• Niềm hy vọng nước trời - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
  • Chuyển sang một giai đoạn mới - Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
  • Các con là chứng nhân - Lm Giuse Đinh lập Liễm
  • Rao giảng việc sám hối - PM. CAO HUY HOÀNG, 6.5.2013
  • Chuyến đi về trời - Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
  • Chính anh em là chứng nhân - Fiches Dominicales
  • Người rời khỏi các ông - Noel Quesson
  • Chứng nhân nước trời - Lm. Bùi Quang Tuấn
  • Chúa lên trời - Lm. Phạm Thanh Liêm
  • Thời kỳ Giáo hội - Flor McCarthy
  • Hãy mang Chúa đến cho nhân trần - Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
  • Chúa tin tưởng chúng ta - Niềm Vui Chia Sẻ
  • Hướng về thượng giới - Lm Ignatio Trần Ngà
  • Không ai giải thích được - Achille Degeest
  • Ra khơi - R. Veritas
  • Chúa Giêsu lên trời - R. Veritas
  • Cuộc sống chứng nhân - Thiên Phúc
  • Sức mạnh từ trời cao - Manna
  • Bàn tay Chúa - Sưu tầm
  • Chúa lên trời - Sưu tầm
  • Chúa lên trời - Sưu tầm
  • Chứng nhân - Sưu tầm
  • Chúa lên trời - Sưu tầm
  • Lên trời - Sưu tầm
  • Chứng nhân - Sưu tầm
  • Nước trời - Sưu tầm

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

NIỀM HY VỌNG NƯỚC TRỜI

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.

Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.

Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.

Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.

Chúa Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.

Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.

Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hy vọng đến cho kiếp người.

Với niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.

Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?

2. Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?

3. Đời sống là một bổn phạn phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này?

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

CHUYỂN SANG MỘT GIAI ĐOẠN MỚI

Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

I. Dẫn vào Thánh lễ

Việc Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Chúa Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Chúa Giêsu đã trao sứ mạng “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.

Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa trao.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta có lỗi vì hay quên rằng Chúa Giêsu là Đấng đang sống và đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền. Do lỗi này nên chúng ta dễ chán nản và không cậy dựa vào Ngài.

Chúng ta có lỗi vì chỉ hướng về trời mà quên trách nhiệm xây dựng thế giới của mình.

Chúng ta có lỗi vì ít quan tâm loan báo Tin Mừng.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I: Cv 1,1-11

Những lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi thăng thiên:

Chúa Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn đang sống.

Ngài căn dặn họ chờ điều Thiên Chúa hứa ban, tức là ban Chúa Thánh Thần.

Trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Ngài trên khắp thế giới.

2. Đáp ca: Tv 46

Tv này ca tụng vương quyền của Giavê Thiên Chúa. Phụng vụ hôm nay áp dụng Tv này cho Chúa Giêsu, Đấng được Thiên Chúa tôn lên làm vua và trao cho mọi quyền hành trên trời dưới đất.

3. Bài đọc II: Êp 1,17-23

Thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.

4. Bài Tin Mừng: Lc 24,46-53

Bài Tin Mừng này có hai phần:

1. Những lời căn dặn cuối cùng của Chúa Giêsu (cc 46-49):

Sự cần thiết của Thập giá: đã có chép từ lâu trong Sách Thánh rằng Đấng cứu thế phải qua chịu nạn rồi mới tới phục sinh.

Môn đệ Chúa phải rao giảng và làm chứng về việc Ngài chết và sống lại.

Chúa Giêsu sẽ ban Thánh Linh cho môn đệ.

2. Chúa Giêsu lên trời (cc 50-53): Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Chúa Giêsu siêu thăng. Ngài siêu thăng không có nghĩa là Ngài rời bỏ một nơi (trái đất) để đến một nơi khác (trời), mà là

Ngài thay đổi tình trạng: không còn ở tình trạng loài người hèn hạ nữa, mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa.

Ngài cũng thay đổi cách hiện diện: từ nay Ngài không thường xuyên hiện diện giữa chúng ta bằng thân xác hữu hình của Ngài nữa, nhưng vẫn hiện diện một cách vô hình dù chúng ta không thấy.

IV. Gợi ý giảng

1. Thời kỳ sứ mạng của Giáo Hội

Thánh Lễ hôm nay có 2 bài đọc của cùng một tác giả là Thánh Luca: Bài đọc 3 trích phần cuối của quyển Tin Mừng Luca, và bài đọc 2 trích phần đầu của sách Công vụ. Mà chúng ta biết thánh Luca viết một tác phẩm gồm 2 tập: tập I là sách Tin Mừng viết về sứ mạng của Chúa Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, tập II là sách Công vụ viết về sứ mạng của Giáo Hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới. Vậy nếu đặt 2 bài đọc của Thánh lễ này vào toàn bộ tác phẩm của thánh Luca thì chúng ta sẽ hiểu rằng tác giả muốn nói: việc Chúa Giêsu thăng thiên là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó, hay nói cách khác, lúc Chúa Giêsu thăng thiên là lúc Chúa Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo Hội. Bây giờ chúng ta hãy dựa vào một số chi tiết trong hai bài đọc ấy để tìm hiểu sứ mạng của Giáo Hội và cũng là của chúng ta.

Trước hết, sứ mạng ấy là gì? Thưa là sứ mạng “làm chứng”, như lời Chúa Giêsu nói “Chúng con sẽ là chứng nhân của Thầy”. Chứng nhân, hay người làm chứng, là kẻ nghe gì nói y lại như vậy, thấy sao thuật y lại như vậy, rất đúng, rất trung thực.

Chúng ta làm chứng cho ai? Thưa cho Chúa Giêsu. Mà theo cách mô tả của thánh Luca, Chúa Giêsu nay đã lên trời, có một đám mây che khuất Ngài. Không biết có thực ngày xưa đã có một đám mây từ trời đáp xuống như một chiếc dĩa bay, rồi hai thiên thần mời Chúa Giêsu bước lên đứng trên chiếc dĩa bay đó, rồi sau đó chiếc dĩa bay bằng mây từ từ cất lên cao hay không. Điều này không chắc, vì 3 thánh sử kia, tức Matthêu, Máccô và Gioan đều không hề nói về đám mây đó. Thực ra, qua hình ảnh đám mây che khuất, thánh Luca muốn nói rằng Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mắt người phàm không còn trông thấy được Ngài nữa. Nhưng những kẻ làm chứng cho Ngài phải làm chứng thế nào để người ta như là thấy được Ngài thực sự.

Chúng ta làm chứng thế nào? Sách Công vụ có ghi một chi tiết: Đang lúc các tông đồ cứ dõi mắt đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy thì hai thiên thần nói với họ: “Hỡi người Galilê, sao còn mãi đứng nhìn trời”. Câu nói bỏ lửng nhưng có nhiều ngụ ý. Chúng ta có thể đoán ra được những ngụ ý sau:

Đừng luyến tiếc nữa cái thời các ông có Chúa Giêsu ở bên cạnh một cách hữu hình và mọi sự đều do Chúa Giêsu làm hết. Bây giờ đã tới phiên các ông hoạt động, hãy tự mình hoạt động, dĩ nhiên là cũng có sự trợ giúp của Chúa Giêsu vẫn còn hiện diện cách vô hình bên cạnh các ông, nhưng chính các ông phải hoạt động.

Ngụ ý thứ hai là đừng chỉ mãi mê mơ tới ngày được lên hưởng thiên đường với Chúa Giêsu, điều quan trọng trước mắt là phải quay về với thế giới hiện tại. Hạnh phúc thiên đường phải được xây dựng ngay từ trần thế này.

Và chúng ta sẽ làm chứng cho Chúa Giêsu ở đâu? Chúa Giêsu đã nói rõ: “Chúng con sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, Giuđê, Samari và cho đến tận cùng thế giới“. Giêrusalem là nơi lúc ấy các tông đồ đang ở, Giuđê xa hơn một chút nhưng cũng quen thuộc vì có nhiều người đã tin Chúa, Samari tuy gần mà xa vì dân miền đó tuy biết Chúa Giêsu nhưng không có cảm tình với Ngài, đến tận cùng thế giới là mục tiêu xa nhất và bao quát nhất. Khi vẽ một bản đồ hành trình làm chứng như thế, ý Chúa Giêsu là hãy bắt đầu làm chứng cho Ngài ngay từ trong nội bộ của mình, rồi từ từ mới lan dần ra. Chúng ta thấy các tông đồ đã thực hiện đúng như thế: nhờ cộng đoàn Giêrusalem sống đoàn kết hiệp nhất, tương thân tương trợ mà người ngoài nhìn vào đã mến phục và xin gia nhập Giáo Hội, thế rồi từ Giêrusalem Giáo Hội lan sang Giuđê, lan sang Samari, lan sang Antiôkia và dần dần tỏa ra khắp thế giới.

Các chi tiết trong hai bài đọc Tin Mừng và sách Công vụ giúp chúng ta thấy được sứ điệp Lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay:

Chúng ta đã quen dự Thánh Lễ, đọc kinh cầu nguyện và làm một số việc đạo đức khác. Tuy nhiên chúng ta đừng chỉ mãi mê lo xây dựng hạnh phúc thiên đường cho riêng mình, mà hãy biết lo xây dựng hạnh phúc thiên đường cho người khác nữa.

Nói là xây dựng hạnh phúc thiên đường, nhưng không phải bằng cách chỉ lo đến những việc đời sau, hạnh phúc thiên đường phải được xây dựng ngay tại cuộc sống trần thế này.

Và ở trần thế này, nơi chúng ta phải ưu tiên xây dựng hạnh phúc là chính trong nội bộ của mình. Cộng đoàn chúng ta có hạnh phúc thì mới là một hình ảnh đẹp khuyến khích người ngoài đến chia xẻ niềm tin, chia xẻ cuộc sống và chia xẻ hạnh phúc của chúng ta.

Đó chính là cách chúng ta làm chứng cho Chúa, làm cho người ta tuy bị một áng mây chia cách giữa hữu hình với vô hình nhưng cảm thấy như thực sự nhìn thấy Chúa. Thấy Chúa ở trong chúng ta, ở trong cộng đoàn chúng ta và Giáo Hội chúng ta.

2. Hiện diện và vắng mặt

Kể từ khi Chúa Giêsu Thăng thiên, Ngài không còn hiện diện cách hữu hình giữa các môn đệ nữa. Nhưng sự vắng mặt thể lý không có nghĩa là không còn hiện diện nữa.

Thực ra nhiều khi sự hiện diện thế lý chẳng là gì cả. Hai người sống chung một nhà, ăn chung một bàn, và thậm chí ngủ chung một giường nhưng vẫn cảm thấy xa nhau vạn dậm, bởi vì lòng và trí họ quá xa nhau. Như người ta nói “đồng sàng, dị mộng” (chung giường nhưng giấc mộng khác nhau).

Trái lại dù thể xác xa cách nhau vạn dậm nhưng người ta vẫn có thể cảm thấy rất gần nhau, miễn là người ta thương nhau và hiểu nhau. Có khi nhờ xa nhau một thời gian mà người ta lại thương nhau hơn và hiểu nhau hơn.

Hơn nữa, trong thời gian ta hiện diện bên cạnh một người thân, nếu đó là một sự hiện diện trọn vẹn thì khi xa nhau, chính sự vắng mặt ấy lại sinh nhiều hoa trái, bởi vì những kỷ niệm lúc gần nhau và tình nghĩa thắm thiết lúc sống bên nhau sẽ còn tiếp tục nuôi dưỡng người thân ấy. Như thế, đối với những người thân nhau thì cả sự hiện diện lẫn sự vắng mặt đều là những món quà.

Từ khi thăng thiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không còn bị hạn chế về không gian và thời gian nữa, nhưng nhờ đó mà Ngài có thể hiện diện ở khắp nơi và trong mọi lúc.

Các kitô hữu đầu tiên đã hiểu rất rõ điều này. Họ biết Chúa Giêsu vẫn ở bên họ, tuy không cùng một cách như trước nữa. Họ tin rằng Ngài đang chia xẻ cuộc sống của họ; họ còn tin rằng cái chết sẽ giúp họ được hợp nhất mãi mãi với Ngài trong vinh quang.

Có lẽ nhiều người cho rằng các tông đồ ngày xưa hạnh phúc hơn mình bây giờ, bởi vì các vị ấy đã được nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng các sách Tin Mừng viết rằng dù mắt họ nhìn thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn chưa hiểu Ngài là ai. Họ chỉ hiểu được Ngài khi đọc sách Thánh và khi dự lễ bẻ bánh.

Đọc sách Thánh và dự lễ Bẻ bánh, đó là những phương tiện giúp nhận ra Chúa Giêsu. Mà những phương tiện này chúng ta ngày nay cũng có. Cho nên, xét về vấn đề nhận ra Chúa Giêsu bằng đức tin thì chúng ta ngày nay cũng chẳng thua thiệt gì hơn so với các tông đồ ngày xưa.

Ngày xưa Chúa Giêsu đã trông cậy vào các tông đồ để Tin Mừng được rao giảng khắp nơi và được mọi người sống theo Tin Mừng ấy. Ngày nay Chúa Giêsu cũng trông cậy nơi chúng ta như thế. Chúng ta phải làm chứng về Ngài cho mọi người trong thế giới hôm nay. (FM)

3. Loan Tin Mừng và học Tin Mừng

Thông thường, những lời cuối cùng của một người trước khi người ấy từ giã cõi đời, là những điều hết sức quan trọng mà người ấy muốn những người thân yêu ở lại thực hiện. Và những người ở lại thường coi những lời người sắp từ giã thế gian trăn trối như một điều linh thiêng cần thực hiện cho bằng được.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặc các tông đồ: “Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem…” Như vậy, sứ điệp quan trọng nhất mà Đức Kitô muốn trao gửi lại cho các môn đệ, và cho mọi Kitô hữu là: hãy tiếp tục sứ mạng loan báo và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài trước mọi người, mọi dân tộc trên thế giới.

Thế nhưng thế nào là loan Tin Mừng?

Nhiều người nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là tỏ cho người khác biết mình là Kitô hữu, là làm dấu thánh giá nơi quán ăn, là can đảm xưng mình là người Thiên Chúa giáo trong các tờ lý lịch bất chấp những bất lợi sẽ xảy ra. Kẻ khác nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là cố gắng sống cho thật đạo đức, năng đi lễ, năng chịu các bí tích, với mục đích làm gương sáng cho người chung quanh, đồng thời khuyên mọi người làm như vậy. Người khác nữa thì gặp những người ngoại đạo mình quen biết, liền tìm cách gạ gẫm, thuyết phục họ vào đạo, bằng cách nói cho họ biết vào đạo thì được Chúa ban ơn này ơn kia, v.v…

Kết quả của những việc đó có thể là chúng ta lôi kéo được một số người vào đạo, hoặc làm cho nhiều người khô khan năng đi lễ, năng đến nhà thờ, năng chịu các bí tích hơn, hoặc làm cho đời sống gia đình của họ trở nên đầm ấm hơn, hạnh phúc hơn, v.v

Tất cả những điều đó là những điều nên làm, cần làm, nhưng chưa phải là loan báo Tin Mừng đúng nghĩa. Muốn loan báo Tin Mừng cho đúng nghĩa, chính người loan báo phải biết Tin Mừng là gì, phải cảm thấy Tin mình loan báo là điều đã làm mình hạnh phúc, vui tươi, làm cho đời sống mình trở nên có ý nghĩa. Nếu không như thế, thì mình chỉ làm công việc «mù mà lại dắt mù», và kết quả là «cả hai sẽ lăn cù xuống hố» (Mt 15,14; Lc 6,39).

Thật vậy, nếu chính mình chưa cảm thấy Tin Mừng đã ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống mình, chưa thật sự thay đổi đời sống mình, mà mình lại đi rao giảng Tin Mừng, muốn Tin Mừng ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống người khác, thì có khác gì «cho đi cái mình chẳng có»? Như thế thì người nhận sẽ nhận được gì?

Vì thế, chúng ta cần phải năng học hỏi về Tin Mừng, nhất là suy gẫm Tin Mừng, để Tin Mừng thấm sâu vào tư tưởng, lời nói, việc làm và đời sống của ta. Có như thế, việc loan báo Tin Mừng của ta mới có sức thuyết phục.

4. Cuộc sống chứng nhân

Báo “Le Figaro” mới đăng trả lời phỏng vấn của Tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:

Hỏi – Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng Ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?

Trả lời – Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.

Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?

*

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các Tông đồ sứ mạng cao cả: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân” (Lc 24,47). Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.

Tổng thống Nga Putin quả tà một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo và sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đă chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.

Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.

Đã qua 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Đức Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người!

Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.

*

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen. (TP, năm C)

5. Sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội

Đức Kitô phục sinh đã ở lại với các môn đệ của Ngài 40 ngày sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Việc Chúa phục sinh sống với các môn đệ 40 ngày là để Ngài có thời gian dậy bảo, động viên, an ủi và chỉ vẽ thêm cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi về cùng Cha của Ngài (Cv 1, 3).Lần cuối cùng trước khi rời các ông, Chúa Giêsu đang lúc đồng bàn với các ông, đã truyền cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần trước khi chia tay nhau đi khắp nơi giảng Tin Mừng cứu độ (Cv 1, 8).

Rồi hôm nay, Chúa phục sinh dẫn các môn đệ lên núi cây Dầu, trao sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho các ông và một cách nào đó cho toàn thể Giáo Hội (Mt 28, 16-20). Để ban ủi an, khích lệ các ông, Chúa phục sinh giơ tay chúc lành tức đổ ơn huệ xuống trên các ông, và Chúa cất mình lên trời trước mặt các ông (Cv 1, 9-12).

1. Tại sao các ngươi cứ đứng đó mà nhìn lên trời:

Sự kiện Chúa về trời làm cho các môn đệ bỡ ngỡ, các Ngài không khỏi bàng hoàng dù rằng Chúa đã nói trước với các ông, đã căn dặn các ông, Ngài về với Chúa Cha, Ngài ra đi thì ích lợi hơn cho các ông.:”…Thầy ra đi thì Đấng bầu chữa mới đến với các con” (Ga 16, 6-7).Vì sứ mệnh của Chúa Thánh Thần là dậy dỗ, an ủi các tông đồ, soi sáng và thêm sức mạnh cho các ông để các ông có sức mạnh, lòng đại độ, sự quả cảm mà ra đi rao giảng Tin Mừng (Ga 14, 26; 15, 26-27).

Nhưng trước khi chia tay đi rao giảng, Chúa phục sinh đã căn dặn các tông đồ hết sức cẩn thận: “Đừng rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy ở tại đó cùng với Mẹ Maria để đón nhận Chúa Thánh Thần “.

Việc Chúa Lên trời hay nói một cách cụ thể hơn là Ngài ra đi, trở về, kết hiệp với Chúa Cha để thực hiện lời hứa ban Đấng phù trợ tới cho các môn đệ và cho toàn Giáo Hội là một mầu nhiệm của lòng tin vì hôm nay chấm dứt một giai đoạn Chúa phục sinh hiện diện, chứng minh cho các môn đệ thấy rằng mình vẫn sống giữa các ông (Cv 1, 3).

Thời gian 40 ngày là giai đoạn Chúa minh chứng cho các tông đồ, Ngài đang sống cách hữu hình, đang làm những việc cụ thể, cùng trao đổi, bàn bạc, cùng ăn, cùng sinh hoạt với các môn đệ. Giờ đây, Chúa về trời là để ban Thánh Thần cho các môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội. Đây không phải là lúc các môn đệ tiếc nuối cái mơ ước ám ảnh, Chúa của các ông sẽ khôi phục lại vương quốc Israen, để các ông ăn trên ngồi trước các người khác (Cv 1,6).

Cái thực tế mà các môn đệ phải thuộc nằm làu là “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Ai tin, anh em hãy làm phép rửa cho Họ nhân danh Chúa cha, Chúa Con và Chúa thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ những Điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 16-20). Chúa về trời, các môn đệ vẫn còn bỡ ngỡ cùng với mọi người ở Galilêa. Nhưng, Chúa về trời là một mối phúc cho các Môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội vì Chúa có về trời Thánh Thần mới được ban xuống. Chúa về trời, nhưng dứt khoát các môn đệ sẽ không bơ vơ vì Chúa hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho tới tận thế

2. Chúa về trời là một mối phúc lớn lao:

Thật ra, Chúa về trời mang lại cho nhân loại, cho Giáo Hội và cho các tông đồ một mối Phúc lớn lao vì nếu Chúa không ra đi thì Đấng bàu chữa không đến. Chúa về trời, Ngài đã làm tròn lời hứa ban Thánh Thần và trao quyền năng cho các tông đồ, cho Giáo Hội:” Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân…Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế ” (Mt 28, 17-20).

Lệnh truyền của Chúa phục sinh đã được thể hiện ngay nơi con người của Chúa, Chúa đã ban quyền năng cho các tông đồ, qua đó các Ngài có đủ mọi uy quyền thiêng liêng phục vụ mọi người. Chúa ban Thánh Thần để giúp các môn đệ kiên cường làm chứng cho Chúa phục sinh và loan báo Tin Mừng. Chúa ban Thánh Thần để Giáo Hội luôn bền vững, trung kiên làm tròn sứ mạng truyền giáo.

Dầu con người không thể nhìn thấy Chúa bằng xương bằng thịt, nhìn thấy Chúa cách hữu hình, nhưng Chúa vẫn có mặt với Giáo Hội ở khắp mọi nơi cho tới ngày cùng tận. Lời hứa của Chúa ở cùng môn đệ và nhân loại cho đến ngày tận thế là lời bảo đảm vững chắc nhất về sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội muôn muôn đời. Chúa Giêsu Phục sinh luôn đồng hành với Giáo Hội, với nhân loại, với các tông đồ trên vạn nẻo đường truyền giáo. Sứ mạng truyền giáo, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô Phục sinh cho nhân loại là lệnh truyền khẩn thiết nhất và quyết liệt nhất Chúa trao cho các môn đệ và cho Giáo Hội. Chúa đang trao, Chúa đang chuyền một cây gậy, một ngọn lửa đức tin để các tông đồ và Giáo Hội thay nhau liên tục chuyền gậy và đốt lên ngọn lửa tình yêu cho mọi người để mọi người nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa cứu thế.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lời Chúa:” Các con là muối ướp cho mọi người…Các con là ánh sáng cho toàn nhân loại, là thành phố xây trên ngọn đồi không thể giấu được… ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen cha các con ở trên trời ” (Mt 5,13-16)

Lạy Chúa Giêsu, công việc cứu thế của Chúa được tượng trưng như một chiếc gậy, Chúa đã chuyền cho các môn đệ cách đây 2002 năm để các môn đệ tiếp tục chuyền đi. Và cứ như thế, chiếc gậy được chuyền đi cho tới ngày tận thế. (Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT, Vietcatholic)

6. Sứ mệnh của người Kitô hữu

Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành nghĩa vụ linh mục, cha Vania đã ngã gục dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng ngài viết cho cha mẹ già có những dòng sau đây:

“Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với họ là con sẽ không sợ rao giảng Tin Mừng và tình yêu của Chúa Kitô. Đây là một sứ mệnh cao cả và con hãnh diện được tiến bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con không xấu hổ rao giảng về Chúa Kitô. Các phép lạ Chúa Kitô làm đều minh chứng rằng có Thiên Chúa, do đó con sẽ mạnh dạn tiếp tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì đó là điều Chúa Thánh Thần phán bảo con.”

Rao giảng Tin Mừng là sứ vụ Chúa Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi Ngài xa cách con cái Ngài, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các tông đồ: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dậy bảo họ luôn giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.

Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mệnh đó. Mặc dù Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách; nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin Mừng, vì Nước Trời. Lòng can đảm, chí trung thành đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mỗi người như lời Ngài đã phán: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho tới tận thế. Chính tên Ngài cũng đã minh chứng điều đó, Em-ma-nu-en = Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Lạy Chúa, Lời Chúa đã nhắc nhở cho mỗi người chúng con ý thức về sứ mệnh Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết hăng say thi hành mệnh lệnh đó trong cuộc sống hằng ngày để ánh sáng Tin Mừng được chiếu tỏa khắp nơi. (Sr Margareta Maria Hiền, Vietcatholic)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô đã phải trải qua con đường thập giá rồi mới bước vào vinh quang phục sinh. Với ước mong sống trọn vẹn vai trò chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:

1. Chúa Giêsu hứa ban Thánh thần cho các tông đồ / để các ngài làm chứng cho Chúa đến tận cùng trái đất / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cũng ban Thánh thần / giúp chúng ta trở nên những chứng nhân can trường cho Thiên Chúa là tình yêu.

2. Rao giảng Chúa Giêsu Kitô cho hết thảy mọi nước mọi dân / đặc biệt cho các dân tộc tại lục địa châu Á mênh mông / là một việc khẩn cấp trong thiên niên kỷ thứ ba này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều người / dám xả thân cho công cuộc rao giảng Tin mừng cứu độ.

3. Đức tin Kitô giáo hội nhập vào văn hóa Châu Á / là một việc làm hết sức quan trọng trong việc giới thiệu Đức Kitô cho một châu Á đa chủng tộc / đa tôn giáo và đa văn hóa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà truyền giáo / luôn quan tâm đặc biệt đến công việc hệ trọng này.

4. Học hỏi Tông huấn Giáo hội tại Châu Á là bổn phận quan trọng của người Kitô hữu Á Châu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tận dụng mọi cơ hội thuận tiện để học hỏi sâu rộng Tông huấn này / nhờ đó có thể tham gia tích cực vào công cuộc rao giảng Tin mừng.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, trước khi được rước lên trời, Chúa đã dạy chúng con phải rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể thực hiện đến nơi đến chốn lệnh truyền quan trọng này. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu phục sinh đang ở bên cạnh Chúa Cha để làm trung gian cho chúng ta. Chúng ta hãy nhờ Ngài và với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.

VII. Giải tán

Hôm nay Chúa Giêsu lặp lại với anh chị em lời Ngài đã bảo các môn đệ ngày xưa: “Anh em hãy đi đến với muôn dân…”, “Anh em hãy làm chứng cho Thầy”. Chúc anh chị em bình an.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

CÁC CON LÀ CHỨNG NHÂN

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP 

Hôm nay lễ Chúa Giêsu lên trời kết thúc cuộc đời ở trần gian theo như những gì Kinh Thánh đã tiên báo. Theo cái nhìn của Luca, thì “Thời kỳ Israel” đã nhường chỗ cho “Thời kỳ Đức Kitô”. Giờ đây, “Thời kỳ của Đức Kitô”â lại nhưỡng chỗ cho “Thời kỳ của Giáo hội”.

Bài đọc Tin mừng trích trong tác phẩm cuối của Tin mừng Luca, chứa đựng trình thuật đầu tiên của Luca về biến cố lên trời. Ở đây Thăng thiên được trình bầy như được xẩy ra vào Chúa nhật Phục sinh. Đức Chúa Phục sinh cho các Tông đồ thấy Kinh thánh đã tiên báo về Đức Kitô phải chịu đau khổ và sống lại như thế nào (Lc 24,48).

Khi hiện ra với các Tông đồ, Đức Giêsu đã trao cho các ông sứ vụ rao giảng Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất (Lc 24,47) và phải làm chứng cho Ngài nơi muôn dân nước (Lc 24,48). Đồng thời Ngài cũng hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần đến cùng họ (Lc 24,49). Sau khi đã căn dặn các môn đệ nhiều điều, Đức Giêsu lên trời trước mặt các ông. Họ vui mừng trở về Giêrusalem để chờ đợi Chúa Thánh Thần.

Lễ Thăng thiên được xem như đỉnh điểm của đời sống Đức Giêsu và là khởi điểm sứ vụ của Giáo hội. Do đó, mọi thành viên trong Giáo hội phải tích cực thi hành sứ vụ này bằng đời sống chứng nhân trước mặt mọi người.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA 

Bài đọc 1 : Cv 1,1-11

Khởi đầu sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết : sau khi sống lại Đức Giêsu tiếp tục hiện ra với các môn đệ trong 40 ngày và trước khi về trời, Ngài còn ban các ông  những lời dạy cuối cùng

– Đức Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn còn sống.

– Ngài khuyên các ông hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã hứa ban.

– Ngài còn trao cho các ông  sứ mạng rao giảng Tin mừng để làm chứng cho Ngài trên khắp cùng thế giới.

+ Bài đọc 2 : Ep 1,17-23

Trong thư gửi cho tín hữu Eâphêsô, thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.

Ngài còn cho biết : Chính Chúa Cha đã cho Đức Giêsu sống lại; chính Chúa Cha đã tôn vinh Đức Giêsu; cũng vẫn Chúa Cha đã đặt Đức Giêsu làm Chúa tể muôn loài, làm đầu Hội thánh. Chúng ta có thể đặt trọn niềm tin cậy ở Ngài.

+ Bài Tin mừng : Lc 24,46-53

Trong sách Công vụ Tông đồ, thánh Phaolô đã nói và trong Tin mừng hôm nay còn nói lại :

– Những lời căn dặn cuối cùng : theo Sách Thánh, Đức Kitô phải qua chịu nạn rồi mới tới Phục sinh. Các môn đệ phải rao giảng và làm chứng cho Đức Giêsu dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ ban cho.

– Đức Giêsu về trời : Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Đức Giêsu thăng thiên. Ngài về trời có nghĩa là Ngài rời bỏ tình trạng hèn hạ của loài người mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa, nghĩa là Ngài chỉ thay đổi cách hiện diện.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Chứng nhân của Đức Kitô

I. ĐỨC GIÊSU VỀ CÕI TRỜI. 

1.    Theo sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ. 

Thánh Luca là tác giả sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ. Theo sách Công vụ Tông đồ, chúng ta đọc thấy biến cố lên trời xẩy ra vào ngày thứ 40 sau Phục sinh. Trái lại, trong sách Tin mừng, Luca lại đặt biến cố này vào ngay chiều ngày Phục sinh.  Thực ra, sách Tin mừng có ý viết về sứ mạng của Đức Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, và sách Công vụ Tông đồ viết về sứ mạng của Giáo hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới.  Việc Đức Giêsu lên trời là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó; hay nói cách khác, lúc Đức Giêsu lên trời là lúc Đức Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo hội để tiếp tục công trình của Ngài.

2.    Ý nghĩa việc lên trời. 

Việc lên trời của Đức Giêsu có hai ý nghĩa, đó là giai đoạn rao giảng của Đức Giêsu đã qua, đã chấm dứt và mở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo hội.

a)   Một giai đoạn đã qua. 

Ý nghĩa trọng đại của việc Đức Giêsu lên trời là sự cứu chuộc  mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái chết đền tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn cho đến đời đời.

Đức Giêsu đã làm xong công việc cứu chuộc, đã hoàn thành sứ mạng Cha Ngài đã trao phó là cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền tội trên thập giá và đã sống lại  để cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời. Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy đủ cho đến muôn đời. Và như vậy, đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin của các môn đệ đặt vào một Thầy bằng xương bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ nay, các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng Thầy đời đời vượt thời gian và không gian.

b)   Khởi đầu một kỷ nguyên mới. 

Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Sách Thánh không chấm hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Đức Giêsu, mà còn tiếp tục trong Hội thánh. Sứ điệp Tin mừng được hoạch định”cho muôn dân”, được rao giảng bắt đầu từ Giêrusalem.

Một giai đoạn lịch sử cứu độ được hoàn tất. Mới kỷ nguyên mới được chuẩn bị, kỷ nguyên đi gieo rắc Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất.

Thật là nghịch lý ! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn phiền. Các môn đệ ra về  trong sự vui mừng  chứ không phải tấm lòng sầu muộn vì họ biết rằng  từ nay không có gì có thể ngăn cách mình với người Thầy của mình. Thánh Phaolô đã phát biểu :”Ai có thể phân cách chúng ta  với tình yêu thương của Chúa Cứu thế” ? Và Ngài khẳng định :”Tôi biết chắc chắn rằng bất kỳ sự sống, sự chết… chẳng có thể phân rẽ chúng ta  ra khỏi sự yêu thương mà Thiên Chúa đã thể hiện nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta”(Rm 8,35-38).

II. TRAO SỨ MẠNG RAO GIẢNG TIN MỪNG. 

1.    Sứ vụ rao giảng Tin mừng. 

Đức Giêsu về trời vẫn giao sứ mạng cho các môn đệ và Giáo hội phải rao giang Tin mừng :”Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đức Messia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem”(Lc 24,46-47).

Khi  Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới dất mới  mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.

Thật là vinh dự cho chúng ta  được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Ngài. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin mừng.

Truyện : Hoàn thành tác phẩm 

Nhạc sư sáng tác người Ý, Giacomo Puccini,  để lại cho đời một số  những tác phẩm ca nhạc kịch – opera – rất nổi tiếng, chẳng hạn như La Bohême và Madame Butterly. Năm 1922, lúc 64 tuổi, ông bị ung thư ác tính. Mặc dù cơn bệnh hành hạ thân thể, Puccini vẫn nhất định phải hoàn tất vở ca kịch Turandot mà bây giờ nhiều người  đánh giá là vở ca kịch hay nhất của ông.

Ôâng làm việc ngày đêm. Nhiều người khuyên can ông  phải nghỉ ngơi vì nghĩ rằng ông không thể nào hoàn tất  vở ca kịch này được. Khi con bệnh trở nên trầm trọng,  Puccini đã viết cho học trò của mình :”Nếu thầy không hoàn tất vở ca kịch Turandot được,  thầy muốn các con tiếp tục công việc ấy cho thầy”.

Năm 1924, ngày số phận đã tới, khi Puccini sang Bỉ giải phẫu, ông qua đời hai ngày sau đó. Trở về Ý, các học trò của ông qui tụ nhau lại, mỗi người một tài năng khác nhau tiếp tục sáng tác vở ca kịch Turandot của thầy để lại. Sau khi nghiên cứu và làm việc với tất cả tâm hồn, họ đã hoàn tất vở ca kịch này.

Năm 1926, lần đầu tiên trên thế giới, vở ca kịch đã được trình diễn tại nhà hát ca kịch La Scala ở Milan.  Vở này đã được điều khiển  bởi người nhạc trưởng môn sinh rất được Puccini ưa thích, Arturo Toscanini. Tất cả mọi sự diễn tiến tốt đẹp cho đến khi dàn hòa tấu trình diễn tới khúc nhạc mà Puccini đã sáng tác dang dở.  Những giọt nước mắt đã rơi xuống trên khuôn mặt của người điều khiển. Ôâng ngưng dàn nhạc lại, buông cây đũa điều khiển xuốâng, quay ra khán giả và nói lớn :”Nhạc sư đã viết đến đây, rồi ông qua đời”. Cả nhà hát im lặng một hồi lâu. Không ai nhúc nhích ! Không một tiếng động ! Hoàn toàn thinh lặng !

Sau vài phút, người nhạc trưởng cầm cây đũa điều khiển lên, quay ra khán giả, mỉm cười qua những giọt lệ rơi và nói lớn :”Nhưng các môn sinh của ông đã hoàn tất tác phẩm này”. Khi vở ca kịch Turandot kết thúc, cả nhà hát bùng lên tràng pháo tay như sấm nổ vang trời.  Trong rạp hát không còn một con mắt nào khô ráo. Ai cũng rơi lệ và không ai có thể quên được giây phút ấy (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 190).

Rao giảng Tin mừng là sứ vụ Đức Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi xa cách con cái, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các Tông đồ :”Vậy các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”.

Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mạng đó. Mặc dầu Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách, nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin mừng. Lòng can đảm, chí trung kiên đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mọi người như lời Ngài đã phán :”Thầy ở cùng các con mọi ngày đến tận thế”.

2.    Rao giảng bằng cuộc sống. 

Có nhiều cách rao giảng Tin mừng, có người phải từ bỏ gia đình đi đến những miền xa, phải trèo non lặn suối, có khi phải liều mạng để rao giảng Tin mừng. Đây là những người có ơn kêu gọi đặc biệt, còn phần đông chúng ta chỉ có thể rao giảng trong môi trường cụ thể của mình, đó là rao giảng bằng đời sống. Đó chính là sống Lời Chúa Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi ngưởi, Để rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng Ngài cho chính chúng ta trước. Có câu ngạn ngữ Trung hoa như sau :

Tiên chánh kỳ tâm hậu tu kỳ thân,

Tiên tu kỳ thân hậu tề kỳ gia,

Tiên tề kỳ gia hậu trị kỳ quốc

Tiên trị kỳ quốc hậu bình thiên hạ”.

Tâm hồn có chân chính thì bản thân mới tốt đẹp,

Bản thân có tốt đẹp thì gia đình mới thuận hòa,

Gia đình có thuận hòa thì quốc gia mới thịnh trị,

Quốc gia có thịnh trị thì thế giới mới hòa bình.

Cũng thế, muốn rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải đưa Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp cùng thế giới.  Nếu có đủ số người Kitô hữu biết đưa Đức Giêsu vào cuộc đời mình thì gợn sóng ấy sẽ biến thành cơn sóng thủy triềâu, rồi cơn thủy triều sẽ thay đổi bộ mặt trái đất thành tuyệt vời đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.

III. SỨ MẠNG LÀM CHỨNG CHO CHÚA. 

Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Các con làm chứng về những điều ấy”(Lc 24,48) tức là làm chứng cho chính Thầy.

Vậy làm chứng là gì ? Làm chứng là nhận thức một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã trải qua.

Còn chứng nhân hay người làm chứng, là kẻ nghe gì thì nói lại y như vậy, thấy sao thì thuật lại như vậy, rất đúng, rất trung thực. Ngược lại thì người ta gọi là phản chứng.  Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.

Triết học dạy rằng : “Nhất chứng phi chứng, nhị chứng chứng quả”.

Tất cả những điều kể trên đã có quá hai người làm chứng, cách riêng là mười một môn đệ, cách chung là toàn dân đồng thời với Chúa, sau đó là chúng ta  qua các môn đệ Ngài.

Hiểu như vậy, các Tông đồ là những chứng nhân đầu tiên về cuộc đời của Đức Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa.

Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Đức Giêsu đếu bắt đầu và kết thúc ở mầu nhiệm Phục sinh: phục sinh của Chúa Kitô và phục sinh của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có Phục sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những điều đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chúa có thực. Do đó, làm chứng về sự sống lại của Chúa có nghĩa là làm chứng  cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người.

Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói :”Mỗi ngưởi giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân”.  Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, nhất là phép Thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Ngài. Và tất cả chúng ta đã biết : cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta.

Truyện : Những gì tôi biết về Chúa Kitô. 

Sau đây là một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng Công giáo và một người vô thần :

– Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao ?

– Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Kitô.

– Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào ?

– Rất tiếc là tôi đã có học những chi tiết này trong một khóa giáo lý, nhưng tôi lại quên mất.

– Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi ?

– Tôi không nhớ rõ lắm nên cũng không dám nói.

– Vậy anh có biết ông ta  đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông  ta ?

– Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thực sự  đi theo ông Kitô.

– Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết qúa ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này : ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối khi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng chờ đợi tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác  hơn, chính Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Ngài… (Theo Parole de vie).

Trong tông huấn Evangelii nuntiandi, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói lên vai trò của chứng nhân trong cuộc sống như sau :”Do đó, chính với phẩm cách và đời sống mình, mà Giáo hội sẽ phúc âm hóa thế giới; nói cách khác, bằng sự “chứng tá” sống động về lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu – chứng tá về sự khó nghèo và siêu thoát, về sự tự do khi đối đầu với các quyền lực trần gian – nói tóm lại, là chứng tá của sự thánh thiện” (Evangelii nuntiandi, đoạn 41),

IV. HÃY THEO CHÚA VỀ TRỜI. 

          1. Quê hương chúng ta ở trên trời. 

Trước khi ra đi vào cuộc khổ nạn, Đức Giêsu dã khích le äcác Tông đồ :”Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với các con rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho các con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”(Ga 14, 1-3).

Tin tưởng như thế, thánh Phaolô cũng nói rằng :”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trờ đến cứu chúng ta”(Pl 320).

Nếu chúng ta biết Đức Giêsu của chúng ta đang ở trên trời thì lòng chúng ta  phải hướng về đó. Không có nơi nào đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các bậc thánh đã yêu mến một quê hương tốt hơn – quê hương ở trần gian – mà các ngài gọi là quê hương trên trời.

Nhưng nhìn vào thực tế, chúng ta phải nhìn nhận rằng : chúng ta đã quá bén rễ sâu vào cuộc sống trần gian, đã quá quyến luyến những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu và sẵn sàng bán rẻ linh hồn mình lấy một nắm tro bụi.  Dân Do thái ngày xưa đã thờ lạy con bò vang thế nào thì hôm nay con người cũng đang đi vào con đường ấy.

2.  Điều kiện để về trời. 

Đức Giêsu phán :”Không phải những ai cứ kêu Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! mà được vào Nước Trời, mà chỉ những ai làm theo thánh ý của Cha Ta”(Mt 7,21-23; Lc 6,46; 13,26-27).

Nước Trời hay thiên đàng  là phần thưởng cho những ai đã cố gắng thi hành theo thánh ý Chúa. Như thế, Chúa không cho phép chúng ta tự rút mình ra  khỏi các công tác, các hoạt động thuộc về đời này, chẳng làm gì  ngoài việc chiêm ngắm cõi đời mà thôi !

Thánh Phaolô đã vạch ra một loạt các nguyên tắc để giúp người Kitô hữu tiếp tục công việc ở đời này và duy trì một mối liên hệ bình thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt là từ nay trở đi, Kitô hữu phải nhìn nhận mọi sự trong ánh sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời. Nghĩa là người ấy sẽ không sống dường như  đời này là tất cả những gì mình quan tâm, nhưng phải đặt thế gian này trong bối cảnh của cõi sống đời đời.

Vậy những ai xác tín rằng quê hương đích thực của đời mình là ở trên trời cao thì trước hết và trên hết hãy qui hướng tất cả mọi sự trong cuộc sống, vận dụng mọi hoàn cảnh về nơi đó để cố gắng chiếm đoạt cho bằng được dù phải trả bất cứ giá nào. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là  phải chạy trốn khỏi cuộc sống khốn khổ này, trái lại phải vui tươi, can đảm chu toàn mọi trách nhiệm, bổn  phận mà Chúa đã giao phó cho mỗi ngưởi với điều kiện đừng để cho bản thân, gia đình, của cải, danh lợi làm chủ, điều khiển đến độ quên hết đời sau.

Chúng ta hãy bắt chước các Tông đồ khi chia ly với Thầy mình thay vì buồn sầu, chán nản, các ngài hớn hở vào đời  làm nhiệm vụ được giao phó vì các ngài thâm tín rằng phải sống ở trần gian một ít lâu, nhưng hy vọng chắc chắn đợi ngày tái ngộ với Thầy mình trên quê trời.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

RAO GIẢNG VIỆC SÁM HỐI

PM. CAO HUY HOÀNG, 6.5.2013

Chúa Giêsu đã về Trời. Người hoàn thành sứ mạng cứu rỗi nhân loại bằng chính cái chết và phục sinh của Người.

Dòng đời lữ hành của nhân loại vẫn còn tiếp diễn và vẫn còn phải được tiếp tục hưởng nhờ ơn cứu rỗi của Chúa. Vì thế sứ mạng cứu rỗi nhân loại được chuyển giao cho Hội Thánh của Người, dưới nguồn trợ lực của Chúa Thánh Thần.

Sứ mạng truyền giáo của Hội Thánh là sứ mạng của mỗi tín hữu.

“Như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy” ( Lc 24, 46 – 47 ).

“Các con là nhân chứng những việc ấy”: các con phải làm chứng về một Chúa Giêsu tử nạn vì tội lỗi nhân loại, làm chứng về một Chúa Giêsu Phục Sinh để ai tin vào Người cũng sẽ được Phục Sinh trong sự sống vĩnh cửu, viên mãn.

Như vậy Lời Chúa hôm nay đề cập đến “Chúa đã chết để chuộc tội” và “Phục sinh để người tin và sám hối được cứu rỗi”. “Sám hối để được ơn tha tội” là nội dung chính của sứ điệp truyền giáo trong lễ Chúa Lên Trời hôm nay.

Nhìn vào thế giới hôm nay: tiêu chuẩn luân thường đạo lý đảo lộn, bờ mê bến giác cũng chẳng còn ranh giới, sự thật và giả dối có chung một thân xác, một mái nhà, thiện ác, tối sáng cứ quấn quít lấy nhau… làm cho con người gần như mất đi cảm thức về tội. Có những tội to đùng như núi, mà người phạm tội cứ nhởn nhơ phè phỡn như chẳng có tội gì. Càng có chức quyền càng gắn liền với ý đồ phạm tội cách công khai mà chẳng ai làm gì nhau được. Cuối cùng là tự cho mình cái quyền phạm tội, hoặc quyền tự tha tội cho mình. Tội từ cấp trên xuống cấp dưới, tội tràn lan ra xã hội, xuống tận tới dân đen. Dễ hiểu thôi, thượng bất chính, hạ tắc loạn. Lớn làm được, thì nhỏ cũng làm được chứ ? Bao gương mù gương xấu cho cả một thế hệ hậu duệ…

Thật tội nghiệp cho chúng ta, các tín hữu bây giờ phải truyền giáo trong thời đại của những kẻ mắc bệnh tuyên truyền sự giả dối. Người mắc bệnh tuyên truyền lúc nào cũng nghĩ người khác tuyên truyền và sợ mình bị tuyên truyền. Người nói dối bao giờ cũng nghĩ người khác nói dối. Người sống trong giả dối bao giờ cũng nghĩ người khác giả dối như mình. Khi thấy nơi này, nơi kia có nhiều người gia nhập Hội Thánh Công Giáo, thì họ cho là chúng ta tuyên truyền thành công. Họ tự mặc định cho việc “loan báo Tin Mừng, rao giảng sự sám hối, ơn tha tội” như là việc tuyên truyền sự giả dối mà họ đã từng làm.

Khi thấy một ngôi Nhà Thờ mới được xây dựng, một lễ nghi tôn giáo được tổ chức rầm rộ hoành tráng thì họ muốn chúng ta hiểu rằng đó là nhờ ơn của quyền lực thế gian ! Họ chưa nhận ra được sự kỳ diệu của Chúa Thánh Thần. Họ chưa mở mắt, mở tai ra mà đón nhận sự thật. Dễ nản quá, nhưng hãy vững tin: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất” ( Cv 1, 1 – 11 ).

Làm thế nào để rao giảng việc sám hối cho người không biết mình có tội, không nhận mình có tội ? Làm thế nào để rao giảng việc sám hối cho các cấp lãnh đạo chóp bu trong xã hội, những người cần làm gương sám hối trước tiên ?

Chính phủ nào, đất nước nào rồi cũng thế, khi đã nắm quyền lực xã hội trong tay rồi, thì nghĩ rằng mình phải là người nói người khác nghe, mình không phải là người nghe người khác nói. Càng tồi tệ hơn khi những người chống Thiên Chúa nắm chính quyền, thì việc nói về Chúa cho chính phủ ấy nghe quả là một thách đố cho Hội Thánh. Trong tình thế ấy, thiết nghĩ việc truyền giáo của Người Công Giáo Việt Nam đương thời chính là:

– Liên lỉ, sốt sắng cầu xin Chúa Thánh Thần, vì chỉ có Ngài mới có đủ sức tác động làm mềm dịu những khối óc khô cứng, làm rung động những trái tim hóa đá, chai lì, làm biến đổi những tâm hồn vô ơn vô cảm như “con chim hay nói, nó nói tào lao, không có đứa nào, dạy cho tao nói” thành tâm hồn biết ơn chính Đấng đã tác dựng nên mình.

– Canh tân đời sống Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến đến mức tối đa từ mỗi cá nhân tín hữu, đến gia đình, Giáo Xứ, và cả Giáo Hội mới đủ sức thuyết phục một xã hội đang nghiêng hẳn về phía văn minh tha hóa, văn minh trần tục, văn minh sự chết.

– Xây dựng tình gắn bó, hiệp thông vững chắc trong Hội Thánh Chúa mà bảo vệ những giá trị thiêng liêng của chính đạo: bảo vệ sự sống, tôn trọng nhân quyền, bênh vực công lý. Bao lâu còn cảnh “ông nói gà, bà nói vịt” trong Hội Thánh, thì bấy lâu còn cho thấy dấu hiệu của căn bệnh kiêu ngạo, cửa quyền, có thể là cấp tính mà trầm kha, nguy hiểm. Căn bệnh ấy làm suy nhược cơ thể Hội Thánh, không còn đủ sức để truyền giáo hay rao giảng gì cho ai !

– Xác tín vững chắc sức mạnh của Lời Chúa có sức biến đổi mọi sự. Xác tín Lời đau khổ và phục sinh của Chúa Giêsu có sức làm cho mọi tạo vật trở nên mới trong Ngài, để không nản lòng lùi bước trước những thách đố có thể nói là quá lớn đối với sức chịu đựng của con người. Hãy vững vàng xác tín như Thánh Phaolô, nhà truyền giáo vĩ đại: “Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người” ( Ep 1, 23 ).

– Xác tín vững chắc vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, kiên tâm “ở lại trong thành”, trong phút kết hiệp huyền nhiệm khi cử hành Bí Tích Thánh Thể, khi rước lấy Thánh Thể Chúa, kết hiệp với Ba Ngôi Thiên Chúa để nhận lấy quyền lực của Chúa Thánh Thần, như Chúa đã căn dặn: “Thầy sẽ sai đến với các con Đấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”.

– Xác tín ý nghĩa việc truyền giáo tại đất nước này: không phải là “khôi phục lại một đất nước” theo nghĩa chính trị, như các Tông Đồ vẫn mơ hồ: “Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng ?”, những là khôi phục lại những tâm hồn cho Thiên Chúa, khôi phục lại cho Thiên Chúa một chỗ trong lòng con người, khôi phục lại những giá trị thuộc về Thiên Chúa, khôi phục lại danh dự, uy quyền của Thiên Chúa trong một xã hội từng loại trừ, bôi nhọ, chống báng Ngài.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi chúng con canh tân đời sống đạo đức Kitô Giáo của mình để nên nhân chứng thuyết phục cho lời rao giảng về việc sám hối và ơn tha tội của Chúa cho mọi người. Amen.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

CHUYẾN ĐI VỀ TRỜI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có lẽ ai trong chúng ta cũng từng nghe đến tác phẩm “Hồn Trương Ba da hàng thịt“. Đây là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan.

Để sửa sai, Nam Tào đã cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba vào một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ thân xác người khác, nhưng đáng tiếc, lại là một anh hàng thịt bặm trợn nên dần dần Trương Ba cũng mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Trương Ba đã đau xót thốt lên:

“Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”.

Đôi khi chúng ta cũng từng có những trăn trở và giằng xé như Trương Ba, con người ta thực sự nằm ở đâu? Ý nghĩa cuộc sống của ta là gì? Ta là ai, một tâm hồn nho nhã của ông lão Trương Ba hay một ông Trương Ba thô lỗ ở hàng thịt?

Thực ra cuộc sống là một hành trình. Một hành trình phải đi tới. Một hành trình đòi hỏi con người mình phải lột xác mỗi ngày nên hoàn thiện hơn. Có ai đó từng nói: “Khi con sâu bướm đến tuổi, nó bắt buộc phải lột xác, hình thành kén và hóa bướm, nếu không nó sẽ chết. Khi đại bàng 40 tuổi, nó bắt buộc phải chịu những đau đớn tột cùng của việc nhổ lông, cậy mỏ để bước sang tuổi mới, nếu không nó sẽ chết”.

Cuộc sống con người cũng phải luôn thay đổi, luôn thích nghi để mình nên hoàn thiện hơn. Con người luôn phải đấu tranh với cái thiện, cái ác để bảo vệ chân thiện mỹ trong cuộc đời của mình. Không ai sinh ra là đã hoàn thiện, mà phải nỗ lực vượt qua mọi cám dỗ, mọi thử thách để hoàn thiện  chính mình.

Thay đổi là điều không thể tránh được trong đời – có khi đó là một việc bình thường nhưng cũng có lúc là sự mất mát. Có những thay đổi là chuyện tự nhiên, như sinh – lão – bệnh  – tử của con người, nhưng cũng có những đổi thay gây ra nhiều thảm kịch như bệnh tật, tai nạn hay phá sản. . . Nhưng cũng giống như sự thay đổi suốt quá trình chuyển hoá diệu kì của loài sâu buớm trong lớp vỏ kén để trở thành một cánh bướm rực rỡ sắc màu, sự thay đổi chính là cơ hội để ta thoát khỏi giới hạn của kiếp người để hướng tới một đời sống siêu nhiên cao quý hơn.

Điều này đã xảy ra nơi Chúa Giê-su. Ngài sinh ra trong thân phận con người. Ngài cũng nỗ lực vượt lên trên mọi khó khăn, mọi gian khổ, kể cả cái chết để hoàn thành đời mình. Ngài đã hoàn thành kiếp người trong vâng phục thánh ý Chúa Cha để ngày nay Ngài được đổi mới hoàn toàn qua sự phục sinh vinh quang. Ngài đã chấp nhận đi qua cái đau của con kén để trở thành cánh bướm rạng rỡ trong vinh quang. Sự phục sinh của Ngài là phần thưởng cho những đau khổ thập giá mà Ngài trải qua.

Hôm nay, lễ Chúa về trời còn là lời khẳng định cho chúng ta về chuyến đi cuộc đời của Ngài. Ngài đã đi qua kiếp người. Ngài đã đi qua những bể dâu của cuộc đời để tiến vào quê trời, là nơi không còn khóc lóc, than van và đau khổ. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời không ngừng chọn theo thánh ý Chúa để từ khước những lời mời mọc của ma quỷ thật ngọt ngào, thật quyến rũ về danh lợi thú trần gian. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời dâng hiến để phục vụ tha nhân và phục vụ tin mừng Nước Trời. Ngài đã sống một cuộc đời như hạt lúa gieo vào lòng đất, chịu mục nát để trổ sinh bông lúa vàng. Ngài đã đi đến cùng của việc xin vâng theo thánh ý Chúa, cho dẫu lời xin vâng cần phải thể hiện bằng chén đắng cuộc đời. Thế nên, Ngài đã được Chúa Cha ân thưởng và siêu thăng lên cõi trời. Ngài đã hoàn thành sứ mạng của mình tốt đẹp và nay về trời chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa Cha.

Đó cũng là con đường mà Chúa luôn mời gọi chúng ta bước theo. Đường thập giá tới vinh quang. Đường hẹp đưa ta vào cõi sống trường sinh. Đường tử bỏ những tham sân si để sống cao thượng và thanh thoát hơn. Đừng đam mê xác thịt. Đừng nuông chiều xác thịt. Hãy sống tiết độ. Hãy vác thập giá của bổn phận, của hy sinh phục vụ anh em để nhờ đó mà ta được đổi mới nên tốt hơn, nhất là được lột bỏ con người cũ để sống sự sống con người mới, con người của con cái sự sáng, ngõ hầu mai sau cũng được phục sinh với Chúa.

Cuộc đời là một hành trình. Hành trình tiến về thiên quốc. Hành trình này không thể đạt được bằng sự dễ dãi, nuông chiều xác thịt. Hành trình này đòi phải hy sinh, phải phấn đấu mới mong đạt được. Xin Chúa giúp chúng ta luôn nhìn lên trời cao là đích điểm của mình để can đảm từ bỏ những đam mê tội lỗi trần gian. Xin Chúa giúp chúng ta biết lột bỏ con người cũ cùng những tính hư  nết xấu của mình để hoàn thiện mình mỗi ngày nên giống Chúa hơn, ngõ hầu mai sau cũng được về quê trời hưởng phúc vinh quang với Chúa. Amen

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN

Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐLỂM CHÚ GIẢI:

1. Đối với Đức Giêsu: hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua.

Trong sách Công Vụ Tông đồ, chúng ta đã đọc thấy biến cố Lên Trời xảy ra vào ngày thứ Bốn mươi sau Phục sinh. Trái lại, trong sách Tin Mừng, Luca lại đặt biến cố này vào ngay chiều ngày Phục sinh. Làm như thế Luca muốn nêu bật tính thống nhất không thể tách biệt của mầu nhiệm vượt Qua: biến cố Lên Trời biểu lộ vinh quang của Đấng Phục sinh và quyền bá chủ thần linh của Người. biến cố ấy đóng dấu ấn kết thúc cuộc đời và Tin Mừng của Đức Giêsu bằng việc tôn phong thiên quốc của Đấng Mêsia. Mâu thuẫn rõ ràng về thời gian – điều hoàn toàn tương hợp với cách hành văn của thời ấy – không nhằm mục tiêu nào khác hơn là phô bày tất cả vẻ phong phú của biến cố cứu độ này.

Sau khi tỏ mình cho các môn đệ nhận ra mình: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà” (c.39). Đức Giêsu mở tâm hồn cho họ hiểu ý nghĩa của biến cố phục sinh: “Tất cả những gì sách luật Môsê, sách các ngôn sứ và các Thánh vịnh chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (c.44). Tất cả những gì các ông vừa trải qua cùng với Người, đều hiện rõ ý nghĩa dưới ánh sáng của Thánh Kinh, và chính Thánh Kinh được thực hiện hoàn hảo trong mầu nhiệm Vượt Qua: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại rồi phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”.

Khi dẫn các môn đệ tới tận Bêtania, giờ đây Đức Giêsu từ biệt và chúc lành cho các ông là những người kế thừa mình theo cách các thánh tổ phụ chúc lành cho các con vào lúc lìa cõi thế..

Và đang khi Ngươi được “đem lên trời” các môn đệ “phủ phục bái lạy Người”, một cử chỉ tôn thờ chỉ dành riêng cho Thiên Chúa mà thôi.

Mặc dầu chia ly hoặc phải chia ly, nhưng tất cả mọi người đều chấp nhận từ nay không còn được trông thấy, mà chỉ sống bằng lòng tin nên các môn đệ cũng “lòng đầy hoan hỉ”, “các ông trở lại Giêrusalem, ở trong Đền thờ” – nơi mọi việc đã khởi đầu khi thiên thần báo tin cho ông Dacaria – các ông “không ngớt chúc tụng Thiên Chúa”.

Roland Meynet quảng giải: “Các môn đệ xem thấy Đức Giêsu lần cuối, cuộc chia ly thế là dứt khoát rồi. Tuy nhiên, các ông không buồn sầu, ngược lại, các ông trở lại Giêrusalem lòng đầy hoan hỉ. Chính là vì Thầy không đi vào cõi chết như họ đã trông thấy ba ngày trước, nhưng được đưa lên trời, đến cùng Chúa Cha. Các ông bái lạy Người và không ngớt chúc tụng Thiên Chúa. Nếu Đền thờ là nơi và là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người, thì các ông biết rằng: nếu các ông luôn ở lại trước mặt Đấng tối Cao, các ông sẽ không phải xa cách Đấng vừa về với Ngài. Liệu các ông có lòng đầy hoan hỉ như thế, nếu các ông không tin chắc rằng Đức Giêsu luôn ở với các ông, mặc dầu không trông thấy? Xem như nghịch lý: cuộc chia ly đối với các ông lại trở thành dấu chỉ rằng Đức Giêsu luôn ở bên các ông. (L’Evangile selon saint Luc, Cerf cuốn 2, trg 239).

2. Đối với Hội Thánh: Khai mở một kỷ nguyên mới.

Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Kinh Thánh không chấm hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Đức Glêsu, mà còn tiếp tục trong Hội Thánh. Sứ điệp Tin Mừng được hoạch định “cho muôn dân”, được rao giảng “bắt đầu từ Giêrusalem”.

“Anh em là chứng nhân của những điều đó”. Đức Giêsu đã tuyên bố với các môn đệ như vậy. Và trước khi lìa bỏ các ông để “được đưa lên trời”, Người loan báo cho các ông biết rằng, các ông sẽ “nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống”, quyền năng mà Cha đã hứa, để hoàn thành sứ mạng vĩ đại vượt quá sức riêng của các ông.

Một giai đoạn lịch sử cứu độ được hoàn tất. Một kỷ nguyên mới được chuẩn bị, kỷ nguyên đi gieo rắc ‘I’in Mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất. Công việc gieo trồng này sẽ bội thu, bởi vì nó bắt rễ lừ những gì vừa hoàn thành lại Giêrusalem, đó là việc “Đức Giêsu chịu khổ nạn, sống lại và sự sám hối được rao giảng nhân danh Người để được ơn tha tội”.

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Loan báo Tin Mừng bằng lời nói và bằng hành động

(G. Bessiere: ‘Dieu si proche’ Năm C, DDB, trg 68-69).

Tận cùng lại là một khởi đầu.

Mọi sự đều xảy ra tại Giêrusalem.

Các môn đệ đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Giêsu, Người đã phục sinh. Các ông đã bắt đầu hiểu rằng sự việc phải đi tới đích điểm đó và phải được hoàn thành cách vinh quang. “Cần phải…”. Đây không phải là do định mệnh an bài. Cụm từ đó chỉ có ý nói rằng mọi biến cố tìm được ý nghĩa trong Thiên Chúa và chúng là tiếp nối của một quá khứ cao quý nhất. Một nụ hoa hé nở, một việc kỳ diệu Thiên Chúa làm ở giữa dân Người.

Đức Giêsu được “đưa lên trời”. Những lời trăn trối cuối cùng của Người là lệnh “sai đi”, và là lời loan báo cho họ một sức mạnh từ trời cao, đó là Thần Khí được ban xuống, Thần Khí mà các Ngôn sứ đã loan báo. Từ nay, những con người ấy sẽ mang trên tay và trong trái tim ơn tái sinh. Các ông sẽ làm lây lan ơn Thiên Chúa, biến đổi cả nhân loại. Đức Giêsu đi về cùng Cha Người, cốt để các ông ra đi đến tận cùng trái đất.

Cử chỉ cuối cùng của Đức Giêsu thâu tóm cả cuộc đời của Đức Giêsu trên trần gian: “Đang khi giơ tay chúc lành cho các ông, thì Người lìa các ông…”. Đức Giêsu lên trời đang khi chúc lành, hình ảnh cuối cùng đó sẽ còn mãi: bàn tay đang chúc phúc.

Còn các ông “lòng đầy hoan hỉ” và “các ông không ngớt chúc tụng Thiên Chúa trong đền thờ”. Giữa trời và đất, giữa đất với trời, lời chúc phúc được giao lưu.

Giờ đây các môn đệ Đức Giêsu – những môn đệ thời xưa và những môn đệ thời nay – cần phải loan báo Tin Mừng cho đến tận cùng thế giới và tận cùng lịch sử, bằng lời nói và bằng hành động. Phải không ngớt chúc tụng.

2. Được sai đi truyền giáo thế chân các tông đồ.

Đức Giêsu đã lên trời thế nào? Ta hãy nghe thánh Luca tường thuật thật giản dị: “Đức Giêsu lìa khỏi các môn đệ và được đưa lên trời”.

Có điều lạ là các môn đệ không biến cuộc chia ly thành một tấn bi kịch. Tác giả thuật lại rằng các ông trở lại Giêrusalem lòng đầy hoan hỉ. Dường như các ông đã được soi sáng cho hiểu rằng: Đức Giêsu đã hoàn thành trọn vẹn sứ mạng cứu thế của Người. Từ nay đến lượt các ông có nhiệm vụ làm chứng.

Biến cố Lên Trời cho thấy công trình cứu độ này đã hoàn thành; mọi điều Thánh Kinh loan báo đều là lời của Thiên Chúa. Tất cả đều đã được thực hiện, cả đến việc phục sinh. Từ nay, làm cho thế giới sám hối trở lại.

Biến cố Lên Trời chứng tỏ rằng Đức Giêsu chuyển giao nhiệm vụ cho các chứng nhân. Giờ đây đến lượt các môn các đệ hoạt động. Họ có nhiệm vụ làm cho kế hoạch đã được hoàn thành nơi Đức Giêsu được tỏ hiện cho mọi dân mọi nước.

Đồng thời biến cố lên Trời cũng còn la một lời hứa. Một sức mạnh nội tâm sẽ được ban xuống cho các chứng nhân của Đức Giêsu. Một sức mạnh nội tâm sẽ được ban xuống cho họ từ trời cao. Sức mạnh ấy củng cố trí tuệ và tâm hồn các ông, sẽ biến các ông nên can đảm.

Biến cố Lên trời là lơi chúc phúc từ trời. Một phúc lành làm cho con người cảm nghiệm năng lực của Thiên Chúa thấm nhập vào mình, cảm thấy mình được tôn trọng trong tự do và có khả năng sáng tạo để đạt kết quả.

Biến cố Lên Trời còn được tiếp nối bằng lời cầu nguyện vui tươi và tinh thần hoan hỉ. Các môn đệ không bị mồ côi chút nào. Các ông có Chúa Thánh Thần ở cùng. Các ông ở nhà của Người là Đền thờ. Các ông ca tụng những thiện hảo của Thiên Chúa. Các ông chúc tụng Người.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

NGƯỜI RỜI KHỎI CÁC ÔNG

Chú giải của Noel Quesson

Cũng như đối với trình thuật về cuộc Thương khó và Phục sinh, ta nên suy niệm những trình thuật khác nhau về biến cố Thăng Thiên được ghi lại cho ta: suy niệm tận nguồn gốc đặc biệt của chúng, để khỏi lẫn lộn Người với một thứ hình tượng -người máy.

Năm nay, chúng ta có may mắn được nghe hai trình thuật diễn tả cùng một biến cố do cùng một tác giả thuật lại đó là Luca. Thật rõ ràng, nếu Luca không nỗ lực dung hòa toàn diện hai đoạn văn mô tả của ông, là vì theo ông, chính những khác biệt đó có một ý nghĩa… vượt qua tính lịch sử được hiểu theo nghĩa hẹp.

Trong Tin Mừng, Luca giới thiệu biến cố Thăng Thiên ngay chiều hôm Phục sinh, và chác chắn ngay trong đêm tiếp theo ngày thứ nhất trong tuần (Lc 24, 1. 24, 13. 24, 36. 24, 50), nếu ta nhớ lại khi các môn đệ làng Em-mau vào bàn ăn, thì “trời đã muộn “ (Lc 24, 29), và các ông phải đi bộ khoảng 12 cây số trong “hai tiếng đồng hồ “ (Lc 24, 13) để trở lại Giêsusalem. Còn Đức Giêsu đã mất giờ giải thích Lề luật, các ngôn sứ và Thánh Vịnh liên hệ đến Người, với các môn đệ (Lc 24, 44) ngay chiều Phục sinh…

Trước khi dẫn họ đến Bê-tha-ni-a, ở đó Người được đem về trời (Lc 24, 50). Trái lại, trong Công vụ Tông đồ, cũng chính Luca xác định biến cố Thăng Thiên vào lúc kết thúc “bốn mươi ngày” (Cv 1,3). Ngoài những tưởng tượng có tính cách ấu trĩ mà ta cần phải từ bỏ, hiển nhiên là giữa những lần “hiện ra” khác nhau của Người, Đức Giêsu không lánh ẩn trong một khu phố tại Giêrusalem, trong một nơi bí mật, để chờ đợi “ên” trời về cùng Chúa Cha! Thực sự, Phục sinh, Thăng Thiên và Hiện xuống, là ba khuôn mặt của cùng một “mầu nhiệm” duy nhất: bởi vì vừa sống lại, thì Đức Giêsu đã bước vào vinh quang của Chúa Cha và ngự bên hữu Người “ theo kiểu nói của khải huyền. Đặc biệt, Luca nhấn mạnh đến sự kiện Đức Giêsu “rời bỏ “ những kẻ mà Ngài đã cho họ được gặp mặt… Người biến mất trước cái nhìn của họ (Lc 24, 31 – 24, 51).

Như thế, Thăng thiên vào chiều tối Phục sinh xảy ra để gắn liền cuộc sống nhân loại của Đức Giêsu với việc tôn vinh quyền năng Thiên Chúa của Người…và đó là trang cuối cùng của Tin Mùng!

Trong khi biến cố Thăng Thiên vào “ngày thứ bốn mươi” để bắt đầu cuộc sống mới của Đức Giêsu vượt qua không gian và thời gian… thì cũng là lúc khởi sự trang đầu tiên của Công vụ Tông đồ! Kết thúc thời gian của Đức Giêsu Nadarét…là bắt đầu thời kỳ của Giáo hội.

Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”.

Đức Giêsu nói: “Khi Thầy còn ở với anh em”. Điều đó chứng tỏ rằng Người không còn ở trái đất như trước nữa. Thăng thiên sắp tới chỉ lặp lại những gì đã diễn ra do biến cố Phục sinh: từ đây trở đi, sự hiện diện của Chúa Phục sinh, dù có thực sự đi nữa, thì cùng ở trong một trạng thái khác… Người đã bước vào thế giới của Thiên Chúa rồi.

“Việc ứng nghiệm… và hiểu biết Kinh Thánh!”. Đức tin là phương thế duy nhất để đạt được “thế giới của ‘Thiên Chúa” mà Đức Giêsu đang hiện diện, vì giờ đây Người “không còn ở với chúng ta theo cùng một cách thức như trước nữa”. Ngay trên bước đường đi đến Em-mau, Đức Giêsu đã khiển trách hai người đồng hành với Người là những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin” (Lc 24, 25).

“Như sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy”. Chỉ khi sống lại, Người mới giải thích Kinh thánh: thực vậy, cần phải “chết đi sống lại”, để khi người ta đọc lại Kinh Thánh, mới có thể nhận ra điều đó đã được loan báo. Do đó, trong đời sống của chúng ta, có một số những biến cố đột nhiên xảy đến, soi sáng trở lại những sự việc, những lời nói mà trước đó chúng ta chưa hiểu được cách sâu xa.

“Các Thánh Vịnh”: Đức Giêsu đã thuộc lòng và hằng ngày dùng Thánh vịnh để cầu nguyện. Còn tôi thì sao? Liệu tôi có đủ độ nhớ chỉ một Thánh Vịnh để cầu nguyện, nhất là một trong những Thánh Vịnh nói về Đức Giêsu không?

Có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này”.

Luca nhấn mạnh đến sự kiện: chỉ nhờ biến cố Phục sinh, các môn đệ mới hiểu được “những lời Kinh Thánh chép”. Như thế, đời sống của riêng ta, đời sống của mọi người, đời sống của những kẻ mà ta vẫn tưởng rằng mình có tương quan thân mật nhất… chỉ sáng tỏ trong ngày của Chúa. Đúng vậy, những biến cố liên hệ đến cuộc đời của Đức Giêsu, trước ngày đó, vẫn làm cho các môn đệ hoang mang, khó hiểu! “Đau khổ” của Đức Giêsu trên thập giá, có vẻ như một sự ngẫu nhiên, một tai nạn, một thất bại. Nhưng giờ đây họ mới khám phá ra, đó là sự ứng nghiệm chương trình mầu nhiệm của Chúa Cha: “Cần phải ứng nghiệm không gì đã được Kinh Thánh báo trước… “. Đó không phải là một định mệnh, cũng không phải là một số mệnh nghiệt ngã và khắt khe… mà là một chương trình yêu thương! Nhưng cho tới ngày đó, họ chưa nhận ra. Giờ đây, họ sắp trở nên chứng nhân cho những điều đó. “Ngày Phục sinh ngày dài nhất của thời gian… “Ngày thứ nhất” đó sẽ kéo dài, tới vô tận! Không có ngày nào khác như thế nửa. Ta hiểu ra rằng, Luca đã muốn gom cách tiêu biểu để cả trong ngày duy nhất đó, và ngày này sẽ được kéo dài qua đời sống chứng tá của Giáo hội suốt dòng lịch sử. Hiện nay, chúng ta có luôn là “nhân chứng” cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa không? Đức Giêsu, trước thái độ kịch liệt công phẫn của những người được coi là “sạch” đã nghiêng về phứa những người Samari ngoại giáo… những kẻ lạc đường, đĩ điếm, ngoại tình… những kẻ dốt nát, bị nhóm Pharisêu và thông giỏi khinh bỉ… những kẻ thông đồng với dân ngoại, những người thu thuế cộng tác với đế quốc Rôma… mọi người nghèo khổ bị xã hội ruồng bỏ, những kẻ thấp kém, bệnh tật, phong cùi. Thay vì ra hình phạt của Thiên Chúa mà lề luật đòi buộc, Đức Giêsu lại loan báo “ơn tha thứ” không giới hạn, không loại trừ một người nào khỏi ơn cứu độ phổ quát được cống hiến cho mọi người, bắt đầu từ Giêrusalem”. Đúng vậy, Thiên Chúa là Cha những người tội lỗi. Người tha thứ cho mọi người. Và noi gương Thiên Chúa, ta cũng phải tha thứ cho mọi người, ngay cả những kẻ thù của mình! Vì đã rao giảng những điều như thế nên Đức Giêsu đã bị kết án và bị đóng đinh như kẻ “phạm thượng”. Nhưng rõ ràng việc sống lại minh chứng rằng, Ngài đã có lý. Những người đại diện cho lề luật bị lên án. Đấng chịu đóng đinh luôn sống động. Mọi điều Đức Giêsu đã giảng dạy và hành động… sẽ tiếp tục và được chính Thiên Chúa minh chính hóa.. “Anh ern sẽ là chứng nhân! “.

Lạy Chúa, Chúa đòi chúng con phải thay đổi trở về thế nào đây? Thực sự, chúng con chưa làm chứng đầy đủ cho tình yêu cứu độ phổ quát!

Và đây chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.

Họ rất cần điều đó. Chúng ta cũng rất cần điều đó, cần “quyền năng” không do ta, chứng từ trời cao ban xuống! Bởi vì các môn đệ sắp phải sống và rao giảng trong một thế giới, bề ngoài chưa có gì thay đổi cả: sự dữ bạo lực, hận thù, chết chóc… độc ác, tà thuyết, sai lầm, dốt nát, áp lực đủ thứ… vẫn còn tiếp diễn.

Đấng sẽ trao ban quyền năng đó… ở đây không nêu tên… bởi vì, cũng như Chúa Cha “không ai trông thấy bao giờ.. và khác với Đức Giêsu, Đấng là khuôn mặt hữu hình của Thiên Chúa… Thần Khí không có dạng hình. Hay, đúng hơn Ngài mang bộ mặt của ta, theo cách nói của Thánh Phaolô: “Anh em là thân thể của Đức Kitô. Khi cây nến Phục sinh được tắt đi vào Lễ Thăng Thiên, thì độ là lúc các ngọn lửa được thắp sáng:để xâm chiếm mỗi người môn đệ vào Lễ Hiện Xuống.

Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được lên trời.

Đó là sự “rời khỏi”. Chỉ mình Luca sử dụng từ ngữ đây ý nghĩa đó.

So sánh với cùng một trình thuật trong Công vụ Tông chúng ta nhận thấy có nét giản dị hơn. Ở đây, không có yếu tố mô tả nào, không có “đám mây” cũng không có hai Người mặt áo trắng”. Không phải là Luca không hay biết tới ngôn ngữ khải huyền. Trong một trình thuật khác, ông sẽ sử dụng thứ ngôn ngữ này. Nhưng trong đoạn văn trên, ông muốn tương đối hóa, đơn giản hóa nó.

Tất cả đều rất bí mật, và chúng ta thử dõi theo Đức Giêsu xem sao: “Người dẫn các ông… “, “Người giơ tay chúc lành cho các ông”. “Người rời khỏi các ông để trở về với Chúa Cha trên trời”.

Chưa bao giờ Đức Giêsu đã “chúc lành” cho các tông đồ. Nhưng đây là một cảnh từ biệt. Luca có ý nối kết lại một truyền thống Kinh Thánh phong phú. Các nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh thường kết thúc đời mình bằng một cử chỉ chúc lành cho những kẻ tiếp sau: Giacóp (St 49), Môsê (Đnl 33), Đavit (1Sb 28-29). “Phép lành” của Đức Giêsu là cử chỉ cuối cùng của Người. Một cử chỉ mà Người sẽ không ngừng thể hiện, nhờ mỗi linh mục, đại diện của Người, làm lại trên chúng ta vào lúc chào tạm biệt trong Thánh lễ, bằng cách “giơ tay lên” để chúc lành cho chúng ta nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa.

Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giênlsalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.

Thật là nghịch lý! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn, lại vui tươi. Cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu đã trở thành nhóm người “tôn thờ” Đức Giêsu và cùng nhau “ca tụng Thiên Chúa”. Đức Giêsu ở “trên trời”. Các môn đệ của Người ở “trong Đền Thánh’. Đó chỉ là một biểu tượng… một sự đối xứng. Một phụng tự mới.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

CHỨNG NHÂN NƯỚC TRỜI

Lm. Bùi Quang Tuấn

Có rất nhiều người lầm tưởng thiên đàng là một khoảng không gian nào đó trên cao kia. Sự lầm tưởng này đã làm phát sinh nhiều hậu quả không hay: người có đạo thì bị lung lay bối rối khi có một vài khoa học gia nói rằng: Chẳng thấy Chúa đâu trên kia cả; người không có đạo thì nghĩ: Có lẽ nước trời là một thế giới nằm đâu đó trong không gian, với những sinh hoạt na ná giống như trần gian này. Thế nên đã có câu chuyện khôi hài do một cha thừa sai kể lại: Sau một tuần giảng đại phúc thật sốt sắng tại một vùng đất nọ, các cha khuyên nhủ được một ông cụ ngoại đạo gia nhập đoàn chiên Chúa. Thấy cụ bà chưa có dấu hiệu nào khả quan, nên các cha tích cực khuyên bảo: “Ông đã theo đạo rồi, bà cũng nên theo đi thôi, để sau khi chết còn lên thiên đàng gặp lại nhau nữa chứ.” Nghe thế cụ bà hốt hoảng trả lời, “Không được đâu, suốt đời ổng đã hành hạ tui đủ thứ. Mai mốt trên thiên đàng còn phải gặp lại mặt ổng nữa thì tui chết mất.”

Thiên đàng sẽ chỉ là một con số “không”, chẳng có chút gì hấp dẫn nếu như nơi đó không có hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc chính là hoa trái của yêu thương, mà yêu thương thì phát xuất từ con tim, nghĩa là từ bên trong. Bên trong chứ không phải bên ngoài hay bên trên kia.

Nước trời không ở bên ngoài hay bên trên, cũng không phải là một nơi nào đó trong không gian. Nước trời phải được hiểu như là một thực tại phía trong: trong lòng tôi, trong nơi tôi đang cư ngụ hay làm việc, và trong tầm với của gia đình.

Cho nên nói Chúa Giêsu lên trời cũng chính là nói Chúa Giêsu đi vào trong đời ta, nhà ta, lòng ta, gia đình ta. Có như thế thì lời “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” mới đong đầy ý nghĩa của nó. Chứ nếu như Ngài lên trời cao xanh hay Ngài ở nơi thế giới ngoài kia thì làm sao hiểu là Ngài đang ở cùng chúng ta được. Và vì Chúa Giêsu đã đi sâu vào đời ta, nhà ta, nên Ngài đã truyền cho chúng ta phải làm chứng cho sự hiện diện của Ngài: “Các ngươi phải là nhân chứng của Ta.”

Chứng tá cho Đức Giêsu là làm sao vẽ được dung mạo của Ngài ngay trên cuộc sống của mình, làm sao cho người khác cảm nhận được sự hiện diện của Ngài ngay trong môi trường mình đang sinh hoạt, diễn tả được hình ảnh của Nước Trời đang ở giữa và ở trong chúng ta.

Có nhà hoạ sĩ kia cứ mãi mơ ước trong đời mình sẽ vẽ được một bức tranh đẹp nhất thế giới. Nhưng anh ta không biết phải vẽ thứ gì để bức tranh sẽ có được hình ảnh, màu sắc, và nội dung sâu đậm đáng trở thành bức tranh tuyệt vời nhất trần gian.

Chàng đã tìm hỏi với một linh mục về điều gì đẹp và ý nghĩa nhất. Vị linh mục trả lời ngay: “Niềm tin. Niềm tin là số một, niềm tin sẽ nâng cao giá trị con người. Niềm tin sẽ chữa lành và biến đổi mọi sự nên tuyệt vời.”

Chàng hoạ sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô gái đang bước lên xe hoa về nhà chồng. Cô gái trả lời: “Trên thế gian này không có gì đẹp bằng tình yêu. Tình yêu là hơi thở, là sức sống, là hạnh phúc, là tất cả. Tình yêu biến cay đắng thành ngọt ngào, đưa tiếng cười vào nơi than khóc, đổi nghèo hèn tầm thường thành phú quí cao sang. Tình yêu thật tuyệt vời.”

Cuối cùng người hoạ sĩ gặp một anh thương binh vừa trở về từ tiền phương. Anh lính đã trả lời: “Hoà bình là điều đẹp nhất trần gian. Ở đâu có chiến tranh, ở đó có đổ nát, bất hạnh, khổ đau. Ở đâu có hoà bình, ở đó có cái đẹp.”

Ba câu nói của ba con người– vị linh mục, cô gái sắp lấy chồng và anh thương binh trẻ– đã làm cho người hoạ sĩ phân vân: không biết phải làm thế nào để trên bức tranh của mình có thể diễn tả cùng một lúc niềm tin, tình yêu, và hoà bình.

Đang suy nghĩ anh về đến nhà lúc nào không hay. Mấy đứa con anh ùa ra đón bố. Anh nhận thấy niềm tin trong ánh mắt của các con. Anh cũng cảm được tình yêu trong chiếc hôn chân thành của người vợ. Niềm tin của con cái và tình yêu của người vợ làm cho tâm hồn anh ta ấm áp và an bình lạ thường. Thế rồi một ý tưởng chợt loé lên trong đầu. Anh vội ngồi xuống khởi công vẽ tranh, và sau khi hoàn thành tác phẩm đẹp nhất thế gian, anh đã đặt tên cho nó: “Mái Ấm Gia Đình.”

Mái ấm gia đình chính là hình ảnh xinh đẹp và sống động nhất mà người ta có thể vẽ được về Nước Trời hay Thiên đàng ngay trên thế gian này. Mái ấm gia đình cũng sẽ là lời chứng tá hùng hồn nhất cho sự hiện diện của Đức Giêsu giữa dương gian.

Bạn chưa cần phải đi đâu xa để làm chứng tá về niềm tin; bạn cũng chưa thể đi đến mút cùng trái đất để giảng về tình yêu và an bình của trời cao. Nhưng bạn có thể làm chứng tá cho Đức Giêsu ngay trong gia đình của mình.

Trước mỗi hành động, lời nói, giao tế, cư xử, hãy tự hỏi: tôi có làm mất niềm tin nơi người bạn đời hay nơi con cái của tôi không? Tôi đang xây dựng tình thương và an bình hay đang sống phản chứng trước mặt con cái và bạn đời? Tôi có đang cố gắng vẽ lên chân dung của Thiên Chúa qua việc hy sinh để kiến tạo một mái ấm gia đình không?

Những dòng chữ sau đây rất đáng cho bạn và tôi tâm niệm để ý thức hơn khi vẽ lên cho đời những “mái ấm”:

“Mái ấm là môi trường và là thánh đường đầu tiên cho tuổi thơ học thế nào là điều ngay, thế nào là điều thiện, thế nào là lòng tử tế.

Đó là nơi tuổi thơ tìm về để được an ủi vỗ về mỗi khi đau khổ, bệnh tật.

Đó là nơi chia sẻ niềm vui và xoa dịu buồn phiền.

Đó là nơi cha mẹ được kính trọng và yêu thương…

Đó là nơi mà những món ăn đơn sơ cũng trở thành cao lương mỹ vị, bởi vì là giá của mồ hôi nước mắt.

Đó là nơi mà tiền bạc không quí bằng tình yêu.

Và đó là nơi mà ngay cả nước sôi cũng reo lên niềm hạnh phúc.

Mái ấm gia đình. Đó là nơi được Thiên Chúa chúc phúc.”

Ước gì Lễ Chúa Giêsu Lên Trời nhắc chúng ta về một Nước Trời tại thế–mái ấm gia đình–để sau Lễ Lên Trời này, bạn và tôi cũng sẽ theo bước chân của các môn đệ, lên đường làm chứng tá cho Đức Kitô, chứng tá ngay trong gia đình, chứng tá bằng việc xây dựng một mái ấm. Dù rằng cuộc đời của chứng nhân nào cũng không tránh khỏi đổ mồ hôi hay đổ máu, không tránh khỏi những hiểm nguy như chiên đi giữa sói rừng, không tránh khỏi khốn khổ như một người tôi tớ, nhưng đó là giá cần trả để có được một bức tranh tuyệt đẹp của niềm tin, yêu thương, và an bình hạnh phúc.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

CHÚA LÊN TRỜI

Lm. Phạm Thanh Liêm

Đức Giêsu lên trời, nhưng Ngài vẫn ở với con người cho đến tận thế. Xin cho ki-tô hữu được nên giống Đức Giêsu mỗi ngày một hơn.

Đức Giêsu lên trời

Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy Đức Giêsu đã hiện ra với các tông đồ suốt bốn mươi ngày sau khi Ngài sống lại. Trong thời gian này Người đã ăn uống với các ngài, dạy dỗ các ngài nhiều điều; rồi đến thời đã định, Người đã lên trời trước mắt các ông.

Phải hiểu điều này như thế nào, khi người thời nay biết trái đất tròn; như vậy, trời phía trên đầu của người ở Việt Nam, lại là hướng dưới chân của người ở Mỹ, và ngược lại. Một phi hành gia bay lên vũ trụ, trời là khoảng không đối với họ! Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Matthêu cho thấy Đức Giêsu không lên trời, nhưng ở lại với con người cho đến ngày tận thế: “Này đây Thầy ở cùng anh em cho đến ngày tận thế” (Mt.28, 20). Làm sao trả lời cho con người ngày nay về việc hai trình thuật dường như trái ngược nhau?

“Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”, là một cách nói dùng để chỉ Đức Giêsu được siêu tôn ngang bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, làm gì có tay phải tay trái như con người. Đây là cách nói nhân hình, nghĩa là, nói về Thiên Chúa theo kiểu con người. Để hiểu đúng, không được hiểu theo nghĩa đen. Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, nghĩa là, Đức Giêsu là Thiên Chúa.

Các ngươi là chứng nhân về những điều này

Không phải tất cả mọi người đều được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Chỉ có một số người được chọn, mới được diễm phúc này, và họ trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh. Các tông đồ là những người được thấy Chúa, và các Ngài đã là những chứng nhân anh dũng của Đấng Phục Sinh qua việc dùng chính mạng sống mình để làm chứng. “Ngu gì” để chết cho điều không thật hoặc không quan trọng! Sẵn sàng chết để làm chứng Đức Giêsu đã phục sinh, làm cho điều các tông đồ rao giảng “đáng tin”.

Các tông đồ đã chết. Các ki-tô hữu là những môn đệ của Đức Giêsu, đến lượt mình, các ki-tô hữu được mời gọi trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh cho con người thời đại hôm nay.

Các tông đồ đã chết để làm chứng cho Chúa Phục Sinh. Ki-tô hữu hôm nay được mời gọi để sống yêu thương, như dấu chứng Thiên Chúa đang hiện diện và hành động nơi ki-tô hữu trong thế giới này. Yêu, đòi phải hy sinh, và cũng là một cách “chết” cho người yêu.

Nên giống Đức Giêsu

Đức Giêsu là thượng tế, là của lễ và bàn thờ. Lời Thiên Chúa nhập thể vì yêu con người, Ngài đã chết để đền tội con người, để con người không phải chết vì tội mình nữa nhưng được sống, vì có người đã chết thế cho mình.

Đức Giêsu dùng chính máu Ngài để thanh tẩy tội lỗi con người. Ngài thương cảm con người với những yếu đuối và giới hạn của họ. Ngài đã trải qua tất cả những gian nan thử thách, để con người có can đảm tới với Ngài.

Là người, anh chị em với nhau. Mỗi người phải trở nên một “Giêsu khác” để thông cảm và nâng đỡ anh chị em mình. Mỗi người được mời trở nên giống Đức Giêsu, bằng “yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Theo bạn, Đức Giêsu Phục Sinh bây giờ đang ở đâu? Xin giải thích.

2. Trong đời tu hoặc đời sống ki-tô hữu, người ta thường nói tới “cái chết không đổ máu”, bạn hiểu điều này như thế nào? Cho thí dụ.

3. Người nên giống Đức Giêsu nhất, là người có những đức tính nào?

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

THỜI KỲ GIÁO HỘI

Flor McCarthy

Suy Niệm 1. HIỆN DIỆN VÀ VẮNG MẶT

Vào ngày Lễ Thăng Thiên, Đức Giêsu đã rút lại sự hiện diện thể lý của Người đối với các môn đệ. Nhưng sự vắng mặt thể lý ấy không có nghĩa là chấm dứt sự hiện diện. Sự thăng thiên của Đức Giêsu là sự giải phóng của Người khỏi mọi giới hạn của thời gian và không gian. Nó không thể hiện vận động của Người trên mặt đất, nhưng sự hiện diện thường xuyên của Người ở mọi nơi trên trái đất.

Sự hiện diện thể chất không phải là tất cả. Thật vậy, một đôi khi, sự hiện diện có thể đạt được bằng con đường hiệp thông mật thiết. Trong đời sống chúng ta gặp nhiều nỗi thất vọng bởi sự kiện, sự gặp gỡ và tiếp xúc không phải lúc nào cũng tạo ra sự thân mật, gần gũi mà chúng ta tìm kiếm. Hai người có gần gũi nhau về mặt thể chất thế nhưng cuộc sống vẫn xa cách, cô đơn. Bởi lẽ không có sự gặp gỡ trong trí óc và tâm hồn. Họ giống như những vỏ sò trên bãi biển.

Mặt khác, người ta có thể rất gần nhau dù xa cách nhau hàng ngàn dặm. Đối với những người cùng nhau lớn lên, trưởng thành phải có những thời kỳ vắng mặt và hiện diện. Khi vắng mặt, chúng ta nhìn nhau bằng một phương thế mới mẻ. Chúng ta bớt bực bội nhau vì những cung cách bên ngoài, và có thể thừa nhận giá trị thật của nhau tốt hơn.

Nếu chúng ta có thể hiện diện trọn vẹn với bạn hữu khi chúng ta ở với họ thì sự vắng mặt của chúng ta cũng sẽ mang lại kết quả. Khi hồi tưởng sự hiện diện nồng nàn ấy hơi ấm của nó sẽ tiếp tục nuôi dưỡng người kia. Vì thế, không chỉ sự hiện diện của chúng ta mà cả sự vắng mặt của chúng ta cũng đem lại nhiều ơn ích.

Khi chúng ta nghĩ đến nhau trong sự yêu thương, một dây liên kết tinh thần hình thành ở giữa chúng ta và chúng ta bước vào một sự thân mật mới. Đối với những người yêu thương nhau, không có chỗ dành cho sự “xa cách”.

Đức Giêsu lên trời không phải là một cuộc hành trình ra ngoài không gian, nhưng là một cuộc hành trình về nhà, chúng ta không nên nghĩ rằng trước đó Người sống trên mặt đất, còn giờ đây Người lại trở lại nơi thật sự thuộc về Người. Nếu như thế thì Kitô giáo không hơn một tôn giáo của sự hoài niệm, hồi tưởng. Đức Giêsu đã về với Chúa Cha. Trong suốt sứ vụ ở trần gian, Người chỉ có thể ở một nơi và trong một thời gian. Nhưng giờ đây, Người đã hiệp nhất với Thiên Chúa, Người hiện diện bất cứ nơi nào Thiên Chúa hiện diện, có nghĩa là ở khắp mọi nơi.

Các Kitô hữu tiên khởi đã hiểu điều ấy rất rõ. Họ biết rằng Đức Giêsu vẫn ở với họ, cho dù không cùng một cách thức như trước đây. Họ tin rằng Người vẫn chia sẻ đời sống với họ, và cái chết có nghĩa là được hiệp nhất với Người trong vinh quang mãi mãi.

Tuy nhiên khi nhìn lại, chúng ta cũng thèm muốn được như những người có may mắn nhìn thấy Chúa Phục Sinh bằng chính mắt mình. Nhưng Tin Mừng cho biết những người ở trong tình huống đáng ao ước ấy đã không thật sự nhận ra Đức Giêsu cho tới lúc Người dẫn giải Kinh Thánh và bẻ bánh.

Là những Kitô hữu hôm nay, chúng ta cũng có những phương tiện như thế để nhận ra Chúa: Kinh Thánh và việc bẻ bánh. Về vấn đề gặp gỡ Đức Giêsu bằng đức tin, thế hệ đã qua không có nhiều đặc quyền hơn thế hệ hiện tại.

Đức Giêsu đã tín nhiệm các Tông đồ (và giờ đây tín nhiệm chúng ta) để Tin Mừng bảo đảm được rao giảng và được sống. Người cần chúng ta làm chứng cho sự hiện diện của Người trong thế gian.

Suy Niệm 2. NHÂN CHỨNG CHO ĐỨC KITÔ

Trước khi rời xa các tông đồ, Đức Giêsu đã uỷ thác cho họ việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới. Để giúp họ thi hành sứ vụ ấy. Người hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần đến cùng họ. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Người đã hoàn thành lời hứa ấy.

Nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho thế giới hiện nay tuỳ thuộc vào chúng ta. Chúng ta là những nhân chứng của Đức Kitô. Đó là một đặc ân to lớn nhưng là một nhiệm vụ luôn làm người ta chán nản. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể cậy đến sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần. Nhưng chúng ta phải làm chứng như thế nào?

Có sự làm chứng bằng lời nói. Chúng ta làm chứng bằng việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Điều này có thể bao gồm việc giải thích đức tin và bảo vệ đức tin.

Có sự làm chứng bằng việc làm. Một cây táo không bao giờ cho trái táo sẽ là một chứng tá nghèo nàn đối với vườn cây ăn trái. Dù chỉ trái táo ngon cũng nói lên được một điều gì đó. “Chớ vao giờ khuyên bảo một điều gì mà bạn không thể làm gương về điều đó” (Thoreau).

Rồi có sự làm chứng bằng đời sống của mình. Cây cối làm chứng cho sự sống bằng chính sự hiện hữu của nó. Cao, thẳng, bất độn, chúng là những chứng tá im lặng nhưng hùng hồn của đời sống. Bông hoa làm chứng về cái đẹp đơn giản bởi vẻ đẹp phong phú của chúng. Và những Kitô hữu làm chứng bằng đời sống của họ. Bài giảng thuyết hùng hồn nhất là bài giảng thuyết thinh lặng bằng gương sáng. Ngày nay, người ta không còn muốn nghe những bài giảng về đức tin. Họ muốn nhìn thấy Tin Mừng trong hành động.

Sự làm chứng bằng đời sống của một Kitô hữu còn mạnh mẽ hơn bất cứ lý luận nào. Có những người mà đời sống của họ toả sáng chứng cứ về quyền năng biến đổi của đức tin. Trong đời sống của họ, đức tin là một ngọn lửa sáng, giữa đời sống của những người khác, đức tin là một ánh sáng lờ mờ hoặc một tia lửa bất chợt. Dù có mọi giới hạn và khuyết điểm của con người, nếu một người sống đơn sơ, lấy Đức Kitô làm mẫu mực thì người ấy là dấu chỉ về Thiên Chúa và về những thực tại siêu việt.

Chứng tá của Tin Mừng mà thế giới cho rằng có thể kêu gọi người ta nhiều nhất là sự quan tâm đến con người, là việc làm bác ái hướng về người nghèo, người yếu đuối và người chịu đau khổ. Sự quảng đại được nhấn mạnh trong thái độ và các hành động đó nổi lên sự tương phản với tình vị kỷ của con người. Nó đưa ra những vấn đề chính xác dẫn đưa người ta đến với Thiên Chúa và đến với Tin Mừng. Một cam kết với hoà bình, công lý, nhân quyền là một sự làm chứng cho Tin Mừng.

Có một cấp độ thứ tư của việc làm chứng, đó là làm chứng với cái chết của mình. Nhưng điều này không đòi hỏi mọi người hoặc ban cho mọi người. Đây không phải là con đường êm ái và dễ dàng, nhưng là một con đường đòi hỏi một tính kiên trì, sức mạnh và lòng can đảm đặc biệt.

Thế giới ngày nay có một sự khao khát mãnh liệt Đức Kitô của Tin Mừng. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: “Anh em hãy ở lại thành đô, cho đến lúc mặc lấy quyền năng từ trên cao”. Quyền năng nói ở đây là quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần có chính quyền năng này, nếu chúng ta làm chứng cho Đức Giêsu. Và ai làm chứng sẽ chia sẻ vinh quang của Người.

CÂU CHUYỆN KHÁC.

Ngày xưa, có một người cha có mười hai người con. Dù ông đều yêu thương các con, ông vẫn có một tình thương dịu dàng với đứa con áp út tên Giuse. Những người con khác ganh tỵ với Giuse và quyết định giết anh. Tuy nhiên, vào giây phút cuối cùng, họ đổi ý. Thay vì giết em, họ bán em cho những thương gia đi ngang qua đó, họ nói với cha họ rằng người em đã bị thú giết chết.

Giuse bị xích lại và đưa sang Ai Cập, ở đó ông được bán như một người nô lệ. Ông có một đời sống cùng cực, hèn kém. Dsư5 việc còn tệ hơn, khi ông bị vu khống và bị giam vào ngục tối. Dù xung quanh là những tội phạm cứng lòng, ông vẫn tiếp tục tín nhiệm vào Thiên Chúa và sống một đời sống tốt. Ông cũng làm bạn với các tội phạm. Cuối cùng ông làm rạng danh ông và được tha.

Lúc đó, như thấy trước nạn đói khủng khiếp sẽ đến, ông đã cảnh báo nhà vua phải truyền lệnh cho dân tiết kiệm ngũ cốc. Nhà vua không chỉ theo lời khuyên của ông mà còn đặt ông làm quản lý công việc. Giuse đã hoàn thành công việc một cách xuất sắc.

Nạn đói đã xảy ra như dự kiến và dân chúng có thể lấy lúa gạo tích trữ ra dùng. Nhưng trong các nước láng giềng, tình trạng trở nên tồi tệ. Dân chúng các nước kéo nhau về Ai Cập để tìm mua ngũ cốc. Và nhà vua nói với họ: “Hãy đến gặp Giuse”.

Một ngày kia, anh em của Giuse đã đến Ai Cập để mua ngũ cốc. Khi họ nhận ra ông họ run sợ. Nhưng thay vì trả thù, Giuse đã tiếp đãi tử tế, và cho họ đầy đủ ngũ cốc mà họ cần. Ông nói với họ hãy trở về nhà và đưa cha họ đi theo họ trở lại Ai Cập cho ông gặp.

Người cha già rất đỗi vui mừng khi nghe nói rằng đứa con trai thân yêu của ông vẫn còn sống. Các anh của Giuse đã phạm phải một hành động ác độc chống lại ông. Nhưng qua đó, điều tốt lành đã đến với ông. Ông có thể cứu các anh mình khỏi nạn đói và làm cho cho cả nhà được đoàn tụ.

Câu chuyện của Giuse là một trong những câu chuyện cao cả nhất của Kinh Thánh. Ông Giuse là hình ảnh của Đức Giêsu, Chúa Con yêu dấu của Chúa Cha, đã bị anh em Người bán đi, bị giết chết, nhưng giờ đây đã được Chúa Cha cho sống lại và đặt Người ở bên hữu Chúa Cha trong vinh quang. Từ vị trí cao trọng ấy, Người cứu chuộc chúng ta, anh chị em của Người khỏi tội lỗi và cái chết đời đời. Và Người tìm kiếm để quy tụ mọi thành phần còn tản lạc của gia đình Thiên Chúa.

Ngày hôm nay chúng ta cử hành sự thăng thiên của Đức Giêsu. Người lên trờ ngự bên hữu Chúa Cha. Đây là một ngày vui vẻ. Nhưng Người đã cho chúng ta một nhiệm vụ phải hoàn thành. Không phải là phân phát ngũ cốc, nhưng là rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

HÃY MANG CHÚA ĐẾN CHO NHÂN TRẦN

Lm Jos. Tạ Duy Tuyền

Hôm nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Kitô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không còn làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang phục sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho cuộc đời chúng ta.

Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: “Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đó đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Nhưng, nếu là thập giá có Đức Kitô sẽ là một hiến tế thánh thiện, một của lễ hy sinh mang lại ơn ích cho chính mình và cho tha nhân. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang u sầu vì lầm than cơ cực. Bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.

Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Nếu cuộc đời không có Đức Kitô thì những hy sinh, những đau khổ, những gánh nặng trong cuộc đời này sẽ là một mất mát, một nỗi đau của kiếp người. Đây cũng là tin mừng mà Đức Kitô đang trao phó cho Giáo hội, cho mỗi người chúng ta: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Hãy loan tin vui đến cho những ai đang gặp u sầu, đang thất vọng, đang trải qua những ngày tháng bất hạnh, khổ đau. Hãy nói cho họ biết sau đêm dài là ánh bình minh. Cuộc đời này là một hành trình đi về thiên quốc. Một con đường có thập giá. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những tham sân si của dòng đời. Thập giá trong những dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân. Đó chính là thập giá mà chúng ta đón nhận vì Đức Kitô sẽ biến thành thánh giá của hồng ân cứu độ. Thập giá làm chúng ta không vui. Thập giá làm chúng ta đau khổ. Nhưng chính nhờ những thập giá trong cuộc đời sẽ là nhịp cầu đưa tới tới bề bờ hạnh phúc vô biên.

Người nông dân đang cố gắng mang Chúa đến cho những mảnh đời bất hạnh, là sứ vụ mà Chúa đã trao cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau mang Đức Kitô đến muôn nẻo đường đời. Hãy mang Đức Kitô đến cho những ai đang thất vọng u sầu, đang nặng trĩu những buồn đau. Hãy nói cho họ biết đón nhận mọi biến cố đang diễn ra trong cuộc đời mình vì Đức Kitô và trong Đức Kitô.

Hôm nay, Chúa về trời. Chúa vẫn mang theo những dấu vết của thương tích trong cuộc khổ nạn. Không có vết thương nào đắt giá cho bằng sự chết. Như thể, Chúa về trời với những chứng tích đau thương, với những chống đối mà Ngài phải gánh chịu trong cuộc sống, với cơn hấp hối nơi vườn cây dầu, với những đau đớn của roi đòn, lỗ đinh. Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn vâng theo thánh ý Chúa. Và hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng như những ai muốn đi theo Ngài phải đi con đường này để lên trời. “Anh em hãy làm chứng cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới”. Làm chứng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống theo gương Chúa Giêsu. Một cuộc sống luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc sống hằng ngày. Một cuộc sống phục vụ tha nhân để qua đó muôn dân sẽ ngợi ca Thiên Chúa. Một cuộc sống làm chứng không nhất thiết phải đổ máu, nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm: luôn bao dung, kính trọng lẫn nhau, luôn bác ái và sống công bình với nhau. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người đời khinh chê, ghét bỏ, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Hôm nay nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giêsu: “Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới”. Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan, ngõ hầu “Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo – Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Amen.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

CHÚA TIN TƯỞNG CHÚNG TA

Niềm Vui Chia Sẻ

Có một truyền thuyết xưa kia kể lại rằng: Khi Đức Giêsu hoàn thành sứ mạng dưới thế, Ngài trở về trời và được Thiên thần Gabriel đón tiếp. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay:

– Xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế?

Chúa Giêsu trả lời:

– Ta đã chọn 12 Tông đồ, một nhòm môn đệ và một vài phụ nữ. Ta đã giao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất.

Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thỏa mãn nên hỏi tiếp:

– Nhưng số môn đệ ít ỏi đó thất bại thì Chúa có dự trù nào khác không?

– Chúa Giêsu mỉm cười và dường như muốn biểu đồng tình là thiên thần Gabriel đã có lý khi nghi ngờ, tuy nhiên Ngài vẫn quả quyết:

– Đó là kế hoạch duy nhất Ta chọn. Ta không dự trù một kế hoạch nào khác cả. Ta tin tưởng vào họ.

Vâng, thưa anh chị em, mãi đến 20 thế kỷ sau, Chúa Giêsu vẫn không thay đổi kế hoạch Ngài đã chọn. Các Tông đồ đã không làm Ngài thất vọng và cả đám dân được họ rao giảng Tin Mừng cũng đã không phụ lòng Ngài. Và hiện giờ Ngài đang tin tưởng vào chúng ta.

Thật vậy, trước khi từ giã các môn đệ ngài để trở về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các ông trọng trách rao giảng Tin Mừng của Ngài và đã hứa ban cho các ông được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thân: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

Vì thế, các môn đệ đã trở về, lòng tràn ngập hân hoan. Đây chính là lúc phải bắt tay vào việc. Chính nhờ vào niềm tin và nỗi vui mừng nầy, các môn đệ đã hăng hái ra đi rao giảng Tin Mừng sau khi được lãnh nhận Thánh Thần. Các ông không còn sợ hãi của những ngày Chúa chịu chết, nhưng đầy sức mạnh để dám đương đầu với tất cả những khổ đau, những thương tích mà chính các ông không thể trốn tránh được. Quả thật, các môn đệ của Chúa Giêsu đã không phụ lòng Ngài.

Cha Mark Link, S.J đã sánh ví ngày lễ Thăng Thiên như một cuộc chuyền cây gậy từ vận động viên nầy sang vận động viên khác trong một cuộc chạy tiếp sức. Cách đây hơn 2000 năm, vào ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã chuyền cây gậy sứ mạng của Ngài cho Phêrô, Giacôbê và Gioan… đến lượt họ, họ đã chuyền cho những người tiếp theo sau, rồi những người nầy lại chuyền cây gậy ấy đến chúng ta. Và giờ đây đến lượt chúng ta lại phải chuyền gậy cho những người kế tiếp.

Thực tế mà nói, điều nấy có nghĩa gì? Sứ mạng ra đi rao giảng Tin Mừng về Chúa Giêsu như các Tông đồ đã làm mang ý nghĩa gì? Đối với chúng ta, sứ mạng rao giảng về Chúa Giêsu mang một ý nghĩa căn bản trong cuộc sống Kitô hữu. Đó chính là làm chứng cho Chúa Giêsu bằng đời sống Kitô hữu của mình. Đó chính là sống Lời Chúa Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi người. Để rao giảng Chúa Giêsu cho thế giới, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp thế giới. Nếu có đủ số người Kitô hữu biết đưa Chúa Giêsu vào cuộc đời mình thì họ sẽ thay đổi được bộ mặt trái đất nầy thành tuyệt vời đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.

Anh chị em thân mến, Sứ điệp của ngày lễ Thăng Thiên hôm nay đưa ra cho chúng ta sự thách thức trước trước niềm tin tưởng mà Chúa Giêsu đã đặt nơi mỗi người chúng ta:

“Anh em là muối đất… anh em là anh sáng trần gian…” (Mt 5, 13 -16). Là men, là muối, là ánh sáng cho đời, cuộc sống Kitô hữu phải tốt, phải ướp mặn chất Tin Mừng, phải phản chiếu khuôn mặt Chúa Giêsu. Được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ không làm cho Chúa Giêsu phải thất vọng.

Mừng lễ Chúa lên trời hôm nay, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng là ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống, để làm chứng cho Chúa, để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em chung quanh mình. Chúa Kitô đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về Trời với Chúa của mình.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

HƯỚNG LÒNG VỀ THƯỢNG GIỚI

Lm Ignatio Trần Ngà

Khi con người chỉ biết nhìn xuống…

Người đàn bà có biệt danh là “bà lom khom” đã trở thành hình ảnh quá quen thuộc đối với những ai hay lui tới những công viên của thành phố nầy. Đã lâu lắm rồi, từ sáng tới chiều, ngày nầy qua ngày khác, người ta thấy bà lầm lũi cúi mặt xuống đất để tìm nhặt những đồng tiền xu mà khách nhàn du đánh rơi đâu đó trong các công viên. Người dân trong khu vực gọi bà là “bà-lom-khom” vì hình như mắt bà rất kém, phải khom gập người xuống mới có thể thấy được những đồng tiền rơi rớt đâu đó trong công viên. Hình như nghề nầy đem lại cho bà nguồn thu nhập khá lớn, nên ngày nào bà cũng khom người đi nhặt như con kiến cần cù, như con ong kiên nhẫn nhất.

Vì lúc nào bà cũng cúi gằm xuống đất, đôi mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn xuống để tìm những đồng xu lẻ, dần hồi cần cổ của bà cụp xuống, lưng còng hẳn đi đến nỗi bà không còn ngửng lên nhìn trời được nữa.

Thế là mặc dù kiếm được khá tiền, nhưng bà đã đánh mất cuộc sống. Bà chỉ biết có mặt đất mà không biết có bầu trời. Bà chỉ biết ky cóp những đồng tiền xu mà chẳng biết gì đến thế giới chung quanh!

* * *

Hình ảnh người đàn bà còng lưng trên đây là biểu tượng cho những người chỉ biết có thế giới vật chất mà đánh mất thế giới thiêng liêng.

Với tầm nhìn hạn chế, con người chỉ thấy gần mà không thể thấy xa, chỉ biết chú mục vào cuộc sống đời nầy mà lãng quên cuộc sống đời sau, chỉ biết vun quén của cải vật chất mà không lo làm giàu của cải thiêng liêng; chỉ biết kiếm tìm lạc thú trần gian mà lãng quên hạnh phúc đời đời… Họ chối bỏ Trời, quay lưng lại với Thiên Chúa, khước từ thế giới thiêng liêng!

Họ xem mặt đất nầy là quê hương duy nhất, họ xem nấm mồ như điểm đến cuối cùng của kiếp người. Cuộc đời của họ được thi hào Nguyễn Du diễn tả cách bi thương:

“Trăm năm còn có gì đâu

Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”.

Như thế, đối với người không tin thì sống là hành trình tiến về ngôi mộ; còn đối với chúng ta, sống là hành trình tiến về thiên quốc.

Viễn tượng mới

Sự kiện Chúa Giêsu lên trời mở ra cho loài người một viễn tượng mới: Thế giới loài người không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ vật chất nhưng còn mở vào cõi vô biên. Cuộc đời con người không chấm dứt trong nấm mồ hoang nhưng vượt qua đó để tiến vào vĩnh cửu.

Như con ve chui lên khỏi đất, lột bỏ chiếc vỏ chật hẹp để đón chào thế giới mới, cất cao tiếng hát dưới ánh nắng mặt trời, con người cũng được mời gọi hãy vượt lên trên thế giới vật chất, đập bỏ lớp vỏ vật chất bó chặt đời mình để vươn vai trở thành tạo vật mới, sống đời sống mới.

Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta hướng về đích xa:

“Quê hương chúng ta ở trên trời” (Philip 3, 20)

Thế nên: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Col 3, 1-4)

Vậy chúng ta đừng chỉ lo phần xác mà quên mất phần hồn. Phải dành ưu tiên cho linh hồn chúng ta, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa. Chỉ dán mặt xuống đất mà không biết ngẩng lên nhìn trời thì vô cùng tai hại.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

KHÔNG GIẢI THÍCH ĐƯỢC

Achille Degeest

Đức Giêsu đã thuyết phục các tông đồ tin rằng Người đã sống lại. Chúa mở tâm trí cho các ông hiểu ý nghĩa Kinh Thánh và thấy mình đang đi vào kế hoạch liên tục của Thiên Chúa. Các ông sắp làm chứng cho Đấng được loan báo trong Kinh Thánh, Người đã thật sự sống với các ông cuộc đời dưới thế của Người và sắp tiếp tục công cuộc cứu độ qua Giáo Hội, đem lợi ích cho khắp thế giới. Các ông sẽ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần đến hoàn tất sự hiểu biết của mình, như Đức Giêsu đã hứa. Lúc đó sẽ thấu hiểu ý nghĩa khổ nạn và Phục Sinh, hơn nữa sẽ khám phá Phúc Âm được dùng vào một công cuộc có tầm mức bao la đến chừng nào. Các ông sẽ không choáng váng tê liệt, sẽ thật sự trở nên tông đồ vì mặc lấy sức mạnh từ Trên ban cho. Chúng ta không ngạc nhiên đọc câu: Họ trở lại Giêrusalem, lòng mừng khôn xiết. Như vậy, chứng kiến Chúa lên trời, các môn đệ tuyệt nhiên không kinh ngạc, trái lại vui mừng vô hạn. Tại sao? Ví các ông chắc hẳn bắt đầu hiểu rõ bí nhiệm về sự hiện diện vô hình của Thày. Chúng ta dừng lại để suy niệm về việc Chúa chúc lành và niềm hân hoan không giải thích được của các môn đệ.

1) Giơ tay, Chúa chúc lành cho họ.

Các môn đệ lãnh nhận chúc lành của Thày, coi đó là cử chỉ của Thiên Chúa kết thúc một sự hoàn tất và mở màn cho một sự bắt đầu. Hoàn tất, vì thời gian Chúa sống giữa thế gian đã chấm dứt. Chúa vào vinh quang của Chúa Cha. Tác động của Đức Giêsu hiện diện hữu hình không còn nữa, sắp chuyển sang một thể thức tác động khác, đồng thời các môn đệ bắt đầu một cuộc trông đợi. Chúc lành của Chúa làm dậy lên trong các môn đệ một nghị lực sắp lớn mạnh nảy nở. Cử chỉ Chúa giơ tay ban phép lành biểu hiện sức mạnh của sự sống, của lòng bác ái và một nghị lực tràn ngập tâm hồn các ông, sắp biến đổi và hướng dẫn các ông thành toàn bản ngã và sứ mạng. Một ví dụ thực tế: Chúng ta nhắc lại rằng chúc lành nhân danh Đức Kitô của linh mục chủ tế lúc Thánh Lễ hoàn tất, biểu hiện sự hoàn tất và sự phái đi. Chúng ta có nhiệm vụ hoàn tất trong đời sống thực tế ơn lành nhận được trong Thánh Lễ, và chúng ta được phái đi vào thế giới làm chứng cho Đức Kitô.

2) Các môn đệ vui mừng mặc dầu Đức Giêsu vừa biến đi trước mắt các ông.

Chúng ta chúng ta nghĩ rằng các ông được sinh ra trong tình yêu đích thật của Thày, các ông không hề nghĩ về thân phận mình theo tính ích kỷ thường tình, trái lại được vui mừng nhìn Thày đi vào vinh quang của Chúa Cha. Tuy nhiên cho dầu tình yêu đầy vị tha tới đâu thì cũng phải có sự hiện diện của Thày. Có thể các môn đệ làm một cuộc thí nghiệm mới về sự hiện diện vô hình của Thày. Chúa về trời trở nên gần gụi các ông hơn trước. Chúa biểu lộ sự hiện diện trong quyền năng thần thánh của Người, Chúa đem Thần Khí vào tâm hồn các ông. Tới đây chúng ta thấy vai trò đức tin là cần thiết. Điều tốt là các môn đệ nay trở thành chứng nhân cho Chúa phải tham dự vào kinh nghiệm đức tin mà tất cả chúng ta đều phải có, một niềm tin trong hân hoan không giải thích được, trải qua mọi gian nan thử thách. Niềm tin ấy sinh ra một niềm trông cậy hân hoan hơn nữa, vì lẽ ngày Chúa lên trời sẽ đưa tới ngày chúng ta sẽ vô cùng hân hoan, Chúa ở đâu, chúng ta cũng sẽ ở đó.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

RA KHƠI

R. Veritas

Dịp Lễ Thăng Thiên năm 2001 Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ:

“Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được Lời Chúa: “Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất”.

Từ hai ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con người. Những lời này làm cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá trên thế giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa “Hãy ra khơi”, mệnh lệnh mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây là mệnh lệnh mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng Thiên. “Hãy ra khơi” ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải chỉ là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm. Như những tông đồ, những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn rằng nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Âm hôm nay nói rằng:Tại sao các ông còn nhìn trời?

Việc cầu nguyện chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi việc dấn thân vào trong lịch sử. “Trời”, nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là một sự xa vắng nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện. Đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang. Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi. Đòi hỏi chúng ta phải làm chứng bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước. Và chính để làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập hội nghị Hồng Y đặc biệt được bế mạc hôm nay (thứ Năm 24/05/2001). Các vị Hồng Y, từ các nơi trên thế giới mà tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về một vài đề tài trong số những đề tài nổi bật nhất của công việc rao giảng Phúc Âm và làm chứng Kitô trong thế giới hôm nay, vào khởi đầu Ngàn Năm Mới. Đây, đối với chúng tôi, là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui đã tràn ngập tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài để lên trời. Thật vậy, thánh Luca đã ghi lại rằng: “Sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.”

Và tiếp sau trong bài giảng, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội, và cuộc hội Hồng Y cũng được Đức cố Giáo Hoàng đặt trong viễn tượng này: “Thực hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội, để Giáo Hội có thể rao giảng Phúc Âm Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em.”

Trong thánh lễ Chúa Thăng Thiên và trong giây phút này, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cho chúng ta biết ý nghĩa của biến cố quan trọng này: Không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, mà Ngài bước sang một sự hiện diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài luôn ở cùng chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng. Và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi trường chúng ta sinh sống.

Từ Chúa Nhật này cho tới Chúa Nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình, mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi. “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận cùng và các con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này”.

Xin Chúa gìn giữ chúng ta vững mạnh trong đức tin để chúng ta có thể làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI

R. Veritas

Một thi sĩ người Đức có viết vần thơ sau đây: “Bên trên thế giới này là mây trời, mây trời thuộc về thế giới. Bên trên trời là hư vô”. Vần thơ này được hàng triệu người trên thế giới chứng thực mỗi ngày khi ngồi trong các máy bay khổng lồ, mà mỗi chuyến bay chở được mấy trăm hành khách. Các loại máy bay này thường bay trên độ cao hơn 10,000 mét, nghĩa là trên các tầng mây. Và quả thật, trên độ cao ấy, du khách chỉ thấy bên dưới là mây, trước mắt và chung quanh là chân trời xanh dài vô tận và bên trên chỉ là khí, không có gì khác.

Tuy nhiên, qua khẳng định trên đây, thi sĩ người Đức ám chỉ một sự kiện khoa học, ông muốn diễn tả xác tín vô thần của ông là không tin có Thiên Chúa, không tin có quê trời, không tin có thiên đàng và cuộc sống mai sau. Cuộc đời con người kết thúc với cái chết và bên kia cái chết chỉ là hư vô. Nghĩa là thi sĩ gián tiếp khẳng định rằng, cuộc đời con người vô nghĩa, do đó cũng không cần phải sống tốt với tha nhân hoặc ăn ngay ở lành hay sống đạo đức luân lý làm gì, cứ việc tham ô, gian ác, bóc lột người khác, cũng không cần phải cầu nguyện làm gì, bởi vì nó chỉ là đối thoại với hư vô, và thế giới này chỉ là hư vô bởi vì không có tương lai.

Nhưng xác tín như vậy là thi sĩ đã rơi vào sự lầm lẫn lớn nhất. Bởi vì trong ngày lễ Thăng Thiên, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng sau cái chết cuộc sống mới thực sự bắt đầu và bên trên tầng mây là tất cả.

So sánh trình thuật biến cố Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh lên trời trong các bản văn Tin Mừng, chúng ta hiểu ra ngay một sự khác biệt trong Phúc Âm thánh Gioan: cuộc đời Chúa Giêsu tập trung vào ngày sau thứ bảy là ngày lễ Vượt Qua, ngày Chúa Giêsu sống lại, lên trời và trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Đối với thánh Gioan, Thiên Chúa tự tỏ lộ mình cho nhân loại trong con người và trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và Giáo Hội hay cộng đoàn các môn đệ là hoa trái của sự mạc khải ấy.

Phúc Âm thánh Matthêu trái lại, là Emmanuel: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, nghĩa là theo thánh nhân, Chúa Giêsu luôn luôn sống hiện diện và hoạt động sâu thẳm giữa cộng đoàn Giáo Hội. Ngài tự đồng hóa mình với mọi người. Do đó, mỗi việc làm cho một trong các thành phần của cộng đoàn Giáo Hội là làm cho chính Chúa Giêsu. Nói cách khác, theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh luôn hiện diện trong cộng đoàn thân mình mầu nhiệm của Ngài, cho dù cộng đoàn đó có bé nhỏ và có sống tại nơi hẻo lánh xa xôi ở tận chân trời góc biển nào trên thế giới này đi chăng nữa thì vẫn có Chúa hiện diện luôn luôn: “Ở đâu có hai, ba người tụ họp lại nhân danh Thầy thì Thầy ngự giữa họ”. Chủ đích thần học này giải thích tại sao thánh Matthêu đã không kết thúc Phúc Âm với trình thuật Chúa Giêsu rời bỏ cộng đoàn môn đệ về trời như hai thánh sử Marcô và Luca. Phúc Âm thánh Matthêu kết thúc Phúc Âm với lời Chúa Giêsu trang trọng khẳng định với các môn đệ rằng: “Ngài sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Thánh sử Luca thì có một quan niệm thần học khác, đối với thánh nhân thì thời gian sau khi Chúa Giêsu về trời là thời gian của Giáo Hội. Thánh Luca coi việc cộng đoàn Giáo Hội tiếp nối sự loan truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu như giai đoạn cuối cùng trong lịch sử cứu độ.

Nếu Kinh Thánh Cựu Ước đã tập trung lịch sử cứu độ vào dân Israel và vào lời hứa của Thiên Chúa, thì Kinh Thánh Tân Ước tập trung lịch sử cứu độ vào Chúa Giêsu và vào ngày hôm nay của Chúa Giêsu như thời điểm thành toàn lời Thiên Chúa đã hứa với dân Israel xưa kia. Lời Thiên Chúa thực hiện trong cộng đoàn Giáo Hội giờ đây phải được tiếp tục thành toàn và ơn cứu độ phải được mọi thành phần Giáo Hội tiếp tục loan truyền cho mọi dân tộc khác. Đó là nội dung của sách Tông Đồ Công Vụ, trong đó thánh Luca tường thuật công tác truyền giảng mà Chúa Giêsu là trung tâm điểm và là người khởi xướng và giờ đây cộng đoàn Giáo Hội tiếp tục đẩy mạnh dưới sự thúc đẩy, dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.

Trong một nghĩa nào đó, biến cố Chúa Giêsu lên trời cần thiết cho việc khai mạc sứ mệnh của Giáo Hội. Chúa Giêsu Phục Sinh lên trời nhưng giờ đây là thời gian Ngài hoạt động qua và trong cộng đoàn Giáo Hội. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không hiện diện trong thế giới này, nhưng Ngài sẽ trở lại trần gian. Nhưng trong thời gian giữa hai khoảng cách đó, Ngài sống ngoài lịch sử, nhưng hiện diện trong lịch sử qua cộng đoàn Giáo Hội. Nước Thiên Chúa thực tại cuộc sống siêu việt vĩnh cửu, vẹn toàn mai sau tỏ hiện dần trong Giáo Hội. Trong nỗ lực, Giáo Hội làm chứng cho Chúa Giêsu và rao truyền Tin Mừng của Chúa.

Thánh sử Luca đã thật khéo léo khi nối liền thời gian hoạt động của Giáo Hội với ngày hôm nay của Chúa Giêsu và giải thích nó như là thời gian của ơn thánh cứu độ. Biến cố Chúa Giêsu lên trời như ghi trong sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm phải được hiểu dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ: mầu nhiệm lên trời giải thích tại sao lại có Giáo Hội. Giáo Hội hiện diện giữa lòng xã hội và loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người.

Nói cách khác, qua sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm, thánh sử Luca muốn chứng minh cho chúng ta thấy chương trình Thiên Chúa đối với loài người và thế giới đã được Chúa Giêsu thực hiện và thành toàn, và giờ đây được tỏ hiện từng bước và kéo dài trong cuộc sống của Giáo Hội.

Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời, thánh sử Luca là người duy nhất có can đảm dùng động từ ám chỉ sự chia lìa khi biết Chúa Giêsu Kitô tách rời khỏi đoàn môn đệ, và chương 24 mở đầu trình thuật một ngày sống của Chúa Giêsu cũng như của cộng đoàn các môn đệ bằng cách ghi nhận sự vắng mặt của Chúa Giêsu. Nhưng tiếp sau đó Chúa Giêsu lại hiện diện giữa cộng đoàn, Ngài đồng hành, đàm đạo và dùng bữa tối với hai môn đệ trên đường Emmau, và giờ đây trình thuật kết thúc với Chúa Giêsu lại tự tỏ hiện ra.

Tuy nhiên, sự chia tay này tại Bethania không khiến cho các môn đệ buồn sầu hay chán nản. Trái lại họ cùng nhau trở về Giêrusalem lòng tràn đầy vui sướng. Thánh sử Luca không giải thích tại sao đoàn môn đệ giờ đây phải xa Thầy mình mà lại sướng vui như vậy, nhưng chắc chắn các môn đệ đã khám phá ra hay ít nhất đã trực giác được chuyện gì đó, nghĩa là các vị đã hiểu rằng, Chúa Giêsu tuy đã tách rời khỏi họ, nhưng vẫn luôn hiện diện bên họ.

Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời còn có một điểm đặc biệt khác nữa, đó là các môn đệ đang phủ phục xuống thờ lạy Ngài thì Chúa Giêsu đã rời khỏi họ lên trời, đồng thời Ngài giơ tay ban phép lành cho họ. Cử chỉ này của Chúa Giêsu cho thấy, Ngài hành động như là Thầy của các môn đệ. Chúa của các tông đồ là thủ lãnh của cộng đoàn dân riêng mới của Thiên Chúa, giã từ cộng đoàn nhưng đồng thời Ngài mời gọi mọi người ra đi chu toàn sứ mệnh mà họ đã được ủy thác. Phép lành của Chúa Giêsu bảo đảm cho cộng đoàn Giáo Hội mọi ơn cần thiết trong cuộc sống và sự tăng trưởng của mình trong sứ mệnh loan truyền lịch sử cứu độ.

Đặc điểm thứ ba trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời đó là thay vì ra đi khắp nơi loan truyền Tin Mừng thì đoàn môn đệ vào đền thờ Giêrusalem cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa. Phúc Âm thánh Luca mở đầu với cảnh Thầy Zacharia dâng hương cho Chúa trong đền thờ, giờ đây kết thúc với lời chúc tụng của đoàn tông đồ. Giêrusalem là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, là nơi lịch sử cứu độ thành toàn, đồng thời là nơi phát xuất sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.

Hình ảnh Giáo Hội truyền giáo quanh quẩn trong đền thờ, trong lời cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa xem ra hơi lạ, nhưng thật ra sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội sẽ đem lại nhiều hoa trái khi cộng đoàn biết bám chặt vào Chúa, dán mắt nhìn lên Chúa, thân tình thưa chuyện với Chúa để kín múc mọi ơn thánh và nghị lực cần thiết cho sứ mệnh loan báo lời Ngài để kéo đổi phúc lành của Thiên Chúa xuống trên mọi tâm hồn và phản ảnh gương mặt cũng như giáo huấn của Chúa một cách tinh tuyền, trung thực và sâu thẳm hơn.

Bởi vì nếu không có phúc lành và ơn thánh Chúa trợ lực sẽ không có sự sống, sẽ không có ơn hoán cải và biến đổi con tim và công tác truyền giáo của Giáo Hội không sinh hoa trái phong phú. Càng hoạt động nhiều, Giáo Hội càng phải sống chiều kích chiêm niệm và đối thoại thân tình với Chúa nhiều hơn.

Đây cũng là lý do giải thích tại sao trước khi về trời, Chúa Giêsu đã dạy dỗ các môn đệ nhiều điều để giúp họ được sứ mệnh loan báo Tin Mừng, và từ nay họ phải đảm trách thay Ngài. Lời các thiên thần nhắc nhớ có các ông biết sứ mệnh rao truyền Lời Chúa không cho phép các vị đứng nhìn trời, nhìn đất mơ mộng nuối tiếc hay chỉ lo lắng cho các dịch vụ phụng tự quanh quẩn trong bốn bức tường nhà thờ hoặc đáp ứng nhu cầu của linh hồn mà thôi, mà phải xuống núi, nhập thể, đem Chúa vào đời loan truyền ơn cứu độ và hoạt động thăng tiến con người toàn diện như Chúa Giêsu đã làm xưa kia.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

CUỘC SỐNG CHỨNG NHÂN

Thiên Phúc

Báo ‘Le Figaro’ đăng trả lời phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:

Hỏi: Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?

Trả lời: Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.

Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng cao cả: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.

Tổng thống Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo, sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.

Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.

Đã qua hơn 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Chúa Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người”.

Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

SỨC MẠNH TỪ TRỜI CAO

Manna

Đức Giêsu được đưa về trời khiến cả nhân loại hoan hỷ.

Con Thiên Chúa làm người, long đong với phận người, nếm cái nghèo đói, nhọc nhằn, nếm nỗi khổ đau, cay đắng. Cuộc đời Ngài tưởng như là một thất bại ê chề. Nhưng rồi Ngài đã được phục sinh, đã hiện ra, và được khải hoàn đưa vào thế giới của Thiên Chúa.

Ngài từ Cha mà đến và lại trở về với Cha. Sứ mạng Cha giao, tuy khó khăn, nhưng Ngài đã hoàn tất.

Ta cần chiêm ngắm giây phút Ngài được siêu thăng. Ngài giơ tay chúc lành cho các môn đệ như vị thượng tế. Ngài về trời trong tư thế đang chúc lành.

Chúc lành cho trái đất mà Ngài đã sống.

Chúc lành cho mọi người là người như Ngài.

Hôm nay chúng ta vui vì biết mình có người Anh trưởng đã được nâng lên đến tột đỉnh vinh quang thần linh.

Con người đầu tiên với tất cả nhân tính như ta đã được siêu tôn trên trời, dưới đất và nơi âm phủ.

Sự thành công của Đức Giêsu là niềm hy vọng cho ta.

Cùng đi với Ngài trên con đường cheo leo ấy, chúng ta tin mình sẽ đến nơi mà Ngài đã đến.

Đức Giêsu về trời sau khi hoàn thành sứ vụ dưới đất. Ngài muốn ta trưởng thành và gánh lấy trách nhiệm.

Bước chân Ngài mới chỉ đi hết xứ Palestina bé nhỏ. Còn cả một thế giới mênh mông ngút ngàn. Còn bao dân tộc xa gần chưa hề nghe rao giảng. Ngài muốn ta làm chứng nhân của Ngài đến tận thế.

Thiên thần bảo chúng ta không được khoanh tay nhìn trời, vì còn quá nhiều việc phải làm trước mắt. Chúng ta phải nhiệt tình xây dựng quê hương này huynh đệ hơn, công bằng hơn, bác ái hơn, văn minh hơn, để nó xứng đáng đón ngày Ngài trở lại.

Chúng ta không được khoanh tay nhìn trời, nhưng lòng chúng ta lại phải thường xuyên hướng lên trời. Xây dựng trái đất mà không hướng lòng về trời, thì sẽ không tìm được câu trả lời tối ưu.

Chúng ta cần sức mạnh từ trên cao của Thánh Thần để giải quyết những vấn đề chằng chịt của trái đất: ma túy, trụy lạc, tham nhũng, ô nhiễm, nghèo đói và nhất là vấn đề xây dựng con người.

Khoa học kỹ thuật tiến bộ làm cuộc sống nhẹ nhàng nhưng cũng thường làm con người thêm nặng nề. Con người như bị dính vào những sản phẩm mình tạo ra, bị nô lệ cho những nhu cầu không có thực. Trái đất này vẫn có sức thu hút ghê gớm khiến ta muốn chọn nó làm quê hương vĩnh hằng, và quên rằng quê thật của ta ở trên trời cao (Pl 3,20).

“Hãy tìm kiếm những điều trên cao” (Cl 3,1). Đừng dập tắt nỗi khát khao những điều cao cả.

Ước gì Chúa Giêsu, Đấng được đưa lên cao, kéo ta lên khỏi cái tầm thường ô trọc mỗi ngày.

Gợi Ý Chia Sẻ

Tiền bạc, tiếng tăm, khoái lạc làm người ta nặng nề. Còn bạn, bạn thấy mình nặng nề vì điều gì? Có cách nào thoát được không?

Đời sống là một nỗ lực “bay lên cao” khỏi sức kéo xuống của vật chất và của cái tôi trì trệ. Có khi nào bạn được nhẹ nhàng mà bay lên khỏi sức kéo đó không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa. Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

BÀN TAY CHÚA

SƯU TẦM

Người ta kể rằng: sau thế chiến thứ hai, một toán lính đồng minh đi giúp các người dân xây dựng lại cuộc sống trên đống gạch hoang tàn đổ nát. Họ làm lại nhà cửa, sửa chữa ngôi nhà thờ trong làng. Nhưng đến khi dựng tượng Chúa, thì toán lính không tìm đâu ra hai bàn tay của pho tượng đã bị bọm đạn cắt cụt. Tìm kiếm suốt ngày trong đám xà bần mà cũng chẳng thấy. Toán lính bèn chịu thua. Viên sĩ quan viết vào pho tượng câu này: Dân làng sẽ thay Chúa làm những công việc mà đáng lẽ hai bàn tay Chúa sẽ làm.

Một người khốn khổ nằm chờ chết bên vệ đường. Chúa xót thương người ấy, nhưng Chúa lại không thể gởi chén cơm manh áo cho người ấy. Nhưng may quá, tôi không phải là Chúa, tôi có thể đem cho người ấy một ly nước, một chén cơm. Đó là chỗ duy nhất tôi hơn Chúa.

Trong Phúc Âm chính Chúa cũng đã phán: Ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, Ta bị đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm. Chúa có thể làm nên cơm gạo cho người nghèo nhưng Chúa lại không thể đưa cơm gạo ấy cho họ được. Ngài phải nhờ đến đôi bàn tay của chúng ta.

Đó là những suy tư tôi đọc thấy trong một cuốn sách. Nghe qua thì rất táo bạo, nhưng đã nói lên một sự thật rất sâu xa, đó là Chúa dùng bàn tay chúng ta để ban phát những quà tặng, để xoa dịu những nỗi khổ đau cũng như để nâng đỡ và khích lệ cho những người chung quanh.

Trong chương trình cứu độ của Chúa, phần đóng góp của con người cũng thật là quan trọng như lời thánh Augustinô đã nói: Chúa sẽ không thế nào cứu chuộc được chúng ta nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn. Chúa đã chịu chết một lần trên cây thập giá và đã làm nên kho tàng ơn cứu độ. Thế nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài, để phân phát nguồn ơn sủng ấy cho anh em đồng loại. Hay nói một cách khác cuộc sống của người Kitô hữu, phải là một sự nối tiếp công trình cứu độ của Đức Kitô. Bản thân chúng ta phải kéo dài sự hiện diện của Chúa cho đến tận cùng thời gian.

Cũng chính vì thế, trước khi về trời, Chúa đã truyền cho các môn đệ: Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê rusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Và như vậy, Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài đễ đem Tin Mừng cứu độ đến cho mọi người. Bởi đó, chúng ta phải sống thế nào để người khác khi nhìn vào chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

CHÚA LÊN TRỜI

SƯU TẦM

Chiều thứ năm tuần thánh, sau khi rời phòng tiệc ly, Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ theo con đường Bêtania để lên núi Cây Dầu. Và tại đây, Ngài đã phải trải qua một cơn hấp hối đầy cay đắng, đến nỗi mồ hôi máu chảy xuống…

Rồi ngày hôm nay, Ngài đã đi lại con đường ấy, cũng để tiến đến núi Cây Dầu. Và tại đây, Ngài đã gặp gỡ, đã vĩnh biệt các môn đệ, trước khi Ngài được đưa lên trời dưới mắt các ông.

Từ đó, chúng ta nhận thấy: Cùng một địa điểm, nhưng có những khác biệt và tương phản. Thực vậy, lần trước Ngài đến để thực hiện thánh ý Chúa Cha, đó là chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Lần sau Ngài đến trong vinh quang như một Đấng đã chiến thắng.

Tôi nghĩ rằng đó chính là hình ảnh, là con đường, mà mỗi cá nhân chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội, sẽ phải dấn thân vào trong thời điểm hiện nay.

Đúng thế, có những lúc Giáo Hội phải lên núi Cây Dầu để làm quen với thập giá, nếu muốn được chiêm ngưỡng vinh quang phục sinh. Đọc lại Phúc Âm chúng ta sẽ thấy rõ được điều ấy.

Thực vậy, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ điều gì trước khi vĩnh biệt họ? Tôi xin thưa: Ngài đã nhắc tới cái chết và sự sống lại của Ngài nhằm tha thứ tội lỗi. Rồi Ngài phán: Từ nay họ sẽ là chứng nhân của mầu nhiệm vượt qua, bằng các loan báo Tin mừng hoán cải ở mọi nơi, trong mọi lúc và trên mọi nẻo đường trần gian. Và một điều quan trọng khác nữa, đó là họ sẽ phải sống mầu nhiệm thập giá để làm chứng cho Đức Kitô.

Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy thiên thần đã nhắc khéo các môn đệ:

– Này các bạn xứ Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời làm chi.

Hay nói cách khác:

– Các bạn hãy về đi. Về với sứ mạng vừa mới được trao phó.

Đúng thế, con người chúng ta tiến bước, đôi mắt ngước nhìn trời, nhưng bàn chân thì lại đạp đất. Đó là một hình ảnh trung thực nhất về Giáo Hội nói chung và về mỗi người chúng ta nói riêng. Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta lại có khuynh hướng ly khai, tách biệt hai yếu tố căn bản ấy và chúng ta đã tạo nên một nếp sống chông chênh, không vui lòng Chúa, mà cũng chẳng đem lại lợi ích gì cụ thể cho bản thân mình.

Nếu ngày xưa Đức Kitô đã phải vác thập giá để tiến tới Phục sinh, thì hôm nay cá nhân chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội cũng phải bước đi trên con đường ấy, bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đương về vinh quan và thập giá là đương dẫn tới phục sinh.

Vì thế, hãy chập nhận thập giá đời thường là những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống, để rồi trong ngày sau hết, chúng ta cũng sẽ được Chúa đưa lên quê hương Nước trời, chia sẻ niềm hạnh phúc vinh quang với Ngài.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

CHÚA LÊN TRỜI

SƯU TẦM

Cách đây mấy ngàn năm, khi khoa học về vũ trụ chưa được phát triển, dân Do Thái cũng như những dân tộc vùng cận đông thường có một cái nhìn đơn sơ về vũ trụ. Họ coi trái đất là như một chiếc mâm, chung quanh đất là biển, dưới lòng đất là âm phủ, nơi ở của những người đã khuất. Còn bầu trời là như cái lồng bàn úp lên trên đất và biển. Trên chiếc lồng bàn này có nhiều thứ kho: kho nước, kho mây, kho gió, kho tuyết, kho sương mù. Mỗi khi Thiên Chúa mở cửa những kho này là chúng ta lập tức sẽ có những hiện tượng thiên nhiên tương ứng.

Vòm trời cũng là nơi Ngài treo các vì tinh tú để soi sáng cho mặt đất. Thiên Chúa ngự trên chốn trời cao cùng với các thiên thần. Vậy khi nói Chúa Giêsu được đưa lên trời, thì có nghiã là Ngài được đưa vào thế giới của Thiên Chúa. Ngài được tôn vinh bên Chúa Cha, sau khi đã hoàn tất công trình cứu độ nhân loại.

Đối với chúng ta thì hơi khác một chút. Điều cốt lõi của biến cố Chúa về trời không phải là chuyện Chúa đã bay lên, thoát khỏi sức hút của trái đất, mà là mầu nhiệm Ngài được Chúa Cha nâng dậy từ cõi chết và đưa vào chung hưởng vinh quang bên Chúa Cha. Nơi ở của Thiên Chúa là thiên đàng. Nhưng thiên đàng ở đây, chúng ta không được rõ. Toan tính đi tìm thiên đàng bằng một con tàu vũ trụ điều đó chỉ đưa đến thất vọng và chứng tỏ một thái độ ấu trĩ, vì thiên đàng nằm ngoài khả năng cảm nhận của giác quan, như lời thánh Phaolô: Tai chưa hề nghe, mũi chưa hề ngửi và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những điều Thiên Chúa dành cho những người trung thành phụng sự Ngài. Chúng ta không thấy thiên đàng nhưng thiên đàng còn có thực hơn cả vũ trụ hữu hình này, bởi vì thế giới của con người sống nhờ vào thế giới của Thiên Chúa.

Mặc dù Chúa đã về trời nhưng Ngài vẫn còn ở lại với chúng ta luôn mãi; bởi vì lên trời không phải là đi vào một thế giới xa lạ với thế giới loài người và cắt đứt mọi liên hệ với trần thế… Tuy chúng ta không còn thấy Ngài một cách hữu hình nhưng Ngài vẫn tiếp tục hiện diện giữa chúng ta dưới những hình thức khác.

Chúng ta có thể gặp Ngài qua những kỳ công trong vũ trụ. Chúng ta có thể gặp Ngài qua những lời giảng dạy. Chúng ta có thể gặp Ngài qua Bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thể gặp Ngài qua Giáo Hội. Chúng ta có thể gặp Ngài nơi những người anh em, nhất là những kẻ khổ đau và bất hạnh. Như thế Ngài được tôn vinh lên trời không phải là làm một cuộc đi xa, nhưng trái lại là một cuộc đến gần. Phục sinh và Lên Trời là để làm tròn sứ vụ giữa lòng thế giới. Chính vì thế mà Ngài đã truyền cho các môn đệ cũng như cho chúng ta phải tiếp tay với Ngài: Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Bởi đó, hãy chu toàn bổn phận của chúng ta, bằng cách sống đức tin và đem đức tin đến cho những người chung quanh, để rồi trong ngày sau hết, chúng ta sẽ được chia sẻ niềm hạnh phúc thiên đàng với Ngài.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

CHỨNG NHÂN

SƯU TẦM

Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Trước khi từ từ lên cao, Ngài đã ban huấn lệnh: “Các con sẽ là chứng nhân cho Ta tại Giêrusalem, trong toàn cõi Giuđêa, Samaria, và cho đến tận cùng cõi đất”.

Các môn đệ đã chứng kiến cuộc khải hoàn vinh hiển của Chúa, họ không thể nào im tiếng được. Họ đã mạnh mẽ xác quyết: “Thiên Chúa đã phục sinh Chúa Kitô mà anh em đã giết rồi treo lên cây gỗ… và tôn Ngài làm thủ lãnh và Đấng cứu độ để đem lại cho Israel ơn tha thứ và hoán cải. Về những sự việc đó chúng tôi đây là những chứng nhân cùng với Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng phục Người”, “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại để chúng ta được nên công chính”…

Tất cả các môn đệ đều bị bách hại đến đổ máu ra vì chứng cớ đức tin và lời rao giảng của mình. Và sau họ, từng lớp lớp người cũng đã ngã gục chỉ vì tin vào Đấng Phục Sinh.

Đối với chúng ta là những kẻ đã tin, đến lượt chúng ta cũng phải làm chứng về Ngài, không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng chính đời sống chúng ta nữa. Chúng ta hãy chứng tỏ cho thế giới biết rằng cuộc sống thường ngày là những bước tiến lên với Chúa Kitô, và những thử thách, hy sinh là cần thiết để thanh luyện và làm sáng tỏ đức tin của chúng ta.

Chúng ta tiến lên trời với Chúa Kitô bằng kiên nhẫn, hy sinh… hầu biểu lộ đức ái, bởi vì đức ái là khát vọng Thiên Chúa và làm điều lành cho tha nhân. Điều đó có nghĩa là chúng ta chờ đợi thời giờ của Thiên Chúa và giúp mọi người phương tiện tiến lên với Thiên Chúa. Đức ái là thái độ phản ánh trung thực nhất niềm khát vọng nội tâm của chúng ta.

Đời sống tu trì là một minh chứng cho niềm khát vọng lên trời trong chờ đợi nhẫn nại và hy sinh. Quả vậy, vì tin ở lời hứa của Chúa sẽ ban gấp trăm ở đời này và đời sau được sống muôn đời mà chúng ta đã từ bỏ tất cả để theo Ngài. Điều Chúa Kitô hứa, Ngài đã đang và sẽ còn thực hiện. Hạnh phúc mà Ngài ban cho những ai theo Ngài chính là niềm hoan lạc trong tâm hồn, hoan lạc của những ai có Chúa làm tất cả. Niềm hoan lạc đó là hiệu quả tất nhiên của sự bình an, bình an của những kẻ ẩn náu trong tình thương Chúa. Và những gì do tình thương Chúa gửi đến đều tốt lành. Ngay cả cái chết cũng là dịp để chúng ta vui mừng, vì chết là cánh cửa cuối cùng được mở ra cho chúng ta gặp Chúa Kitô Phục Sinh – Thăng Thiên mà chúng ta yêu mến kiếm tìm.

Hỡi những ai tìm Chúa, tâm lòng hãy vui sống và chúc tụng Thiên Chúa là Cha Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã tái sinh chúng ta cho hy vọng sống động, nhờ sự phục sinh – thăng thiên của Ngài.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

CHÚA LÊN TRỜI

SƯU TẦM

Khi còn ở với các môn đệ, đã nhiều lần Chúa Giêsu nói trước là Ngài sẽ về trời, giờ đây là lúc Ngài thực hiện điều đó. Việc Chúa Giêsu lên trời mãi mãi là một huyền nhiệm. Dùng ngôn ngữ loài người để tả một huyền nhiệm của Trời thì thật khó biết bao. Nhưng điều quan trọng là biến cố đã xảy ra. Thật khó mà tưởng tượng rằng sự xuất hiện của Chúa Giêsu cứ thưa dần, thưa dần cho tới khi tắt hẳn. Nếu thế đức tin con người sẽ tàn lụi. Nếu như Chúa Giêsu biến thành Đấng Kitô của cõi trời và không còn liên hệ gì với cõi trần này, lúc đó chúng ta sẽ rơi vào khủng hoảng.

Đối với các Kitô hữu, sự thăng thiên của Chúa Giêsu có ba ý nghĩa:

1) Đó là sự kết thúc. Một giai đoạn đã qua và một giai đoạn khác bắt đầu.

Ý nghĩa trọng đại của việc Chúa thăng thiên là sự cứu chuộc mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái chết đền tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn cho tới đời đời. Tác giả thư Do thái viết: “Ngài là phản ảnh của vinh quang, là ấn tượng của bản lĩnh Người, và cầm giữ vạn vật bằng lời quyền năng của Ngài; sau khi đã thi hành việc thanh tẩy tội lỗi. Ngài đã lên ngự bên hữu Đấng oai nghi chốn cửu trùng” (Dt 1,3). “Không phải nhờ máu dê hay máu bê, nhưng là nhờ chính Máu của Ngài, Ngài đã vào thánh điện — duy chỉ một lần — sau khi đã thành đạt việc cứu chuộc muôn đời” (Dt 9,12). Chúa Giêsu đã làm xong công tác cứu chuộc, đã hoàn thành sứ mạng Cha Ngài đã trao phó là cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền tội trên thập giá và đã sống lại để ban cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời. Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy đủ cho đến muôn đời. Và như vậy đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin của các môn đệ đặt vào một vị Thầy bằng xương bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ nay các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng đời đời vượt khỏi thời gian và không gian.

2) Và như vậy đây là một khởi đầu

Các môn đệ ra về trong sự vui mừng chứ không phải với tấm lòng sầu muộn, vì họ biết rằng từ nay không gì có thể ngăn cách mình với Thầy của mình. Thánh Phaolô đã phát biểu: “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Đức Kitô?” (Rm 8,35) và ông khẳng định: “Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù là hiện tại hay tương lai, hay quyền năng, dù là chiều cao hay chiều sâu, hay bất cứ tạo vật nào khác, không gì sẽ có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu Chúa chúng ta!” (Rm 8,38-39)

3) Hơn thế nữa, sự thăng thiên của Chúa quyết chắc với các môn đệ rằng họ chẳng những có một người Thầy ở thế gian mà còn có một người Thầy ở trên trời nữa.

Thánh Phaolô thách thức: “Ai sẽ cáo tội những kẻ Thiên Chúa đã chọn — Thiên Chúa đã giải án tuyên công, ai sẽ là người lên án? — Phải chăng là Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa, và là Đấng đang chuyển cầu cho ta” (Rm 8,33-34)

Chẳng hề có ai, vì Chúa đã chết đền tội chúng ta, đã sống lại làm Cứu Chúa của chúng ta và hiện đang ngồi bên hữu cầu thay cho chúng ta như một trạng sư. Bên hữu Cha là chỗ có thế lực, có uy quyền nên sự cầu thay của Chúa Giêsu rất linh nghiệm.

Còn một điều quan trọng hơn nữa, sự thăng thiên của Chúa Giêsu là điều kiện để Ngài sai Chúa Thánh Thần xuống, mà chúng ta sẽ mừng mầu nhiệm này vào Chúa nhật tới.

Nếu chúng ta biết Chúa Giêsu của chúng ta đang ở trên trời thì lòng chúng ta phải hướng về đó. Không có nơi nào đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các thánh đã yêu mến, đã yêu mến một quê hương tốt hơn -quê hương trần gian- mà các ngài gọi là quê hương trên trời. Thánh Phaolô khuyên chúng ta là những người cùng chết, cùng sống lại với Chúa Giêsu cũng sẽ được cùng cất lên trời để gặp Ngài: “Vậy đã cùng sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm kiếm những điều trên cao, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Lòng trí hãy hướng về những điều trên cao, đừng (hướng) về những điều dưới đất. (Cl 3,1-2)

Chúng ta phải cẩn thận về điều thánh Phaolô muốn nói ở đây, chắc chắn Ngài không hề biện hộ cho việc mơ tưởng tới một thế giới khác khiến những người tin Chúa tự rút mình ra khỏi các công tác, các hoạt động thuộc về đời này, chẳng làm gì ngoài việc chiêm ngưỡng cõi đời đời mà thôi. Vì ngay sau đó, thánh Phaolô tiếp tục quy định một loạt các nguyên tắc đạo đức vạch rõ rằng người Kitô hữu cứ tiếp tục công việc ở đời này và duy trì mọi mối liên hệ bình thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt là từ nay trở đi, Kitô hữu phải nhìn mọi sự trong ánh sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời. Người ấy sẽ không sống dường như đời này là tất cả những gì mình phải quan tâm đến, nhưng phải đặt thế gian này trong bối cảnh của cõi đời đời. Rõ ràng điều ấy sẽ đem đến cho người Kitô hữu một loạt các giá trị mới. Kitô hữu sẽ không còn bận tâm đến những điều mà người thế gian xem là quan trọng nữa. Các tham vọng đang ngự trị thế gian sẽ bất lực và không thể làm cho người ấy vướng bận nữa. Người ấy sẽ tiếp tục sử dụng những điều thuộc về thế gian này nhưng trong một cách thức mới. Người ấy sẽ đặt việc ‘cho đi’ lên trên việc ‘thu góp’, phục vụ trên cai trị, tha thứ ở trên báo thù. Tiêu chuẩn về giá trị của người ấy sẽ là tiên chuẩn của cõi trời chứ không phải cõi đời.

Khi người thanh niên giàu có đến xin Chúa Giêsu chỉ cho anh phương cách để được sống vĩnh cửu. Chúa bảo anh về đem tài sản phân phát cho kẻ nghèo để được của cải trên trời. Điều gì đã làm vì tình yêu sẽ bền vững muôn đời.

Thật an ủi khi biết rằng Đấng chờ đợi ta ở trên trời cũng là Đấng đã, đang bao bọc ta ở dưới đất.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

LÊN TRỜI

SƯU TẦM

Qua Phúc Âm, chúng ta biết: sau khi sống lại, Chúa Giêsu còn ở trần gian bốn mươi ngày. Trong suốt quãng thời gian này, Ngài đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Các ông có diễm phúc được nhìn thấy Ngài, được ăn uống với Ngài. Tất cả những sự việc ấy đã tạo nên cho các ông một niềm xác tín: Ngài đã phục sinh.

Cũng trong thời gian ấy, Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho cuộc ra đi của mình. Ngài nói với các ông:

– Ta sẽ trở về với Cha Ta, cũng là Cha của các con, về với Thiên Chúa của Ta, cũng là Thiên Chúa của các con.

Thế nhưng, các ông đã không hiểu được lời nói mầu nhiệm này. Sau cùng, Ngài đã gặp các ông trong phòng tiệc ly, tâm sự với các ông và khi bữa ăn kết thúc, theo thông lệ, Ngài dẫn các ông lên núi Cây Dầu.

Các ông đi qua đường phố Giêrusalem, xuống thung lũng Cêdron, theo con đường Ngài đã bước đi trong cuộc tử nạn. Chắc hẳn khi đi lại con đường ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đã nói chuyện, đã hàn huyên với nhau rất nhiều.

Khi tới núi Cây Dầu, Chúa Giêsu và các môn đệ đã đưa mắt nhìn chung quanh và đã thấy được toàn cảnh thành phố Giêrulem với miền đất hứa. Chúng ta hãy cùng các tông đồ đứng trên đỉnh núi Cây Dầu và đưa mắt nhìn: Gần đấy là Bêtania, nơi ba chị em Martha, Maria và Lagiarô sinh sống. Họ là những người được Chúa yêu và cũng là những người yêu Chúa.

Về phía bên trái là Bêlem, nơi Ngài mở mắt chào đời. Rồi sau đó là những vệt trắng. Đó là những con đường từ Giêrusalem đi tới những thôn làng, những thị trấn của xứ Giuđêa. Hẳn rằng các tông đồ đã nhớ tới biết bao nhiêu kỷ niệm trên những nẻo đường quen thuộc này: nào là những việc kỳ diệu Chúa đã làm, nào là những lời lẽ khôn ngoan Chúa đã dạy. Xa hơn một chút là dòng sông Giócđan, nơi các tông đồ sống lại những kỷ niệm đầu tiên, khi gặp Chúa và được Ngài kêu gọi.

Còn về phía bên phải: xa xa là biển cả. Những con tàu nhổ nheo đi về Rôma, cũng như đi về những miền khác nhau của dân ngoại. Có lẽ chính trong bối cảnh này mà Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ:

– Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Trong thâm tâm, Ngài muốn bảo các ông rằng:

– Hy lễ của Ta đã hoàn tất. Công việc của Ta đã kết thúc. Bây giờ đến lượt các con. Vậy các con hãy đi loan truyền Tin mừng cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Có lẽ các tông đồ đã trả lời:

– Vì tình yêu và vinh quang của Chúa, chúng con sẽ làm tất cả.

Sau đó, Chúa Giêsu đã lên trời. Còn các tông đồ thì ngạc nhiên nhìn theo cho đến khi thiên thần hiện ra và bảo:

– Các ngươi đứng nhìn làm chi. Đức Kitô đã về trời thế nào thì Ngài cũng sẽ trở lại như vậy.

Hẳn chúng ta đã biết: Ngài sẽ trở lại vào ngày tận thế. Rồi sau đó lại sẽ về trời. Nhưng về trời lần này, thì cùng với Ngài còn có tất cả những người đã tin theo và yêu mến Ngài.

Chính vì thế, các tông đồ không hề buồn phiền, vì các ông biết rằng đây chỉ là một cuộc tạm biết, chứ không phải là một cuộc ly biệt, vĩnh viễn chia cắt đôi ngả. Ngài sẽ trở lại và các ông sẽ lại được xem thấy Ngài. Trong lúc chờ đợi, các ông ra sức chu toàn sứ mạng Ngài đã trao phó, đó là rao giảng Tin mừng, làm chứng về Ngài.

Với chúng ta cũng vậy. Mổi khi tham dự thánh lễ, chúng ta có diễm phúc được ở gần Chúa, được lắng nghe lời Ngài. Thế nhưng, trước khi thánh lễ kết thúc, qua môi miệng của vị linh mục, Chúa cũng nói với chúng ta:

– Lễ xong, chúc anh chị em ra về bình an.

Điều đó có nghĩa là: hãy ra về để chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Hãy ra về để rao giảng Tin mừng. Hãy ra về để làm chứng cho Chúa giữa lòng cuộc đời.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

CHỨNG NHÂN

SƯU TẦM

Dù chỉ là một nữ tu sáng lập đơn côi ban đầu, mẹ Têrêsa đã làm nên phép lạ cho dòng Thừa Sai Bác Ai của mẹ lên đến 4000 nữ tu, 450 sư huynh và hàng ngàn người ngoại giáo ngày đêm xuôi ngược tiếp tục công việc nhân ái của mẹ, với 600 cơ sở và 126 quốc gia trên thế giới. Từ ngày thành lập từ năm 1950 đến nay mỗi năm nhà dòng của mẹ đã giúp nuôi 50.000 gia đình nghèo, dạy dỗ cho 20.000 trẻ em và săn sóc cho 90.000 người mắc bệnh phong cùi trong các bệnh viện riêng ở 10 quốc gia. Các trẻ em mồ côi mà mẹ đã nuôi dạy từ hơn nửa thế kỷ nay nhiều không kể xiết.

Ngày mẹ qua đời, tổng thống pháp Jacques Chirac đã gởi một bức điện với lời lẽ đau buồn như sau: “Buổi tối hôm nay đã có ít Tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn hơn và ít ánh sáng hơn trên thế giới này”.

Mẹ Têrêsa quả là một chứng nhân anh dũng. Mẹ không chỉ tin đạo mà còn sống đạo để làm chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa cho thời đại hôm nay.

Bài tin Mừng hôm nay kết thúc Tin Mừng thánh Luca, kể lại việc Chúa Giêsu dạy dỗ các tông đồ lần cuối cùng, sai các ông đi rao giảng và làm chứng cho Ngài rồi Ngài lên Trời.

Sách Công vụ tông đồ trình bày cho chúng ta biết biến cố lên trời là một sự hoàn tất gắn với một khởi đầu. Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng cứu độ trần gian và khởi đầu cho sứ mạng làm chứng nhân của Giáo Hội.

Điều mà bài tin Mừng hôm nay muốn nhấn mạnh, không phải là việc Chúa Giêsu được đem lên trời cách kỳ diệu mà là việc các tông đồ được sai đi để loan báo một Tin Mừng mới lạ, một Tin Mừng cho muôn dân. Đó là Tin Mừng về việc cứu độ.

Các Tông đồ đón nhận lời mời của Chúa Giêsu trong niềm tin tưởng và hân hoan. Tin vào Chúa Giêsu đã phục sinh và lên trời. Tin Ngài sẽ ban Thánh Thần để giúp các ông thi hành sứ mạng mới. Hân hoan vì mỗi người đều được Chúa Giêsu tin tưởng và sai đi.

Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ, những chứng nhân tích cực sẽ không ngừng làm chứng cho các giá trị Tin Mừng, cho đến tận thôn cùng xóm vắng.

Đức Giêsu đã lên trời, nhưng bằng ngày vẫn có muôn vàn chứng nhân tiếp bước Ngài, đón nhận, sáng tạo và đi xây dựng cho thế giới ngày một tốt đẹp hơn.

Họ cũng là những người gây phiền nhiễu như Chúa Giêsu. Họ không chấp nhận một trật tự bất công, một thế giới thiếu vắng tình thương trong đó một số người giàu có dư dật trong khi hàng vạn người phải lang thang đói rách. Họ là những kẻ gây phiền nhiễu như Chúa Giêsu, vì họ làm hết cách để người ta tin rằng, nhân loại có thể ngày một tiến gần hơn đến công bình, tha thứ và tình thương.

Để làm những việc ấy chính các Tông đồ và những chứng nhân tiếp nối các Tông đồ trong Giáo hội chấp nhận sự hiểu lầm, chống đối, đau khổ, tù đày và cả cái chết. Bởi họ luôn có sức mạnh của Chúa Thánh Thần và xác tín vào niềm tin Chúa Giêsu phục sinh.

Chính anh em là chứng nhân.

Hôm nay cũng như bao lần khác, chúng ta cùng nhau mừng lễ Chúa Giêsu lên trời và cũng đã nghe nhiều lần lời mời gọi của Chúa Giêsu “phải rao giảng cho muôn dân… chính anh em là chứng nhân”. nhưng chúng ta có đáp lại lời mời gọi đó với niềm tin tưởng và hân hoan không? hay chúng ta nghĩ đó là công việc của các linh mục, của tu sĩ nam nữ.

Hơn bao giờ hết cuộc sống của hôm nay đã có không ít những khó khăn đang đặt ra cho mỗi gia đình và cho mỗi người chúng ta. Những khó khăn đó đã làm cho chúng ta quên đi đời sống chứng nhân của mình. Tuy nhiên cũng có những người trong chúng ta sống dửng dưng, không quan tâm đến ai khác ngoài cái tôi của mình ngoài tiền bạc và tham vọng cá nhân.

Lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay một lần nữa Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân cho Ngài. Ngài không đòi hỏi chúng ta phải lập nhà dòng hay xây dựng những cơ sở để làm việc từ thiện như Mẹ Têrêsa, điều Ngài chờ đợi nơi mỗi người chúng ta là hãy bỏ đi tính ích kỷ xâm chiếm cuộc sống của chúng ta để mở tâm hồn mở con tim mở miệng ra để sống cho Ngài và cho tha nhân.

Mở tâm hồn để lắng nghe, suy niệm và chiêm ngắm Chúa trong Thánh Kinh đó là cách thức để Lời Chúa trở thành ánh sáng và sức mạnh cho những lựa chọn và quyết định trong cuộc sống hằng ngày.

Mở con tim ra với tha nhân giúp nhau phát huy những tương đồng, chấp nhận dị đồng, vượt qua những bất đồng. Đặc biệt là biết người đau khổ… để mỗi người có thể nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu và là người xây dựng hòa bình.

Cuối cùng chúng ta hãy biết nói về Chúa Giêsu cho người khác khi có điều kiện.

Con người thời nay thường nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ đã xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ thích chúng ta làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương.

Chúa Nhật VII Phục Sinh – Năm C – Lễ Thăng Thiên

NƯỚC TRỜI

SƯU TẦM

Nhìn vào thực tế, chúng ta phải nhìn nhận rằng: chúng ta đã quá bén rễ sâu vào cuộc sống trần gian, đã quá quyến luyến những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu và sẵn sàng bán rẻ linh hồn mình lấy một nắm tro bụi. Dân Do thái ngày xưa đã thờ lạy con bò vàng thế nào thì hôm nay con người cũng đang đi vào con đường ấy. Họ tôn thờ những thần tượng nhảm nhí thay cho Thiên Chúa, như một lời phát biểu đầy châm biếm: hiện giờ tôn giáo lớn nhất trên hoàn cầu là tôn giáo … bóng đá.

Bởi đó ngày hôm nay, sau khi hoàn tất sứ mạng ở trần gian, Chúa Giêsu đã về trời để nói với chúng ta rằng: cuộc sống trần gian chỉ là như một chiếc thang dẫn chúng ta tới quê trời. Hay nói cách khác, trần gian là quán trọ, nước trời mới chính là quê hương đích thực của chúng ta. Khốn cho tôi nếu tôi quên đi chân lý ấy. Khốn cho tôi nếu tôi ra sức biến đổi trái đất thành một thiên đàng vĩnh cửu. Khốn cho tôi nếu tôi không biết dùng cuộc sống này để chuẩn bị những hành trang cần thiết cho tương lai mai hậu… Nhưng dựa vào đâu chúng ta xác quyết rằng: còn một cuộc sống khác, một thế giới khác?

Chúng ta không chụp được hình, cũng không bắt được làn sóng của thế giới ấy, không một ai đã nhìn thấy hay có kinh nghiệm, nhưng sở dĩ chúng ta tin là bởi vì Thiên Chúa đã mạc khải, đã tỏ lộ cho chúng ta. Thực vậy, chúng ta không thể biết nếu Đức Kitô đã không nói đến nước trời bằng những từ ngữ khác nhau. Chúng ta không thể biết nếu thánh Phaolô đã không viết: “Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những gì Thiên Chúa dành cho kẻ yêu mến Ngài”. Chúng ta không thể biết nếu thánh Gioan đã không mô tả: “Ở đó sẽ không còn thời gian và không gian, buổi sáng và buổi chiều, tội lỗi và sự chết. Ở đó, Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt của chúng ta”. Chúng ta không thể biết nếu hôm nay Đức Kitô đã không về trời để củng cố niềm tin của mọi tín hữu suốt dòng thời gian, giúp họ hăng say rao giảng Tin Mừng, chấp nhận mọi khổ đau, chịu đựng mọi thử thách. Thế giới ấy sẽ to lớn gấp ngàn vạn lần thế giới chúng ta đang sống. Vậy thế giới ấy ở đâu? Có phải là lơ lửng giữa các vì sao, trên không trung bao la? Có phải là ở dưới lòng đại dương thăm thẳm? Không, tất cả đều không đúng. Vậy thế giới ấy ở đâu?

Thưa: ở bất kỳ nơi nào chúng ta được nhìn ngắm Thiên Chúa, ở bất kỳ nơi nào có Ngài thì đó là nước trời, thì đó là hạnh phúc vĩnh cửu. Trái lại, bất kỳ nơi nào không có Thiên Chúa, bất kỳ nơi nào chúng ta không được nhìn ngắm Ngài, thì đó là hỏa ngục, thì đó là chốn đọa đầy. Xưa kia thánh Tôma tông đồ nói: “Nào chúng ta cùng đi để được chết với Ngài”. Còn hôm nay, chúng ta có thể đổi lại câu nói ấy: “Nào chúng ta cùng đi để được sống với Ngài”. Phải, sống với Ngài trong một cuộc sống vĩnh cửu. Niềm tin ấy đã thiêu đốt biết bao nhiêu con tim suốt 20 thế kỷ. Chúng ta cần đến khoa học và kỹ thuật, nhưng chúng ta phải luôn nhớ: khoa học và kỹ thuật không thể giúp chúng ta tránh khỏi cái chết. Và sau cái chết sẽ còn lại một cuộc sống khác, trải dài đến muôn ngàn đời. Nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như ngày mai sẽ là thứ hai không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như mặt trời mọc vào ban sáng và lặn vào ban chiều hay không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. Nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như mùa xuân sẽ trở lại khi mùa đông qua đi hay không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. Phải, vì có thể có một ngày Chúa nhật mà sau đó không còn ngày thứ hai; có thể có mặt trời mọc vào ban sáng mà không còn ban chiều để lặn; có thể có một mùa đông mà sau đó mùa xuân sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng sẽ không bao giờ xảy ra rằng lời Chúa sẽ chẳng được thực hiện: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời”.