- Người Pharisêu và người thu thuế-Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
- Nhận thức-Trầm Thiên Thu
- Hai đoản khúc suy tư-Mai Tá
- Truyền giáo bằng sức mạnh Thiên Chúa-Lm Jos Tạ Duy Tuyền
- Hai người cầu nguyện-Lm. Anthony Trung Thành
- Mãnh lực lời nguyện- Lm. Minh Vận, CMC
- Nâng lên và hạ xuống- Lm Giuse Đinh lập Liễm
- Truyền giáo bằng đời sống-Tgm Ngô Quang Kiệt
- Ai là người công chính? -Thiên Phúc
NGƯỜI PHARISEU VÀ NGƯỜI THU THUẾ
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XXX Năm – C
(Lc 18,9-14)
Chúa nhật tuần trước, hai nhân vật mang tính biểu tượng được Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta : một bên là vị thẩm phán bất công, đại diện kẻ áp bức, bên kia là bà góa đi kiện, điển hình của kẻ bị áp bức. Qua dụ ngôn đầy tính hài ước, Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải cầu nguyện luôn đừng ngã lòng và xác tín rằng, Thiên Chúa hằng nhận lời chúng ta (x.Lc 18,1-8).
Để xác định thái độ nội tâm và hình thức bề ngoài khi hướng về Thiên Chúa, Chúa nhật tuần này, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn gồm hai nhân vật đại diện cho con người hôm nay : một bên là người pharisiêu tự cho mình là công chính tuân giữ Luật Chúa cách hoàn hảo và bên kia là người thu thuế, tội lỗi, tay sai cho bọn đế quốc, vơ vét tiền bạc trên lưng của đồng bào (x.Lc 18, 9-14).
Khi đọc lý do tại sao người Pharisiêu lại tạ ơn Chúa, chúng ta chiêm ngưỡng sự hào phóng của ông thực sự là một người ” tốt “, không chê trách được gì. Điều này dường như không phải là quan điểm của Đức Giêsu, Người không kể dụ ngôn này cho những người công chính, nhưng “cho những ai hay tự hào mình là người công chính.” (x.Lc 18,9-14)
Người Pharisêu
Người Pharisêu tiêu biểu cho người bảo thủ cảm thấy mình phù hợp với Thiên Chúa và tha nhân, khinh thường kẻ khác. Người thu thuế là kẻ đã phạm lầm lỗi, nhưng anh nhìn nhận lỗi lầm đó và khiêm tốn xin Chúa tha thứ. Anh nghĩ, mình không thể cứu được mình nhờ công nghiệp riêng mình, mà phải cậy nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Câu cuối cùng của dụ ngôn minh chứng: Người này, khi trở về nhà, thì được nên công chính, nghĩa là, được tha và hoà giải với Chúa; người Pharisêu trở về nhà trong tình trạng y như hồi ra đi vẫn giữ cảm giác về sự công chính của mình, đương nhiên mất sự công chính của Chúa (x.Lc 18,14).
Trong thực tế, người Pharisiêu đã đặt ra cho mình chỉ tiêu công chính. Ông không như người khác : ăn chay, nộp thuế… Ông tự xây dựng hình ảnh người công chính cho mình, quên mất điều quan trọng nhất của lề Luật là tình yêu tha nhân.
Tệ hơn nữa là thái độ của ông. Ông “tạ ơn Thiên Chúa” ; nhưng không được, ông thích liệt kê những kẻ tội lỗi. Trong lời cầu nguyện, ông không cần đến Thiên Chúa. Như thế, ông không công chính với chính mình, sức mạnh nội tâm của ông cho phép ông vượt lên trên mức tầm thường, nhưng ông đã coi thường sự đáng kính của ông. Một người hài lòng với chính mình, làm sao có thể giao tiếp được với Thiên Chúa ?
Người thu thuế
Người thu thuế biết mình không có gì để khoe, và cũng chẳng có ai thấp kém hơn mình để đạp. Anh chỉ biết mình được xếp loại ngang hàng với gái điếm, nên đứng xa xa, không dám ngước lên trời, đấm ngực và nói lên điều mà lòng anh đang khao khát : “Lạy Chúa, xin thương con là kẻ có tội. ” (Lc 18,13). Anh khao khát tình thương nên anh được Chúa đoái thương và lời anh cầu xin được chấp nhận. Một kẻ tội lỗi như anh, có thể chứa đựng lòng thương xót, bởi vì không giống như các pharisiêu đóng cửa lòng mình và thỏa mãn với sự đầy đủ của mình, anh mở rộng tâm hồn, sẵn sàng đón lấy ơn tha thứ của Thiên Chúa, Đấng mà anh đã đặt tất cả niềm tin và hy vọng của mình.
Bài học từ hai người trên
Giống như hầu hết các dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy hai nhân vật trái ngược nhau. Những người thu thuế hôm qua là những người Pharisêu mới của ngày nay! Ngày nay người thu thuế, kẻ phạm tội, nói với Chúa: “Lạy Chúa con tạ ơn Chúa, vì con không phải như những người Pharisêu có lòng tin kia, giả hình và bất bao dung, lo lắng về sự ăn chay, nhưng trên thực tế sống còn xấu hơn chúng con.” Thật nghịch lý, xem ra dường như có những kẻ cầu nguyện như thế này: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, vì con là kẻ vô thần! ”
Rochefoucauld nói rằng sự giả hình là đồ cống nạp nết xấu trả cho nhân đức. Ngày nay nó thường là đồ cống nạp nhân đức trả cho nết xấu. Đúng thế, điều này được bày tỏ ra, nhất là những kẻ tỏ ra mình xấu hơn và vô sỉ hơn mình, ngõ hầu không xuất hiện kém hơn những kẻ khác. Nhà triết học Tin Lành Soren Kierkegaard viết: “Ngược lại với tội lỗi không phải là nhân đức, nhưng đức tin. ”
Một kết luận thực tế : Rất ít người vừa Pharisêu vừa là người thu thuế, tức là, công chính trong mọi sự hay là tội lỗi trong mọi sự. Phần đông chúng ta có một chút ít cả hai trong cuộc sống. Lúc tồi tệ nhất chúng ta ứng xử như quan thu thuế trong cuộc sống, kinh doanh vô đạo đức, và lúc khác chúng ta như người Pharisiêu trong đền thờ, được cho là hợp lý bởi hành vi tôn giáo của chúng ta. Điều tệ nhất có lẽ là hành động như người thu thuế trong đời sống thường ngày của chúng ta và như người Pharisêu trong nhà thờ. Những người thu thuế là những kẻ tội lỗi, không có áy náy lương tâm, coi tiền bạc và nghề nghiệp trên hết mọi sự. Những người Pharisêu, ngược lại, là rất khắc khe và chăm chú đến lề luật trong sự sống hằng ngày của mình.
Nếu chúng ta đành cam chịu nên một ít của cả hai, bấy giờ chúng ta hãy nên kẻ nghịch của điều chúng ta mới diễn tả: Pharisêu trong sự sống hằng ngày và thu thuế trong nhà thờ! Như người Pharisêu, chúng ta phải cố gắng trong sự sống hằng ngày không làm kẻ trộm và người bất chính, nhưng theo những điều răn của Chúa và trả những món nợ chúng ta mắc; như người thu thuế, khi chúng ta ra trước mặt Chúa, chúng ta phải công nhận rằng chút ít gì chúng ta đã làm là hoàn toàn ân huệ của Chúa, và chúng ta hãy cầu xin cho chính chúng ta và cho tất cả mọi người lòng thương xót Chúa. Amen.
NHẬN THỨC
Trầm Thiên Thu
(Chúa Nhật XXX TN, năm C)
Nhận thức là một quá trình bao gồm sự nhận biết (mức độ thấp) và sự hiểu biết (mức độ cao). Có nhận thức thức đúng đắn thì mới khả dĩ ý thức.
Có nhiều thứ cần nhận biết, nhưng khó nhất vẫn là nhận biết chính mình. Muốn nhận biết chính mình thì phải can đảm đối diện với chính mình. Nhưng cần nhận biết điều gì về bản thân? Cũng có nhiều thứ: sức mạnh, sức khỏe, điểm yếu (nhược điểm, sở đoản), điểm mạnh (yếu điểm, sở trường), tài năng, kiến thức, quan điểm, niềm tin, ước vọng, cảm xúc, bản năng, thói quen, tâm lý,…
Theo cách nhận thức riêng về cuộc đời, Allan Rufus ví von thú vị: “Cuộc đời như ổ bánh mì kẹp. Sinh ra là một lát bánh, và chết đi là lát bánh còn lại. Điều bạn kẹp vào giữa là tùy bạn. Ổ bánh mì của bạn thơm ngon hay chua cay?”. Đừng tự lừa dối, kẻ lừa bịp đáng sợ nhất là chính mình.
Và rồi chính Albert Einstein cũng đã từng thắc mắc: “A question that sometimes drives me hazy: am I or are the others crazy? – Có một câu hỏi đôi khi khiến tôi cảm thấy mơ hồ: Tôi điên hay người khác điên?”. Cuộc đời luôn là một ẩn số, không có cách lý giải chuẩn xác. Nội tại luôn quan trọng hơn ngoại tại, đúng như Agatha Christie nhận xét: “Chính điều bên trong con người của bạn làm cho bạn hạnh phúc hay bất hạnh”.
Thật chí lý khi người ta nói “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”. Từ ánh mắt của ai đó, người khác có thể nhận thấy người đó có sức mạnh, uy tín, đáng tin hay khả nghi,… Người ta sợ nhau từ ánh mắt. Thật vậy, khi hai người nhìn nhau, ai yếu bóng vía sẽ tự cảm thấy mình “lép vế” ngay. Dám nhìn thẳng vấn đề là một thế mạnh của người quân tử.
Cuộc đời vốn dĩ là bể khổ, tất nhiên liên quan nước mắt. Nước mắt của nhà giàu và nhà nghèo giống nhau về vị mặn, nhưng khác nhau xa về tính chất và nguyên nhân. Kinh Thánh đặt vấn đề: “Nước mắt quả phụ lại không giàn giụa trên gò má, và tiếng bà kêu lại chẳng cáo tội kẻ làm bà phải khóc sao? Kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây. Lời nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm. Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa an lòng” (Hc 35:15b-17).
Trước mặt người đời đời, người nghèo là cái gai cần phải đập gãy, nhưng với Thiên Chúa thì không như vậy. Ngài là Thiên Chúa giàu lòng thương xót thì không thể làm ngơ trước lời van xin tha thiết của những con người hèn mọn, khốn khổ.
Điều gì chưa xảy ra, ngay cả công lý, là vì Thiên Chúa chưa cho phép xảy ra, chưa đến lúc theo sự quan phòng và tiền định của Ngài. Cứ tin tưởng, an tâm để Ngài dắt đi và bước theo Ngài thì chúng ta sẽ thanh thản. Đừng sợ loài người, chỉ sợ Thiên Chúa mà thôi. Và điều gì đến sẽ phải đến: “Sẽ đến lúc Người đập gãy lưng bọn tàn ác, và báo oán chư dân. Sẽ đến lúc Người tiễu trừ lũ ngạo ngược, đập tan vương trượng bọn ác nhân. Sẽ đến lúc Người trả cho ai nấy theo việc họ làm, và xét xử hành động của người ta theo ý hướng của họ” (Hc 35:20-22a). Tất cả đều đúng thời, đúng lúc, không gì có thể xảy ra ngoài Thánh Ý Chúa. Chắc chắn như vậy!
Thật vậy, Thánh Phaolô tha thiết nhắn nhủ: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:6-7).
Tác giả Thánh Vịnh cũng chân thành bày tỏ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:2-3). Dù sướng hay khổ, dù buồn hay vui, cứ trò chuyện với Chúa thì chẳng có gì phải lo, phó thác hết cho Ngài, cứ để Ngài hành động.
Là những con người đầy tội lỗi và nhiều sai lầm, thế mà không cha mẹ nào nỡ lòng muốn điều xấu cho con cái, những đôi lứa yêu nhau cũng luôn muốn điều tốt cho nhau, thậm chí cọp dữ còn chưa nỡ ăn thịt con kia mà. Chắc chắn Thiên Chúa còn hơn như vậy: “Chúa để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu. Họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:17-18).
Và còn hơn thế nữa, tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng cụ thể: “Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề” (Tv 34:19). Đúng vậy, ngôn sứ Isaia còn nói rõ ràng và chi tiết hơn: “Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gẫy; tim đèn leo lét, Ngài chẳng nỡ tắt đi” (Is 42:3). Văn hào Victor Hugo (1802-11885, Pháp) đã nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; ai chết vì yêu là sống trong tình yêu”. Thật là chí lý! Nhưng có lẽ chúng ta không thể hiểu nổi lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu tuyệt đối của Ngài viên mãn tới mức đôi khi chúng ta nghi ngờ, không dám tin. Và cũng đã có những người coi tình yêu ấy là tình yêu điên rồ. Vâng, điên thật!
Cũng nhớ “khối tình điên” ấy mà chúng ta mới hiện hữu và sống tới hôm nay. Nhận thức như vậy để có thể hoàn toàn tín thác vào Ngài: “Chúa cứu mạng các người tôi tớ, ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ” (Tv 34:23).
Cuối đời, Thánh Phaolô nhắn nhủ Timôthê: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện” (2 Tm 4:6-8). Dù là một “tân tòng”, nhưng ông Phaolô đã nhận thức sâu sắc về ơn gọi của mình, đồng thời biết mình sống thế nào nên ông tin tưởng mình sẽ được cứu độ. Thật hạnh phúc! Ước gì mỗi chúng ta cũng biết Chúa và biết mình như vậy!
Thánh Phaolô dẫn chứng cụ thể và rạch ròi: “Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. Amen” (2 Tm 4:16-18).
Ông được đặc ân nhưng không tự mãn, ông chấp nhận sự vô cảm của người khác và còn xin Thiên Chúa tha thứ cho những người đã đối xử tệ với mình. Thật cao thượng!
Ai cũng biết đức khiêm nhường là nhân đức cần thiết, nhưng lại khó thể hiện, vì “cái tôi” luôn to lớn (nhưng không hề vĩ đại). Trình thuật Lc 18:9-14 nói về dụ ngôn “Người Pharisêu và Người Thu Thuế” – một người khiêm nhường, một người kiêu ngạo. Hai thái cực đối lập, hai động thái trái ngược. Người Việt có câu: “Thùng rỗng kêu to”. Thùng càng rỗng càng kêu to. Người ta cũng thế, càng dốt càng chảnh, càng “nổ”. Kheo khoang vì muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, không muốn người khác biết “thùng mình rỗng”. Nhưng càng “nổ” mạnh thì càng văng miểng nhiều, khiến người ta “sợ” dính miểng nên phải xa lánh.
Người Pharisêu mệnh danh là nhóm Biệt Phái, tức là những người được tách khỏi dân thường và có nhiệm vụ riêng biệt. Vì được coi trọng nên họ kiêu hãnh, luôn ra vẻ ta đây. Nhưng đó chỉ là động thái giả hình, coi trọng bề ngoài, coi trọng hình thức, coi trọng nghi thức, nhưng bên trong rỗng tuếch. Chúa Giêsu đã từng gọi họ là “mồ mả tô vôi” (x. Mt 23:27), bên ngoài sơn son thếp vàng nhưng bên trong đầy giòi bọ hôi thối.
Để đánh động những người tự nhận mình công chính mà khinh chê người khác, Chúa Giêsu kể dụ ngôn thế này…
Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng thẳng và nguyện thầm: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Còn người thu thuế đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Theo mặc định của xã hội Do Thái, người biệt phái là công chính, người thu thuế là tội lỗi (vì làm việc cho ngoại bang mà đàn áp dân lành, và có thể lóm lém tiền bạc). Chúng ta thấy có những động thái đối nghịch: ngẩng đầu – cúi đầu, dang tay – khép tay, chê người – thú nhận, tự mãn – khiêm nhường. Chúa Giêsu xác định: người thu thuế khi trở xuống mà về nhà thì đã được nên công chính, còn người biệt phái thì không. Xã hội luôn có những kẻ có “máu” Pharisêu, ngay trong các dòng tu, các giáo xứ và các hội đoàn cũng không thiếu. Thật đấy!
Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu kết luận: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Liên quan vấn đề nhận thức, đại nhân Khổng Tử xác định: “Đừng lo mình không có chức vị, chỉ lo không đủ tài mà nhận lãnh chức vị mà thôi”. Đó là cách nhận thức giản dị mà thâm thúy, khả dĩ giúp người ta sống thanh thản, không ảo tưởng, dù là ai và ở cương vị nào. Ca dao Việt Nam cũng nói:
Người trồng cây Hạnh người chơi
Ta trồng cây Đức để đời về sau
Hãy cứ bình thường khi gặp người khác, dù người đó là ai. Người có như vậy có thể sẽ bị coi là lạnh lùng, dửng dưng, khinh người,… nhưng không phải vậy. Bắt chước là hèn nhát, nịnh bợ là nhục nhã. Hãy cứ là chính mình. Không sợ hãi trước kẻ quyền thế, không hống hách với người yếu thế, không luồn cúi hoặc nịnh bợ người khác để có lợi cho mình, đó chính là phong cách của quân tử. Thật là đê tiện với những ai có cái kiểu “cáo mượn oai hổ”.
Biết mình và biết người là điều cần thiết trong cuộc sống, cao cấp nhất là nhận biết Thiên Chúa – dạng nhận thức tâm linh. Thánh Augustinô phân tích: “Nhận biết Thiên Chúa là làm cho con người nhận biết mình; cũng vậy, nhận biết mình cũng là khiến cho người ta nhận biết Thiên Chúa”. Rất hay, rất lô-gích!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận thức đúng đắn, khả dĩ biết Chúa, biết người, và biết chính con, để con không ảo tưởng mà kiêu ngạo, và để con biết sống khiêm nhường theo đúng Tôn ý Ngài.
Lạy Đấng giàu lòng thương xót, cơn bão Sakira (số 7) đang làm cho miền Trung ngập trong biển nước, hơn 30.000 gia đình không có chỗ trú thân, trong khi đại họa Formosa chưa nguôi, khổ chồng lên khổ. Xin Chúa chúc lành và che chở họ, xin thêm đức tin cho họ trong cảnh khốn khó này.
Lạy Đức Mẹ La Vang, xin Mẹ choàng Chuỗi Mân Côi quanh miền Trung để bảo vệ họ khỏi thiên tai và nhân tai, xin cho những người hữu trách có được nhận thức theo Tháy Ý Chúa, và xin ban bình an cho Việt Nam bé nhỏ của dân tộc chúng con. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
HAI ĐOẢN KHÚC SUY TƯ
Mai Tá
Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 30 thường niên năm C 23/10/2016
Tin Mừng (Lc 18: 9-14)
Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác:
“Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế.
Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng:
“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng:
“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
“Tôi cúi mặt, lời nguyện cầu rất khẽ,”
Cầu cho người và nguyện ước cho tôi.
Linh-hồn tôi nay đã khác xưa rồi,
Cũng rạo-rực bao đam-mê trần thế.”
(Dẫn từ thơ CV)
Trình thuật hôm nay, Chúa kể về phương-cách nguyện cầu nơi nhà Đạo.
Nhà tỉ phú nọ, có lần bị nhồi máu cơ tim, tưởng đã chết. Sau khi khỏi, ông được đài truyền hình địa phương mời xuất hiện trên chương trình “Chuyện Trò cùng Dân Chúng” để xin ông kể về nỗi niềm người vừa chết. Có một lúc, phóng viên hỏi: ông có kinh nghiệm gì về nỗi chết khi bị nhồi máu cơ tim, không? Nghe hỏi, nhà tỷ phú bèn đứng dậy làm động tác đi đi lại lại rồi bảo: Nói theo nền y học hiện đại, thì tôi như người chết đã đi về phía bên kia, nay trở về phía bên này để nói với quý vị là bên đó, cũng chẳng có gì!”
Sự thực đúng như lời ông nói: ở bên đó, cũng chẳng có gì hết. Câu trả lời của ông làm tôi nhớ về nhóm Biệt Phái, được thánh sử trích trong đoạn Phúc Âm hôm nay đây. Từ đó, tôi “ngộ” ra được một điều là: một trong các bẫy cạm mà sự thành công của con người vẫn đem lại là lòng tự cao/tự đại luôn đính kèm. Người Pharisêu trong trình thuật hôm nay cũng thế. Ông là người thành công trên đưòng đời. Nghĩa là, ông cũng có đời sống dễ chịu. Có lòng thành và sự hăng say của người đam mê/nhiệt nồng. Nhưng, ông lại tự đề cao chính mình để rồi coi mọi người như cỏ rác.
Khi nguyện cầu cũng vậy, “ông” Biệt Phái còn cả gan nhắc nhở Chúa rằng “ông” mới là người tốt lành, so với đám khác. Con người thu thuế, quỳ mọp ở dưới/sau. Có điều lạ, là: làm thân “ông” Biệt Phái rất sáng giá, thế mà “ông” vẫn đến đền thờ, để nguyện cầu. Nguyện cầu đấy, nhưng nào nhớ đến Chúa. Đến Cha. Như nhà tỷ phú nói ở trên, “ông” Biệt Phái lại quá tin vào tài của mình. Vào sự công chính mình vẫn có, khiến trình thuật/truyện kể, nghe hơi lạ. Lạ hơn nữa, là: làm thân anh thu thuế, xưa nay chỉ nể trọng mỗi đám thực dân/quân phiệt người La Mã, cũng đến đền thờ, cùng một lượt với Biệt Phái, để cầu kinh.
Ở Palestine ai cũng rõ: dân thu thuế không được mọi người trọng vọng. Bởi, họ chỉ là đám công chức chuyên khai thác rút rỉa dân hèn địa phương bằng những khoản thuế vô tội vạ. Chẳng thế mà, biết phận, anh thu thuế cứ là quỳ mọp ở phía sau, cuối đền thờ.Có thể là, anh đang ở vào lúc hồi tâm tỉnh trí, nên mới đến. Đến, để nhận ra những sứt mẻ của đời mình. Đến, để thành tâm khẩn nguyện Chúa.
Với cộng đoàn thánh Luca thời tiên khởi, động thái của anh thu thuế hèn mọn kia là mẫu mực để cộng đoàn hành xử. Thành tự cuộc sống, người người đều có niềm say mê sốt sắng mà nguyện cầu, đâu gì xấu. Ngược lại, về đạo đức, vẫn dẫy đầy những hiểm nguy khi thực hiện mọi công việc trong đời, đều phải nhường bước trước áp lực của đường đời, như phần vụ thu thuế đòi hỏi. Thành thử, anh đành chấp nhận làm “giáo gian” phục vụ đám ngoại bang.
Điều Chúa cảnh giác, là những gì mà thực trạng cuộc sống của hai nhóm người kể trên, vẫn đem đến cho chính họ. Thực trạng nói ở đây, là: tính khiêm hạ của kẻ bị đẩy ra khỏi xã hội, mình đang sống, khiến “ông” Biệt Phái càng hợm hĩnh cho mình thuộc giới cao sang, quý phái người người đều biết đến. Từ lâu, ai cũng tưởng tính khiêm hạ khiến ta cứ là khúm núm , ở cấp dưới. Cứ cho rằng mình chẳng là gì cả. Chẳng có công lênh gì. Động thái ấy, chẳng bao giờ là lòng khiêm hạ đích thực, ở Đạo Chúa.
Sống khiêm hạ, không có nghĩa bắt ta phải giấu mình ở ẩn hoặc làm giảm suy mọi quà tặng Chúa ban. Dù, đó có là khả năng hay tài cán rất sáng láng. Khiêm hạ đích thực, chỉ có nghĩa nếu ta biết vinh danh hết mọi người, bằng vào sẻ san cho người, đủ mọi thứ . Sẻ san và nâng nhắc những người đang túng bấn, để họ cũng được hưởng những “hoa thơm cỏ lạ” do Đấng Nhân Lành, vẫn ban phát.
Cụm từ “khiêm hạ” xuất từ tiếng La tinh “humus”, có nghĩa: gần sát địa cầu. Trái đất. Anh thu thuế hèn, là người sống gần cận với trái đất, nhất. Vì thế nên, anh dễ dàng mở lòng mình ra mà hồi hướng. Trở về. Có làm thế, anh mới được Chúa nhấc nân cao. Còn “ông” Biệt Phái lại thành công quá mức trong đời đạo hạnh, ông gần gũi. Cũng là thứ “gần chùa gọi bụt bằng anh”, nên mau chán. Chán khiêm hạ. Nguyện cầu. Chán tinh thần cao. Tức, ở vào thái cực đối đầu với anh thu thuế. Nếu tự kiểm, chắc rằng đa số người người trong chúng ta đang ở giữa hai thái cực ấy.
Tham dự Tiệc Thánh hôm nay, cầu mong sao để ta biết đường mà mở rộng lòng mình để, một lần nữa, hồi hướng trở về, mà đem hết khả năng/tài cán mình nhận lãnh ra mà phục vụ Vương Quốc Nước trời. Làm như thế, ta sẽ ra về mà chứng tỏ rằng mình đích thực khiêm hạ, như Chúa dạy. Làm như thế, để khi nằm xuống, ta sẽ nhận ra cuộc sống tràn đầy hạnh phúc đang chờ đón ta ở đầu phía bên kia. Bên, mà nhà tỷ phú nói ở trên cho là chẳng có gì. Mà thực có rất nhiều. nhiều cái “có” của Đức Chúa.
Lm Richard Leonard sj
Mai Tá
Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 30 mùa thường niên năm C 23/10/2016
“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”,
Chọn những bông hoa và những nụ cười
Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy
Để mắt em cười tựa lá bay.”
(Trịnh Công Sơn – Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui)
(Mt 6: 6-7)
Chọn gì cũng còn tuỳ. Có chọn niềm vui mỗi ngày và mọi ngày, lại cũng là điều đáng làm và nên làm. Niềm vui nào, cũng lạ kỳ và còn tuỳ. Chỉ có niềm vui đáng trang-trọng và trân quý mà thôi, các bác ơi! Thế nhưng, hỏi rằng niềm vui ấy có là gì đâu mà sao mỗi ngày bạn đều cứ chọn?
Và, đây là câu đáp/trả của nghệ sĩ mình từng hát lên và hát mãi một chữ vui, rất như sau:
“Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi.
Đường đến anh em, đường đến bạn bè.
Tôi đợi em về, bàn chân quen quá.
Thảm lá me vang, lại bước qua.
Và như thế, tôi sống vui từng ngày.
Và như thế, tôi đến trong cuộc đời.
Đã yêu cuộc đời này, bằng trái tim của tôi.
Mỗi ngày tôi chọn, một niềm vui.
Cùng với anh em, tìm đến mọi người.
Tôi chọn nơi này, cùng nhau ca hát.
Để thấy tiếng cười, rộn rã bay.
Mỗi ngày tôi chọn, một lần thôi.
Chọn tiếng ru con, nhẹ bước vào đời.
Tôi chọn nắng đầy, chọn cơn mưa tới.
Để lúa reo mừng, tựa vẫy tay.
Và như thế, tôi sống vui từng ngày.
Và như thế, tôi đến trong cuộc đời.
Đã yêu cuộc đời này, bằng trái tim của tôi.
Mỗi ngày tôi chọn, ngồi thật yên.
Nhìn rõ quê hương, ngồi nghĩ lại mình.
Tôi chợt biết rằng, vì sao tôi sống.
Vì đất nước cần, một trái tim.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)
Cứ như nghệ sĩ ở trên, thì: niềm vui ta có, vẫn rất tỏ nơi lập trường mình chọn lựa. Chọn, con đường đến với anh em, bạn bè. Hoặc, chỉ mỗi chọn: “tiếng ru con nhẹ bước vào đời”. Chọn “nắng đầy, mưa tới”, “vẫy tay”, “vui từng ngày”. Chọn “ngồi thật yên”, “nhìn rõ quê hương”, vì “đất nước cần một trái tim”, cuối cùng đều như thế, hết. Như thế, tức như thể lập-trường chính-chuyên của mỗi người và mọi người, thôi.
Nhà Đạo mình có nỗi niềm gì “vui” không? Có chọn/lựa gì không, để vui sống với chúng dân, bạn đạo hoặc với Đức Chúa nơi tâm can của ai đó: những người nghèo, kẻ hèn, cả sơ/cha/tu-sĩ lẫn bạn đạo, kể không hết? Chọn gì thì chọn. Chọn lựa nào, cũng tuỳ tâm tuỳ hỷ nơi can-tràng của can mỗi người ở chốn thân quen hay xa lạ, để còn sống như đấng thánh nhân-hiền vẫn dạy/bảo.
Trong lần viễn-du sang Hoa kỳ ngày chớm thu năm 2016, bần đạo đây lại bắt gặp một số chọn-lựa nay ít-thấy của bậc khắc-kỷ/tu kín hay tu “hở” trong dòng thánh-là-mẹ hoặc mãi mãi ẩn-chìm trong chốn sơn lâm/cùng cốc chỉ biết mỗi nguyện-cầu và nguyện cầu cho tha-nhân chứ không cho riêng mình. Thế đó, là lựa chọn, tức: vừa lựa vừa chọn, rất vừa lòng vừa ý lẫn vừa y chang. Nhưng, cứ thử hỏi: một khi đã chọn lựa như thế rồi, ta có tạo niềm vui cho mình hoặc cho người, không?
Có vị, lại không hỏi-ha/vấn-nạn bất cứ ai, nhưng vẫn chọn “đi vào giòng đời” để gặp người và gặp mình thể-hiện nơi người khác. Chọn “cho đi”, chứ không nhận-lãnh vào thân mình hoặc thần hồn của mình, bất cứ gì khác đã được tặng ban. Có thể nói, chọn và lựa như thế, là: đường-hướng nguyện-cầu khá hợp lý. Chí ít, là cho riêng mình. Ở đời người.
Có bạn đạo, dù đã chọn hướng nguyện-cầu cho mình từ nhiều năm, nhưng chưa vừa ý. Có khi, còn ngờ-vực cả đường-lối mình chọn-lựa để rồi lại cứ đi tìm cha/cố thầy/bà mà vấn kế/hỏi han qua mục “đố vui để học” ở huyện nhà rất Đạo.
Có đấng bậc chuyên-chăm đạo-đức rất sốt sắng với nguyện-cầu/kinh-kệ trải dài nhiều năm tháng; cuối cùng, lại cũng gửi về một thắc-mắc con con nhưng không nhỏ, đến đức thày một vấn ý sau đây:
“Thưa Cha,
Suốt 9 năm vừa qua, con trai con đã được dưỡng-dục đàng-hoàng để trở thành người Công-giáo tốt có trường/lớp học-hành hẳn hòi. Sau đó, cháu lại đã lập gia-đình có phép rao/phép cưới cũng đi nhà thờ/nhà thánh quanh năm suốt tháng chứng-tỏ lòng tin đi Đạo “ròng” hẳn hoi. Nay cháu đã có đến 3 con, thế mà chả đứa nào chịu rửa tội theo phép Đạo “ròng” rất phải phép. Vẫn từ nhiều năm, con cứ nguyện-cầu cho con cháu của con cũng rất nhiều, để chúng còn quay đầu về mà hồi hướng. Thú thật với cha, là: nay con đã thấm mệt, chỉ muốn chào thua thôi. Vậy, xin hỏi Cha là: con có nên tiếp-tục cầu-nguyện nữa hay thôi?” (Câu hỏi của một vị đạo-đức rất nghe quen)
Thấy có người hỏi câu đúng ý, đức thày John Flader của tờ The Catholic Sydney lại lấy giấy bút ra viết cho tuần báo này, lời đáp trả như sau:
“Dĩ nhiên, ta cứ phải kiên-trì cầu-nguyện mãi không dứt, trong nhiều năm dài hoặc suốt đời mới được. Tuy nhiên, khi cầu-nguyện có người cũng có ý-hướng ngắn/gọn là cầu cho người thân khỏi hẳn căn-bệnh nào đó khó chữa, hoặc cầu cho có khả-năng mua/bán căn hộ để sinh sống, cầu cho có công ăn việc làm kiếm tiền độ nhật, khi mất việc.
Có ý-hướng kéo dài ngày hơn trong nguyện-cầu, như: cầu cho đôi vợ-chồng nào đó có con sau nhiều năm hiếm-muộn, cầu cho con cháu mình gặp được ý-trung nhân thích-hợp cả với hai họ, nội ngoại. Cũng có ý-hướng lành thánh hơn như: cầu cho người nào đó từng bỏ đạo có được niềm tin chân-chính sống cuộc đời hoà-hợp lứa đôi sau nhiều năm ly-thân, vv…
Còn, hỏi rằng: ta nên nguyện-cầu trong thời-gian dài nhất là bao lâu? thì: như thánh Gioan Chrysostom có lần nói: Khi tôi khuyên ai đó hãy cầu Chúa cho mình được việc gì, thì họ trả lời: con cầu như thế đến chục lần mà có được gì đâu! Tôi bèn bảo người ấy: bạn à, hãy cứ cầu xin Chúa mãi, thế nào cũng được. Thỉnh-nguyện của bạn chỉ chấm-dứt khi đạt điều mình xin, tức có nghĩa: ta thường ngưng cầu nguyện khi được Chúa nhậm lời. Theo tôi, hãy cứ tiếp-tục cầu xin mãi như thế, nếu được Chúa nhậm lời thì ta cảm tạ ơn lành Chúa ban, có sao đâu!”
Chính Chúa từng thôi-thúc ta bền-đỗ trong nguyện-cầu ngang qua dụ ngôn ở Tin Mừng theo thánh Luca kể rằng: ngay vào nửa đêm hàng xóm gõ cửa xin bánh ăn vì mới dọn tới, chủ nhà bèn trả lời: mọi người đang ngủ cả, cửa đã đóng chặt nên anh không thể mở theo yêu cầu của người hàng xóm. Ngay khi ấy, Đức Giêsu lại đã dạy: “Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó. Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho.” (Lc 11: 8-9)
Và, còn biết bao dụ-ngôn truyện kể khác ở Tin Mừng theo thánh Luca chương 18 cũng như Tin Mừng của các thánh-sử khác lại cũng tường-thuật những chuyện đại loại như thế, rất dễ hiểu.
Về phần mình, thánh Phaolô tông-đồ cũng đã viết nhiều thư cho cộng-đoàn Colôsê, Thessalônikê vẫn hối thúc các giáo-đoàn mình hãy tiếp-tục cầu nguyện dù nhiều tuần, nhiều thánh, cả năm dài mãi mãi suốt đời mình cũng là chuyện vẫn nên làm.
Có điều được thánh Phaolô luôn nhấn mạnh, đó là: ta hãy tiếp-tục cầu-nguyện cho đến khi lời cầu của ta được Chúa đoái-hoài, mới thôi. Chúa vẫn để tai lắng nghe lời ta cầu-nguyện và Ngài sẽ đáp-trả mọi điều ta kêu cầu. Cả vào khi ta không nhận được điều gì như lòng mình cầu mong, nếu ta vẫn tiếp-tục cầu nguyện mãi, rồi ra ta cũng sẽ lớn lên trong sự lành thánh nhờ vào nhân-đức cầu nguyện của chính mình. Xem thế thì, tự thân, đây là câu đáp trả cho lời ta nguyện-cầu cùng Chúa. Đôi lúc, Chúa có để ta cầu-nguyện trong thời gian rất lâu mà chẳng ban cho ta điều ta mong ước, vì Ngài biết rõ việc cầu-nguyện đem đến cho ta nhiều điều tốt đẹp.” (X. Lm John Flader, After years of prayer with no progress, is it time to give up?” The Catholic Weekly, 11/9/2016 tr. 22)
Hỏi gì thì hỏi. Có hỏi/đáp về sự cần-thiết tiếp-tục cầu nguyện nhiều, vẫn là cơ-hội để người hỏi và đáp về lại với Lời Vàng của Đấng Thánh-hiền trong Đạo từng khuyên bảo:
“Còn anh, khi cầu nguyện,
hãy vào phòng,
đóng kín cửa
và cầu nguyện cùng Cha của anh,
Đấng hiện-diện nơi kín đáo.
Và Cha của anh,
Đấng thấu suốt những gì kín đáo,
sẽ đáp trả lại cho anh.”
(Mt 6: 6-7)
Hỏi gì thì hỏi, có hỏi nhiều về việc nguyện-cầu trong lặng-thinh, thì cuối cùng ra, vẫn là những chọn và lựa của mỗi người dù có hỏi hay không những điều như thế.
Đáp gì thì đáp, có đáp trả đúng ý người hỏi không, vẫn là chọn lựa thông thường của đôi bên, cả người hỏi cũng như người đáp. Bởi, trước khi hỏi có thể người hỏi đã biết câu trả lời của đối phương rồi, nhưng vẫn hỏi để mà hỏi. Trường hợp nhà Đạo mình, nhiều đấng bậc lại được học biết câu trả lời đúng bài bản nên chẳng sợ mất lòng ai hoặc sai trái bao giờ hết.
Có hỏi han hay đáp trả, vẫn là đưa ra một chọn lựa. Chọn thế đứng. Chọn góc cạnh thích hợp để rồi đối-phương khi nhận được câu đáp trả, sẽ không bị “shốc” bao giờ hết. Thế đó, là chọn lựa. Chọn “cho đi” một hỏi-han hoặc “nhận vào” một đáp trả, vẫn như truyện kể ở bên dưới muốn đưa ra một minh-hoạ về cuộc sống có “cho” và có “nhận” rất rành rành, sau đây:
“Một người đàn ông bị lạc giữa một sa mạc rộng lớn. Ông mệt lả và khát khô, sẵn sàng đánh đổi bất kỳ cái gì chỉ để lấy một ngụm nước mát.
Đi mãi đi mãi, đến khi đôi chân của ông đã sưng lên nhức nhối, ông thấy 1 căn lều: cũ, rách nát, không cửa sổ.Ông nhìn quanh căn lều và thấy ở 1 góc tối, có 1 cái máy bơm nước cũ và rỉ sét. Tất cả trở nên lu mờ đi bên cạnh cái máy bơm nước, người đàn ông vội vã bước tới, vịn chặt vào tay cầm, ra sức bơm. Nhưng không có 1 giọt nước nào chảy ra cả.
Thất vọng, người đàn ông lại nhìn quanh căn lều. Lúc này, ông mới để ý thấy 1 cái bình nhỏ. Phủi sạch bụi cát trên bình, ông đọc được dòng chữ nguệch ngoạc viết bằng cách lấy viên đá cào lên: “Hãy đổ hết nuớc trong bình này vào cái máy bơm. Và trước khi đi, hãy nhớ đổ nước đầy lại vào chiếc bình này”.
Người đàn ông bật cái nắp bình ra, và đúng thật, trong bình đầy nước mát. Bỗng nhiên, người đàn ông rơi vào 1 tình thế bấp bênh. Nếu ông uống ngay chỗ nước trong bình, chắc chắn ông có thể sống sót. Nhưng nếu ông đổ hết nước vào cái bơm cũ gỉ, có thể nó sẽ bơm được nước trong lành từ sâu trong lòng đất – rất nhiều nước.
Ông cân nhắc khả-năng của cả hai sự lựa chọn: nên mạo hiểm rót nườc vào máy bơm để có nguồn nước trong lành hay uống nước trong cái bình cũ và coi như không đọc được lời chỉ dẫn? Dù sao, lời chỉ dẫn không biết đã ở đó bao lâu rồi và không biết có còn chính xác nữa không……
Nhưng rồi cuối cùng, ông cũng quyết định rót hết nước váo cái máy bơm. Rồi ông tiếp tục nhấn mạnh cái cần của máy bơm, một lần, hai lần ….chẳng có gì xảy ra cả! Tuy hoảng hốt, nhưng nếu dừng lại, ông sẽ không còn một nguồn hy vọng nào nữa, nên người đàn ông kiên trì bơm lên xuống, lần nữa, lần nữa …. nước mát và trong lành bắt đầu chảy ra từ cái máy bơm cũ kỹ. Người đàn ông vội vã hứng nước vào bình và uống.
Rồi ông hứng đầy bình, dành cho người nào đó có thể không may mắn bị lạc đưòng như ông và sẽ đến đây. Ông đậy nắp bình, rồi viết thêm 1 câu dưới dòng chữ có sẵn trên bình: “Hãy làm theo chỉ dẫn. Bạn phải cho trước khi bạn có thể nhận.”
“Cho đi”, dứt-khoát là động thái cần-thiết trong đời người. “Cho đi”, không phải để “có đi có lại mới toại lòng nhau”, mà là một trong những chọn lựa cách sống và kiểu sống, trong đời mình. Có cho đi, mới sống hùng, sống mạnh, sống thoải mái, gặt hái được nhiều thứ. Cả những thứ, mà mình không bao giờ ngờ tới, khi sống thực cuộc đời mình.
Điều này, không cần giải-thích hoặc cãi-tranh làm gì cho hao hụt nhuệ-khí cùng thời-gian đang chờ mình đi đến quyết-định. Chỉ cần bỏ thêm ít phút nữa để mời bạn và mời tôi, ta đọc thêm một chuyện “phiếm” do người khác kể, mới thấy đó là chuyện hiện-thực sự thật ở đời. Truyện kể đây, là truyện tự-sự của tác giả Trần Thiện Phi Hùng cũng “nổ bùng” như sau:
“Tiệc rửa lon trung úy của tôi chung với tiệc đầy tháng của con gái tôi và “con gái của người ta”.
Con gái của người ta sau 24 giờ sinh ra đã trở thành con gái của tôi và chỉ sinh sau con gái của tôi có 4 giờ tại Bảo Sinh Viện Quân Đội Thành phố Nha Trang năm 1972. Mẹ của nó còn trẻ lắm nhưng lanh lợi sành đời. Cô ta sinh xong mạnh khỏe đi đứng bình thường chứ không nằm liệt như bà vợ tôi. Cô ta nói với vợ tôi cô ta là vợ của một Trung úy Biệt Kích. Anh ta ít khi về nhà và công tác ở đâu không bao giờ nói. Cô ta đi làm sở Mỹ ở Chu Lai vì sinh kế sao đó nên nhảy dù với Mỹ. Tai nạn có thai ngoài ý muốn nhưng không biết con của Chồng hay của Mỹ nên cứ sinh xong rồi tính. Con chồng thì để nuôi; con Mỹ thì cho.
Nghe vợ nói lại, tôi sang phòng cô ta gõ cửa xin vào xem đứa nhỏ ra sao. Trong bóng đèn mờ của căn phòng, con bé nằm bó mình trong khăn lông; chỉ lòi cái mặt da trắng đỏ và cái miệng nhỏ xíu hai môi như chu ra làm tôi nghĩ ngay con bé nầy chắc sau nầy hỗn lắm! Tôi không nói gì với cô ta mà về phòng bảo bà vợ tôi:
– Mình xin Con Bé nuôi luôn nhen Em?
– Làm sao đủ sữa cho 2 đứa? Thiên hạ nói bậy bạ làm sau chịu nổi?
– Cho uống sữa bò; Anh mướn thêm người giúp việc nữa cho em.
– Tùy anh.
Thế là thủ tục Xin của Tôi và đồng ý cho con do cô ta viết được đưa cho Cô Mụ; nhưng sáng hôm sau thì cô ta đã rời khỏi bệnh viện, bỏ con lại mà thủ tục chưa hoàn tất. Ban Xã hội Quân đội cũng dễ dàng hoàn tất nốt thủ tục nhận con nuôi mà làm khai sinh giống như thủ tục khai sinh của con gái của tôi. Đây có lẽ là trường hợp hy hữu một đứa trẻ Lai Mỹ mà khai sinh do hai vợ chồng là người miền Đông và Tây Nam Việt Nam coi như sinh ra. (rất tiếc trong cơn biến loạn di tản năm 75 tất cả hình ảnh đều mất hết.
Trong tiệc đầy tháng; 2 đứa bé như cặp song sinh; nhưng một Việt một Mỹ đẹp như thiên thần!); nhưng mà khổ cho thân tôi! Hai đứa trẻ đứa nào cũng đòi bồng một lúc. Đứa trên lưng thì đứa kia phải bế trên tay. Lưng tôi bị thoái hóa cột sống năm 2000 có lẽ cũng vì hai đứa con ngày một lớn dần mà cứ phải thay đổi đứa trên lưng đứa trên tay mấy năm.
Tháng Tư đen 1975, tôi bị rã ngũ. Tôi không thể về quê ngoại như ước muốn sống ở Rừng Dừa năm xưa vì nay B52 cày nát thành bình địa. Tôi muốn phá hoang trồng lại; nhưng phải trình diện vào tù cải tạo. Một tháng trôi qua, rồi một năm, rồi năm nữa..! Vợ không thấy đi thăm mà con cũng không bao giờ được gặp mặt. Mỗi tháng chỉ có Mẹ tôi được 15 phút thăm nuôi. Hỏi gì mẹ tôi cũng nói tất cả bình an; các con ngoan và khỏe mạnh. Tôi lúc nào cũng nhờ Mẹ lưu tâm cho Thùy An, tên đứa Con Lai Mỹ. Chắc là Nó bị kỳ thị ở trường học và sống với mọi người sẽ rất khó khăn! Mẹ tôi nói con khỏi lo. Nó sống rất tốt học rất giỏi nên được Thầy Cô và bạn bè quí mến. Mẹ tôi lúc nào cũng né tránh khi tôi hỏi đến vợ và con gái của tôi, Thanh An. Tôi đoán có lẽ chuyện gì không tốt đã xảy ra nhưng đành bó tay không biết hỏi ai!
Bốn năm sau tôi được ra tù. Con gái mang 2 dòng máu ôm tôi khóc như mưa; nhưng con gái và vợ tôi thì không thấy đâu nữa. Tôi đoán biết chuyện không hay nên cũng không hỏi mẹ. Cơm chiều xong, con gái xin tôi:
– Ba cho con ngủ chung với Ba đêm nay?
– Ngày thường con ngủ một mình?
– Không Con ngủ với Bà Nội.
– Ừ! nếu con muốn.
Con bé thỏ thẻ kể hết cho tôi nghe. Ba đi rồi mấy tháng sau má dẫn Chị Hai đi với Má về thăm Ngọai mà không cho con đi và từ đó không về nữa. Con hỏi Nội Má con chừng nào về? Nội nói Nội không biết.
Một năm trôi qua; tính ra tôi đi làm “lao động xã hội chủ nghĩa” có nghĩa “ăn cơm nhà làm lao động nặng không công” khoảng hơn 3 tháng. Đào kinh, đắp đường, gánh lúa thuê…v.v.. Cạnh đó là làm thuê, làm mướn đi lao động thay cho người trả tiền để khỏi đi. Tôi hết thời gian quản chế một năm, làm phó thường dân, rồi được đề cử làm Đại Đội trưởng Lao động; chuyên đi kêu người đi lao đông. Ai thấy mặt tôi đến thăm là biết phải cơm gạo nhà đem đi làm không công mấy ngày hay nửa tháng.
Thời chinh chiến; tiền lương của 3 đứa con cho Mẹ, mẹ tôi xài tiện tặn có dư, hễ đủ 1 chỉ thì mua 1 chỉ vàng y; đủ 10 chỉ thì đổi thành 1 lượng. nhét kẹt giường, đào nền nhà, tủ làm 2 nóc để cất vàng. Con thất thế sa cơ Mẹ bán vàng nuôi con. Mẹ cho con vàng để vượt biên.
Năm 1982, tôi và em gái tôi vượt biên. Con gái của tôi nhứt định Ba đâu con ở đó; Con không sợ chết. Con chỉ sợ phải xa Ba! Tôi lái tàu ra khơi lần cuối cùng để một là chết, hai là được thật sự tự do. Tôi thành công sang bến bờ tự do. Con gái tôi bắt đầu vào Trung học; có lẽ nhờ cái máu Mỹ của nó hay sao mà chỉ mấy tháng thì nó nói tiếng Mỹ như súng liên thanh; cứ có dịp là đeo bên tay Cha khi đi chợ hay đi ăn nhà hàng hay có đám tiệc….
Hình ảnh một ông già Việt Nam có một cô gái hoàn toàn Mỹ không thấy có gì lai đeo theo một bên và nhõng nhẽo thì chắc chưa có ai bằng. Tối ngày gặp mặt gọi Daddy; không thấy mặt thì daddy, Ba đâu rồi. Tôi vui với con gái của người ta và là nguồn an ủi cho tôi vui sống. Tôi làm công nhân cho hãng làm phụ tùng xe hơi, lương cũng dư sức nuôi con lên đại học và mua nhà trả góp. Phải mất 5 năm tôi mới trả hết nợ nhà. Năm 1995 con gái tôi thành y sĩ nhãn khoa và có việc làm ngay. Ngày làm lễ Mãn khóa; cầm mảnh bằng trên tay, con gái ôm tôi khóc như chưa bao giờ khóc như thế. Tôi bảo:
– Con vui mừng sao lại khóc dữ thế?
– Cám ơn; Con cám ơn Daddy nhiều lắm; Con đang nghĩ không biết có bao nhiêu ngàn hay chục ngàn đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi mà có bằng Đại học như con. Con thương Daddy nhiều lắm.
– Daddy cũng cám ơn Con; nhờ có con mà cuộc sống của Ba mới có ý nghĩa mà vui sống tiếp bấy lâu nay.
Hai Cha Con dị-chủng ôm nhau cùng khóc. Bạn bè của con biết thì không có gì lạ về sự khắng khích của Hai Cha Con Việt Mỹ nầy; nhưng những người xa lạ thì hiếu kỳ nghĩ suy lung tung nhưng không thể nào ra được đáp án. Cha Việt sao con Mỹ mà không có chút gì là dáng vẻ Việt Nam. Tôi đi làm đem cơm theo ăn nay làm thêm phần cho con gái. Lương của con gái đưa hết cho tôi và chỉ lấy 100 bạc để đổ xăng và ăn quà vặt. Khi cần mua sắm gì thì nói xin. Tôi từ chối cách nào cũng không được nên mở một sổ bank riêng bỏ hết tiền của con gái đưa để khi nó cần đưa lại cho nó. Hai năm sau, em Gái của tôi bán 2 cái nhà cũ để mua cái nhà lớn hơn, tôi bảo con gái vay tiền ngân hàng mua cả 2 cái. Vì không vay được một lúc gần nửa triệu bạc nên tôi dùng cái nhà tôi để thế chấp vay mua 2 cái nhà cho con gái đứng tên và cho mướn.
20 năm trôi qua nhanh. Lưng của tôi bị thoái hóa cột sống nên đau càng ngày càng nhiều. Chân tôi bắt đầu bị tê. Lái xe lúc nào chân cũng phải nhịp nhịp thử coi còn hoạt động được hay không; nhỡ bị tê khi cần thắng mà không xử dụng được thì nguy to. Tinh thần tôi bị hoảng loạn khi nghĩ đến lúc không cữ động được tay chân bởi dây thần kinh bị gai xương sống ép nên không hoạt động được. Mổ xương sống thì xác xuất rủi ro khá cao; nên khi còn gượng đi đứng được tôi không chịu mổ để cắt gai cột sống. Con gái thì đeo theo một bên ít đi chơi ít giao thiệp với bạn bè. Đi làm về là quanh quẩn bên Cha làm tôi thêm lo lắng.
– Sao Con không có bạn trai? Con lập gia đình cho ba yên tâm!
– Ai bảo Ba con không có bạn trai. Bạn trai của con đang ghi tên học tiếng Việt; bao giờ nói được tiếng Việt con sẽ đem về ra mắt Ba. Anh ta người Đức nhưng sinh trưởng ở đây và chịu điều kiện phải sống chung với Ba suốt đời; nhưng con thêm điều kiện phải nói được những câu thông dụng tiếng Việt Nam.
– Ba nói tiếng Anh cũng tạm hiểu được mà Con.
Nhưng con muốn con của con sau nầy phải nói được tiếng Việt, nên anh ta ghi tên học một năm tiếng Việt ở Đại học Victoria.
Tuổi 60 cũng đúng lúc tôi được phép về hưu vì là cựu quân nhân nên sớm hơn dân sự 5 năm. Con Gái thì hối thúc Ba nghỉ việc đi; tiền hưu Ba đủ sức tiêu dùng; nếu có cần mua gì hay đi đâu con lo cho ba được. Tôi xin nghỉ việc về hưu. Sáng nào 5.30AM cũng đi bơi để chữa trị bệnh đau lưng. Con gái cũng đi theo. Sáng nào hai cha con xe ai nấy lái đến hồ bơi. Con tập Gym, cha thì Bơi. Con gái đem quần áo uniform thay đi làm luôn.
Một hôm con gái tôi nói:
– Ngày mai con không đi làm; Ba có muốn con chở Ba đi thăm Bác Hoàn không? Con nghe con gái của Bác nói Bác đã bị đưa vào Viện Dưỡng lão tuần rồi.
– Sau con lại dùng chữ “bị”? Chẵng lẽ Bác Hoàn không muốn vào Nursing home mà bị bắt buộc vào hay sao?
– Bác Hoàn bị stroke té; xe cấp cứu đem vào nhà thương; Bác bị méo mặt và miệng không nói được nên các con của Bác xin Bác sĩ cho vào Viện Dưỡng lão; vì nếu về nhà sau nầy xin vào thì Bộ Y tế sẽ check sức khỏe và trí nhớ khó khăn lắm mới được chấp nhận nên để nhà Thương quyết định thì khỏi phải check gì hết!
– Bác chỉ hơn Ba có 2 tuổi và trí nhớ còn tốt lắm mà! Ừ! Ba với con đi thăm Bác kẻo tội nghiệp; hơn nữa mai mốt Ba có vào sẽ có người thăm lại ba.
– Không bao giờ có chuyện đó Ba đừng mơ; Con không bao giờ gởi Ba vô Viện Dưỡng Lão đâu. Con tập Gym để đủ sức bồng Ba khi Ba cần đến; Con cũng chọn chồng lớn con để phụ với Con. Ba xài Computer và Internet thường xuyên, trí nhớ của ba sẽ không bị Dementia hay Alzheimer.
– Cám ơn con; nhưng con còn công việc và cuộc sống của riêng con.
– Viện Mồ Côi không dành cho con thì Viện Dưỡng Lão cũng không dành cho ba.
– Con nhớ mua trái cây biếu Bác; nhớ đừng mua bánh ngọt vì Bác ấy cử ăn đường.
Hai cha con tôi vào Viện Dưỡng Lão Cửu Long vừa sau giờ ăn sáng; nên gặp Bác Hoàn ngay phòng ăn. Mặt và miệng của Bác Hoàn trở lại gần bình thường và giọng nói tuy có biến giọng nhưng vẫn còn nghe rõ lắm. Bác bắt tay tôi coi vẻ mừng và cảm động lắm nhưng hai mắt lệ ứ tròng. Con gái tôi lúc nào đi với tôi đều là mục tiêu để nhiều người chú ý và tò mò muốn biết về Cha Con Viêt Mỹ nầy. Hơn nữa vẻ trìu mến và lúc nào cũng như nhõng nhẽo với cha từ lúc còn bé thành thói quen làm mọi người càng chú ý hơn. Thăm Bác Hoàn khoảng một tiếng sau hai cha con xin phép ra về. Con gái tôi lái xe ghé Chợ và nói:
– Con đãi ba ăn bún bò Huế.
– Ừ! ăn thì ăn.
Con gái mở cửa cho tôi và kéo ghế cho tôi ngồi; gần như ai cũng quay ngó chúng tôi. Cô bé chạy bàn thì quen quá với cha con tôi vì nhiều lần ăn ở quán nầy.
– 2 tô bún bò Huế phải không Chú?
– Ờ! Cháu cho Chú 2 tô.
Con gái mở cái xách tay của nó ra; mà nó đổi cái xách tay lớn hơn hồi nào tôi không để ý. Nó kéo ra một bịch nylon và kéo Rau kinh giới ra. Nó để rau kinh giới tím qua một bên và nói:
– Cái nầy của Daddy.
Rồi kéo mớ khác là kinh giới xanh và nói:
– Cái nầy của con.
Ông ngồi bàn gần kế bên quay sang
– Cô Tây nầy sau nói tiếng Việt rành quá và rành ăn bún bò Huế hơn cả người Việt Nam!
– Nó là người Việt Nam chứ không phải Tây. Nó chê rau kinh giới tím ăn nồng quá mà tôi thì thích kinh giới tím hơn nên nó hái riêng hai loại cho cha con chúng tôi.
– Cô ta là Dâu của Anh?
– Không. Nó là con gái của tôi.
– Hai tô bún bò Huế được bưng ra; cuộc đàm thoại ngưng tại đây và có lẽ ai cũng liếc mắt xem khi cô Tây 100% vắt chanh và ngắt từng cọng rau bỏ vào tô cho cha. Tôi hãnh diện là đã không lầm khi bỏ công bao năm cơ cực nuôi “con của người ta.”
Về tới nhà chưa kịp thay quần áo thì điện thoại reo. Bạn Hoàn, người tôi vừa đi thăm, phone cho tôi từ Viện Dưỡng Lão.
– Anh mới về tới nhà phải không? Hồi nãy tôi gọi không ai bốc phone. Sau khi Anh về rồi có một Bà trong Viện dưỡng lão này hỏi anh có phải Hải Quân hay không và đứa con gái Mỹ đi theo Anh là con của Anh? Bà ta nói là người quen của Anh ở Nha Trang khi xưa; muốn xin số phone của Anh, nên tôi hỏi Anh trước. Có phải nhân tình cũ ngày xưa hay không? Nếu phải thì vào gặp gấp đi; dễ gì xa xứ gặp cố tri!
– Ừ! Thì Anh cứ cho; có sao đâu. Bốn mươi mấy năm rồi làm sao ai còn nhớ được ai! Một ý nghĩ thoáng qua trong óc tôi: Không lẽ là Mẹ ruột của con gái của tôi? Chứ nếu bà ta là người vợ bỏ tôi ngày nào thì chắc chúng tôi phải nhìn nhau, chứ chẳng lẽ tình chồng vợ sống với nhau 5 năm mà nhìn nhau không ra! Nhưng nếu là mẹ ruột của con gái của tôi, tôi phải làm sao đây, vì dù sao cũng là… “Con gái của người ta”. (Truyện kể vừa nhận qua điện thư hôm 11/10/16).
Xét cho cùng, có một thứ quà “cho không biếu không” từ đấng bậc thánh-hiền ở đâu đó rất quí-giá vẫn luôn trao cho mọi người mà người người lại ít để ý hoặc trân trọng. Đó là “sự lặng thinh” rất “nhưng-không”! Có trân-trọng quà tặng quí-giá này rồi, bạn và tôi, ta mới thấy hay/thấy đẹp bài thơ được lồng nhạc ngoại-quốc rất như sau:
“Chào bạn xưa là bóng tối ơi. Giờ này là giờ bạn đến với tôi. Kể chuyện bạn nghe chuyện tôi mơ tối qua. Chuyện mộng mơ mà tôi không dứt ra. Mộng tình chất ngất nằm sâu rất kỹ
đến với tôi giữa đêm vàng. Thành một lời vang của âm thầm.
Chỉ một mình tôi đi giữa giấc mơ. Chỉ một mình tôi đi giữa phố xa. Hàng cột đèn nghiêng nghiêng buông lơi ánh êm. Đường dài quạnh hiu nên tôi vọng nhớ thiết tha . Rồi thì thấy thấp thoáng màu ánh sáng yếu ớt
chiếu trên đường giữa đêm trường. Gặp một lời than của âm thầm.
(Nhạc: Sound of silence – Lời: Phạm Duy – Tiếng Âm thầm)
Thế đó, là: ý-nghĩa của cụm-từ “Âm-thầm, lời của lặng thinh” được diễn-tả qua hành-xử và mộng-ước của người và của mình, rất trong đời.
Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn những đêm dài khó ngủ
Lại nghe được những điều
Rất như thế.
TRUYỀN GIÁO BẰNG SỨC MẠNH THIÊN CHÚA
Lm Jos Tạ Duy Tuyền
Có một người mẹ mỗi lần đi dạo cùng con thường đặt những câu hỏi vừa để đùa vui vừa để tạo nên sự thân mật. Một lần nọ, người mẹ hỏi con: “Điều gì lớn lao nhất mà con gặp được trên đời này?”. Đứa trả lời không chút đắn đo: “gương sáng của mẹ” .
Cuộc đời thật cần gương sáng. Gương sáng để đẩy lùi điều xấu. Gương sáng giúp cho xã hội bớt cái xấu và giúp cho cái tốt, cái thiện phát triển mạnh hơn. Gương sáng ở nơi gia đình sẽ giúp cho mọi thành viên sống tốt hơn. Gương sáng nơi học đường sẽ giúp cho nhà trường rạng rỡ hơn. Gương sáng giữa bạn bè sẽ giúp nhau thăng tiến. Gương sáng ở nơi môi trường sống sẽ đẩy lùi những tệ nạn, những trào lưu văn hóa xấu.
Hôm nay là ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo, thiết tưởng chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo hội có nhiều gương sáng sống đạo, hơn là những người giảng thuyết mà thiếu gương sáng giữa đời. Đây cũng là điều đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đề cập đến trong tông thư Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba rằng : “Sở dĩ thế giới không nhận ra Đức Kitô nơi Giáo Hội và nơi mọi người Kitô hữu vì hai lý do: Một là vì Giáo Hội không biểu lộ được Đức Kitô ở trong mình ra cho thế giới; hai là vì Giáo Hội chưa sống với Đức Kitô như là một người của Thiên Chúa để làm cho thế giới cảm nghiệm được sự sống dồi dào của Chúa Giêsu, sức thánh hoá mãnh liệt của Chúa Thánh Thần và nhất là tình yêu vĩnh cửu của Chúa Cha, qua Giáo Hội”.
Chính vì thế ngài đã kết luận: “Nhân loại ngày nay không cần nhiều thầy dậy, nhưng cần các chứng nhân”. Tông đồ là người làm chứng cho Chúa Kitô. Qua người tông đồ, Chúa Kitô được nhận biết và yêu mến. Đây mới là những thợ lành nghề mà Chúa Giê-su hằng ao ước có nhiều trên cánh đồng truyền giáo hôm nay.
Chính Chúa Giê-su đã không truyền giáo bằng những lễ hội hoành tráng, càng không truyền giáo bằng những bài giảng thuyết hùng hồn. Ngài chỉ âm thầm đi vào trần gian để trở nên muối men cho đời. Ngài sống hòa vào dòng chính của xã hội, để có thể gần gũi, cảm thông và yêu mến mọi người.
Điều này đã được thánh Gioan Tông đồ quả quyết: “Ngôi lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta”. Vâng, Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người, để có thể gần gũi, cảm thông và chia sẻ với những khổ đau của con người. Cuộc sống của Ngài đã trở thành trở thành lẽ sống cho con người, “Sống để yêu thương”, và Ngài đã đi trọn con đường tình yêu là “dám chết cho người mình yêu”. Vì vậy, cách thức duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Lời Chúa và giáo huấn của Chúa phải trở thành cung cách sống của người tín hữu khi biết sống yêu thương. Giữa việc mang danh kytô hữu và sống đời kytô hữu phải nên một trong con người có đạo mới thực sự trở thành chứng nhân cho Chúa.
Vì vậy, Truyền giáo không thể chỉ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ là hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền giáo không phải là việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền giáo không phải là nói thật hay, thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời như muối như men ướp mặn trần gian. Truyền giáo phải như cuộc đời Chúa Giê-su đi vào cuộc đời để dựng xây một thế giới thắm đượm tình Chúa tình người hầu mang lại niềm vui và hạnh phúc cho nhân thế.
Hôm nay nhân ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của chúng ta đã trở nên dấu chỉ của người kytô hữu hay chưa? Ngày xưa cộng đoàn tín hữu tiên khởi họ đã sống thật hiệp nhất với nhau, ngày ngày họ đến hội đường để nghe các tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ của ăn với nhau, để không ai phải thiếu thốn. Họ được toàn dân thương mến và ngày càng có thêm nhiều người gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn xứ đạo chúng ta cũng được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến, đầy thiện cảm và tôn trọng, và ngày càng có những người muốn sống đời kytô hữu như chúng ta. Amen
HAI NGƯỜI CẦU NGUYỆN
Lm. Anthony Trung Thành
Suy Niệm CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN C
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy hình ảnh hai người lên đền thờ cầu nguyện. Họ khác nhau về nhiều mặt: về địa vị, về thái độ cầu nguyện và đặc biệt kết quả của lời cầu nguyện của họ cũng khác nhau.
- Người Biệt phái
Biệt Phái hay còn gọi là Pharisiêu. Đây là nhóm tín đồ Do Thái giáo. Họ thông thạo Lề Luật, tuân giữ luật cách nhiệm nhặt, tự cho mình là thánh thiện. Họ sống tách biệt với dân nghèo và dân ngoại. Hôm nay, một người trong nhóm Biệt phái đó lên đền thờ cầu nguyện. Ông đứng thẳng. Ông kể công đức của mình với Chúa: “Tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng cho Chúa một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi” (Lc 18,12). Theo luật Do Thái, mỗi năm chỉ buộc ăn chay một lần vào ngày Đền tội (x. Lv 16,19-31), và chỉ buộc dâng cúng một phần mười hoa lợi từ ruộng đất của mình (x.Tl 14,22). Vậy mà, người biệt phái này ăn chay mỗi tuần hai lần, dâng cúng một phần mười tất cả các thứ hoa lợi, tức là ông dâng cả những phần hoa lợi mà luật không buộc. Nếu xét theo việc làm của ông, thì quả thật ông không phải là một người xấu. Trái lại, ông là một người tốt, đáng khen ngợi và những việc làm của ông đáng cho mọi người học tập. Nhưng đáng tiếc là ông làm tất cả những điều đó không phải vì yêu mến Thiên Chúa nhưng vì yêu mình.
Vì thế, ông mắc vào những thứ sai lầm sau đây: Sai lầm thứ nhất, ông tự đề cao mình khi cho rằng những gì ông làm được là do sức ông chứ không phải do ơn ban của Thiên Chúa. Sai lầm thứ hai, ông dựa vào các công đức của mình để đòi buộc Thiên Chúa ban ơn cho ông. Sai lầm thứ ba, ông dựa vào công đức của mình để khinh thường người khác: “Tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia” (Lc 18,11). Thái độ và lời nói của ông sặc mùi kiêu ngạo, thiếu bác ái với anh em mình. Vì vậy, lời cầu nguyện của ông không được Chúa chấp nhận, chính Đức Giêsu đã nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống” (x. Lc 18,14). Như vậy, người biệt phái đến đền thờ không phải là để cầu nguyện cho bằng để kể công với Chúa. Ông đến đền thờ là vì ông chứ không phải vì Chúa.
Xét mình lại, có thể ít nhiều chúng ta vẫn có thái độ như người biệt phái kia: kể công với Chúa vì mình làm được chuyện nọ chuyện kia như đi lễ, đi nhà thờ, lần hạt, xưng tội rước lễ, làm việc bác ái…; hay khi chúng ta dựa vào những công việc mình làm được để khinh thường người khác?
- Người thu thuế
Trong xã hội Do thái thời bấy giờ, ai làm nghề thu thuế là người đó tiếp tay cho ngoại bang, ức hiếp dân lành. Họ thường áp đặt lên người dân những khoản thu nặng nề, quá mức cho phép. Họ có thể lợi dụng chức quyền để tham ô, tham nhũng. Vì vậy, người thu thuế được đồng hóa với người tội lỗi, ngang hàng với bọn gái điếm. Tin mừng cho chúng ta biết, cùng lên đền thờ cầu nguyện hôm nay còn có một người thu thuế. Thái độ của người thu thuế khác với người biệt phái: ông không có việc lành để dâng cho Chúa. Ông chỉ có tội lỗi. Ông thực sự là người khốn nạn, đáng trách, đáng phạt không phải thời bấy giờ mà cả trong xã hội chúng ta ngày hôm nay. Nhưng, ông lại có tấm lòng khiêm tốn. Bởi vì, ông nhận ra tội lỗi của mình. Ông thống hối ăn năn và đến đây để xin Chúa tha thứ. Tin mừng kể: “Ông đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội’.” (x. Lc 18,13). Vì thái độ và tấm lòng khiêm tốn của ông nên Đức Giêsu cho biết: “Người thu thuế ra về và được khỏi tội.” Ngài còn khẳng định: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (x. Lc 18,14).
Xét mình lại, có thể chúng ta giống người thu thuế khi đi lễ mà không bao giờ vào nhà thờ, chỉ đứng xa xa, không phải vì khiêm nhường mà vì thói quen. Có thể chúng ta giống người thu thuế ở điểm lỗi công bằng, tham ô tham nhũng nhưng không chịu sám hối ăn năn và đền bù tội lỗi của mình. Ước gì chúng ta giống người thu thuế ở điểm này, đó là thái độ khiêm nhường, biết nhận ra tội lỗi của mình để biết thống hối ăn năn, xin Chúa tha thứ.
- Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta
Thứ nhất, cần phải tránh xa tội kiêu ngạo. Người kiêu ngạo thường đề cao mình, đề cao công trạng của mình, đẩy Thiên Chúa ra bên lề của cuộc đời mình. Mặt khác, vì muốn đề cao mình, nên người kiêu ngạo thường hạ thấp kẻ khác bằng các thủ đoạn: nói xấu, nói hành, bỏ vạ cáo gian. Kiêu ngạo là một trong bảy mối tội đầu. Vì thế, người mắc tội kiêu ngạo sẽ dễ sinh ra biết bao nhiêu tội lỗi khác. Lịch sử cứu độ cho chúng ta thấy: Vì kiêu ngạo nên Thiên thần Luxife đã bị Thiên Chúa giáng phạt xuống hỏa ngục; vì kiêu ngạo nên Tổ tông loài người đã sa ngã phạm tội; vì kiêu ngạo mà biết bao người đã sa ngã phạm tội cách này cách khác trong đạo ngoài đời. Lời cầu nguyện của kẻ kiêu ngạo sẽ không được Thiên Chúa nhận lời. Nên chúng ta cần tránh xa tội kiêu ngạo.
Thứ hai, cần phải luyện tập nhân đức khiêm nhường. Khi đề cao gương của người thu thuế, Đức Giêsu muốn chúng ta học nơi ông sự khiêm nhường, nhận biết mình là người tội lỗi cần được tha thứ. Vì mỗi người chúng ta là kẻ tội lỗi. Chúng ta mắc tội Tổ tông. Chúng ta mắc tội riêng. Để được tha thứ tội lỗi cần phải có lòng khiêm nhường thống hối ăn năn. Khiêm nhường là nhân đức nền tảng của mọi nhân đức. Người khiêm nhường sẽ được Thiên Chúa yêu thương và mọi người mến chuộng. “Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tâng mây” (Hc 35,15).
Lạy Chúa Giêsu là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin loại ra khỏi chúng con tính kiêu ngạo và giúp chúng con biết sống khiêm nhường trước mặt Chúa và anh chị em mình. Amen.
VỖ NGỰC và ĐẤM NGỰC-Trầm Thiên Thu
(CN XXX TN/C – Lc 18:9-14)
Có hai người lên đền thờ cầu nguyện
Một thu thuế và một Pharisêu
Pharisêu đứng thẳng và ngước cao
Tự VỖ NGỰC nhận mình luôn nghiêm túc
Lại còn dám buông lời chê người khác
Khi cầu nguyện mà lại quá bất nhân
Người thu thế ĐẤM NGỰC và nguyện thầm:
“Xin thương xót vì con đầy tội lỗi!”
Người VỖ NGỰC thì tội chồng lên tội
Người ĐẤM NGỰC được Thiên Chúa thứ tha
Vì ảo tưởng mà kiêu ngạo, chua ngoa
Cứ tưởng mình là “chiên ngoan của Chúa”
Mà thật ra lại chính là quỷ sứ
Đội lốt chiên làm ra vẻ từ tâm
Ai VỖ NGỰC sẽ bị Chúa hạ liền
Thiên Chúa chỉ xót thương ai ĐẤM NGỰC
MÃNH LỰC LỜI NGUYỆN
Lm. Minh Vận, CMC
Xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người ta thường phân thành hai đẳng cấp cách biệt nhau, đôi khi còn đối nghịch miệt thị nhau, như chúng ta thấy Chúa đề cập tới trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay.
Thượng cấp: Các thầy thông giáo, biệt phái, luật sĩ và phái pharisiêu là bậc thầy được dân chúng tôn là hàng đạo đức, người công chính. Vì thế, họ thường được trọng kính, được bái chào ngoài đường phố, dành chỗ danh dự nơi bàn tiệc, chiếm chỗ nhất nơi hội đường; mang y phục lộng lẫy, tua rua dài, thẻ bài lớn, huy chương đầy ngực.
Hạ cấp: Trái lại, các nhân viên thâu thuế lại bị liệt vào hạng người tội lỗi, kẻ bất lương đáng khinh bỉ; vì họ là những viên chức của chính quyền Roma, như những tay sai của ngoại bang, tôi tớ của đế quốc, những hạng người bị gọi là mọt dân, đục khoét, hối lộ, hà hiếp, bóc lột dân chúng.
- ĐỂ CẢNH TỈNH NGƯỜI KIÊU CĂNG
Để cảnh tỉnh những con người kiêu căng, tự cao, tự đại, tự tôn mình là người công chính và khinh dể kẻ khác, Chúa đã nêu ra một dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện:
Người biệt phái với điệu bộ huênh hoang, thay vì dâng lời ngợi khen chúc tụng Chúa, ông ta lại liệt kê một loạt những công phúc việc lành ông đã thực hiện; thay vì thống hối xưng thú tội lỗi mình để cầu xin Chúa tha thứ, ông lại phang phui các tội lỗi của người khác. Sau cùng, ông đã tự mãn kết tội: “Tôi không như tên thu thuế khốn nạn tội lỗi dưới kia”. Trái lại, người thu thuế, tự cảm thấy mình là kẻ tội lỗi, khép nép đứng đàng xa mãi cuối Đền Thờ, cúi đầu không dám ngước mắt nhìn lên, đấm ngực khẩn cầu ơn tha thứ: “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi”. Để kết thúc dụ ngôn, Chúa đã quả quyết: “Người thu thuế ra về được khỏi tội, còn người biệt phái không đáng lãnh nhận ơn tha thứ “. Rồi Chúa kết luận: “Vì, tất cả những ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống và những ai tự hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
- MÃNH LỰC CỦA LỜI CẦU KHIÊM TỐN
Lời cầu nguyện của những kẻ khiêm tốn có một mãnh lực vô song, vì họ luôn chân nhận mình là một thụ tạo, có nghĩa vụ phải tôn vinh ca ngợi Đấng Tạo Hóa; họ ý thức thân phận thụ tạo của mình là phải hoàn toàn tùy thuộc Đấng dựng nên mình, như những kẻ thụ ân luôn phải cảm tạ Chúa, vì muôn ơn phúc Người đã ban; họ thú nhận mình chỉ là những tội nhân đáng Chúa trừng phạt, nên họ cần phải thống hối ăn năn và khẩn cầu ơn Chúa tha thứ tội lỗi. Sau cùng, họ tự cảm nhận được diễm phúc làm con cái Chúa, nên họ phải luôn dâng lời cảm tạ Chúa là Cha Nhân Từ hằng ban muôn vàn ơn lành cho họ và họ cố gắng sống hết tình con ngoan thảo đối với Chúa.
Vì thế, lời cầu của người khiêm tốn dâng lên được Chúa đoái thương chấp nhận, tha thứ tội lỗi và ban muôn phúc lành cần thiết. Đúng như lời Thánh Phêrô đã quả quyết: “Chúa hằng ban ơn cho người khiêm hạ; nhưng Chúa chống lại kẻ kiêu căng tự phụ”.
Ngoài ra, lời cầu của người khiêm tốn còn có thế lực chinh phục tha nhân trở về với Chúa. Câu truyện sau đây minh chứng điều đó: Bà Dorothy Day từ trần tháng 11, 1980, hưởng thọ 84 tuổi. Khi tường thuật về cái chết thánh thiện của bà, tời báo New York Times đã kể bà là một nhân vật có thế lực nhất trong lịch sử Công Giáo Hoa Kỳ. Sau ngày bà từ giã cõi đời, người ta đã khơi dậy một phong trào, vận động xin Giáo Hội phong Thánh cho bà, vì cuộc đời thánh đức và các công việc từ thiện bái ái bà đã thực hiện để cứu giúp những người nghèo đói túng thiếu ở thành phố New York.
Trong cuốn sách nhan đề: “From Union Square to Rome”, bà đã tự thuật cuộc trở lại Công Giáo của bà như sau: “Một điều lôi cuốn tôi trước hết, là một hôm, tôi thấy hình ảnh một bà mẹ đang quì đăm chiêu sốt sắng cầu nguyện. Hình ảnh ấy đã lay động lòng tôi cách mãnh liệt và sâu xa, đến nỗi không bao giờ tôi có thể quên được”. Cũng trong cuốn tự thuật đó, bà còn viết: “Trong những ngày đầu khi tôi mới trở lại, tôi thường nghỉ đêm ở quán trọ, để sáng mai tôi có thể tới dự Thánh Lễ sớm tại nhà thờ Thánh Giuse; điều lôi cuốn tôi đến nhà thờ này, là tôi được thấy người ta quì cầu nguyện cách sốt sắng”. Bà còn quả quyết: “Tôi khát khao được Đức Tin như họ, và bỗng nhiên tôi được ơn tin vào Chúa, nên tôi đã quyết tâm gia nhập Giáo Hội Công Giáo”.
III. SỰ SÁNG CÁC CON PHẢI CHIẾU GIÃI
Mãnh lực nào đã chinh phục bà Dorothy Day từ một người ngoại trở lại Công Giáo? Sức mạnh nào đã biến đổi con người của bà, từ một người phụ nữ tầm thường đã trở nên một người thánh thiện, hăng say xả thân phục vụ trong công cuộc từ thiện bác ái, cứu giúp những người nghèo khó cùng khổ? Đó chính là hấp lực gương sáng của những người có Đức Tin vững mạnh khi họ khiêm tốn sốt sắng cầu nguyện.
Một Cha già Việt Nam, dâng Thánh Lễ trong một cộng đồng người Mỹ. Sau Thánh Lễ, một số người đã tới bày tỏ: “We are very happy to attend your Mass”. Ngài hỏi: “Why?” Họ đã trả lời: “You believe what you do”.
Những người đã từng được chứng kiến Đức Thánh Cha Piô XII cầu nguyện, đều đồng thanh quả quyết: “Ngài giống như một Thiên Thần sốt mến”.
Cha Thánh Gioan Maria Vianney thường xuyên thấy một ông già nông dân vào nhà thờ quì gối thầm lặng, mắt đăm chiêu nhìn lên nhà tạm Thánh Thể Chúa cách sốt sắng phi thường. Một hôm, ngài hỏi cho biết ông cầu nguyện thế nào, mà không thấy ông nói gì với Chúa. Ông trả lời đơn sơ: “Je Le vois, Il me voit. Ca suffit”. Xin tạm dịch: “Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con. Thế là đủ rồi”.
Một cụ già nhà quê, là một trong những người được mời đến thẩm vấn, để lập án xin phong Thánh cho Cha Gioan Maria Vianney, đã được ông phát biểu một nhận định thâm thúy về Cha Gioan Vianney như sau: “Tôi nhìn thấy Thiên Chúa nơi con người Cha Gioan Vianney”.
Kết Luận
Khi dâng hay tham dự Thánh Lễ, tham dự các giờ phượng tự hay bất cứ một việc đạo đức nào, chúng ta có cảm nghiệm được rằng: Chúng ta đang được diễm phúc diện kiến với Thiên Chúa, tâm sự với Đấng thánh thiện và uy linh cao cả, Đấng đáng yêu mến vô cùng, Đấng mà các Thần Thánh trên trời, các chính nhân dưới thế và muôn loài muôn vật phải hết lòng yêu mến, phụng thờ, kính tôn?
Khi giao tiếp với tha nhân, nhất là khi chúng ta làm việc phụng sự Chúa, người ta đã gặp thấy Thiên Chúa nơi chúng ta và cảm nghiệm được Thiên Chúa đang tưởng nghĩ, nói năng và hành động nơi con người chúng ta chưa?
NÂNG LÊN VÀ HẠ XUỐNG
Lm Giuse Đinh lập Liễm
CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN C
+++
- DẪN NHẬP
Trong các bài Tin mừng của các Chúa nhật trước, Đức Giêsu đã dạy các tông đồ phải cầu nguyện với lòng tin tưởng, biết ơn và kiên trì. Chúa nhật này Ngài còn tiếp tục dạy các ông phải cầu nguyện trong tinh thần khiêm nhường và thống hối, vì Thiên Chúa luôn tỏ ra thương yêu những người công chính và nghèo hèn bé mọn. Để nói lên tư tưởng ấy, Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện.
Trong khi cầu nguyện hai người có hai thái độ khác nhau và trái ngược nhau. Người biệt phái tự mãn khoe khoang những việc tốt lành của mình. Ông ta nghĩ rằng nhờ có những việc tốt ấy mà Thiên Chúa phải ban cho ông ơn cứu chuộc, lại còn tỏ ra khinh miệt người thu thuế tội lỗi nữa. Ngược lại, người thu thuế không có gì để khoe khoang. Ông biết ông là một tội nhân, ông nói ít lời, nhưng thái độ của tâm hồn ông đã làm đẹp lòng Chúa. Lời cầu nguyện khiêm nhường của ông làm cho ông nhận được ơn tha thứ.
Qua dụ ngôn này, ta nhận thấy, mặc dù người biệt phái này thích khoe khoang những công đức của mình, lại còn khinh dể người khác, nhưng cái sai trái lớn của ông là ông tự cho mình làm được mọi sự mà không cần đến ân sủng và sự tha thứ của Thiên Chúa. Còn người thu thuế nhận thấy mình thiếu thốn, chỉ biết phó thác cho lòng thương xót của Chúa, kêu xin với lòng khiêm nhường, ông đã được Chúa nhận lời ban ơn tha thứ. Đúng là :
Muôn đời Chúa cự kiêu căng,
Và người khiêm nhượng Chúa hằng ban ơn.
(Gc 4,6)
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Hc 35,15b-17.20-22a.
Chúa nhận lời kêu xin của kẻ nghèo hèn. Đây là chủ đề của đoạn sách Huấn ca này. Trong một xã hội, tiền bạc và quyền lực là tất cả, “dân nghèo” không có cơ may. Nhưng bài đọc 1 hôm nay khẳng định Thiên Chúa đối xử tử tế với hết mọi người. Ngài không thiên vị người giầu có và quyền thế. Ngài lắng nghe lời cầu nguyện khiêm nhường của người công chính và bé mọn, vì Ngài là thẩm phán công minh và là người Cha nhân hậu.
+ Bài đọc 2 : 2Tm 4,6-8.16-18.
Thánh Phaolô đang bị cầm tù ở Rôma. Ngài biết cuộc đời của mình sắp được kết liễu. Trong thư gửi cho Timôthêô, Ngài đã nói lên những suy nghĩ rất lạc quan :
– Ngài sung sướng vì mình như một vận động viên sắp về tới đích vì ngài đã dâng hiến cả cuộc đời mình cho việc rao giảng Tin mừng.
– Ngài cảm tạ Chúa vì đã ban sức mạnh cho ngài được vượt qua những gian lao thử thách phải chịu. Ngài còn nôn nóng mong chờ ngày ngài được gặp lại Đấng mà ngài đã dành trọn cuộc đời mà phục vụ.
– Cái chết của ngài sẽ là một lễ tế dâng cho Chúa và ngài đón chờ vinh quang Chúa sắp ban cho ngài.
+ Bài Tin mừng : Lc 18,9-14.
Bài Tin mừng đưa ra hai mẫu người đối lập nhau về thái độ sống :
- a) Người biệt phái : Ông này tự mãn khoe khoang những việc tốt của mình : không có tội gì cả, lại còn ăn chay, dâng cúng 1/10 lợi tức cho Chúa… Ông ta nghĩ rằng nhờ có những việc tốt ấy mà Thiên Chúa phải ban cho ông ta ơn cứu chuộc. Thực ra, ông ta không có lòng yêu Chúa, chỉ khoe khoang công lênh của mình và Chúa phải yêu thương cũng như ban thưởng cho ông.
- b) Người thu thuế : Người này cũng chẳng có gì để khoe khoang, anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Anh biết anh chỉ là một tội nhân, vì thế anh phó thác mình cho lòng thương xót của Thiên Chúa. Anh chỉ nói ít lời :”Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Thái độ khiêm nhường của anh làm đẹp lòng Chúa và được nhận lời.
Sau cùng Đức Giêsu kết luận : Chúa không nhận lời cầu xin của người biệt phái mà chỉ nhận lời cầu xin của người thu thuế vì “ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ai hạ mình xuống ?
- DỤ NGÔN NGƯỜI BIỆT PHÁI VÀ NGƯỜI THU THUẾ.
- Hai mẫu người trái ngược nhau.
Dụ ngôn nói về người biệt phái và thu thuế lên đền thờ cầu nguyện : thái độ của người biệt phái tự mãn về chính mình, về sự thánh thiện của chính mình; còn thái độ của người thu thuế, tuy là một tội nhân, nhưng biết tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Kết quả : một người bị từ chối, một người được chấp nhận. Dụ ngôn này nêu lên hai nhân vật đặc biệt có tính cách tương phản để nói lên hai thái độ khác biệt khi cầu nguyện.
- a) Người biệt phái.
Biệt phái thuộc nhóm Pharisêu, bắt nguồn từ nhóm người đạo đức (Hassidin) có từ thời Maccabê. Những người này sống tách biệt thành những cộng đoàn nhỏ để nên thánh. Họ chuyên cần suy niệm Lời Chúa và tuân giữ tỉ mỉ mọi lề luật thành văn cũng như truyền khẩu. Họ tin linh hồn bất tử, tin có sự sống lại, tin Thiên Chúa là Đấng thông suốt duy nhất. Nhưng họ lại quá bảo thủ những tập tục truyền thống của cha ông hơn cả Thánh Kinh. Họ thi hành luật quá đến câu nệ vào hình thức, giữ từng nét, mà thiếu hẳn Đức Ai. Đức Kitô đã không tiếc lời phê phán họ (Mt 23,13t; Lc 11,39; Mc 12,38t).
- b) Người thu thuế.
Họ là những người cộng tác với đế quốc Rôma, thu thuế của người Do thái nộp cho người Rôma. Họ thường hà khắc để thủ lợi, để làm giầu cho bản thân mình. Hạng người này bị người Do thái căm ghét, khinh bỉ, coi họ là những tội nhân ngang hàng với gái điếm, cần phải tránh xa.
- Hai người lên đền thờ cầu nguyện.
- a) Đền thờ Giêrusalem.
Đền thờ là nơi cầu nguyện, có tầm quan trọng đối với người Do thái. Người ta tụ tập ở Đền thờ vào những ngày sabát, ngày lễ, ngày chay để nghe Thánh Kinh, hát thánh vịnh và cầu nguyện. Tuy nhiên, mỗi người cũng có thể đến đó vào những lúc khác.
Có lẽ người biệt phái và người thu thuế đã lên Đền thờ cầu nguyện vào buổi sáng hay buổi chiều. Cùng với các tín hữu khác, họ đến tham dự nghi thức tha tội được cử hành mỗi ngày hai lần trong Đền thờ.
- b) Người biệt phái cầu nguyện.
Người biệt phái đứng riêng một mình mà cầu nguyện. Ông không muốn đứng gần những người dân thường, sợ mắc phải nhơ uế cuả họ. Ông đứng thẳng người giống người Do thái quen làm khi cầu nguyện.
Lời nguyện của người biệt phái trước hết là một lời tạ ơn, tiếp theo đó là danh sách những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm và cuối cùng là bản báo cáo thành tích vẻ vang của ông : chẳng những ông đã làm các việc đạo đức như Luật buộc, như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ Xá Tội, nộp 1/10 lợi tức cho Đền thờ, mà ông còn tự nguyện làm những việc đó ở mức độ cao hơn, như ăn chay một tuần hai lần, nộp cho Đền thờ 1/10 tiền mua sắm mọi vật mình sử dụng.
Xét ra, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Ông thật là con người đúng mức, một con người hoàn hảo, không có gì đáng chê trách, một tín đồ trung thành với Lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Đây là một lời cầu nguyện mà nhiều người Do thái thời ấy mơ ước. Chúng ta thấy ông không xin gì cho bản thân mình, nhưng chỉ là lời tạ ơn.
Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự kiêu tự mãn nên bao việc lành phúc đức của ông theo “cái tôi” bèo bọt của mình mà trôi ra sông biển hết, lại còn có thái độ khinh bỉ người khác nữa :”Vì con không như bao người khác : tham lam , bất chính, ngọai tình, hoặc như tên thu thuế kia”(Lc 18.11). Nếu ông biết nhìn vào mình và đối chiếu với Đức Kitô thì ông không dám có thái độ ấy.
Còn một cái sai lầm nữa của ông là ở chỗ ông không nhận ra sự công chính là ân huệ Chúa ban (Pl 3,9) chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó, ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
- c) Người thu thuế cầu nguyện.
Người thu thuế cũng đến Đền thờ cầu nguyện. Anh ý thức rằng mình làm cái nghề không tốt đẹp, ai cũng ghét, bị cho là giáo gian, đi cộng tác làm lợi cho ngoại bang. Anh tự cho mình là một tội nhân, ngang hàng với gái điếm (x. Mt 21,31-32). Có lẽ anh đã nghe thấy lời cầu nguyện của người biệt phái (“hay như người thu thuế kia”), nên anh khỏi cần cáo tội mình, anh chỉ đặt mình trước mặt Thiên Chúa, cúi đầu xuống, đấm ngực ăn năn :”Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hòa với anh em, nhưng anh chỉ đứng xa xa vì thấy mình hoàn toàn bất xứng. Ngay lúc đó, anh đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho anh nên công chính.
- d) Kết quả sau lời cầu nguyện.
Sau khi đưa ra hai thái độ cầu nguyện của người biệt phái và thu thuế, thì Đức Giêsu đã phê cho một câu :”Người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không”(Lc 18,14). Đức Giêsu muốn nói, lời cầu nguyện của người thu thuế với thái độ khiêm tốn và thống hối nên được ơn nghĩa với Thiên Chúa và được ơn tha thứ; còn lời cầu nguyện của người biệt phái với thái độ tự mãn thiếu lòng khiêm tốn và hoán cải, vì ông chỉ để ý đến sự công chính của riêng mình nên không được ơn nghĩa gì trước mặt Chúa và không được tha thứ. Người biệt phái này tuy tốt về phương diện không sai lỗi luật, nhưng ông không nhận ra rằng những ân tứ ông đang có là do Chúa ban cho chứ không phải tự ông mà có. Cái sai lầm của ông ở chỗ ông không nhận ra sự công chính là một ân huệ của Chúa ban, nên ông đã tự mãn về sự công chính của ông.
Chúa đã tha thứ cho người thu thuế, còn người biệt phái thì không “vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 18,14). Người ta thường nói :”Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”. Người phàm còn biết tha thứ cho kẻ hối lỗi, huống chi Thiên Thiên Chúa tốt lành vô cùng lại không sao ? Nhiều lần, Đức Giêsu bày tỏ cho chúng ta biết : Thiên Chúa như Mục tử nhân lành, bỏ mọi sự đi tìm chiên lạc; như người Cha đầy lòng thương xót, vui mừng đón rước và mở tiệc ăn mừng đứa con đi hoang trở về (x. Lc 15).
- THÁI ĐỘ PHẢI CÓ KHI CẦU NGUYỆN.
- Phải thống hối.
Trong khi cầu nguyện chúng ta phải làm 4 việc : thờ lạy, cám ơn, xin ơn và thống hối. Ta thường quên việc sau cùng này, nên hay đến với Chúa với tâm tình của người biệt phái. Trái lại, người thu thuế thì nhìn rõ trình trạng tội lỗi, bê bối của mình. Anh ta không quan tâm cái gì khác ngoài việc thấy rõ khoảng cách giữa tình trạng xấu xa với tình trạng lành thánh. Dù biết vậy, nhưng anh ta vẫn cố gắng kiên trì vươn lên, đồng thời chỉ còn biết van nài lòng thương xót của Chúa giúp sức mà thôi. Chính thái độ và cung cách đó của anh ta, lại được Chúa tha thứ và thương yêu. Nhận thấy mình tội lỗi, tìm cầu ơn tha tội và kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa, đó chính là khởi điểm cho cuộc sống mới.
Truyện : Qủi không sám hối.
Một hôm có một tên quỉ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng:”Tôi thấy Chúa đối xử không công minh chút nào”! Chúa liền hỏi nó rằng:”Tại sao ngươi dám bảo Ta đối xử không công bằng”? Bấy giờ tên quỉ mới đáp:”Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều tội to lớn, và mỗi tội chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và con ban hạnh phúc Thiên đàng đời đời cho chúng. Còn chúng tôi chỉ phạm tội có một lần duy nhất. Thế mà Chúa không khi nào tha thứ mà còn phạt chúng tôi phải xuống hỏa ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đối xử thiên vị và bất công lắm hay sao” ? Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói:”Loài người có phạm tội đi với Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã phạm đi phạm lại nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều biết hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội cho. Còn lũ quỉ các ngươi, có bao giờ các ngươi hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội cho chưa”? Nghe thấy sám hối và xin tha tội, tên quỉ liền thét lên rằng :”Ma qủi chúng tôi không đời nào chấp nhận thái độ hèn hạ là sám hối và xin ai tha tội cho cả”. Nói thế rồi quỉ liền cong đuôi chạy mất.
- Cầu nguyện là đặt mình trước mặt Chúa.
Cầu nguyện không phải là lúc chúng ta đem mình so sánh với người khác, hay kể lể công trạng, nhưng là đặt mình trước sự thánh thiện và công minh của Thiên Chúa, như lời chia sẻ của thánh Phaolô với giáo đoàn Côrintô:”Phần tôi, tôi không mảy may bận tâm về việc anh em hay phiên tòa nhân loại nào xét xử, mà ngay tôi, tôi cũng không xét xử chính mình nữa. Vì cho dù trước lương tâm, tôi không thấy có gì, nhưng không phải cứ thế là tôi được giải án tuyên công. Đấng xét xử tôi, chính là Chúa (1Cr 4,3-4). Chỉ khi chúng ta đặt mình trước ánh sáng của Thiên Chúa, chúng ta mới thấy rõ sự bất toàn, và thiếu thốn của mình, nhờ đó, chúng ta mới có thể mở lòng mình đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
Cầu nguyện còn là mở lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa. Cầu nguyện là giây phút chúng ta nhìn lại, để nhận rõ con người yếu đuối của mình. Chúng ta cần biết những thiếu thốn của mình, để có thể mở lòng đón nhận tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Tin mừng ghi lại :”Người thu thuế đứng đàng xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng:”Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Người thu thuế đã không dám ngước mắt lên, vì anh ta biết mình là kẻ có tội, vì thế anh ta cũng biết rõ mình cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Người thu thuế đã kêu cầu đến lòng thương xót của Thiên Chúa, và anh đã được Thiên Chúa xót thương.
- Cầu nguyện không chỉ là tạ ơn.
Xem thái độ cầu nguyện của người biệt phái, ta thấy ông ta rất tự hào và tự mãn. Ông ta đem cái kho công nghiệp của ông để trình bầy cho Chúa. Nhưng khốn nỗi, cái kho đó lớn quá đến độ nó ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa mà chỉ còn thấy chính mình. Có nhiều chữ tôi trong lời cầu nguyện của ông. Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như thế này, không như người khác. Rốt cuộc, ông biệt phái lại là người quay vào mình, ông ngắm nghía vẻ đẹp của ông trước Thiên Chúa. Ông khép lại trên chính mình, dù chúng ta tưởng ông đã mở ra khi nói :”Lạy Thiên Chúa, con tạ ơn Ngài”. Tạ ơn thực sự là nhìn nhận mọi sự mình làm được đều do ơn Chúa ban. Tạ ơn là quay về với Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là Nguồn mạch, là Trung tâm, là Sức sống của cả đời mình, của những việc tốt mình làm được.
Ông biệt phái đã không tạ ơn thực tâm, vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp ông đã làm. Như thế Thiên Chúa là một người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Người biệt phái không xin Chúa điều gì, bởi vì ông không thấy mình thiếu gì cả. Thiên Chúa chẳng thể cho ông điều gì, vì ông đã đầy ắp. Vì tự mãn, nên ông mất đi một khả năng quan trọng, đó là mở ra để đón nhận Thiên Chúa vào đời mình (Augustine).
- Cầu nguyện với thái độ khiêm nhường.
Tục ngữ ta có câu :”Cái thùng trỗng thì kêu to” hoặc “Biết ít thì khoe khoang, biết nhiều thì khiêm tốn”. Thêm một danh nhân có nói đại ý : người khiêm tốn là người sáng suốt vì biết mình và biết người, còn người kiêu căng thì ngược lại… Vũ trụ thế giới có biết bao điều kỳ lạ. Càng sống, càng học ta phải nhận ra mình còn “dốt”, vì hiểu biết thì hạn hẹp, so với cả thế giới thì chẳng nghĩa lý gì. Huống chi là dám kể công với Chúa, Đấng sáng tạo vũ trụ muôn vật thì quả là một sai lầm biết bao !
Cầu nguyện không phải là dâng kiến nghị đòi hỏi, nhưng là cậy trông và phó thác vào Chúa Quan phòng, đại lượng vô song, khôn ngoan vô cùng. Sau nữa, khi cầu nguyện ta không được tự cho mình là hơn kẻ khác. Ta phải luôn nhớ rằng ta thuộc về đoàn lũ đông đảo những kẻ có tội, được Con Thiên Chúa đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc cho. Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ qùi xuống bằng đầu gối, mới vào được.
Truyện : Hãy qùi gối xuống.
Tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, có một bức tượng Chúa chịu nạn do Thorvaldsen (1770-1844), nhà điêu khắc Đan mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng. Ông ta nhìn mãi, rồi lắc đầu nói :
– Tôi nghe đồn bức tượng này nổi tiếng là đẹp lắm. Nhưng tôi chả thấy gì là đẹp cả.
Một người quì sau lưng ông, nói :
– Ông phải qùi xuống mới thấy đẹp.
Ông du khách quì gối xuống. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa chịu nạn.
Muốn đến gần Chúa, muốn được Chúa dủ tình thương xót, ta cũng phải qùi gối xuống mà van xin.
III. KHIÊM NHƯỜNG TRONG CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY.
- Nết xấu hàng đầu : Kiêu ngạo.
Trong kinh bảy mối tội đầu, ta đọc thấy ngay : Cải tội bảy mối có bảy đức, thứ nhất khiêm nhường chớ kiêu ngạo”. Qua đó ta thấy kiêu ngạo là nết xấu làm đầu mà không ai tránh được, kẻ nhiều người ít vì nó đã thâm căn cố đế vào trong con người ta.
Liền sau khi con người phản bội, Thiên Chúa hiện đến chỉ vào mặt :
– Hỡi người, hãy nhớ mình xuất thân là một hạt bụi (St 11,19).
Đã là một hạt bụi thì chớ nên tự cao tự đại.
Thế nhưng, người đời mấy ai còn nhớ tới lời dặn bảo của Thiên Chúa !
Tính kiêu căng rõ là một chứng bệnh gia truyền nan trị. Nó nan trị vì nó bắt nguồn từ tính TỰ ÁI.
Tự ái, ích kỷ, ngu muội, là ba chứng bệnh nguy hiểm mà nhà Phật gọi là Tham, Sân, Si.
THAM là vì ích kỷ.
SÂN là vì tự ái.
SI vì ngu muội.
Trong ba chứng bệnh nói đây thì SÂN là khó diệt hơn cả. Bởi vì tự ái là một thói xấu sống dẻo dai bậc nhất, đến nỗi thánh Phanxicô Salêsiô phải nói :”Nó chỉ ngưng hoạt động 15 phút sau khi tôi chết”.
Nếu nói rằng kiêu ngạo có nguy hiểm gì đâu, làm gì bằng tội giết người ? Nhưng thực sự nó nguy hiểm nhất trong các tội, vì nó làm hỏng các tính tốt và làm phát sinh ra các tính xấu khác. Người kiêu ngạo xem mình là trung tâm điểm, thay thế cho Thiên Chúa. Họ quay ra thờ ngẫu thần : đó là họ tôn thờ chính mình. Họ không coi Chúa là trung tâm điểm nữa. Tha nhân không là gì khác mà chỉ là những diễn viên trong một vở kịch, mọi người phải lo phục vụ cho riêng họ. Họ trở nên tự tôn tự đại, muốn cho mọi người để ý đến mình, họ tự tạo ra những hàng rào ngăn cách, tạo ra giai cấp, những chênh lệch trong xã hội, tạo ra xung khắc giữa người này người khác, dân này với dân khác, nước này với nước khác, kỳ thị da trắng da đen…
Họ coi thế giới như là của riêng mình. Mình có thể dùng khoa học để điều khiển được tất cả theo ý mình. Con người có thể tự tạo ra được hạnh phúc, biến thế giới này thành thiên đàng. Họ loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài để thành lập một thứ tôn giáo mới, trong đó con người được tôn thờ chứ không phải là Thiên Chúa nữa.
- Tính tốt hàng đầu : Khiêm nhường.
Ai cũng thích người khiêm nhường, ai cũng ca tụng đức khiêm nhường, nhưng ít người thực hiện được đức khiêm nhường, thậm chí lại có người đả kích tính khiêm nhường. Môn phái của triết gia Nietzsche nói thẳng thừng:”Khiêm nhường là đức tính của kẻ nô lệ”.
Sự thật thì Khiêm nhường tức là hiểu biết mình, là can đảm nhìn thẳng vào sự thật. Vì thiếu can đảm nhìn thẳng vào sự thật, nên người ta ai cũng sợ mình, và sợ mình hơn hết. Kẻ mà tôi tìm cách tránh né nhất là … chính mình tôi. Cần phải là người quân tử mới dám đối thoại với mình. Cuộc đối thoại với chính mình là cuộc đối thoại hồi hộp nhất, dễ sợ nhất. Nhiều lúc bi đát, đắng cay, xỉ nhục vô cùng cho tính tự ái. Nhưng tôi cần nó để tự giác và sống làm người.
Đức Khổng Tử đã nói:”Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri tức tri dã” : Cái gì biết thì cho là biết, cái gì không biết thì chịu là không biết, ấy là biết vậy.
Người ta thường nói :”Cao nhân tức hữu cao nhân trị” hay “Bảy mươi còn học bảy mốt”, đã cho thấy rằng dù ta có giỏi đến đâu cũng có người giỏi hơn. Ta phải tự thấy rằng mình chưa biết, trình độ mình còn kém thì ta mới có thể thâu nhận những lời dạy bảo của người khác, có như thế ta mới tiến bộ và có thể hiểu biết mình nhiều hơn được. Nhà tư tưởng Blaise Pascal nói rất đúng:”Tôi chỉ biết một điều là tôi chẳng biết gì cả”. Nói như thế có vẻ cường điệu, nhưng nó nói lên sự hiểu biết hạn hẹp của con người đối với ngoại vật, nhất là đối với chính mình.
Tâm tính người đời bất cứ ai làm việc gì thường muốn như ngọn hải đăng, càng đặt lên cao, càng chiếu rọi ra xa, nhưng đồng thời chung quanh dưới chân hải đăng tối tăm mờ mịt. Vì thế, một vị Linh mục dòng Tên nói:”Đức khiêm nhường của người công giáo không phải là ngọn hải đăng, nhưng là một ngọn đèn giấu kín giữa bản thân, nó có sức chiếu sáng khắp cùng thân thể, thấu ra bên ngoài, không nơi nào không có ánh sáng”.
Theo tâm lý chung của con người, thì người ta thích là con công hay múa hơn là một con sò im lìm dưới đáy biển. Con công có bộ lông thật đẹp để làm cảnh cho thiên hạ. Suốt ngày con công chỉ biết múa để mua vui cho thiên hạ :
Con công hay múa,
Nó múa làm sao ?
Nó rụt cổ vào,
Nó xòe cánh ra…
Con công chỉ có một công dụng là múa để làm trò cho thiên hạ, ngoài ra không dùng vào được việc gì. Trái lại, con sò tuy im lìm sống dưới đáy biển, không mấy người trông thấy nó, nhất là không bao giờ trông thấy diện mạo cuả nó, nhưng thịt của nó là một món ăn tốt, thơm ngon. Nhất là… đôi khi nó ngậm một hòn ngọc trai ! Con sò mà ngậm hạt trai thì quí hóa biết bao, bao nhiêu con công cũng không sánh kịp.
Đức Hồng y Mercier kể : Cuộc chiến tranh xong, lần thứ nhất gặp thống chế Foch tôi vui mừng bắt tay và nói :”Chào vị tướng lỗi lạc, đã làm vẻ vang nhân lọai”. Nhưng thống chế giơ tay lên, phân bua và nói :”Thưa Đức Hồng y, chúng tôi chỉ là khí cụ mù quáng trong tay Thiên Chúa”.
Càng thánh thiện càng phải khiêm nhường và phải khiêm nhường thật lòng. Benjamin Franklin đã cảnh giác chúng ta như sau:”Giả như tôi đã tập luyện được nhân đức khiêm nhường rồi, không nghi ngờ gì tôi sẽ trở nên hãnh diện vì nó”. Tôi có cảm giác rằng những người khiêm nhường thực sự phải là những người không biết đến sự khiêm nhường ở nơi mình. Ngay khi chúng ta biết rằng mình đang khiêm nhường , cũng là lúc chúng ta đánh mất nó.
Truyện : Thánh Phanxicô Salêsiô.
Khi nghe thiên hạ kháo láo và gọi mình là thánh, thì thánh Phanxicô nói rằng:”Thiên hạ gọi tôi là thánh, vì họ thấy tôi làm việc thánh; nhưng chắc cha linh hướng của tôi không nghĩ như họ đâu”. Còn khi ngài nghe nói : Ông De Belley phê bình và bảo ngài thiếu trí phán đoán. Khi gặp ông, ngài liền ôm lấy, và tỏ vẻ vui suớng và biết ơn.
- Đức Khiêm nhường cần thiết.
Khiêm nhường là nhân đức quan trọng nhất trong việc nên thánh. Người ta coi khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện. Tất cả những tài năng, nhân đức dường như không có giá trị tự nó (en soi) trước mặt Thiên Chúa. Chúng chỉ nên có giá trị khi đứng chung với sự khiêm nhường, tự hạ. Cũng như những số 0 (zéro) dù nhiều tới đâu cũng chẳng làm cho con số do chúng tạo thành có giá trị gì. Nhưng nếu chúng được dẫn đầu bởi số 1, thì lập tức mỗi số 0 sau đó đều trở nên có giá trị : càng nhiều số 0 đi sau số 1, thì giá trị con số do chúng tạo thành càng tăng lên. Mỗi số 0 sau số 1 đều làm cho con số đã có tăng giá trị lên gấp 10 lần.
TRUYỀN GIÁO BẰNG ĐỜI SỐNG
Tgm Ngô Quang Kiệt
- TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt 28,16-20.
- TẤM BÁNH CHIA SẺ.
Hai thánh Phêrô và Phaolô Tông đồ là hai nhà truyền giáo vĩ đại. Ngay sau khi nghe bài giảng đầu tiên của thánh Phêrô, 3 nghìn người đã xin được rửa tội. Thật là một kết quả ngoài sức tưởng tượng. Còn thánh Phaolô là người ra đi không biết mệt mỏi. Đã thành lập nhiều giáo đoàn. Đã đào tạo được nhiều giám mục. Đã viết nhiều thư dạy dỗ khuyên nhủ. Tuy không được chính thức ở trong nhóm 12, nhưng Ngài vẫn được gọi là Tông đồ. TÔNG ĐỒ viết hoa.
Nhờ đâu cuộc truyền giáo của các ngài có kết quả lớn lao như thế? Trước hết ta phải kể đến ơn Đức Chúa Thánh Thần. Chính Đức Chúa Thánh Thần đã ban cho công cuộc truyền giáo thành công. Tuy nhiên cũng phải có sự đóng góp của các ngài. Cuộc đời của hai thánh Phêrô và Phaolô Tông đồ, trước khi ra đi truyền giáo đã trải qua những bước chuẩn bị chu đáo.
Bước thứ nhất: Gặp gỡ Cha. Thánh Phêrô đã được hạnh phúc sống bên Chúa Giêsu 3 năm trời. Hơn thế nữa, ngài còn được gặp Cha sau khi Chúa Phục Sinh, được Chúa dạy dỗ, cùng ăn uống, cùng trò chuyện với Cha. Còn thánh Phaolô tuy muộn màng nhưng cũng đã gặp được Chúa trên đường đi Đa mát. Được Chúa trực tiếp dạy dỗ trong những năm tháng sống tại sa mạc. Được Chúa đưa lên tầng trời thứ ba. Việc gặp gỡ Chúa đã để lại những dấu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn các ngài. Sau này, các ngài có đi truyền giáo cũng chỉ là để kể lại những điều mắt thấy tai nghe.
Bước thứ hai: Cảm nghiệm được tình thương của Cha. Thánh Phêrô được Cha yêu thương. Điều này ngài đã cảm nghiệm sau 3 năm chung sống với Chúa. Nhưng nhất là sau khi phạm tội chối Thày. Cha vẫn yêu thương tha thứ. Sau khi Phục Sinh, Cha không một lời trách móc. Chỉ nhẹ nhàng hỏi: “Phêrô, con có mến Thày không?”. Và lạ lùng không thể ngờ, Chúa đặt Phêrô lên làm giáo hoàng, coi sóc Giáo Hội của Chúa. Còn thánh Phaolô, trước kia là một người đi bắt đạo. Nhưng Chúa đã cho ngài được ơn ăn năn trở lại. Và tuyển chọn ngài làm Tông đồ đi rao giảng cho dân ngoại.
Cảm nghiệm tình thương của Chúa, các ngài đã đem hết tình yêu đền đáp. Tình yêu đã làm thay đổi hẳn cuộc đời các ngài.
Bước thứ ba: Thay đổi đời sống. Các ngài đã biến đổi từ những con người yếu hèn nên dũng mạnh. Từ tự tin tự phụ vào sức mình đến chỉ tin cậy vào sức mạnh của Thiên Chúa. Từ hoạt động suy nghĩ theo ý riêng đến toàn tâm toàn ý theo ý Cha. Từ sống cho mình đến sống cho Chúa và chết cho Chúa. Tình yêu gắn bó với Cha đến nỗi không có gì có thể tách lìa các ngài ra khỏi Thiên Chúa.
Bước thứ bốn: Hăng hái ra đi truyền giáo. Tình yêu thôi thúc các ngài ra đi làm chứng cho Chúa. Các Ngài đã ra đi không ngừng. Các Ngài sẵn sàng chấp nhận tất cả: làm việc mệt mỏi, gian truân khốn khó, bị xua đuổi, bị chống đối, bị hành hạ, bị giam cầm và sau cùng các Ngài đã hiến mạng sống làm chứng cho tình yêu Chúa.
Chúa và Hội Thánh đang mời gọi chúng ta lên đường truyền giáo. Chúng ta tha thiết muốn làm việc truyền giáo. Hãy noi gương hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô ở ba điểm.
Trước hết phải sống thân mật với Cha. Đây chính là nội lực. Gặp được Chúa. Tiếp xúc thân mật với Chúa. Cảm nghiệm được tình thương của Chúa. Đó là bước khởi đầu quan trọng cho việc truyền giáo.
Tiếp đến, ta phải thay đổi đời sống. Sống tin cậy phó thác. Sống công bình và nhất là sống bác ái với mọi người.
Sau cùng, hãy hăng hái bắt tay vào việc. Trong thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam có đề nghị với chúng ta hãy làm những việc cụ thể. Đó là phải cầu nguyện cho việc truyền giáo, sống nêu gương thánh thiện, đối thoại và nhất là hãy kết nghĩa và làm việc bác ái.
Việc kết nghĩa là học hỏi kinh nghiệm của Giáo Hội Hàn quốc. Vào năm 1983 Hàn quốc có 3 triệu rưỡi người Công giáo. Năm đó, Đức Thánh Cha đi thăm Hàn quốc và phong thánh cho 103 vị tử đạo. Đức Hồng Y Stephano Kim đã hứa với Đức Thánh Cha sẽ hăng hái làm việc truyền giáo. Ngài đưa ra một chương trình đó là mỗi gia đình Công giáo phải truyền giáo cho một gia đình ngoài Công giáo. Mỗi người Công giáo phải truyền giáo cho một người ngoài Công giáo.
Các gia đình Công giáo kết nghĩa với những gia đình ngoài Công giáo. Đi lại thăm viếng, giúp đỡ và giới thiệu Chúa cho họ. Và kết quả thật khả quan. Khoảng 10 năm sau, số giáo dân Hàn quốc đã tăng lên gấp đôi. Người Công giáo Hàn quốc đã hăng hái làm việc truyền giáo và đã có kết quả.
Tai Hà nội có một người Hàn quốc mở doanh nghiệp làm ăn. Doanh nghiệp của ông có khoảng 50 công nhân. Trong đó có mấy thanh niên Công giáo. Một hôm ông hỏi họ: Các anh là đạo gốc, thế các anh đã truyền giáo cho ai chưa? Mấy thanh niên trả lời: Chúng cháu giữ đạo còn chưa xong, làm sao dám truyền giáo. Ông chủ nói: Thế là các cậu thua tôi rồi. Tôi là đạo mới, chỉ theo đạo khi lập gia đình. Và tôi mới tới Việt Nam được 3 năm thế mà tôi đã thuyết phục được hai người vào đạo.
Lạy Cha xin vì lời bầu cử của hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô ban cho chúng con những nhà truyền giáo nhiệt thành. Amen.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU.
-Hai thánh Phêrô và Phaolô đã trải qua những biến đổi nào trước khi trở thành những nhà truyền giáo lớn của Hội Thánh?
-Bạn mong muốn trở thành nhà truyền giáo, bạn phải làm gì?
-Bạn có những kinh nghiệm gì về truyền giáo (của bản thân hoặc của người khác)?
HÃY THẢ LƯỚI BÊN PHẢI THUYỀN
Đtgm Ngô Quang Kiệt
CN 30 TN-C (Lc 5,1-11)
Các Tông đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay Chúa Giêsu bảo các ngài phải ra khơi một lần nữa. Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất vả, thân thể mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với chài lưới. Ngần ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không ngủ, đang cần một giấc ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết ý chí phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết quả thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy hai thuyền đến gần chìm.
Qua bài Tin Mừng này Chúa muốn dạy tôi những bài học về việc truyền giáo.
Bài học thứ nhất: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải lao động đêm ngày. Như các Tông đồ đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương đêm giá lạnh, trong sóng gió biển khơi, trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc. Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi gương các tông đồ. Làm việc không nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn đấu không ngừng. Làm cho hết việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận tất cả những mỏi mệt, những thử thách.
Bài học thứ hai: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tim 4,2). Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.
Bài học thứ ba: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi thanh luyện bản thân. Truyền giáo là công việc thánh thiện nên người truyền giáo phải thánh thiện. Sự thánh thiện khởi đi từ nhận thức thân phận yếu hèn tội lỗi. Và từ đó nảy sinh nhu cầu được thanh luyện. Như Phêrô cảm thấy mình tội lỗi không xứng đáng ở gần Chúa. Như Phaolô ngã ngựa cảm thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng mình ô uế. Sau khi được thanh luyện các ngài đã trở thành những nhà truyền giáo gương mẫu. Thánh hoá bản thân là một điều kiện quan trọng để truyền giáo thành công.
Bài học thứ tư: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì truyền giáo là một công việc thiêng liêng. Nên ta không thể cậy dựa vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm trần. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp. Các ngài biết rõ biển hồ Galilê như lòng bàn tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào. Đó là bài học dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết quả. Việc các tông đồ vâng lời Chúa ra khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải mạn thuyền cho ta thấy một thái độ khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không phải là ngư phủ chính gốc. Dù Chúa Giêsu không hiểu biết biển hồ, nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế, các ngài đã thành công. Người làm việc truyền giáo phải noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những vất vả khổ cực trong việc truyền giáo. Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên trì lên đường truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy bảo, để biết làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin kêu gọi chúng con lên đường truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin thanh luyện chúng con để xứng đáng làm việc truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách làm việc truyền giáo. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1-Truyền giáo là lẽ sống của Hội Thánh, bạn có ý thức điều này không?
2-Muốn truyền giáo phải có những điều kiện nào?
3-Bạn đã bao giờ bắt tay vào việc truyền giáo chưa?
4-Năm nay bạn đã quyết tâm làm gì để đóng góp vào việc truyền giáo?
AI LÀ NGƯỜI CÔNG CHÍNH ?
Thiên Phúc
Ngày kia, Khổng tử dẫn học trò từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất. Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lâm cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi.
Ngày đầu tiên khi đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Tử Lộ và một số môn sinh khác vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm.
Đang khi nằm đọc sách ở nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe tiếng động ở nhà bếp, nhìn xuống, người bắt gặp Nhan hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm nhỏ rồi từ từ đưa vào miệng. Thấy cảnh học trò đang ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở: “Người học trò tín cẩn nhất của ta lại là kẻ ăn vụng?” Khi Tử Lộ và các môn sinh khác trở về thì nồi cơm cũng vừa chín. Khổng Tử cho tập họp tất cả lại và nói:
– Bữa cơm đầu tiên này trên đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy nhớ đến cha mẹ, cho nên muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không? Nhưng liệu nồi cơm này có sạch chăng?
Nhan Hồi liền chắp tay thưa:
– Dạ thưa Thầy, nồi cơm này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con mở vung ra xem thử, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng bụi trần rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm, con đã nhanh tay đậy nồi cơm lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới lớp cơm bẩn vất di, nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em lại đông, nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa Thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng:
– Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ!
***
Cho dù là bậc hiền triết như đức Khổng Tử thế mà suýt nữa đã trở thành kẻ hồ đồ, suýt nữa đã phê phán người học trò rất mực chân thật và khiêm tốn, sẵn sàng chịu thiệt về phần mình để được lợi cho anh em. Đó cũng là cám dỗ rất thường gặp nơi những người được xem là đạo đức thánh thiện, những người đã đắc thủ được một số nhân đức nào đó, đã làm được nhiều việc lớn lao, đã leo lên được chức vụ cao trong xã hội, đã đạt được một số thành tích trong đạo ngoài đời. Họ dễ tự mãn và khinh rẻ người khác lắm, nếu chẳng công khai thì cũng ngấm ngầm, lúc thì giấu được khi thì lộ ra. Chuyện ấy thường tình lắm nên Chúa Giêsu mới nhắc nhở chúng ta qua dụ ngôn: “Người Pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi”.
Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện nhưng thực ra là để khoe khoang thành tích. Ông thưa chuyện với Chúa nhưng thực ra là ông đang độc thoại một mình. Ông “tạ ơn Chúa” nhưng thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn ông.
Quả thật, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Những điều luật cấm ông không dám làm, những điều luật buộc thì ông còn làm hơn mức qui định. Ông thật là con người đúng mực, một con người hoàn hảo, không có gì để chê trách, một tín đồ trung thành với lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự mãn tự kiêu nên bao việc lành phúc đức của ông theo “cái tôi” bọt bèo của mình mà trôi ra sông ra biển hết. Cái tôi của ông quá to, đến nỗi ông chỉ nhìn thấy mình mà không thấy Chúa; công trạng của ông quá nhiều đến nỗi ông chỉ nhìn thấy nó là đức độ của ông chứ không phải là do ơn Chúa; cái tự mãn của ông quá lớn, cho nên ông thẳng thừng khinh miệt anh em.
Sai lầm trầm trọng của ông Pharisêu bắt đầu từ câu này: “Vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc, như tên thu thuế kia” (Lc, 8, 11). Giá như ông đừng so sánh cuộc sống của ông với người khác, mà biết đem cuộc sống của mình đối chiếu với cuộc sống thánh thiện của Đức Kitô, thì ông sẽ nhận ra mình còn thiếu sót biết là bao nhiêu, mình còn bất toàn biết là dường nào. Chính khi đó, ông mới cần đến lòng nhân từ xót thương của Chúa, cần đến sự tha thứ và khoan dung của Người. Chính lúc đó, ông mới biết cầu nguyện bằng những lời lẽ chân thành và khiêm tốn của người thu thuế: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18, 13).
Sai lầm căn bản của người Pharisêu còn ở chỗ ông đã không nhận ra sự công chính là một ân huệ Chúa ban (Pl 3, 9) chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
Người thu thuế nhận mình lầm rỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công chính.
Như thế, những kẻ cho mình là thánh thiện, là đầy đủ, thì sẽ trở về con số không; còn những kẻ nhận mình là không thì sẽ đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng. Vì phàm “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18, 14).
***
Lạy Chúa, chúng con có là gì mà chẳng do lòng Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận mình thiếu sót lỗi lầm, để được Chúa xót thương tha thứ.
Xin cho cuộc sống chúng con luôn biết rập theo khuôn mẫu thánh thiện của Đức Ki tô là Đấng Công Chính tuyệt đối. Amen.
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]