Notice: Function _load_textdomain_just_in_time was called incorrectly. Translation loading for the gd-system-plugin domain was triggered too early. This is usually an indicator for some code in the plugin or theme running too early. Translations should be loaded at the init action or later. Please see Debugging in WordPress for more information. (This message was added in version 6.7.0.) in /var/www/wp-includes/functions.php on line 6114

Notice: Function _load_textdomain_just_in_time was called incorrectly. Translation loading for the google-document-embedder domain was triggered too early. This is usually an indicator for some code in the plugin or theme running too early. Translations should be loaded at the init action or later. Please see Debugging in WordPress for more information. (This message was added in version 6.7.0.) in /var/www/wp-includes/functions.php on line 6114
Chúa nhật 3 thường niên, năm A – TỈNH DÒNG ĐỒNG CÔNG HOA KỲ

  • Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến-Lm Anton Độ
  • Ánh Sáng Hy Vọng-Am Trần An Bình
  • Suy tư tin mừng-Frank Doyle sj biên-soạn
  • Nguồn Gốc Sự Dữ Là Cái Tôi-Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
  • Đừng ngủ mê trong tội-Lm Tạ Duy Tuyền
  • Thiêng liêng bình thường- Rev. Ron Rolheiser, OMI
  • Chủ nhật 3 thường niên-Lm La Thập Tự
  • Thi ca cầu nguyện-Lm Việt Hùng
  • Bình minh của một thời đại mới-Lm Carolo Hồ Bạc Xái
  • Chúa chọn Galilê-Lm Giuse Nguyễn Hữu An
  • Theo chân Chúa-Lm. Anthony Trung Thành
  • <span style=

HÃY HỐI CẢI, VÌ NƯỚC TRỜI ĐÃ GẦN ĐẾN

Lm Anton Nguyễn Văn Độ

Suy niệm Chúa nhật III – Năm A

(Mt 12, 12-23 )

Bước vào Chúa nhật thứ III thường niên, chúng ta thấy Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa tại sông Giorđan, được Gioan giới thiệu cho mọi người biết Người là : “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian ” (Ga 1, 29). Điều các ngôn sứ đã báo trước nay được thực hiện : “Tại Galilêa các dân tộc và dân chúng thấy một ánh sáng vĩ đại” (Is 9, 1-4  (Hr 8, 23b – 9, 3). Ánh sáng vĩ đại ấy là ai nếu không phải là Chúa Giêsu. Thật thế, Chúa Giêsu xuất hiện giữa dân chúng, như ánh bình minh rạng ngời buổi sáng, xua tan bóng tối đêm đen. Dân chúng thấy Ngài như thấy ánh sáng huy hoàng… xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự chết (x.Mt 12, 16), ánh sáng ấy nay tỏ rạng công khai khi rao giảng : “Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến” (Mt 12, 17).

Ánh sáng ấy là Chúa Giêsu

Matthêu giải thích, Chúa Giêsu “rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali“. Với địa danh chính xác như thế, nhưng mục đích của tác giả không phải là cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn du lịch. Ý tưởng thần học của Matthêu được giải thích ngay : “Để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia” (Bài đọc I).

Ứng nghiệm điều gì? Giabulon và Nepthali là hai vùng thuộc miền Bắc lúc ấy đang bị sát nhập vào vương quốc Asyri. Thật là hổ người khi nhớ lại quá thất bại và bị đuổi ra ngoài. Tuy nhiên, vị tiên tri với niềm tin vững mạnh đã tuyên bố : “Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng“. Nói cách khác, Isaia muốn khơi lên niềm hy vọng nơi những người tin cậy Chúa, Đấng giải thoát họ, nên ông không ngần ngại nói về ơn cứu rỗi. Đó là sức mạnh của Lời Chúa, Lời thực hiện những gì đã tuyên bố, Isaia gợi lên niềm vui đến từ đức tin : “Dân chúng vui mừng trước nhan Chúa như nhà nông vui mừng trong mùa gặt“. Thánh Vịnh một lần nữa vang lời động viên : “Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa“. Niềm tin này khiến chúng ta vui mừng vì lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện : “Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi “. Sự sáng ấy nay cụ thể hóa nơi con người Đức Giêsu Kitô, thánh Matthêu xác định : Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: “Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết“.

Bước theo Chúa Giêsu cần phải hối cải

Ánh bình minh đã ló rạng, từ trên cao chiếu soi dân ngồi trong bóng tối là chính Chúa Giêsu Kitô. Ai bước vào trong ánh sáng ấy cần phải : “Hối cải” nghĩa là đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ tội lỗi sang đời sống là con cái Chúa, từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ chán nản đến vui mừng. Và Chúa muốn ánh sáng ấy chiếu soi mọi người; nên Chúa đã chọn các môn đệ như những người phụ tá.

Khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ của mình “Hối cải“. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng, dù thuộc về Phaolô, Phêrô hay Apôlô cũng chỉ có một Đức Kitô. Mọi con mắt phải hướng về Ngài, chính Ngài cứu chuộc chúng ta. Vì thế, khi gọi các môn đệ, là để các ông trở nên những chứng nhân của Tin Mừng, nên thánh Phaolô có thể nói : “Đức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Đức Kitô ra hư không“. Phaolô được chọn, để loan báo một Đấng Cứu Thế bị đóng đinh cho thế gian.

Ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta mang vào thế giới sứ điệp sự thật và tình thương của Ngài. Chúng ta hãy sẵn sàng tham gia vào sứ mạng này và nhất là cầu nguyện xin Chúa đừng để những chia rẽ và tranh chấp giữa các tín hữu Kitô làm lu mờ khả năng chiếu tỏa của Tin Mừng.

Hối cải để hiệp nhất

Lời Chúa mời gọi chúng ta : “Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến“, vẫn luôn có tính chất thời sự của Tin Mừng. Sự quyết tâm hoán cải, trở về cùng Chúa Kitô là con đường dẫn đưa Giáo Hội đến sự hiệp thông hữu hình trọn vẹn vào thời kỳ Thiên Chúa thiết định. Các cuộc gặp gỡ đại kết trong thời gian gần đây gia tăng trên thế giới là một dấu chỉ chứng tỏ điều đó.

Trước giờ Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 23/1/2011, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đưa ra lời kêu gọi sau đây : “Ngày nay cũng vậy, để trở thành dấu chỉ và phương thế kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa trong thế giới, các tín hữu Kitô chúng ta phải xây dựng cuộc sống trên 4 cột trụ, đó là: cuộc sống trên nền tảng đức tin của các Tông Ðồ được chuyển lại trong Truyền Thống sinh động của Giáo Hội, tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và kinh nguyện. Có thế, Giáo Hội mới được kết hiệp bền vững với Chúa Kitô và chu toàn sứ mạng của mình, dù có những chia rẽ như thánh Phaolô Tông Ðồ nói đến : “Hỡi anh em, tôi khuyên nhủ anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý trong lời nói, để không có sự chia rẽ nơi anh em, nhưng hãy kết hiệp trọn vẹn trong tư tưởng và cảm thức” (1 Cr 1,10). Thực ra Thánh Tông Đồ đã biết trong cộng đoàn Kitô ở Côrintô, đã nảy sinh những bất thuận và chia rẽ; vì vậy, ngài nghiêm nghị viết thêm rằng: “Phải chăng Chúa Kitô bị chia rẽ sao?” (1,13). Ngài quả quyết mọi chia rẽ trong Giáo hội là làm xúc phạm đến Chúa Kitô, Thủ Lãnh duy nhất và là Chúa, chúng ta luôn luôn có thể tái hiệp nhất, nhờ sức mạnh vô tận của ơn thánh Chúa.

Theo giáo huấn của thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi loại bỏ gương mù chia rẽ nơi chúng ta để mang sứ điệp của Chúa Kitô Phục Sinh cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa cho sớm đến ngày Giáo Hội được hoàn toàn hiệp nhất. Amen.

ÁNH SÁNG HY VỌNG

Am Trần An Bình

Chia sẻ Tin Mừng CN 3 TN NA 2017 (Mt 4, 12-23)

Ánh Sáng Hy Vọng-

Helgoland được hạ thủy năm 1963, chuyên chở du khách từ thành phố Cuxhaven (Hamburg) ra hòn đảo Helgoland ở Bắc Hải. Đây là một con tàu hạng trung, sức tải là 3 000 tấn, với chiều dài 100 mét và chiều ngang 14 mét. Vào năm 1966, được trang bị thành một tàu bệnh viện, với thủy thủ đoàn 30 người. Tàu đã trải qua hành trình dài 7. 500 cây số, cập cảng Saigon đầu tiên.

Helgoland có 150 giường cho bệnh nhân, 3 phòng mổ, phòng hồi sức, hậu phẫu, phòng cách ly, phòng quang tuyến, phòng khám răng, phòng dược sĩ và dược phẩm. Luôn có khoảng 7-10 bác sĩ, 29-30 nhân viên y tá, điều dưỡng, 4 nhân viên phụ trách phòng thí nghiệm, 4 nhân viên hành chánh. Dược phẩm, dược liệu, y cụ và máu được chuyển đều đặn bằng đường hàng không từ Đức Quốc sang. Tiêu chuẩn bệnh viện như được quy định cho một bệnh viện tân tiến tại Âu Châu.

Đến hải cảng Saigon vào tháng 9 năm 1966 và phục vụ tại đó hơn 10 tháng. Sau đó tàu ra Đà Nẵng vào năm 1967, vì miền địa đầu giới tuyến có nhu cầu y tế cao hơn. Theo sự thoả thuận với chính phủ VNCH, tàu bệnh viện Helgoland chữa trị cho tất cả thường dân, không phân biệt chính kiến. Trong một cuộc pháo kích vào thành phố (Tháng Mười, 1970), một miểng đạn rơi vào cửa kính của thư viện trên tàu. Từ đó, buổi chiều tàu rời hải cảng ra vịnh tránh pháo kích, buổi sáng lại cặp bến. Dân chúng gọi tàu Helgoland là “Con Tàu Hy Vọng.” (Helgoland, the white ship of Hope)

Được coi là một trong những bệnh viện tân tiến nhất tại miền Nam, tàu là nơi có thể chữa trị tất cả, chỉ trừ giải phẫu tim và giải phẫu óc. Các điều trị đều miễn phí. Tàu được trang bị để có thể tự túc được trong 4 tuần khi gặp trường hợp nguy cấp phải chạy ra khơi. Khi chấm dứt nhiệm vụ khoảng cuối năm 1971, tàu Helgoland trở về Đức Quốc, đã chữa trị cho trên 11,000 bệnh nhân trên tàu.

Các nhân viên bao gồm thuỷ thủ đoàn, y tá, điều dưỡng, các bác sĩ sau đó đã lập một hội thiện, để tiếp tục trợ giúp y tế cho các trẻ em tại Việt nam. Khi rời Việt Nam vào Tháng Giêng 1972, ông thị trưởng Đà Nẵng (1968-1972), đại tá Nguyễn Ngọc Khôi đã bày tỏ lòng tri ân của người dân Việt gửi đến dân tộc Đức. (Nguyễn Viết Kim, Từ Đại Học Tới Tàu Bệnh Viện Đức Quốc Giúp Người Dân Việt)

Trong thời chiến tranh kinh hoàng ở Việt Nam, nước Đức đã xoa dịu phần nào nỗi đau đớn dân Việt với bệnh viện nổi Helgoland, Con Tàu Hy Vọng, cũng như khơi lại niềm tin, niềm hy vọng vào tình người đã đánh mất. Tin Mừng Matthêu hôm nay trình thuật Đức Giêsu đem ánh sáng hy vọng từ Thiên Quốc đến mọi người. Người đem Tin Mừng khai sáng cho muôn dân lầm than trong bóng đêm, cứu chữa thân thể và tâm linh những ai mê muội. Đồng thời kêu gọi những môn đệ đầu tiên lữ hành theo Người.

Tin Mừng khai sáng

 

“Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết.” Đức Giêsu đến thế gian, đem ánh sáng công lý, sự thật, sự sống, xua tan bóng tối gian dối, bất công, chết chóc. Người không đến làm cách mạng, cũng chẳng giải thoát con người khỏi lầm than, đói khát, khổ cực. Nhưng Người đến tiêu diệt cái danh lợi phù phiếm, ganh ghét, gian manh, tham lam, thù hận, chính cái nguồn gốc gây nên đau khổ cho con người, kìm hãm con người trong bóng tối sự chết.

Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.”(Ga 1, 5) Con người đau khổ vì thiên tai thì ít, nhưng đa phần vì nhân tai. Chiến tranh, đàn áp, khủng bố, tiêu diệt, đều phát xuất từ tà tâm vị kỷ. Nếu nghe, hiểu đúng và thực hành theo Tin Mừng, tu thân, tề gia, trị quốc, thì bình thiên hạ, nói đúng hơn thiên hạ ắt sẽ được thái bình. Vì thế, Lênin mới phải tâm đắc:“Chỉ cần 10 người như thánh Phanxicô thành Assisi, thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi.”

Tin Mừng cứu độ

 

“Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến!” Không thể nào hối cải, sám hối, nếu không có Tin Mừng khai sáng, khai tâm, nhận diện cái xấu, cái đê tiện, hèn hạ, đã và đang làm dị dạng, méo mó, khuôn mặt con người, vốn được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa chân thiện mỹ. “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9, 13).

Với ánh mắt chứa chan dịu dàng, cảm thông, tha thứ, đầy sức hoán cải, Đức Giêsu đã trìu mến nhìn vào Matthêu và gọi: “Anh hãy theo tôi” (Mt 9, 9)

Tin Mừng không chỉ chữa lành người què đi được, người mù được thấy, người câm nói được, người phung được sạch, người chết sống lại, mà còn chữa cả tâm bệnh, tất cả những chứng bệnh tật tâm hồn cấp tính và mãn tính, như khoan dung, cảm hoá, giải thoát, canh tân Giakêu, Matthêu, Mađalêna khỏi vòng kiểm toả của cải, vật chất, xác thịt, như cứu vớt Phêrô khỏi sự bất tín, bất nghĩa, bất trung, như thương xót thứ tha người gian phi sám hối.

 

Tin Mừng đồng hành

 

“Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta.” Người mời gọi bốn môn đệ đầu tiên, từ bỏ cha mẹ, vợ con, nghề ngiệp, tài sản, từ bỏ cả chính mình, để toàn tâm toàn ý đồng hành theo Người rao giảng Tin Mừng.

Không chỉ gọi các môn đệ thân tín, mà Người còn mời gọi tất cả những ai đang vất vả gánh nặng, khổ sở, long đong, lận đận, bấp bênh trong đời. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. (Mt 11, 28)

 

Tin Mừng không thể bị đúng khung, gò bó, hạn hẹp, trong nhà thờ, giáo xứ, cộng đoàn, hay trong gia đình, xóm ngõ, mà luôn đồng hành với tín hữu Kitô phục vụ mọi người, mọi nơi, mọi lúc. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã lân cận, để Ta rao giảng ở đó nữa, bởi chính vì thế mà Ta dã ra đi.” (Mc 1, 38)

Ra đi để từ bỏ, để lại đàng sau tất cả những gì dây dưa đến phù vân, danh lợi, thành công hay thất bại, liên quan đến thân xác, nhất là dính bén đến cái tôi vị kỷ xấu xa đê tiện. Ra đi sẵn sàng chấp nhận thách thức, đau khổ trên đường hy vọng.”Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mc 8, 34) 

Chúa “dắt con trên đường, để con ra đi, và thu được nhiều hoa trái.” Đường ấy là “đường hy vọng”, vì chan chứa hy vọng, vì “đẹp như hy vọng.” Sao không hy vọng khi con đi với Chúa Giêsu, khi con về cùng Đức Chúa Cha? (Đường Hy Vọng, số 1)

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết chăm chú, chuyên tâm lắng nghe Lời Chúa, để biết Chúa yêu thương chúng con biết dường nào. Xin cho Tin Mừng cảm hoá cuộc đời, xoa dịu, băng bó, chữa lành những thương tích vấp ngã trên đường đời. Xin cho chúng con luôn đồng hành với Tin Mừng về Quê Trời.

Kính xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng con luôn tỉnh thức, lắng nghe tiếng Chúa giục giã, mời gọi lên đường. Xin Mẹ giúp chúng con luôn sẵn sàng theo Chúa đến trọn đời. Amen.

SUY TƯ TIN MỪNG

Frank Doyle, SJ – Mai Tá lược dịch

Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 3 thường niên năm A

 

Tin Mừng: (Mt 4: 12-23)

 

Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Galilê. Rồi Ngài bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum, một thành ven biển hồ Galilê, thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali, để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.”

 

Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simôn, cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.

Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.

Thế rồi Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân.

 

“Gió lùa ánh sáng vô trong bãi”

Gió lùa ánh sáng vô trong bãi

Trăng ngậm đầy sông, chảy láng lai

Buồm trắng phất phơ như cuống lá

Lòng tôi bát ngát rộng bằng hai.

(dẫn nhập thơ Hàn Mặc Tử)

Ánh sáng, nhà thơ hôm nay ghi nhận, không là hào quang sáng chói, “lùa trong bãi”. Nhưng, là ảnh hình Chúa Kitô sáng mãi với thế gian. Ảnh hình Ngài tỏa sáng như ban ngày. Sáng từ thời Cựu Ước mãi đến hôm nay. Nơi trình thuật sáng chói, ngày Chúa gọi.

Trình thuật sáng chói hôm nay, đề cập nhiều đến ánh sáng Vương Quốc Nước Trời, đem đến những canh cải đổi thay,  những đáp ứng lời mời của Thầy Chí Thánh, đang toả sáng.

Bước đầu đường đời Ngài rao giảng, Đức Giê-su cũng đã mời và đã gọi. Ngài mời gọi đám dân đen thuyền chài nhỏ bé, rất tầm thường, đưa các vị ấy vào chốn toả sáng “lùa trong bãi”, làm đồ đệ. Khởi đầu công cuộc rao giảng, Đức Giêsu đã xuất hành từ thị trấn Na-da-rét. Tiếp theo đó, Ngài đi CaphaNaUm, một thị trấn bé nhỏ bên bờ Galilê nơi vùng biển mang tên “ZêBuLun” và “NápTaLi”. Đi như thế, Ngài đã ứng nghiệm lời tiên tri Isaya, nơi Cựu Ước, có lời rằng: “Hãy canh cải, vì Vương Quốc Nước Trời đã gần kề”.

 

Nước Trời đã gần kề nói ở đây, không là Thiên đường sống ở trên cao, nơi ta đạt đến sau khi chết. Nhưng chính là cộng đoàn tiên khởi, gồm con dân nhà Đạo gốc Do Thái giáo nay đà hoán cải. Thoạt tiên, người Do thái rất ngại ngần, vì không quen sử dụng trực tiếp danh tánh của Chúa, mỗi khi trao đổi hoặc nguyện cầu. Vì thế, sử gia Mat-thêu mới phải viết tả về Đức Chúa, bằng lối gián tiếp như “thiên đường”, hoặc bằng thể thụ động nơi động từ, vẫn nghe quen.

Với nhà Đạo, cụm từ Vương Quốc xuất từ ngôn ngữ cổ của Hy Lạp bằng từ “basileia”. Basileia trước nhất có nghĩa: vương quyền, quy luật và triều đại. Cũng từ đó, khi nói Vương Quốc Nước Trời đã gần kề, không có nghĩa bảo rằng: ta đã gần đạt chốn đền đài cung điện đầy nguy nga. Dù ở đời này hay đời sau. Thành thử, lời khuyên Hãy canh cải là có ý bảo: hãy đặt mình dưới sức mạnh/quyền uy của Đức Chúa. Hãy sống vì Vương Quốc Nước Trời. Vì Vương Quyền của Đức Chúa.

Đặt mình sống vì Vương Quyền của Chúa, là đặt mình trong tương quan đầy thương mến với Trời. Và với Chúa của ta. Đặt mình trong tương quan, là sống trong môi trường nơi đó có các giá trị đáng để ta trân trọng thực hiện như: tình yêu, lòng thương xót, sự công chính, tự do, sống với cộng đồng, sống trong an bình… Nhất nhất đều là những điều, ta vẫn cần thắng lướt trong cuộc sống.

Đặt mình trong tương quan với Chúa – với người nơi Vương Quốc Nước Trời, còn là biết canh cải, đổi thay, đáp ứng lời mời của Đức Chúa. Nói đến canh cải – đổi thay, người người thường chỉ nghĩ là: ta phải ưu tư áy náy về những lỗi phạm, mình đã mắc phải. Nhưng, mời gọi của Đức Giê-su còn đi xa hơn thế nữa. Ngài không muốn ta xóa sạch mọi tàn tích của lỗi phạm trong quá khứ. Bởi lẽ điều ấy, chẳng thể nào làm được. Canh cải đổi thay là chuyển hướng hành động từ ngày hôm nay, đến lai thời.

Canh cải đổi thay, cụm từ bắt nguồn từ metanoia tiếng Hy Lạp. Cụm từ trên, bao gồm một thay đổi từ gốc rễ mọi suy tư nghĩ ngợi. Quyết hướng nhìn về cuộc sống theo đường lối mới. Đường lối được Tân Ước bộc lộ trong trọn bộ Thánh Kinh. Chỉ khi nào có quyết tâm canh cải đổi thay tận gốc rễ như thế, ta mới trở nên thành viên của Vương Quốc Nước Trời. Mới đặt mình dưới sức mạnh chuyển đổi nhờ uy lực của Đức Chúa.

Hơn nữa, lời mời gọi của Đức Giê-su là yêu cầu ta không chỉ sám hối về những gì mình lỗi phạm trong quá khứ, quyết không lập lại. Nhưng là đổi thay trọn vẹn lối hành xử, để tháp nhập công việc Chúa muốn ta làm. Công việc ấy, là hợp tác cùng mọi người nhất định chấm dứt cơn túng cực bần hàn, của người dân đen trên thế giới. Là, chấm dứt nạn đói nghèo, thất nghiệp. Là, vứt bỏ tính hờn – ghen nơi cộng đồng nhà Đạo và dứt đoạn lòng “tham – sân – si” quá mức độ. Chấm dứt lòng ham mua sắm quá khả năng.

Lời mời gọi của Chúa, là cốt để cho dân con nhà Đạo biết tháp nhập vào với Vương Quốc Nước Trời ở đây, bây giờ. Lời Ngài mời gọi, được gửi đến không chỉ với dân con nhà Đạo, nhưng cả muôn dân nước, khắp nơi trên địa cầu. Vương Quốc Ngài lập, cần vượt trên không gian – thời gian, vượt biên giới của nhà Đạo. Nước Ngài mời gọi, cần thể hiện bằng nhiều cách ở nhiều nơi, cả những nơi, Đạo Chúa chưa hội nhập được. Bởi, trên thực tế, có đến 80% dân số thế giới chưa biết đến Tin Mừng của Đức Chúa. Chưa biết Lời Ngài, vì Lời Mời Gọi ấy chưa phổ biến khắp dương gian. Thế nên, ta cần chuyển tải và coi Lời Ngài như mục tiêu đời sống, của mọi người chúng ta.

Người nhận rao giảng Nước Trời, vào buổi đầu đời, chẳng phải là những kinh sư, lẫn Pharisêu, Biệt Phái. Mà là, giới thuyền nhân chài lưới, rất bình dân. Những người cả năm không cần sách bút, lẫn kinh kệ. Nhưng lại hiểu Lời, hơn ai hết. Và, có điều hi hữu nữa là: lời mời gọi Chúa gửi đến được chuyển tải ngay vào lúc các ngài làm công việc chài lưới. Chính vì thế, Chúa vẫn xác nhận: Thầy chọn các con, chứ không phải các con chọn Thầy.”

Với các môn đệ, metainoia (canh cải) còn có nghĩa trọn vẹn thay đổi lối sống trở về trước. Là, làm như các môn đệ gốc thuyền chài: dứt khoát bỏ thuyền, bỏ lưới bỏ cả giòng sông, quyết theo Thầy. Quyết theo Thầy, nên các ngài hoàn toàn tin tưởng nơi Thầy. Tin, đến độ bỏ lại đằng sau mọi phương tiện sống, kế sinh nhai.

Bỏ mặc mà đi, dù không rõ thuyền về bến nao, đi nơi nào. Cũng tựa như Thầy đã dứt khoát bỏ rời thôn làng Nadarét bỏ mẹ cha, bỏ cả cuộc sống tay nghề thợ mộc chân phương cần cù, vào mọi lúc. Bỏ là như thế. Nhập vào với Đạo là như vậy. Bởi từ nay, mối lo âu không biết mình lấy gì mà sống, cho bằng sự lo lắng quan tâm đến anh chị em đồng loại của mình, sống sao đây.

Xem như thế, đáp ứng lời mời của Đức Chúa trong canh cải, là khởi sự sống đời rất mới. Một đời có những hỗ tương đùm bọc hết mọi người. Mọi người, nơi cộng đồng nhân loại, đang ngóng chờ. Bởi, cộng đồng này giờ đây đã trở thành gia đình thân thương, rộng hơn. Lớn hơn. Yêu thương nhau hơn.

Về yêu thương người cùng cộng đồng, thánh Phao-lô cũng đã căn dặn cộng đoàn dân Chúa ở Cô-rin-thô, bằng những lời đanh thép nhưng thật tình: “Tôi khẩn khoản kêu mời anh em, nhân danh Đức Kitô, hãy thuận thảo với nhau để không có sự chia rẽ nơi anh em và anh em sẽ hoàn toàn hiệp nhất trong tư tưởng và thần trí”(1Cr 1:10).

Lời mời gọi canh cải và biến đổi hôm nay, không phải để Đức Chúa thích nghi với lối sống ta đã lựa chọn, nhưng để ta trở nên xứng hợp với thị kiến của Ngài về sự sống. Làm như thế, không phải là ta đang thực hiện một hy sinh, đổi chác. Nhưng ngược lại, để bảo rằng ta đang trên đường ngay nẻo chính. Con đường dẫn ta đến thành tựu, Chúa bảo ban.

Trong hân hoan thực hiện cuộc canh cải, ta hiên ngang cất cao lời ca yêu từng hát thuở nào:

 

“Yêu là tình dâng cao

Gió lao xao ngả hàng phi lao

Phút ái ân đắm say tâm hồn

Nhớ mãi đêm nào bên nhau.

Yêu là thêm thương đau

Với xót xa lệ tình khôn lau

Biết nói sao những khi âu sầu

Những khi úa nhầu tâm tư.” (Văn Phụng – Yêu)

Vâng. Trong cộng đoàn Nước Trời ở trần gian, sống yêu cũng có những lúc là thêm thương đau. Là, lệ tình khôn lau. Nhưng, hãy cứ yêu như Đức Chúa bảo ta yêu. Yêu rất nhiều. Yêu ngay bây giờ. Và mãi mãi vẫn cứ yêu. Như “gió lùa ánh sáng vô trong bãi”. Yêu, “với lòng bát ngát rộng bằng hai”.

NGUỒN GỐC SỰ DỮ LÀ CÁI TÔI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Con người ngày hôm nay thường lấy mình làm trung tâm nên họ luôn quy chiếu về mình và không bận tâm tới luật lệ hay luân thường đạo lý. Họ quan niệm rằng: phàm làm việc gì chỉ cần mình sống vui vẻ hạnh phúc là được!

– Có nhiều bạn trẻ khi được hỏi: quan hệ nam nữ trước hôn nhân có tội không? Đa số các bạn cho rằng không có tội, vì họ yêu nhau và muốn dâng hiến cho nhau thì đâu có tội! Thế nên, họ vẫn thản nhiên sống thử như vợ chồng với nhau.

– Có nhiều người vô tư lấy của công làm của riêng, vì họ lý luận rằng họ có quyền lấy để bù đắp công sức mà họ bỏ ra, nên họ đáng được hưởng!

– Có người bớt xén của chủ, của công ty vì cho rằng mình bị chủ chèn ép hay công ty trả lương quá thấp nên bớt xén để đền bù!

– Có người khi thấy thai nhi bị dị tật hay sự sinh ra của đứa trẻ sẽ gây khó khăn cho mình nên bình thản phá bỏ thai nhi!

Tất cả những điều trên cho ta thấy họ đều quy hướng về mình. Vì hạnh phúc, vì quyền lợi của mình mà họ vượt trên lề luật. Họ xem thường lề luật, xem thường đạo lý. Những bài giáo lý trở thành vô dụng khi con người ngày nay chỉ quan tâm tới nhu cầu của bản thân.

Đó là lý do con người ngày nay sống chai lỳ trong tội. Một hiện tượng mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II đã nói là : “con người ngày nay đã mất ý thức về tội”.  Khi con người mất ý thức về tội thì họ sẽ sống theo nhu cầu xác thịt, họ sẽ lao vào những đam mê hưởng thụ bất chấp luân thường đạo lý. Có khi còn bất chấp thủ đoạn để đạt được điều mình mong muốn. Điều này đã làm cho xã hội tội lỗi tràn lan đến mức độ chưa bao giờ tội phạm nhiều như ngày nay.

Ngay từ thời Chúa Giê-su tội lỗi đã tràn lan. Thế nên, lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giê-su là kêu gọi sám hối canh tân. Chúa kêu gọi con người phải sám hối vì cội rễ của bất công, của sa đọa, tội lỗi là con người mất ý thức về giá trị cuộc sống. Con người không tuân theo luân thường đạo lý thì làm sao có một xã hội văn minh tình thương. Con người cần phải sám hối để nhận ra những lỗi lầm của mình đã gây nên thiệt hại tinh thần lẫn vật chất cho tha nhân. Chính hành vi tội lỗi mình đã làm cho sự dữ lan tran, xã hội loạn lạc lầm than.

Là người đều có những lầm lỗi hay có những lần vấp ngã, điều quan yếu là biết nhận lỗi và đứng lên làm lại cuộc đời. Không nhận ra sai lỗi. Không cảm nhận sự vấp ngã. Con người cũng mất ý thức về tội. Con người càng mất lòng sám hối ăn năn. Thực ra, nhân vô thập toàn. Con người cần biết giới hạn của mình để sám hối từng ngày, để canh tân từng phút. Có sám hối, có canh tân con người mới thăng tiến từ tinh thần đến vật chất.

Ước gì mỗi người ky-tô hữu hãy biết xét mình hằng ngày, hãy ăn năn từng giờ để đừng ngủ mê trong tội lỗi, nhưng biết thay đổi đời sống cho phù hợp với Tin Mừng. Xin đừng vì quyền lợi cá nhân mà gây thiệt hại cho xã hội. Xin đừng đề cao tự do cá nhân để làm mất trật tự cho xã hội và cộng đồng. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của bản thân để nhờ ơn Chúa mà canh tân đời sống mỗi ngày một tốt hơn. Amen

ĐỪNG MÊ NGỦ TRONG TỘI

Lm Tạ Duy Tuyền

 

Tiếng bà vợ dịu ngọt nói chồng: Anh ơi đi xưng tội đi.  Lâu rồi không thấy anh xưng tội.

Anh chồng đáp: Xưng xong có chừa được đâu mà xưng.

Cô vợ: Thế thì hôm nay anh đừng ăn nhé

Anh chồng: Không ăn mà chết đói à!

Cô vợ: Vì ăn xong rồi cũng đói, thế thì ăn làm gì cho mệt.

Anh chồng!

 

Con người thường ít muốn thay đổi.  Cho dù cuộc sống của họ đang chìm ngập trong tội lỗi.  Họ vẫn ngại đến với tòa giải tội.  Họ sợ phải đối diện với sự thật.  Vì sự thật sẽ phơi bầy toàn bộ hành vi bất chính, tội lỗi của họ.  Họ sống chai lỳ trong điều gian ác mà vẫn không áy náy lương tâm.  Chính vì lối sống mất ý thức về tội, lại không dám đối diện với sự thật, khiến họ lao mình vào cuộc sống với những đam mê hưởng thụ bất chấp luân thường đạo lý, hay lao vào tìm kiếm danh lợi thú, bất chấp thủ đoạn tàn bạo.  Điều này đã làm cho xã hội tội lỗi tràn lan đến mức độ chưa bao giờ tội phạm nhiều như ngày nay.

 

Ngày 03.01.2014 một phiên tòa lưu động có số bị cáo đông nhất Việt Nam từ trước đến nay đã diễn ra tại sân trại giam của công an tỉnh Quảng Ninh tổng cộng đến 89 bị cáo dính đến 4 đường dây mua-bán, vận chuyển trên 4,400 bánh heroin, phiên tòa dự tính kéo dài ba tuần lễ.

 

Theo báo Tiền Phong, phiên tòa nói trên cũng quy tụ số luật sư biện hộ đông nhất từ trước đến nay: 41 người.  An ninh phiên tòa lưu động được xiết chặt, vì người ta dự đoán có thể tới 66 bản án tử hình sẽ được tuyên án.

Án tử hình rất nhiều nhưng xem ra con người không ý thức về tội, không có lòng sám hối nên tội phạm vẫn gia tăng.  Ngay cả các tội nhân tại tòa cũng thường ít nói lời xin lỗi vì mình đã gây nên những đau khổ cho xã hội bởi hành vi bất chính của mình.  Thậm chí cả người nhà tội nhân còn bênh vực cho hành vi tội lỗi của con cái mình.

Mới đây trong một phiên tòa khi tòa tuyên án kẻ cầm đầu bọn cướp chuyên nghề chặt tay cướp xe thì tiếng la hét đanh đảnh của một người mẹ đã hét lên không chấp nhận sự thật ấy.  Bà quát to rằng: “Con tôi không giết người sao lại tử hình con tôi?”  Bà còn quay lại chỗ những người bị hại mà con bà chặt tay để cướp của nói rằng: “Biết con tao tử hình thì tao đã cho người giết chết chúng mày!”  Xen lẫn tiếng bà là tiếng người chị gái bảo rằng: “Ai bảo chúng này đi xe đẹp đeo nhẫn vàng làm gì?”

Hóa ra đi xe đẹp, đeo nhẫn vàng cũng có tội?  Có phải tình yêu thì chẳng cần quan tâm đến đạo đức.  Người ta nhân danh tình yêu để hại người, để vào hùa và bênh đỡ nhau như gia đình bị can “chặt tay cướp xe SH” chăng?

Là người đều có những lầm lỗi hay có những lần vấp ngã, điều quan yếu là biết nhận lỗi và đứng lên làm lại cuộc đời.  Không nhận ra sai lỗi.  Không cảm nhận sự vấp ngã.  Con người cũng mất ý thức về tội.  Con người càng mất lòng sám hối ăn năn.  Thực ra, nhân vô thập toàn.  Con người cần biết giới hạn của mình để sám hối từng ngày, để canh tân từng phút.  Có sám hối, có canh tân con người mới thăng tiến từ tinh thần đến vật chất.

Lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu không kêu gọi chống bất công hay đòi quyền lợi mà là kêu gọi sám hối canh tân.  Chúa kêu gọi con người phải sám hối vì cội rễ của bất công, của sa đọa, tội lỗi là con người mất ý thức về giá trị cuộc sống.  Con người không tuân theo luân thường đạo lý thì làm sao có một xã hội văn minh tình thương.  Con người cần phải sám hối để nhận ra những lỗi lầm của mình đã gây nên thiệt hại tinh thần lẫn vật chất cho tha nhân.  Chính hành vi tội lỗi mình đã làm cho sự dữ lan tran, xã hội loạn lạc lầm than.

Nhưng đáng tiếc nhân loại ngày hôm nay không ý thức việc mình làm đã gây nên đau khổ cho tha nhân.  Con người vẫn nhân danh tự do cá nhân để hành xử thiếu văn hóa, thiếu trách nhiệm với tha nhân.  Con người vẫn nhân danh hạnh phúc cá nhân để loại trừ hạnh phúc của tập thể, của xã hội.  Nếu ai cũng biết sống mình vì mọi người thì sẽ không có những vụ tham nhũng lớn như Dương Chí Dũng, Bầu Kiên hay Huyền Như…  Tất cả vì lợi ích cá nhân mà gây nên biết bao hậu quả tai hại cho xã hội và đất nước.

Ước gì là người Kitô hữu chúng ta hãy biết xét mình hằng ngày, hãy ăn năn từng giờ để đừng ngủ mê trong tội lỗi, nhưng biết thay đổi đời sống cho phù hợi với tin mừng.  Xin đừng vì quyền lợi cá nhân mà gây thiệt hại cho xã hội.  Xin đừng đề cao tự do cá nhân để làm mất trật tự cho xã hội và cộng đồng.  Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của bản thân để nhờ ơn Chúa mà canh tân đời sống mỗi ngày một tốt hơn.  Amen!

THIÊNG LIÊNG BÌNH THƯỜNG

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Ngòi bút thiêng liêng, Tom Stella, đã kể câu chuyện về ba tu sĩ cầu nguyện trong nhà nguyện tu viện.  Tu sĩ thứ nhất hình dung mình đang được các thiên thần đưa lên thiên đàng.  Tu sĩ thứ hai hình dung mình đã ở trên thiên đàng, cùng với thiên thần và các thánh hát ca chúc tụng Chúa.  Tu sĩ thứ ba không thể tập trung vào bất kỳ suy nghĩ thánh thiện nào, mà chỉ có thể nghĩ về chiếc bánh hamburger khổng lồ vừa ăn trước khi vào nhà nguyện.  Đêm đó, khi ma quỷ viết bản báo cáo trong ngày, hắn viết: “Hôm nay, ta cố gắng cám dỗ ba tu sĩ, nhưng chỉ thành công với hai người.”

Chiều sâu của câu chuyện này còn hơn những gì bạn thoáng thấy.  Tôi ước giá vài năm về trước tôi hiểu được cả vai trò của các thiên thần lẫn chiếc hamburger trong cuộc hành trình thiêng liêng của chúng ta.  Bạn thấy đó, đã nhiều năm qua, tôi chỉ xác định cuộc đi tìm con đường thiêng liêng bằng những suy tư, cầu nguyện, và hành động theo lòng đạo.  Nếu tôi ở trong nhà thờ là tôi hướng về sự thiêng liêng, còn nếu tôi ăn một bữa ngon với bạn bè, tôi chỉ đơn thuần là con người.  Nếu tôi cầu nguyện và có thể tập trung suy nghĩ và cảm nhận về một sự gì đó thánh thiện, thì tôi cảm thấy như mình đang cầu nguyện rất sốt sắng đạo hạnh.  Còn nếu như tôi bị phân tâm, mệt mỏi, hay quá buồn ngủ không thể tập trung được, thì hẳn giờ cầu nguyện của tôi chẳng ra gì.  Khi tôi làm đúng những chuyện đạo hạnh hay có những quyết định mang tính đạo đức rõ ràng, thì tôi thấy mình đạo hạnh, còn những chuyện khác với tôi chỉ đơn thuần là chuyện của con người.

Dù tôi không quá tiêu cực về những chuyện đời này, nhưng những chuyện tốt đẹp của tạo hóa (của sự sống, của gia đình và tình thân, của thân xác, của tính dục, của thức ăn thức uống) lại không bao giờ được xem là thiêng liêng, đạo hạnh.  Trong trí tôi, có một sự phân biệt rõ ràng giữa trời và đất, thiêng liêng và phàm tục, thần thiêng và con người, giữa linh thiêng và thế gian.  Điều này đặc biệt đúng với những khía cạnh trần thế hơn của cuộc đời, cụ thể là thức ăn thức uống, tình dục, và những thú vui thể xác.  Xét tốt nhất, đây là những thứ làm xao nhãng chuyện thiêng liêng, còn xét tệ nhất, chúng là những cám dỗ ngáng chân tôi, ngăn cản tôi trên đường thiêng liêng.

Nhưng, khi vấp chân đủ, cuối cùng chúng ta học được rằng: Tôi đã cố gắng sống như hai tu sĩ đầu, với tâm trí hướng về những sự thiêng liêng, nhưng tu sĩ thứ ba lại ngáng chân tôi.  Khi tôi ở trong nhà thờ hay lúc cầu nguyện đang tập trung tâm trí và tâm hồn hướng về những chuyện thiêng liêng, tôi lại không ngừng thấy mình bị công kích bởi những thứ mà tôi xem là chẳng liên quan gì đến nhà thờ, như nhớ lại những buổi hội hè với bạn bè, những lo lắng về mối quan hệ, lo lắng về những công việc còn dở dang, suy nghĩ về đội bóng yêu thích, nghĩ về những bữa ăn thịnh soạn, về thịt bò và rượu, mà ngoại đạo nhất là nghĩ về những khoái lạc tình dục dường như quá sức đối chọi với những gì là thiêng liêng.

Tôi phải mất nhiều năm và nhờ nhiều linh hướng để học được rằng nhiều căng thẳng này chính là xác nhận một sự hiểu biết nghèo nàn và sai lầm về sự thiêng liêng Kitô và về những động năng thực sự của cầu nguyện.

Hiểu biết sai lầm thứ nhất là hiểu nhầm về ý định và kế hoạch của Thiên Chúa trong chúng ta.  Thiên Chúa không dựng nên bản tính của chúng ta theo theo kiểu một đường thẳng băng, nghĩa là chúng ta mê nhục dục và quá bám rễ vào những sự đời này, rồi đòi chúng ta phải sống như thể không phải là xác phàm, như thể những chuyện tốt đẹp của đời này chỉ là giả mạo là chướng ngại cho ơn cứu độ, là chống lại việc dự phần vào ơn cứu độ.   Hơn nữa, sự nhập thể, mầu nhiệm Thiên Chúa thành xác phàm, dạy cho tôi rành rành rằng chúng ta tìm thấy ơn cứu độ không phải chỉ bằng cách thoát khỏi thân xác và những sự đời này, nhưng bằng cách đi vào chúng sao cho đúng đắn hơn và thâm sâu hơn.  Chúa Giêsu khẳng định thân xác sẽ sống lại, chứ không phải là linh hồn thoát ly.

Hiểu nhầm thứ hai là về các động năng của cầu nguyện.  Trong những giai đoạn ban đầu, cầu nguyện là tập trung vào những gì thiêng liêng, vào cuộc đối thoại với Chúa, vào việc cố gắng trong một khoảng thời gian, gạt qua một bên những sự thuộc đời này để đi vào vùng thiêng liêng.  Nhưng đây là giai đoạn đầu của cầu nguyện.  Đến tận cùng, khi cầu nguyện được đào sâu và trưởng thành, thì những chuyện tưởng như quan trọng bắt đầu diễn ra ẩn dưới vẻ bên ngoài, và ngồi trong nhà nguyện với Chúa không phải như ngồi lại với một ai đó mà bạn thường ngồi nói chuyện.  Nếu bạn gặp ai đó mỗi ngày, thì không phải ngày nào bạn cũng có những cuộc nói chuyện thâm sâu và hăng hái, hầu như bạn sẽ chỉ nói về những chuyện trong ngày, những bận tâm cho gia đình, thời tiết, thể thao, chính trị, những chương trình tivi mới nhất, và đủ thứ khác, và rồi thỉnh thoảng bạn còn nhìn đồng hồ nữa.  Mối liên hệ của chúng ta với Chúa cũng như thế.  Nếu bạn cầu nguyện đều đặn mỗi ngày, bạn không buộc phải dằn vặt về chuyện phải tập trung và giữ cuộc nói chuyện với Chúa chỉ hướng về những gì thâm sâu và thiêng liêng.  Bạn chỉ cần ở đó, thoải mái vì được ở với một người bạn.  Những điều thâm sâu diễn ra phía dưới bề mặt.

YOUTUBE CHỦ NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN

Lm La Thập Tự

https://www.youtube.com/watch? v=AK84WvdA4d4

Và bài Thánh ca của LM La Thập Tự dành cho những ca đoàn, các nhóm thích hát đáp ca và Alleluia.

THI CA CẦU NGUYỆN

Lm Việt Hùng

CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN. A

(Mt 4, 12-17)

 

ÁNH SÁNG

Chúa là ánh sáng tỏa lan,

Soi vào thế giới, đổ tràn yêu thương.

Con người tìm chốn tựa nương,

Trở về bên Chúa, lối đường bình an.

Gio-an khốn khổ gian nan,

Quan tòa bắt nộp, nhốt giam trong tù.

Rao truyền chân lý trùng tu,

Người đời ghét bỏ, gây thù oán gian.

Chúa đi trốn lánh thác oan,

Về miền duyên hải, kết đoàn ngoại dân.

Tối tăm bao phủ gian trần,

Trao ban ánh sáng, canh tân lòng người.

Xua trừ bóng tối trong đời,

Soi lòng người thế, gọi mời ăn năn.

Xét mình sám hối tự căn

Mở lòng hối cải, khuyên răn đổi đời.

Chúa Chiên cao trọng tuyệt vời,

Rao truyền chân lý, rạng khơi Nước Trời.

Hồng ân chan chứa tuyệt vời,

Vì yêu nhân loại, Ngôi Lời giáng sinh.

Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Ngài đến thế gian để đốt lên ngọn lửa yêu mến và muốn lửa đó được bùng cháy lên. Chúa đã mở ra một chân trời mới trong công trình cứu độ. Tiên tri Isaia xưa đã loan báo rằng dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng. Những người sống trong lầm than, nay thấy ánh sáng bừng lên chiếu soi cho toàn dân đang trong bóng tối sự chết.

Dân chúng đi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng. Con người ngày ngày đã chế ngự bóng đêm bằng các phương tiện khoa học. Nơi nào có con người, nơi đó văn minh tiến bộ đã len lỏi vào. Họ đã có ánh sáng, có điện và đèn soi sáng. Khi chúng ta có cơ hội ngồi trên máy bay nhìn xuống lúc ban đêm, chúng ta thấy có ánh sáng chập chờn khắp các đại lục. Ánh sáng là dấu hiệu có sự hiện hữu của con người trên trái đất.

Quan sát, chúng ta nhận thấy những nơi văn minh sáng sủa nhất đã dần bị lu mờ bởi sự lạm dụng của con người. Lòng người đổi thay, ánh sáng bên ngoài càng sáng, thì ánh sáng trong lòng lại bị lu mờ vì tội lỗi, gian tham và bạo tàn. Bóng đêm của ma qủi đã theo vào nơi ánh sáng để tiêu diệt con người. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy nơi nào càng văn minh, càng nhiều ánh sáng thì con người càng đi sâu vào bóng tối tội lỗi. Những thành phố lớn và những tỉnh lỵ giầu có thường là những nơi ăn chơi trụy lạc và tiêu xài hoang phí.

Chúa Kitô là ánh sáng đã đến thế gian, nhưng thế gian không muốn tiếp nhận ánh sáng. Chúa dọi chiếu ánh sáng vào tâm hồn khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa Tội. Ngài mong ước ngọn nến cháy mãi và dọi chiếu ánh sáng trong tối tăm. Đó chính là ánh sáng đức tin. Ánh sáng đức tin cần đặt trên giá cao để soi sáng dẫn chúng ta đi.

Có gia đình nọ mời linh mục đến làm phép nhà. Chủ nhà hướng dẫn linh mục đi rẩy nước thánh các phòng ốc trong nhà. Chỗ nào cha thấy cũng sạch sẽ và ngăn nắp. Nên chỗ nào cha cũng rẩy nước thánh. Sau khi làm phép mọi nơi xong, tới khu hầm kho, bà chủ nhà chần chừ không muốn bước xuống và bà nói: Dưới đó lộn xộn và dơ dáy lắm cha ơi. Cha trả lời: Càng lộn xộn, càng dơ dáy thì càng phải làm phép. Phải đem ánh sáng vào chỗ tối tăm chứ.

Chúa mời gọi chúng ta hãy bước ra khỏi đêm tối và đi giữa ban ngày. Bóng tối là nơi rình rập của ma qủi. Chúng ta là con cái sự sáng, hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa Kitô.

THỨ HAI, TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN

(Mc 3, 22-30).

TRỪ QUỶ

Cạnh tranh Luật Sĩ tà ngôn,

Phê bình chỉ trích, tiếng đồn vang xa.

Chúa dùng quyền phép xua tà,

Nhiều người chứng kiến, ngợi ca tuyệt vời.

Luật sư ngược ngạo đôi lời,

Quỷ Bel-giê-bút, ám đời ông kia.

Chúa truyền ra lệnh phải lìa,

Qủi ma xuất khỏi, rẽ chia tan đàn.

Uy quyền phép lạ phá tan,

Đuổi ma xua quỉ, ban tràn ân thiêng.

Giê-su nhân ái dịu hiền,

Thân tâm chữa trị, thiêng liêng phần hồn.

Chớ đừng phạm thượng lộng ngôn,

Thánh Thần Thiên Chúa, túi khôn vũ hoàn.

Cầu xin thứ lỗi bất toàn,

Sấp mình thờ phượng, khôn ngoan sống đời.

THỨ BA, TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN

(Mc 3, 31-35).

MẸ THẦY

Thân nhân thăm viếng gặp Thầy,

Bà con lối xóm, Mẹ thầy cũng qua.

Sai người nhắn gởi Chúa ra,

Đôi người kháo láo, các bà đợi trông.

Chúa nhìn vào giữa đám đông,

Thực hành thánh ý, hợp thông gia đình.

Anh em với mẹ kết tình,

Ai mà nghe Chúa, trổ sinh phúc lành.

Gia đình mở rộng thành danh,

Kết đoàn dân Chúa, thực hành ý Cha.

Tình thương chan chứa bao la,

Thành phần thân thể, Chúa là đầu tiên.

Dẫn đường hướng tới cõi thiên,

Ban muôn phúc lộc, người hiền kẻ ngay.

Gia đình Giáo Hội hôm nay,

Bao người tín hữu, cơ may dự phần.

THỨ TƯ, TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN

(Mc 4, 1-20).

GIEO GIỐNG

Dụ ngôn gieo giống Nước Trời,

Người gieo hạt giống, giữa nơi cánh đồng.

Vệ đường rơi hạt uổng công,

Chim trời tha mất, còn trông mong gì.

Hạt rơi đất sỏi đường đi,

Mặt trời thiêu cháy, có chi trông chờ.

Bụi gai rơi hạt bên bờ,

Um tùm chết ngạt, vật vờ héo khô.

Hạt gieo đất tốt bên hồ,

Phì nhiêu mầu mỡ, nước vô nẩy mầm.

Sinh hoa kết qủa âm thầm,

Trĩu cây nặng hạt, đầy mâm trái vàng.

Truyền rao Lời Chúa xóm làng,

Thành tâm đón nhận, sinh ngàn hạt châu.

Lòng thanh tâm sạch ruộng dâu,

Sinh xôi nẩy nở, muôn mầu tốt tươi.

THỨ NĂM, TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN

(Mc 4, 21-25).

ÁNH SÁNG

Thắp đèn trên giá bục cao,

Soi chung khắp chốn, dạt dào thấu xuyên,

Ánh đèn chiếu tỏa tinh tuyền,

Rạng soi muôn lối, lời khuyên mỗi ngày.

Chẳng gì dấu kín hôm nay,

Mai sau rạng sáng, làm lay lòng người.

Đong đầy đấu ấy vui cười,

Đong qua đong lại, gấp mười gấp trăm.

Lắng nghe lời Chúa chuyên chăm,

Phát sinh ân lộc, ngàn năm phúc lành.

Giầu sang phú quí công thành,

Gia tài đã có, Chúa dành thêm cho.

Rộng tay ban phát tự do,

Càng cho càng có, đừng lo thiếu gì.

Sống đời keo kiệt làm chi,

Đại tâm rộng lượng, từ bi với người.

THỨ SÁU, TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN

(Mc 4, 26-34).

HẠT GIỐNG

Nước Trời ví tựa hạt gieo,

Ngủ đêm hay thức, mầm neo đất mềm.

Nở chồi sinh lá nhiều thêm,

Sinh hoa kết qủa, cả đêm lẫn ngày.

Hạt mầm bé nhỏ hôm nay,

Ngày mai gieo xuống, ai hay biết gì.

Đâm bông kết hạt đúng thì,

Nhà nông chăm chỉ, cũng tùy nhân duyên.

Quan phòng Tạo Hóa căn nguyên,

Môi trường phát triển, lưu truyền giống theo.

Nước Trời hạt cải bé teo,

Môn đồ nhóm nhỏ, đói nghèo khó khăn.

Dẫu rằng bắt bớ cản ngăn,

Chứng nhân sự thật, rạng danh cõi đời.

Cánh đồng truyền giáo khắp nơi,

Mở mang đạo giáo, gọi mời dấn thân.

THỨ BẢY, TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN

(Mc 4, 35-40).

SÓNG BIỂN

Biển hồ sóng vỗ mênh mang,

Thuyền con rời chỗ, ghé sang bến này.

Đêm đen bão nổi cuốn quay,

Tông đồ gắng sức, loay hoay chống chèo.

Bập bềnh sóng nước ngập theo,

Thưa Thầy thức dậy, thả neo cứu người.

Chúa còn say ngủ nghỉ ngơi,

Mấy người ngư phủ, ngỏ lời xin thương.

Giê-su quyền phép tỏ tường,

Biển im gió lặng, mở đường tin yêu.

Quyền năng tuyệt đối cao siêu,

Vũ hoàn vâng lệnh, mọi điều phán ra.

Môn đồ kinh hãi kêu la,

Lạy Thầy cao trọng, ngợi ca danh Ngài.

Đức tin yếu kém van nài,

Xin Thầy củng cố, miệt mài vững tâm.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York.

BÌNH MINH CỦA MỘT THỜI ÐẠI MỚI: NƯỚC TRỜI ÐÃ ÐẾN GẦN

Lm Carolo Hồ Bạc Xái

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Các kitô hữu đầu tiên đã cảm thấy rất hạnh phúc vì được gia nhập gia đình Giáo Hội. Mỗi ngày Chúa nhựt, họ họp nhau lại trong tâm tình kính mến Chúa và yêu thương nhau. Gương đoàn kết yêu thương của họ đã thu hút thêm rất nhiều người xin gia nhập Giáo Hội.

Hôm nay, chúng ta cũng họp nhau lại như cộng đoàn kitô hữu đầu tiên ấy. Nhưng có lẽ chúng ta không cảm thấy hạnh phúc bằng họ, vì chúng ta không mến Chúa bằng họ, không thương nhau bằng họ. Xin Ðức Giêsu, Ðấng đã tập họp chúng ta, ban thêm tình yêu trong lòng chúng ta.

Ðặc biệt tuần này là tuần lễ Giáo Hội cầu nguyện cho sự hợp nhất các kitô hữu. Chúng ta tha thiết nài xin Chúa cho những người cùng tin một Chúa Kitô biết đoàn kết yêu thương nhau hơn.

II. GỢI Ý SÁM HỐI

-Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ vì những chia rẽ, đố kị, ganh ghét trong cộng đoàn họ đạo chúng ta.

-Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ vì cuộc sống của chúng ta chưa thực sự là ánh sáng trước mặt muôn dân.

-Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ vì chưa quan tâm mang ánh sáng Tin Mừng đến cho lương dân.

III. LỜI CHÚA

1. Bài đọc 1: Is 8,23–9,3

Bối cảnh lịch sử: năm 721, đế quốc Assyria chiếm miền Bắc xứ Palestina (vương quốc Israel, về sau được gọi là miền Galilê, trong đoạn Tin Mừng này nó được gọi là “đất Dabulon và Néptali”). Assyria bắt thành phần ưu tú của xứ này đi lưu đày và đem nhiều dân ngoại từ các xứ khác đến lập cư ở xứ này, vì thế Galilê lại được gọi là vùng đất của lương dân, là vùng đất tối tăm.

Nhưng ngôn sứ Isaia đã tiên báo rằng sẽ tới ngày Ánh sáng sẽ bừng lên ở miền đất đó, và đám dân lầm than trong bóng tối ấy sẽ được ánh sáng chiếu rọi.

2. Ðáp ca: Tv 26

Ý chính của Tv này là ánh sáng hy vọng loé lên từ cảnh khốn cùng: cho dù khốn khổ có nặng nề đến đâu, thử thách có khắc nghiệt thế nào, thì vẫn có một điều chắc chắn, đó là: Thiên Chúa vẫn là ánh sáng và ơn cứu độ. Ðó chính là niềm hy vọng của mọi tín hữu khiến họ luôn đứng vững: “Chúa là nguồn ánh sáng và Ðấng cứu độ tôi. Tôi sợ gì ai nữa”.

3. Tin Mừng: Mt 4,12-23

Ðoạn Tin Mừng này đánh dấu kết thúc sứ mạng của Gioan Tẩy giả và bắt đầu sứ mạng của Ðức Giêsu. Ðức Giêsu bắt đầu sứ mạng tại Galilê, một miền đất vốn được coi là tối tăm, là đất của lương dân. Chính tại miền đất này, Ðức Giêsu tuyên bố “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Như thế, Ðức Giêsu thực hiện lời tiên tri của Isaia.

Ðức Giêsu cũng kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên (Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan) để cùng Ngài rao giảng Tin Mừng Nước Trời.

4. Bài Thánh Thư: 1 Cr 1,10-13.17

Sau khi mở đầu bức thư bằng những lời chào hỏi (đoạn được trích đọc Chúa nhựt trước), Phaolô đi ngay vào tệ nạn thứ nhất của tín hữu Côrintô là sự chia rẽ nhau.

-Tín hữu Côrintô đã chia ra thành 4 nhóm, mỗi nhóm dựa vào một thừa sai và chống lại các nhóm kia: nhóm theo Phaolô, nhóm theo Apollô, nhóm theo Phêrô (Kêpha) và nhóm theo Ðức Kitô.

-Phaolô lập luận để cho thấy việc chia bè phái như thế là sai: tất cả đều thuộc về Ðức Kitô, mà Ðức Kitô không thể bị chia năm xẻ bảy như thế. Và Phaolô kêu gọi họ hãy hòa thuận, một lòng một ý với nhau.

IV. GỢI Ý GIẢNG

1. Cuộc phiêu lưu vĩ đại từ một vùng đất bị khinh khi

Ðối với dân thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ. Ðối với người mộ đạo sùng tín, miền Bắc thật đáng ngờ vực. Ðó là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày…

Trong khi những tín đồ chính thống ở kinh đô nghiền ngẫm sự khinh khi, chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc, thì Ðức Messia, Cứu Chúa, Ánh Sáng muôn dân, tới cư ngụ tại Capharnaum, bên bờ hồ. Xa khỏi kinh đô vĩnh hằng, khỏi thói ngạo mạn, tự tôn, và sự mù quáng của họ…

Chính trên bờ hồ chứ không phải trên các bậc cấp của đền thờ, giữa đám ngư phủ bận rộn chứ không phải nơi những vị tư tế chuyên lo phụng tự mà Ðức Giêsu sẽ chọn các môn đệ của Người. Ðúng là một nước cờ ngược lại mọi logic.

Chính những người ít khả năng nhất, ít được chuẩn bị nhất lại là những người đầu tiên nhận được ánh sáng và đi theo Ðấng là “đường, sự thật và sự sống”.

Ngay tức khắc, thành phần lao động đơn sơ chất phác nhưng có trái tim nhạy bén đã tin tưởng vào ngôn sứ… Những người tội lỗi bỗng nhiên bị chất vấn, đã cảm thấy ánh sáng mà ngay những kẻ rắc rối khó tính nhất cũng phải nhượng bộ… và họ đã đi theo Người.

Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần, của Thiên Chúa… (F. Delectos, được trích bởi Fiches dominicales, trang 169-170).

2. Con đường sáng

Cuộc đời chúng ta đầy dẫy bóng tối:

-tối tăm về sự thật: cho dù có nhiều phương tiện truyền thông, Nhưng khó mà biết sự thật.

-tối tăm về tương giao: ngay cả những người sống cạnh nhau cũng chưa hiểu nhau.

-tối tăm do tội lỗi, do mù quáng, do cố chấp hẹp hòi…

-tối tăm do hoàn cảnh bên ngoài nhiều bất công, gian dối, thù hận…

Trong khung cảnh tối tăm ấy, chúng ta hãy nhớ những lời của Ðức Giêsu: “Ta là ánh sáng thế gian” (Ga 9,12); “Hãy tin vào ánh sáng và các ngươi sẽ trở thành con cái sự sáng” (Ga 12,36).

Nhưng tin vào ánh sáng là gì? Là tin vào mặc khải của Ðức Giêsu, cũng như 4 môn đệ đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ đã nghe tiếng gọi của Ngài, đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài. Ngài sẽ giải đáp cho tất cả những băn khoăn thắc mắc của chúng ta; Ngài sẽ cho ta biết ý nghĩa cuộc đời ta là gì; Ngài cho chúng ta biết chúng ta có một người Cha trên trời hết lòng yêu thương chúng ta; Ngài sẽ dạy cho chúng ta biết sống yêu thương như thế nào; và cuối cùng Ngài sẽ dẫn chúng ta về nhà Cha trên trời.

3. Sự hiệp nhất các kitô hữu

Chúa nhựt hôm nay nằm trong tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các kitô hữu. Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay cung cấp nhiều chất liệu cho chúng ta suy nghĩ về sự hiệp nhất này:

-Bài đọc 1: Ðức Giêsu là ánh sáng bừng lên giữa thế gian. Ngài muốn soi sáng tất cả mọi người, kể cả các anh em ly khai, những người lạc giáo, những người lương và những người vô thần…

-Bài đọc 2: Ðức Giêsu đã chịu chết vì mọi người và cho mọi người. Nếu các kitô hữu chia rẽ nhau thì chẳng khác gì Ðức Giêsu bị chia năm xẻ bảy sao!

-Bài đáp ca: “Ðiều tôi tìm kiếm khấn xin, là luôn được ở trong nhà Chúa tôi”. Tại sao những anh em cùng tin Ðức Kitô lại không sống hòa thuận với nhau trong cùng một ngôi nhà của Chúa?

-Bài Tin Mừng: “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Tất cả mọi người, dù là công giáo hay tin lành, chính thống v.v. đều phải sám hối về những tội lỗi của mình để có thể được vào Nước Chúa.

4. Chuyện minh họa

“Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng”

a/ Làm phép nhà

Một bà kia mời linh mục đến làm phép nhà mình. Bà hướng dẫn cha đi rảy nước thánh mọi nơi trong nhà: phòng khách, phòng ngủ, nhà bếp, phòng ăn… Cha thấy chỗ nào cũng sạch sẽ và ngăn nắp. Cho nên chỗ nào cha cũng rảy nước thánh, kể cả cầu thang. Ngay cả hai con mèo đang nằm ngủ trên một bậc thang cũng được cha rảy nước thánh, khiến nó giật mình thức dậy kêu meo meo và chạy vội đi nơi khác, và mọi người hiện diện phải phì cười.

Sau khi làm phép xong mọi nơi ở nhà trên thì đến hầm kho. Bà chủ nhà chần chừ không muốn dẫn cha xuống. Vị Linh mục hỏi:

– Sao thế?

– Dưới đó dơ lắm.

– Càng dơ thì càng phải làm phép chứ.

– Nhưng nó lộn xộn lắm.

– Càng lộn xộn càng phải làm phép.

– Và nó tối tăm lắm.

– Cho nên phải mang ánh sáng đến cho nó.

Lời bàn: Con người chúng ta cũng giống như một gian nhà. Những nơi mình muốn che giấu nhất chính là những nơi tối tăm xấu xa nhất. Nhưng đó cũng là những nơi cần mang ánh sáng tới nhất.

b/ Mang ánh sáng đến chỗ tối tăm

Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến Melbourne, Australia. Mẹ đi thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng rất tồi tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ mà cũng chẳng có lấy một bóng đèn.

Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc. Ông gắt lên: “Cứ để yên mọi thứ cho tôi”. Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp, Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng. Ðèn bám đầy bụi, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ rồi hỏi:

– Sao lâu nay ông không thắp đèn lên?

– Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi đâu. Tôi đâu cần thấy mặt ai.

– Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi một nữ tu của tôi đến thăm ông không?

– Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến thì tôi sẽ thắp đèn lên.

Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ Têrêxa đều đến thăm ông và giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy:

– Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng tôi rồi. Nhưng xin làm ơn về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp lên đến nay vẫn sáng.

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

CT: Anh chị em thân mến

Ðức Giêsu là ánh sáng trần gian. Ai theo Người sẽ không phải đi trong bòng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống. Với quyết tâm sống như con cái sự sáng, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.

  1. Ðức Kitô đã dùng các tông đồ làm nền móng xây dựng Hội Thánh / và đã làm cho Hội Thánh lan rộng khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các giám mục / linh mục / phó tế / biết chu toàn sứ mạng Chúa trao cho / là nhiệt thành và khôn ngoan lãnh đạo dân Chúa.
  2. Từ hai ngàn năm nay / có biết bao kitô hữu đã nhiệt tình đáp lại lời mời gọi của Ðức Kitô / hăng say rao giảng Tin Mừng cứu độ / xả thân phục vụ những kẻ bần cùng đói rách / cũng như những người bất hạnh nhất trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em ấy / luôn giữ được niềm phấn khởi lúc ban đầu.
  3. Chúa Giêsu kêu gọi / “Anh em phải sám hối vì Triều đại Thiên Chúa đã đến gần” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu hiểu rằng / sám hối là việc phải làm thường xuyên suốt cả cuộc đời / nếu muốn được hiệp thông với Thiên Chúa / vì mang lấy thân phận con cháu Ađam / con người rất dễ phạm tội mà khó làm việc lành.
  4. Thánh Phaolô viết / “Anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói / và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em / nhưng hãy sống hòa thuận / một lòng một ý với nhau” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn cố gắng thực hiện trọn vẹn lời khuyên tha thiết của Thánh Phaolô tông đồ.

CT: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã gọi chúng con làm môn đệ Chúa. Xin ban ơn giúp chúng con luôn sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa. Chúng con cầu xin&

VI. TRONG THÁNH LỄ

– Kinh Tiền Tụng: Nên dùng Kinh Tiền Tụng Chúa nhựt thường niên I, vì có nói tới Giáo Hội, Nước Trời ở trần gian.

– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy đọc kinh Lạy Cha trong tâm tình hiệp nhất với Ðức Giêsu và với tất cả những kitô hữu khác cùng một niềm tin vào Ngài.

VII. GIẢI TÁN

Anh chị em đã được ánh sáng Ðức Giêsu soi sáng, anh chị em hãy cố gắng sống như con cái sự sáng, và cùng Ðức Giêsu xây dựng Nước Thiên Chúa ở trần gian này.

CHÚA CHỌN GALILE

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Nhật 3 Thường niên A

Chúa chọn Galilê

1. Địa lý miền đất Palestina

Địa dư Palestine có ranh giới: – Đông giáp sa mạc Syria và Ả rập. – Tây giáp Địa Trung Hải. – Bắc giới hạn từ thung lũng núi Liban chạy đến núi Hermon. – Nam giáp ranh Iđumê, miền đất hoang vu Bersabê và Biển Chết. Cựu ước thường dùng kiểu nói “từ Đan đến Bersabê” để chỉ miền đất Do thái cư ngụ. Chiều dài từ chân núi Liban tới Bersabê là 230 km; chiều rộng từ Địa Trung Hải đến sông Giođan là 37-150 km. Diện tích phía tây Giođan là 15.643 km2, phía Đông (Transjordanie) là 9482 km2. Tổng cộng là 25.124km2. Palestina thời Chúa Giêsu chia làm bốn miền: – Galilêa có thành Capharnaum, Nazareth. – Samaria nằm giữa xứ Palestina với những con đường nối liền Nam-Bắc. – Giuđêa là miền núi có thủ đô Giêrusalem và Pêrêa bên kia sông Giođan. – Phía Bắc là miền Decapolis nơi dân cư phần nhiều thuộc văn hóa Hylạp. Palestina có địa lý đặc biệt: Thung lũng Giođan chia Palestina làm hai miền: Palestina và Transjordanie. Thung lũng này là hiện tượng địa lý duy nhất trên địa cầu: bắt đầu từ núi Taurus, ngang qua Celesyria, đến Palestina, rồi tiếp tục theo phía Đông bán đảo Sinai tới Biển Đỏ. Phía Bắc (thành Đan) cao hơn Địa trung hải 550m; càng về phía Nam càng thấp xuống. Tibêriade thấp hơn Địa trung hải 208m; tới Biển Chết mực nước thấp hơn 392m. Sông Giođan phát nguồn từ núi Hermôn, chạy qua hồ El-Hule (dài 6000m, sâu từ 3-5 m), rồi qua hồ Tibêriade, đổ vào Biển chết. Hồ Tibêriađê (gọi là Giênêzarét) dài 21km, rộng 12 km, sâu 45m, nước trong xanh và nhiều cá. Biển chết dài 85 km, rộng 16km, nước biển nhiều độ mặn nên không vật nào có thể sống được. Miền Duyên hải từ núi Libanô đến núi Camêlô, rộng từ 2-6km. Từ núi Camêlô đến Gaza phía Nam, bờ biển rộng đều và thẳng với các hải cảng Akko, Haifa và Jaffa (Joppé). Giữa Haifa và Jaffa, vua Hêrôđê xây thêm hải cảng Cêsarêa. Từ núi Camêlô đến Jaffa là bình nguyên Sharon phì nhiêu. Từ Jaffa xuống phía nam là bình nguyên Sêphêla thuộc xứ Pelistin (danh xưng Palestina xuất phát từ chữ này). Bình nguyên Esdrelon từ phía Bắc núi Camêlô chạy theo hướng Đông Nam, chia phần đất phía Tây sông Giođan làm hai phần: Galilê phía Bắc, Samaria và Giuđêa phía Nam. Miền Galilê: phía bắc nhiều núi, nam là bình nguyên Esdrelon, miền duyên hải là đồng bằng, giữa là đối núi thấp dần về phía sông Giođan. Bên kia sông Giođan(Transjordanie)là miền đồi núi, chia làm 3 phần: – Trachonitide thuộc Đông-Bắc hồ Tiberiade. – Miền Thập tỉnh phía đông-nam hồ. – Pêrêa thuộc phía đông sông Giođan và Biển chết, đối diện với Samaria và Giuđêa. Người Do thái không chiếm cứ hoàn toàn miền bên kia sông Giođan. Trước thời kỳ Hy hóa, đã xuất hiện tại mạn Bắc nhiều bộ lạc Aram. Thời Hy hóa, từ sau cuộc chinh phục của Alexandre đại đế, nhiều người Hy lạp đến đây cư ngụ. Thời Đức Giêsu, họ lập thành miền Thập tỉnh, có khoảng 10 thành liên minh với nhau. Các thành nổi tiếng hơn cả là Damascô, Hippos, Gadara, Gerasa, Pella, Philadelphia. Thủ đô Giêrusalem là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của Dân tộc Do thái. Hàng năm, khắp mọi miền đất nước người ta đổ về Giêrusalem để dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo, có dinh của Thầy Cả Thượng phẩm, có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Dân chúng ở Giuđê coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người Samari là dân ngoại vì dân Samari xây cất đền thờ trên núi Garizim. Dân Giuđê không bao giờ đi lại tiếp xúc với dân Samari. Họ cũng khinh miệt dân Galiê vì đó là nơi pha tạp mọi sắc dân là đất của dân ngoại. Giuđê là vùng có đạo toàn tòng, là trung tâm của đạo Do Thái, còn Galilê là miền giáp ranh giữa ranh vùng có đạo và vùng ngoại đạo. Quả thực đây là vùng xôi đậu. Về mặt chính trị, vùng này chịu ảnh hưởng ngoại bang thật sâu đậm. Về mặt chủng tộc, ở đây người Do Thái sống lẫn lộn giữa dân ngoại. Về mặt tôn giáo, Galilê thua xa Giuđê, bị coi là ở bên lề của cộng đồng dân Chúa. Đối với dân thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ, nhà quê. Đối với người mộ đạo sùng tín, miền Bắc thật đáng ngờ vực. Đó là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày…

2. Chúa chọn Galilê

Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu không chọn rao giảng ở Giêrusalem mà chọn Galilê. Galilê không rộng lắm, từ bắc chí nam dài khoảng 60 cây số, dân cư sống đông đúc. Đất hẹp người đông. Thời Josephus làm tổng trấn, ông đếm được 294 làng, mỗi làng không dưới 15.000 dân. Galilê không những là khu đông dân cư nhưng dân ở đó cũng có một cá tính đặc biệt. Galilê sẵn sàng mở cửa đón những ý niệm mới. Josephus nói về dân Galilê như sau: “Bao giờ họ cũng thích cải cách, bản tính họ thích thay đổi và thích bạo động. Họ luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và phát khởi một cuộc nổi dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích cãi vã. Tuy nhiên, họ cũng là những người hào hùng nhất”. Đặc tính bẩm sinh của người Galilê giúp việc truyền giáo cho họ rất thuận lợi. Thái độ cởi mở đón nhận những tư tưởng mới cũng góp phần cho việc truyền giáo trở nên dễ dàng. Có lẽ vì những yếu tố này mà Chúa Giêsu chọn Galilê làm trung tâm truyền giáo. Những tín đồ chính thống ở kinh đô chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc. Chúa Giêsu rao giảng tại Galilê, xa thói ngạo mạn, tính tự tôn và sự mù quáng của dân thành đô. Chúa chọn Galilê vì ở đây mọi người biết chấp nhận nhau chung sống hòa bình. Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi các Tông đồ, tuyên bố Luật mới. Các Tin mừng Nhất Lãm đã kết thúc thời kỳ đầu rao giảng tại Galilê của Chúa Giêsu bằng lời tuyên xưng của Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16). Sự chọn lựa miền đất Galilê có một ý nghĩa quan trọng theo Tin mừng Matthêu. Để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: “Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. Matthêu khi trích dẫn Isaia, có ý nói rằng Chúa Giêsu vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha; Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to lớn và kỳ diệu được đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Chúa Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người. Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần. Chúa Giêsu là ánh sáng bừng lên giữa thế gian. Ngài muốn soi sáng tất cả mọi người, kể cả các anh em ly khai, những người lạc giáo, những lương dân và những người vô thần.

3. Chúa Giêsu chọn các môn đệ đầu tiên ở Galilê.

Bài Phúc âm Chúa Nhật hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bốn môn đệ đầu tiên ở biển hồ Galilê. Chúa Giêsu đã gọi và chọn các tông đồ là những người chài lưới tầm thường. Đáng lý Chúa phải chọn những người ưu tú trong đám trí thức và được coi là đàng hoàng ở Giuđê mới phải. Tại sao Chúa lại chọn những người làm nghề chài lưới? Phải chăng Người ngụ ý dạy các môn đệ phải luôn luôn sẵn sàng rời bỏ đất liền và thế giới riêng của mình, nghĩa là rời bỏ cái khung cảnh an toàn và đóng kín của mình để ra khơi, giữa đại dương mênh mông vô bờ bến và đầy gian nguy, tức là đến với thế giới rộng lớn và xa lạ để cứu vớt thế giới? Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ không phải trong khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm linh… Nhưng ở giữa đời sống thường ngày của họ, trong lúc họ đang làm công việc nghề nghiệp. Các môn đệ ngư phủ tuy là những người ít học, không giàu có, không địa vị, nhưng đối với Chúa, họ có đủ tố chất cần thiết để trở nên những người cộng sự của Người. Chẳng hạn, sự kiên trì khi thả lưới giúp họ biết nhẫn nại chờ đợi; sự hòa đồng giúp họ chấp nhận nhau và làm việc chung; sự can đảm trước sóng gió giúp họ đối diện với nghịch cảnh; khả năng nhận ra khi nào và chỗ nào nên thả lưới sẽ giúp họ khám phá những vùng truyền giáo màu mỡ. Cuộc gặp gỡ này đã làm thay đổi số phận của những con người lênh đênh trên biển hồ ngày trước. Cuộc gặp gỡ này là khởi đầu cho công cuộc thay đổi thế giới. Cuộc gặp gỡ làm nên những huyền diệu trong lịch sử nhân loại. Các ngài gặp gỡ và bước theo Chúa để học nơi Chúa. Họ nhận ra rằng: Chúa Giêsu, Thầy Dạy của các bậc thầy, không những chỉ dạy Lời Chúa nhưng chính Người là Lời Chúa. Người không những chỉ dạy cho cách sống mới mà chính Người là Sự Sống. Người không những chỉ cho biết ý nghĩa của “Đường sự Sống”, mà chính Người là Đường Sự Sống, là Ánh Sáng. Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ. Các ngài đáp trả chân tình. Các ngài được sống thân mật với Chúa. Các ngài ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa. Đó là hành trình ơn gọi của các Tông Đồ. Đó cũng là hành trình ơn gọi của mỗi Kitô hữu.

4. Chúa Giêsu đi về vùng ngoại biên.

Galilê là vùng ngoại biên xa trung tâm Giêrusalem. Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi các Tông đồ, tuyên bố Luật mới. Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình làm nghề mộc, thuộc dạng nghèo.Như vậy, Người mang thân phận kẻ nghèo để chia sẻ với thế giới những người ngoại biên.Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người ưu tiên để ý đến những người nghèo, người người tội lỗi và những người cùng khổ. Người áp dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói:“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,17-20). Người cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).Người muốn dạy cho mọi người thấy: Trước mặt Chúa không có vấn đề ưu đãi cho trung tâm và bỏ quên hoặc loại trừ những ngoại biên. Người nói rõ ràng với người phụ nữ ngoại giáo xứ Samaria: “Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,21-24).Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi những người ngoại biên, Người đến với họ, Người chia sẻ những nỗi đau của họ, Người được kể như người ngoại biên. Người cho họ thấy Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người.Người hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá, mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Người muốn các môn đệ hãy theo gương Người, đem Tin Mừng đến cho người nghèo khổ như vậy. Hiện nay, Mẹ Têrêxa Calcutta đang được đề cao như một gương mẫu rao giảng Tin Mừng cho người ngoại biên. Mẹ không làm việc gì khác ngoài đi theo đường lối mà Chúa Giêsu đã đi trước. Điều đáng ngợi khen nhất nơi Mẹ là làm chứ không chỉ nói. (x.Tin Mừng cho người ngoại biên, ĐGM Bùi Tuần). Thời nay, nói theo ngôn ngữ của Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, những biên cương mới mà Giáo Hội đang quan tâm không chỉ trên phương diện địa lý nhưng còn là những con người. Chúng không chỉ có nghĩa là mới, nhưng còn có nghĩa là bị lãng quên, bị bỏ rơi, chưa đụng chạm đến. Các biên cương cần quan tâm chính là sự cộng tác của mọi thành phần trong giáo xứ, là mục vụ hôn nhân gia đình, mục vụ sau khi kết hôn, chăm sóc và bảo vệ thai nhi, mục vụ bác ái truyền giáo, mục vụ truyền thông và mục vụ di dân. Chúa đến với những biên cương mới dẫu cho khó khăn hay thập giá.Truyền giáo ngày nay trong thế giới nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng không nhắm trước tiên hay chủ yếu vào việc “chinh phục các linh hồn” cho Chúa càng nhiều càng tốt, (chúng ta không chạy theo số lượng) nhưng đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần vào con người và vào mọi thực tại nhân sinh. Vì thế, để thi hành sứ mạng cao cả đó, chúng ta không nhất thiết phải đi tới một vùng địa lý nào khác, mà lấy chính môi trường sống của mình làm “vùng đất ngoại bang”, và noi gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chúng ta hãy coi các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là những vùng giáp ranh, những vùng biên giới mà Chúa sai chúng ta đến. Cảm nghiệm sâu xa bước chân Chúa Giêsu đi về vùng ngoại biên. ĐTC Phanxicô viết: “Tôi thích một Giáo Hội bị bầm dập, bị thương tích và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, hơn là một Giáo Hội yếu nhược vì tự giam mình và bám víu vào sự an toàn riêng của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội quan tâm đến việc được ở vị thế trung tâm và rồi rốt cuộc bị vướng mắc vào một mạng lưới của những nỗi ám ảnh và thủ tục.” (EG 49).

THEO CHÂN CHÚA

Lm. Anthony Trung Thành

Suy Niệm Chúa Nhật III Thường Niên – Năm A

Chúng ta có thể chia đoạn Tin mừng Chúa Nhật hôm nay thành hai phần: Phần thứ nhất, Đức Giêsu kêu gọi mọi người hãy sám hối; phần thứ hai Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên.

1. Hãy sám hối

Sám hối là đề tài xuyên suốt lịch sử cứu độ từ thời Cựu Ước sang thời Tân Ước và có lẽ được tiếp tục mãi cho đến Tận Thế. Thật vậy, các ngôn sứ luôn kêu gọi con người sám hối. Thánh Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng bằng việc kêu gọi con người sám hối và lãnh nhận phép rửa thống hối. Và hôm nay, Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng Cứu thế của mình cũng bằng việc rao giảng sự sám hối: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 4.17). Lời rao giảng mời gọi mọi người sám hối vẫn được tiếp tục nơi các Tông đồ và nơi Giáo Hội mãi cho đến Tận thế.

Tại sao sám hối lại quan trọng như vậy?

Vì tội lỗi gắn liền với con người. Khi có tội thì cần phải có lòng sám hối. Sám hối để làm hòa với anh chị em mình và đặc biệt để lãnh nhận ơn tha thứ từ Thiên Chúa.

Một trong những điều kiện cần thiết để lãnh nhận Bí tích Giao Hòa nên, đó là hối nhân cần phải có lòng sám hối. Vì thế, người xưng tội mà không có lòng sám hối thì không được tha tội. Giáo lý phân biệt hai loại sám hối: sám hối cách trọn là ghét tội vì lòng mến Chúa; sám hối cách chẳng trọn là ghét tội vì sợ sa Hỏa ngục.

Sám hối đi liền với việc thay đổi đời sống: Sau khi xưng tội, tùy vào những tội hối nhân đã phạm, cha giải tội ra việc đền tội cho cân xứng.

Chẳng hạn, nếu hối nhân thường xuyên bỏ lễ Chúa Nhật, cha giải tội khuyên hối nhân cố gắng sắp xếp thời gian để tham dự thánh lễ Chúa Nhật đầy đủ.

Nếu hối nhân thường xuyên bỏ đọc kinh cầu nguyện, cha giải tội khuyên siêng năng đọc kinh cầu nguyện.

Nếu hối nhân xưng tội hay trộm cắp gian lận, tham ô thạm nhũng, lỗi đức công bằng…cha giải tội sẽ khuyên hối nhân biết đền trả cân xứng và quyết tâm sống thật thà.

Nếu hối nhân thường xuyên gây chia rẽ bất đồng, cha giải tội khuyên xây dựng tình đoàn kết, hiệp nhất như khi Thánh Phaolô nghe tin có sự chia rẽ trong cộng đoàn Côrintô, Ngài nói rằng: “Tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau.” (1Cr 1, 10).

Nếu hối nhân thường xuyên phạm tội nói xấu nói hành, cha giải tội sẽ khuyên tránh nói xấu nói hành, ngược lại biết nghĩ tốt, nói tốt cho nhau.

Câu chuyện của cha thánh Philiphê Nêri sau đây cho chúng ta thấy ý nghĩa của việc đền tội xứng với tội mình đã phạm.

Một bà xồn xồn hay đến xưng tội với cha, linh mục vui tính. Tội mà bà hay phạm là nói hành nói xấu thiên hạ. Cha ra một việc nhân đức để bà cải thiện cái thói không tốt ấy. Cha nói với bà: “Ngày mai bà ra chợ mua một con gà. Rồi đưa về đây tôi đánh tiết canh. Nhưng bà nhớ vừa đi vừa vặt lông sẵn đi nhé!”

Bà xồn xồn vui vẻ làm theo lời cha đề nghị như một việc “đền tội.” Khi tới cửa nhà xứ, bà hí hửng đưa con vịt đã vặt lông trên đường để cha “chào cờ!” Cha cười bảo bà: “Ấy chết, công việc tiếp theo lại là thế này: bà cầm cái bao này, chịu khó trở về con đường bà tới đây và nhặt lại lông vịt lúc nãy bà tung ra trên đường dùm tôi!”

– Sao được cha! Gió nó bay hết trơn rồi, và biết bao nhiêu lông mà nhặt cho vừa.

Cha Philiphê Nêri ôn tồn nói: “Đấy nhé, nếu bà nói xấu thiên hạ cũng khó lấy lại như vậy đó. Thực sự nhặt lại mớ lông, còn dễ hơn những điều nói xấu người ta đấy! Bà hiểu điều tôi nói không?”

2. Kêu gọi các môn đệ

Phần thứ hai của bài Tin mừng hôm nay, Thánh Mathêu tường thuật lại việc Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên. Đó là ông Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan. Người kêu gọi: “Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta.” (Mt 4,19). Lập tức các ông bỏ mọi sự mà đi theo Người.

Như vậy, mục đích của Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đi theo Người là để làm nghề “chài lưới người.”

Các Tông đồ đã mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi, đi theo Người, để Người huấn luyện và sau đó chu toàn sứ mạng Người giao phó. Còn chúng ta thì sao? Ngày hôm nay, chắc hẳn Đức Giêsu không hiện ra để trực tiếp gọi chúng ta đi theo Ngài như ngày xưa Ngài đã trực tiếp gọi các Tông đồ. Nhưng Ngài vẫn tiếp tục kêu gọi chúng ta làm Tông đồ cho Người qua các trung gian, qua các biến cố trong cuộc sống. Ngài gọi chúng ta qua Cha mẹ, qua Giáo Hội, qua Lời Chúa, qua các biến cố trong cuộc sống hằng ngày. Có điều là chúng ta có nhận ra tiếng Chúa mời gọi hay không?

Thánh Phanxicô Xaviê đã nhận ra tiếng Chúa mời gọi qua người bạn thân là thánh Inhatiô. Hằng ngày Thánh Inhatiô nhắc đi nhắc lại câu Lời Chúa: “Được lời lãi cả thế gian, thiệt mất linh hồn nào được ích gì?” (Mt 16,26). Thánh Phanxicô Xaviê dần dần đã thấm nhuần câu Lời Chúa đó và quyết định bỏ lại đằng sau tất cả vinh hoa phú quý ở đời để đi theo và làm Tông đồ cho Chúa.

Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu nhận ra ơn gọi Nên Thánh của mình qua câu Lời Chúa : “Hãy trở nên như trẻ nhỏ mới được vào Nước Trời.” (x. Mt 18,3). Mẹ Têrêxa Caculta nhận ra tiếng mời gọi của Chúa qua những người bị bỏ rơi bên lề xã hội.

Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta qua Lời Chúa, qua các biến cố trong cuộc sống, chúng ta hãy lắng đọng tâm hồn để sẵn sàng đáp trả tiếng Chúa mời gọi.

Lạy Chúa, sứ mạng của Chúa trao phó cho các Tông đồ cũng là sứ mạng mà Chúa muốn trao phó cho mỗi người chúng con. Xin cho chúng con biết nhận ra tiếng Chúa mời gọi qua Lời Chúa và qua các biến cố trong cuộc sống để cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Amen.

LỰA CHỌN CỦA CHÚA GIÊSU

Dtgm Quang Kiệt

Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm người ở mọi miền tuốn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo. Có dinh thầy cả thượng phẩm. Có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Người ở Giuđêa coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người ở Samaria, coi Samaria là ngoại đạo vì người ở Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garidim. Người ở Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với người Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch với Giuđêa, nhưng bị Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.

Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem. Bởi vì Giêrusalem là vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác. Khi mới sinh ra, Chúa Giêsu đã phải chạy trốn bạo vương Hêrôđê. Hôm nay Hêrôđê con ông lại ra lệnh giết thánh Gioan Baotixita chỉ để thỏa mãn ước vọng ngông cuồng của một phụ nữ. Chúa Giêsu đã không chọn Giêrusalem làm điểm xuất phát, bởi vì các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người.

Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến những chân trời xa lạ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ, màu da. Đó là đi đến với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa.

Những lựa chọn của Chúa Giêsu khiến tôi hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng con để con đón nhận được Lời Chúa và để Lời Chúa sinh nhiều bông hạt.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Chúa Giêsu có những lựa chọn khác với thường tình. Tại sao?

2) Tại sao Chúa không bắt đầu rao giảng tại thủ đô Giêrusalem, nhưng lại bắt đầu từ Galilêa, vùng đất dân ngoại?

3) Tại sao Chúa lại chọn tông đồ giữa đám thuyền chài thất học?


[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]

 

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*