sống là Giêrusalem trên trời », có sự hiện diện của « muôn ngàn thiên thần, và cộng đoàn các trưởng tử đã được ghi sổ trên trời » (Dt 12, 22). Là nơi chúng ta có quyền lợi ở đấy. Đó là điều Đức Giêsu muốn dẫn chúng ta trong Tin Mừng hôm nay.
Chỗ nhất trong bữa tiệc là một vấn đề thương gây tranh luận trong các trường học Do thái thời Chúa Giêsu. Thực ra, chủ nhà không có qui định chỗ ngồi cho thực khách, nên mỗi người phải chọn lấy cho mình một chỗ sao phù hợp với địa vị của mình so với thực khách khác. Có thể có nhiều khách sang trọng hơn ta đến vào giây phút cuối, lúc ấy, cần phải thận trọng nhường chỗ cho thượng khách đó. Họ có thể được mời vào chỗ vinh dự hơn, khi mà Chủ nhà ra dấu hiệu trong bữa ăn, vẫn còn nhiều chỗ trống, cũng có thế sớm muộn người ấy phải nhường chỗ cho người có chức quyền đến vào giờ áp chót.
Lời khuyên của Đức Giêsu không có gì là cách mạng, vì sách Châm ngôn đã từng dạy : « Trước long nhan, đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: “Xin mời ông lên trên!” còn hơn bị hạ xuống » (Cn 25, 6-7). Thoáng nhìn, người ta có thể nghĩ, đơn giản chỉ là cách ứng xử thận trọng trong cuộc sống, nhưng quả thật, không dễ chịu chút nào khi thấy mình bị hạ xuống trước mặt mọi người. Hoặc là lịch sự so với các thực khách khách, vì họ xứng đáng vào chỗ nhất trong đám tiệc. Hoặc là chịu đựng có tính toán, hơi chút kiêu căng : tôi chọn chỗ rốt hết, với nụ cười trên môi thể hiện sự khiêm nhường, nhưng ẩn tàng hy vọng được mời bước qua trước mặt mọi người để lên ngồi chỗ nhất…
Đây không phải điều mà Đức Giêsu mong đợi chúng ta. Khi nói về Nước Trời; có lúc Người cũng thêm vào « Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống ; ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên », người hạ bệ không ai khác ngoài Thiên Chúa, Ngài hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo là « người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác » (Lc 18, 9), khi « sự thiện không có ở trong người ấy » (x. Rm 7, 18). Họ « tự cao tự đại, nên chẳng thấy tội mình mà chê ghét » (Tv 36, 3). Như người pharisiêu trong dụ ngôn, ông tự phụ khoe khoang trước mặt Thiên Chúa và người đời : « Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa, vì con không như những người khác» (Lc 18, 11). Ông ngửa mặt lên trời và xét đoán nghiêm khắc về tha nhân.
Trái lại, người khiêm nhường, trước Mạc khải tình thương của Thiên Chúa, họ ý thức về thân phận bụi đất của mình, nên « khiêm nhường ». Như người thu thuế (Lc 18, 13), hay như vịnh gia, than vãn : « Xin rủ lòng thương con, lạy Chúa: con kêu con gọi Chúa suốt ngày. Lạy Chúa, xin làm cho con được vui thoả, vì con nâng tâm hồn lên tới Chúa. Lạy Chúa, Ngài nhân hậu khoan hồng, giàu tình thương với mọi kẻ kêu xin » (Tv 85, 3.5). Ý thức về thân phận tội lỗi của mình trước nhan Chúa, tin tưởng nài van và xưng thú tội lỗi cùng Ngài, là những điều căn bản của sự khiêm nhường.
«Những kẻ khiêm nhường» thực sự mới có thể nói lời « tạ ơn » đối với Thiên Chúa (Bài đọc 1) vì vinh quang từ đâu đến để chúng ta có thể « tạ ơn » Đấng Tối Cao, nếu không phải đến từ Thiên Chúa? Chúng ta đón nhận vinh quang ấy thế nào nếu không phải là nhận lãnh Tin Mừng với lòng thống hối ăn năn ? Vì thế, ý tưởng của người khôn ngoan là lắng tai nghe, họ nghe tiếng Chúa gọi, và « hướng về Đức Giêsu, trung gian của Giao ước mới » (Dt 12), để đón nhận ơn cứu độ tự nơi Người.
Triết gia Nietzsche trách Kitô giáo là tôn giáo của những người yếu thế ; thấp cổ bé họng; khi tán dương kẻ khiêm nhường ở dưới đất trong khi mong đợi tiến về trời cao. Một quan niệm về khiêm nhường như vậy thực sự mà nói quá thụ động với đòi hỏi của Tin Mừng. Tuy Đức Giêsu chịu đựng những điều lăng nhục trong cuộc Thương khó, nhưng Ngườii đã chọn lựa con đường này có suy nghĩ : «Ðức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.» (Ph 2, 6-8). Sự khiêm nhường tự hạ của Chúa Con biểu lộ đức ái cao cả, Người ấp ủ trong lòng ơn cứu rỗi các linh hồn và tôn vinh Thiên Chúa Cha trong họ. Khiêm nhường thật để duy trì hạnh phúc phục vụ anh em, « lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình» (x. Ph 2, 3). Đối với người yêu mến, thì phục vụ vô vị lợi là phần thưởng của họ : « Khi anh dọn tiệc mời khách, thì hãy mời những người nghèo ; và anh sẽ hạnh phúc, vì họ không có gì để trả lại anh. » Anh có thể có bác ái trong sự khiêm nhường, vì người khiêm nhường không qui chiếu về mình nhưng làm phúc vô vị lợi đối với tha nhân trong tình yêu. Thế nên, Tình Yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa là khiêm nhường hoàn hảo nhất.
Lạy Chúa, xin đẩy xa tính kiêu ngạo xa con, dẫn con đi trên đường chân lý là khiêm nhường, để con coi người khác trọng hơn mình, và tìm thấy niềm vui khi phục vụ người khác. Xin đừng để sự tự cao, tự đại làm con thỏa mãn ; nhưng ban cho con ơn nhận ra Chúa luôn khiêm nhường, ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, là Thiên Chúa toàng năng, trao ban chúng con tình yêu và sự sống. Amen.
Thứ Nhất Khiêm Nhường-Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa nhật XXII năm – C
(Lc 14, 1a.7-14)
Khiêm nhường là một đức tính đáng quý, cần phát huy của mỗi con người. Khiêm nhường sẽ giúp con người thành công một cách vững chắc nhất. Chẳng thế mà trong lịch sử nhân loại đã không có ít bậc danh nhân vì chán ghét cảnh tranh chấp quan trường mà cáo quan về ở ẩn. Họ luôn giữ cho lòng mình trong sáng, tinh thần khiêm tốn, thanh cao. Thực tế, khiêm nhường là đặc điểm chung của các nhà lãnh đạo tuyệt vời, các vị cao sang đều mến chuộng đức khiêm nhường. Người ăn ở khiêm nhường chẳng những được người đời kính trọng mà cả Thiên Chúa cũng yêu thích kẻ khiêm nhường. Lời Chúa trong sách Huấn Ca dạy : “Con hãy hạ mình, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa” (Hc 3, 19-21. 30-31).
Hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta một bài học quan trọng là ở khiêm nhường. Người mời gọi chúng ta vượt qua thói háo danh để sống tự hạ và khiêm nhường. Nhiều khi chúng ta hiểu sai về khiêm nhường. Khiêm nhường không có nghĩa là tự coi mình không có giá trị gì, không phải là khinh rể bản thân, hay thụ động, không dám nhận trách nhiệm. Khiêm nhường lại càng không phải là một mặt nạ để lôi kéo sự chú ý của người khác: tôi hạ mình xuống để được tôn lên.
Người khiêm nhường là người chấp nhận sự thật, nhận biết thân phận thụ tạo của mình, nhận mình là mình, có sao có vậy, những gì tôi có và cả con người tôi, đều bởi Chúa. Khiêm nhường là đón nhận đời mình như quà tặng Chúa ban, và dâng lại đời mình cho Chúa như một quà tặng. Khiêm nhường cũng là nhìn nhận sự thật về mình: tôi chưa hoàn hảo, có nhiều giới hạn, cần được tha nhân nâng đỡ, góp ý…
Giữa một thế giới tự cao tự đại, kiêu ngạo, giả hình, háo danh, đề cao quyền lực và lợi nhuận, say mê thống trị và chiếm đoạt, bè phái và chia rẽ, thái độ công kích, đối đầu vẫn thường bị nhầm lẫn là sức mạnh thì người khiêm nhường không được đánh giá cao; bởi người ta đánh đồng khiêm nhường với yếu đuối.
Bằng dụ ngôn khách được mời tới dự tiệc cưới, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy khiêm nhường dành chỗ nhất, chỗ trọng cho người khác : “Đừng tìm kiếm chỗ nhất “. Chúa biết chúng ta thường thích chỗ nhất ở nơi công cộng, trong nhà cũng như ngoài phố, nơi hội họp cũng như bàn ăn… Người biết ý định của chúng ta, nên Người khuyên chúng ta : “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất” (Lc 14,8).
Chỗ nhất là chỗ quan trọng nhất. Ta chọn ngồi chỗ nhất là vì ta thấy mình quan trọng, xứng đáng được hưởng vinh dự đó… Tiếc thay, chỗ nhất chỉ có một chứ không có nhiều, nên người ta phải tranh giành nhau bằng mọi thủ đoạn để chiếm được và giữ được chỗ nhất cho mình. Những cuộc tranh giành như thế vẫn diễn ra nơi gia đình, trong cộng đoàn, trong nhóm, trong giáo xứ, giữa các quốc gia… Ở đâu có hai người trở lên là có đụng chạm, chỉ vì có một chỗ nhất. Vì thế Chúa Giêsu khuyên bảo ta: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Ai tôn mình lên, dù lộ liễu hay kín đáo, sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống. Ai thực tâm hạ mình xuống qua việc phục vụ, sẽ được Thiên Chúa tôn lên. Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, tuy có giá trị đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên Chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quý và bền vững. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, còn ai tự hạ thì rồi được tôn.
Vì muốn chọn chỗ nhất, nên ngươi ta thường thích giao du với người có thế giá, có học, có của, để dễ nhờ vả khi cần. Chính vì thế mà xã hội vẫn còn nhiều người bị bỏ rơi, vì nghèo túng, vì kém cỏi về mọi mặt. Chúa Giêsu cũng nhắn nhủ ta trong việc chọn khách để mời ăn, nên mời những kẻ nghèo khó, tật nguyền, hơn là mời những người ruột thịt, thân quen, giàu có. Người đưa ta vượt qua óc tính toán vụ lợi, để đi vào thế giới của những người bất hạnh, giảm bớt sự kiêu căng, nâng cao đức khiêm nhường.
Khiêm nhường sẽ giúp cho bản thân mình nhận ra rằng còn điều gì thiếu sót mà mình phải hoàn thiện, học hỏi được từ người khác nhiều điều mà mình không có. Kẻ ăn ở khiêm nhường sẽ khắc phục được rất nhiều khuyết điểm, và hoàn thiện được bản thân. Khiêm nhường luôn đi liền với sự hòa nhã, hòa đồng với mọi người, vì tinh thần không ngừng cố gắng học hỏi. Còn kẻ tự mãn thì luôn thấy người khác là thấp hơn mình, không đáng học hỏi. Bởi vậy đức khiêm nhường vô cùng quan trọng, giúp cho mỗi con người chúng ta có thể thấy được rằng không có điều gì là đủ, là thừa. Càng khiêm nhường, chúng ta càng học được nhiều điều.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con biết ăn ở khiêm nhường để xứng đáng được Chúa yêu thương. Amen.
THIÊN CHÚA PHÂN PHỐI CÁC CHỖ NGỒI
Lm FX Vũ Phan Long, ofm
(Luca 14,1.7-14 – CN XXII TN – C)
1.- Ngữ cảnh
Sau khi đã than vãn trên Giêrusalem, Đức Giêsu trong TM Lc lại di chuyển; nhưng trong thực tế, mãi đến 14,25, ta mới thấy là Người lại đang ở trên đường. Còn bây giờ, ta thấy Người đi vào nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để chia sẻ với ông một bữa tiệc nhân một ngày sabát. Người đã tận dụng hoàn cảnh để ban những lời khuyên khôn ngoan về cách ứng xử trong các bữa tiệc do Người đang nhận xét về các thực khách.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần với một câu mở đầu:
* Mở: Hoàn cảnh (14,1);
1) Dụ ngôn về các chỗ ngồi (14,7-11);
2) Nguyên tắc cư xử đúng đắn (14,12-14).
3.- Vài điểm chú giải
– ăn cưới (8): Từ ngữ Hy Lạp gamos, đặc biệt ở số phức, có thể hiểu theo nghĩa tổng quát là “một bữa tiệc”.
– Xin mời ông bạn lên trên cho (10): Lời này khiến chúng ta nhớ đến Cn 25,6-7, nhưng ở đây được áp dụng vào bối cảnh một bữa tiệc. Xem thêm Hc 3,17-20.
– phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên (11): Câu này là chìa khóa của dụ ngôn về các chỗ ngồi. Thái bị động diễn tả hành động của Thiên Chúa: “phàm ai tôn mình lên sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được Thiên Chúa tôn lên”. Các động từ ở thì tương lai có ý nói rằng sự việc sẽ xảy ra vào Ngày phán xét chung.
– đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con (12): Không được hiểu câu này theo nghĩa chữ chặt. Bài học là không được bác ái đối với người thân cận theo những động lực trần tục, vì lợi lộc cá nhân. Câu nói của Đức Giêsu trong ngôn ngữ Sê-mít có thể dịch là: “Đừng chỉ mời bạn bè…”.
– vì ông sẽ được đáp lễ (14): Thái bị động diễn tả hành động của Thiên Chúa: “vì ông sẽ được Thiên Chúa đáp lễ”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Giai thoại được tác giả Lc kể hôm nay xảy ra tại nhà một người Pharisêu, ông này đã mời Đức Giêsu đến dùng bữa trưa sau buổi cử hành phụng vụ ngày sabát. Người khách quan trọng nhất ngồi ở giữa, người chủ ở bên cạnh, còn những người khác cứ theo tuổi mà ngồi vào. Đấy là quy luật thông thường, nhưng cũng cứ có người nào đó muốn ngồi vào chỗ cao hơn của ai đó, gần với trung tâm hơn.
* Dụ ngôn về các chỗ ngồi (7-11)
Quả thật, một trong những bận tâm chính của con người là đạt được vinh quang và danh tiếng, là xác định địa vị, đạt được các vị trí. Mỗi người cứ muốn ở cao hơn người khác, xa hơn người khác. Những người đồng bàn với Đức Giêsu hôm ấy đã tỏ lộ khuynh hướng này ra qua việc muốn có những chỗ nhất. Đức Giêsu hẳn là mỉm cười khi thấy cảnh tượng ấy, Người mới nói với họ một dụ ngôn.
Dường như Đức Giêsu ban một quy luật ứng xử khôn khéo, đó là: khi đi dự tiệc cứ chọn chỗ thấp, không phải do khiêm tốn, nhưng do tính toán, và cứ để cho chủ nhà bố trí chỗ cho khách mời. Như thế, ta sẽ khỏi xấu hổ khi bị chủ nhà mời ngồi lùi xuống mà nhường chỗ cho người đáng trọng hơn, hoặc sẽ được nở mặt nở mày khi được chủ nhà mời ngồi lên trên. Hẳn là người ta nhớ đến đoạn sách Cn 25,6-7.
Thật ra, Đức Giêsu không có mục đích nhắc lại một quy luật ứng xử khôn khéo. Người đã nói theo kiểu dụ ngôn nhằm cho chúng ta hiểu rằng cứ lo tìm chỗ và tìm danh dự thì thất bại thôi; tốt nhất cứ để cho chủ nhà bố trí chỗ ngồi. Điều này đúng với loài người, theo những quy luật họ đang theo. Nhưng Đức Giêsu nói thế để đưa chúng ta đến khẳng định: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được Thiên Chúa tôn lên” (c. 11). Chúng ta không thể không nghĩ tới dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế, với câu kết tương tự (Lc 18,14). Khi các môn đệ cãi nhau về chỗ nhất, Đức Giêsu đã dạy họ về sự phục vụ (22,24-27).
Khao khát danh dự và uy thế, ra sức đánh bóng hào quang của mình đều không có giá trị gì trước nhan Thiên Chúa. Chúng ta không được bận tâm về cái tôi của mình, vì đó là một thứ ích kỷ. Do đó, chọn chỗ cuối không phải để được người ta ca ngợi, nhưng để trở thành lớn trước nhan Thiên Chúa.
* Nguyên tắc cư xử đúng đắn (12-14)
Sau đó, Đức Giêsu lại lưu ý chủ nhà, mà cũng là các thực khách, về một thực tại khác. Người ta có thói quen chỉ thiết lập những quan hệ với những người ngang tầm với mình. Những người bị loại trừ thường là những người bần cùng khốn khổ. Xu hướng loại trừ này cũng là một thứ tìm kiếm cái tôi, bao bọc cái tôi. Đức Giêsu dạy phải mở rộng vòng tròn đến cả những người bị loại trừ. Ở đây chúng ta thấy Người phác ra hai khối bốn nhóm rõ ràng: “bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có” và “nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”. Khối thứ nhất là gồm những người có thể được mời đến ăn uống với ta. Còn quan hệ với nhóm sau chẳng đưa lại gì cả, cũng chẳng tăng thêm uy tín xã hội của mình. Những người tàn tật, què quặt, đui mù không được phép đi vào Đền Thờ Đức Chúa (x. Lv 21,18; 2 Sm 5,8). Thân phận của họ cho thấy họ đầy tội lỗi, trong khi cộng đồng dân Chúa gồm toàn những người hoàn thiện. Thế nhưng chính họ lại là những người phải được mời, chính họ là những người ta phải hiệp thông với, chính họ là những người phải được nhìn nhận là có giá trị và phẩm giá ngang hàng với chúng ta. Đức Giêsu không ngăn cản việc ăn tiệc với bà con thân hữu, nhưng Người phản đối chủ trương loại trừ và hành vi loại trừ những người thất thế. Khi nói “sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”, Đức Giêsu không hề muốn người ta bỏ kiểu tính toán trần thế, để liếc đến những lợi lộc trên trời; thật ra Người đề nghị chúng ta khi cư xử, thì nghĩ đến giai đoạn kết thúc, lúc mọi người sống lại, khi không còn các nhóm bị loại trừ nữa. Khi đó, những người nghèo và những người đau khổ vì thiếu thốn sẽ hoàn toàn bình đẳng với những người khác. Nếu bây giờ trên trần gian, chúng ta coi họ như những người kém giá trị và không muốn hiệp thông với họ, chúng ta đã tự loại mình khỏi sự hiệp thông được thể hiện khi người chết sống lại.
+ Kết luận
Cả hai phần của bài Tin Mừng đều có câu kết nói đến cách nhìn của Thiên Chúa (c. 11 và c. 14). Như thế, chúng ta được nhắc nhớ là mình đang sống dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Ngài không phân biệt đối xử, nên Ngài cũng chờ đợi con cái Ngài không phân biệt đối xử trong quan hệ với nhau. Là con cái của một Cha chung, mỗi người phải sống với người khác, bất kể giàu ngèo, sang hèn, với trọn tình bác ái, được diễn tả cụ thể qua việc phục vụ lẫn nhau.
5.- Gợi ý suy niệm
1 Những gì xuất hiện trong bài tường thuật (người ta chọn chỗ nhất) đã có những thiên hình vạn trạng tại mỗi mức sống của cuộc sống chung giữa con người với nhau và trong mỗi tầng lớp xã hội. Mỗi người nhắm lên cao và muốn cỡi lên đầu lên cổ kẻ khác. Thật khó mà nhìn nhận rằng người thân cận cũng có những quyền và giá trị như chúng ta. Chúng ta lại muốn rằng họ phải thấp kém hơn chúng ta. Dường như chúng ta chỉ chắc chắn về giá trị và tầm quan trọng của mình khi chúng ta có thể từ trên cao nhìn xuống người khác và có thể lượng định họ như là kém giá trị hơn chúng ta. Có một căn hộ lớn, có một xe hơi đẹp, có một địa vị khả quan, một người bạn đời đảm đang, những đứa con thông minh,…, tất cả những điều này đều tốt. Nhưng dường như tất cả những thứ này chỉ có giá trị khi người ta có thể đối chiếu với người khác, khi người ta có trhể cảm thấy và còn chứng minh được là mình hơn người khác! Người ta đua tranh tìm uy thế ngay cả trong lễ an táng và nơi nghĩa trang!
- Khao khát danh vọng, chức tước, uy quyền là chuyện không đáng kể đối với Thiên Chúa. Chúng ta không được dành sức lực và thì giờ cho việc ấy. Tất cả những việc ấy đều là bận tâm lo cho cái tối của mình, là một dạng ích kỷ. Chúng ta phải để cho Thiên Chúa phân phối các chỗ ngồi. Giá trị và tầm quan trọng của chúng ta hoàn toàn tùy thuộc Thiên Chúa, chứ không tùy thuộc tham vọng cua chúng ta. Đức Maria đã hiểu như thế khi hát: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52). Tuy nhiên, thật không dễ gì có được “não trạng” của Thiên Chúa!
- Dựa vào những giáo huấn của Đức Giêsu tại những chỗ khác (Lc 18,9-14; 22,24-27), ta thấy rằng việc phục vụ và quan tâm đến thiện ích của người khác phải chiếm chỗ của tham vọng và bận tâm đến tầm quan trọng của chính mình. Tất cả năng lực được vận dụng vào việc duy trì và gia tăng hào quang của mình phải nhường chỗ cho việc phục vụ người khác, trước nhan Thiên Chúa.
- Một nhóm nào đó được nhìn nhận là các thành viên có phẩm giá ngang nhau. Như thế, họ có thể hiệp thông và trao đổi với nhau. Điều này được diễn tả ra qua những lần mời nhau ăn tiệc. Cái vòng tròn các thân hữu được giới hạn, tức là có việc loại trừ. Tuy nhiên, Đức Giêsu dạy một điều khôn ngoan: Sau này, khi sống lại, ra trước mặt Thiên Chúa, mọi người sẽ ngang nhau. Do đó, nếu giờ đây, chúng ta loại trừ kẻ khác, thì chúng ta đang đặt mình vào nguy cơ không thể chung sống với họ trong ngày kẻ chết sống lại.
- Thật ra, chúng ta không yêu thương những người nghèo để “xứng đáng” có một chỗ tốt hơn trên thiên đàng! Dù thế nào, chúng ta cũng không xứng đáng nhận điều gì cả; thiên đàng được ban không cho chúng ta. Phải yêu thương người nghèo chỉ vì một lý do duy nhất: bởi vì Đức Giêsu đã cho thấy rằng thật là tuyệt với khi có thể yêu thương như Thiên Chúa, không hề vì một liên hệ nào, không chờ đợi đáp trả. Khi yêu thương như thế, chúng ta nhận được phần thưởng cao quý nhất, đó là trở nên giống Cha trên trời, chúng ta trải nghiệm niềm vui của Ngài (x. Lc 6,35).
HỌC SỐNG KHIÊM NHƯỜNG
Lm Inhaxio Trần Ngà
(Suy niệm Tin Mừng thánh Luca (Lc 14, 7-14) trích đọc vào Chúa Nhật 22 thường niên)
Khi đề cập về Chúa Giê-su, người ta thường giới thiệu Ngài là Thiên Chúa Ngôi Hai cao cả, là Vua hoàn vũ, là Thẩm Phán tối cao, là Đấng quyền năng phép tắc… nhưng Chúa Giê-su còn có một phẩm chất cao đẹp khác ít được đề cập đến: Ngài là Đấng rất khiêm nhường!
Trong thư Phi-lip (2, 6-11), thánh Phao-lô trình bày sự khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giê-su như sau:
Mặc dù Chúa Giê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa quyền năng, đồng hàng với Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài đã hủy mình ra không! Từ tột đỉnh danh dự và vinh quang, Ngài đã gieo mình xuống cõi đời ô trọc, hoá thân thành một trẻ sơ sinh yếu đuối, được sinh ra trong nơi rốt hèn; khi lớn khôn thì sống bằng nghề mộc ngày ngày đổ mồ hôi đổi lấy áo cơm; rồi cuối cùng, Ngài đón nhận cái chết thấp hèn và đau thương trên thập giá cùng với hai kẻ bất lương.
Chúa Giê-su là Đấng rất khiêm nhường nên Ngài cũng muốn cho chúng ta trở nên khiêm nhường như Chúa. Chúa Giê-su không kêu mời chúng ta hãy học cùng Ngài vì Ngài thông thái, vì Ngài có tài hùng biện thu phục quần chúng, vì Ngài khôn ngoan… nhưng trước hết, Ngài kêu gọi chúng ta hãy học với Ngài, vì Ngài có lòng “dịu hiền và khiêm nhường.” (Mt 11, 29)
Vì khiêm nhường là một phẩm chất cao đẹp nên Chúa Giê-su thuyết phục chúng ta sống khiêm nhường bằng một dụ ngôn rất cụ thể và thực tế như sau: “Khi anh em được mời dự tiệc, đừng chọn chỗ nhất, kẻo khi có người khách khác quan trọng hơn đến sau, chủ nhà sẽ đến nói với anh em: Mời anh xuống ngồi chỗ dưới nầy cho… Trái lại, khi được mời dự tiệc, anh em hãy chọn chỗ cuối…. Vì hễ ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống và ai tự hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên” (Lc 14, 8-11).
Cây cao, tàng lớn, đứng trên đỉnh cao thì nguy cơ bật gốc hay gãy đổ càng cao. Cây nhỏ, thân mềm như lau sậy, dù đứng ở vị trí nào cũng được an toàn trước cuồng phong bão tố.
Nước mưa rơi xuống trên những đỉnh núi cao sẽ chảy tuôn đi hết chẳng đọng lại giọt nào. Rốt cuộc, mọi giòng nước đều tuôn về chỗ trũng. Chính thế người ta thường nói: “Biển cả là mẹ của tất cả sông ngòi vì biển hạ mình thấp hơn mọi con sông.”
Ai hiền lành khiêm nhượng, biết hạ mình xuống thì tình trạng tâm hồn của họ như là chỗ trũng, là lũng sâu. Ơn phúc của Thiên Chúa cũng như tình yêu của bạn bè sẽ chảy tuôn vào những con người ấy.
Khiêm nhường không phải là thua kém
Có một số người không thích khiêm nhường vì cho rằng khiêm nhường là thua kém. Nghĩ như vậy không đúng.
Ta hãy nhìn xem nước. Nước tuy rất mềm mại, rất dịu dàng, có thể nói là rất khiêm nhường nhưng đồng thời cũng rất hùng mạnh.
Nước luôn luôn tìm chỗ thấp nhất mà đến. Nước luôn mềm mại dịu dàng.
Nước không hề kháng cự với bạo lực, nhưng nước vẫn chiến thắng bạo lực nhờ sự mềm mại của mình. Búa tạ giáng vào tường, tường đổ; búa đập vào đá, đá tan; nhưng nếu có ai quai búa đập mạnh vào vũng nước, nước không cần kháng cự, nước dùng sự mềm mại của mình để nuốt lấy búa; búa sẽ phải cắm xuống đáy bùn! Đúng là “nhu thắng cương, nhược thắng cường.”
Nước luôn tìm chỗ rốt hết, tìm chỗ thấp mà chảy xuống, chẳng bao giờ muốn leo cao nên mới tạo ra thủy năng, thuỷ điện, một nguồn năng lượng tuyệt vời!
Khi bị hỏa thần tấn công, nước nhẹ nhàng bốc mình lên cao thành những lớp mây trời và khi hỏa thần hừng hực thiêu rụi những cánh rừng tươi tốt, nước có thể gieo mình xuống dập tắt hỏa thần.
Tuy mềm mại nhưng nước có sức xói mòn tất cả; dù rắn như đá thì “nước chảy đá cũng phải mòn”.
Nhờ mềm mại, nước rửa sạch tất cả, cuốn trôi tất cả.
Nhờ biết hóa mình thành muôn hạt li ti, nước có thể len lỏi vào mọi ngõ ngách của các địa tầng, thấm nhập khắp muôn nơi.
Tuy hạ mình thấp hèn, nước đem lại sự sống cho mọi loài. Nơi đâu thiếu nước, ở đó chỉ còn là sa mạc, khô cằn. Nơi đâu nước ngấm đến, ở đó sự sống sẽ trở nên trù phú tốt tươi.
Lạy Chúa Giê-su, Đấng hiền lành khiêm nhượng, xin cho chúng con, những người môn đệ Chúa, biết chọn chỗ rốt hèn như nước, biết sống khiêm hạ như Chúa đã nêu gương.
Luca 14, 7-11
Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người.
7 Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này:8 “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời,9 và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.10 Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn.11Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]