- Cầu nguyện là năng lượng của Kitô hữu để chiếu sáng-Vũ Đức Anh Phương, SJ
- Các Mối Phúc Thật - những hoa tiêu trong đời sống Kitô hữu
- Phục vụ và gặp gỡ-Vũ Đức Anh Phương SJ
- Sự ghi nhớ, lời tiên tri và niềm trông cậy-Vũ Đức Anh Phương, SJ
- Đồng cảm với tội nhân nhưng không dàn xếp sự thật-Vũ Đức Anh Phương SJ
- Bài 17 về Tiệc Cưới Cana-Đức Thánh Cha Phanxico
- Bài giảng I của Đức Phanxicô cho các linh mục, nhân Năm Thánh Lòng Thương Xót-Vũ Văn An dịch
- Bài giảng II của Đức Phanxicô cho các linh mục, nhân Năm Thánh Lòng Thương Xót-Vũ Văn An dịch
- Bài giảng IiI của Đức Phanxicô cho các linh mục, nhân Năm Thánh Lòng Thương Xót-Vũ Văn An dịch
- Đức Giêsu dạy chúng ta những thực hành lành mạnh -Vũ Đức Anh Phương SJ
- Bài học từ ngôn sứ Ê-li-a- Vũ Đức Anh Phương, SJ
- Cầu nguyện cho kẻ thù - sự hoàn thiện trong đời sống Kitô- Vũ Đức Anh Phương SJ
- Hãy nhìn mình trong tấm gương trước khi xét đoán người khác-ĐTC Phanxicô
- Kinh Truyền Tin 16 thường niên, năm C-ĐTC Phanxicô
- Thế giới chẳng bao giờ có được hòa bình nếu tâm hồn ta tràn ngập chiến tranh
- Ánh sáng đức tin-ĐTC Phanxicô
- Ra khỏi chính mình để gieo Lời-ĐTC. Phanxicô
Cầu nguyện là năng lượng của Kitô hữu để chiếu sáng
VATICAN. Cầu nguyện chính là năng lượng để Kitô hữu chiếu sáng. Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Ba, ngày 07.06.2016, tại nguyện đường thuộc Nhà trọ Thánh Marta. Đức Thánh Cha cũng cảnh giác các tín hữu về nguy cơ có thể trở thành những hạt muối nhạt, không còn mặn mà nữa. Cần phải chiến thắng cám dỗ về một thứ “linh đạo gương soi”, tức là quá chăm chú đến việc đánh bóng chính mình mà lãng quên nhiệm vụ phải mang ánh sáng đức tin đến cho người khác.
Ánh sáng và muối. Những chia sẻ của Đức Thánh Cha khởi đi từ bài đọc Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, chương 5, 13-16. Đức Thánh Cha nói rằng: “Đức Giêsu đã giảng dạy bằng những lời lẽ rất đơn sơ và những hình ảnh rất dung dị, đến nỗi ai cũng có thể hiểu được. Qua đó, Ngài định nghĩa Kitô hữu: Kitô hữu phải là muối cho đời và là ánh sáng cho trần gian. Muối và ánh sáng không tồn tại cho riêng bản thân mình. Nhưng ánh sáng là để chiếu soi vạn vật; còn muối để ướp, để gìn giữ sự vật khỏi hư nát.
Cầu nguyện là năng lượng để Kitô hữu trở thành ánh sáng cho đời
Kitô hữu sẽ làm gì khi độ mặn của muối và sự sáng của ánh sáng yếu dần đi? Họ phải làm gì để dầu thắp đèn không cạn tắt? Hay nói cách khác, đâu là năng lượng để Kitô hữu trở thành ánh sáng cho trần gian? Đơn giản thôi, đó chính là cầu nguyện. Anh chị em có thể làm rất nhiều việc, rất nhiều hoạt động, và cả những hoạt động bác ái. Anh chị em có thể làm rất nhiều viêc trọng đại cho Giáo hội, cho các đại học công giáo, các học viện, bệnh viện… Và thậm chí, người ta còn muốn lập một đài tưởng niệm để tôn phong anh chị em như là những ân nhân của Giáo hội. Nhưng nếu anh chị em không cầu nguyện, tôi e rằng tất cả những gì anh chị em làm có chút tối tăm, mù mịt trong đó. Rất nhiều hoạt động trở nên đen tối, vi thiếu đi ánh sáng, thiếu cầu nguyện. Vậy điều gì có thể bảo đảm, có thể mang lại ánh sáng cho đời sống của Kitô hữu? Đó chính là cầu nguyện.
Cầu nguyện là tôn thờ Thiên Chúa Cha, là ngợi khen Chúa Ba Ngôi, là lời nguyện tạ ơn, và cũng là lời cầu nguyện xin Chúa ban ơn. Tất cả những lời cầu nguyện ấy phải đến từ trái tim.
Kitô hữu ướp mặn đời bằng Tin Mừng
Muối cũng không để ướp chính mình. Muối chỉ là muối khi muối biết cho đi. Đây cũng chính là tâm tình phải có của Kitô hữu: cho đi, biết ướp cuộc đời cho đằm thắm, biết làm cho mọi sự nên đậm đà bằng thông điệp của Tin Mừng. Cho đi chứ không giữ lại riêng mình. Muối không chỉ dành cho Kitô hữu nhưng cho hết mọi người. Kitô hữu phải cho mình đi, vì muối là cho đi chứ không ở lại với chính mình. Cả ánh sáng và muối cũng đều vì người khác chứ không vì mình. Ánh sáng không chiếu soi ánh sáng và muối cũng không ướp muối.
Có người sẽ thắc mắc rằng: Nếu chúng ta là muối và ánh sáng không ngừng cho đi như thế, liệu muối và ánh sáng đó sẽ duy trì được bao lâu. Xin thưa rằng điều đó đến từ quyền năng của Thiên Chúa, vì Kitô hữu là muối và ánh sáng được Thiên Chúa ban tặng trong Bí Tích Thánh Tẩy. Chất muối và chất sáng đó được ban tặng như một món quà và sẽ tiếp tục được ban tặng nếu chúng ta cũng biết cho đi, biết giãi sáng, biết ướp mặn cho đời. Như thế, chúng sẽ không bao giờ cạn.
Hãy cảnh giác trước cám dỗ về một thứ ‘linh đạo gương soi’
Thứ linh đạo này đã xuất hiện trong Bài Đọc Một, kể về bà góa ở Xa-rép-ta. Bà đã tin ngôn sứ Ê-li-a và thế là hũ bột và vò dầu của bà đã chẳng hề vơi cạn.
Ánh sáng của anh chị em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ. Nhưng anh chị em cũng phải tỉnh thức trước cám dỗ muốn chiếu sáng hay đánh bóng chính mình. Điều ấy thật tệ, đó là thứ linh đạo gương soi: tự đánh bóng mình. Phải tránh cám dỗ chỉ biết đến bản thân mình. Nhưng hãy là ánh sáng để chiếu giãi, hãy là muối để ướp mặn đời và gìn giữ mọi sự khỏi hư nát.
Muối và ánh sáng không vì mình nhưng vì tha nhân ngang qua những công việc tốt lành. Khi làm việc tốt, chúng ta đã ‘chiếu giãi ánh sáng của mình trước mặt thiên hạ’. Và khi xem thấy những công việc tốt đẹp chúng ta làm, người ta sẽ tôn vinh Cha của chúng ta, Đấng ngự trên trời. Điều ấy cũng có nghĩa là chúng ta phải trở về với Chúa, Đấng là nguồn cội và đã ban cho chúng ta sự sáng và chất muối.
Xin Chúa giúp chúng ta biết giãi sáng bằng những việc làm và những thực hành cụ thể, chứ đừng che dấu ánh sáng đi. Xin Chúa giúp chúng ta là hạt muối biết cho đi hương vị mặn mà. Chất mặn ấy rất cần thiết, nhưng ta phải cho đi, vì khi cho đi ta mới tiếp tục được nhận lãnh và triển nở. Cho đi chính là những công việc tốt đẹp của người Kitô hữu.”
CÁC MỐI PHÚC THẬT – NHỮNG HOA TIÊU TRONG ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU
VATICAN. Sống và thực hành các Mối Phúc, giống như ‘kim chỉ nam’ hướng dẫn người Kitô hữu biết bước đi đúng đường trong hành trình cuộc sống. Đây là lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Hai, 06.06, tại nguyện đường thuộc Nhà Thánh Marta 6-6-2016. Bên cạnh đó, Đức Thánh Cha cũng cảnh giác đừng để mình bị trượt dài trên ba nấc thang dẫn đến sự diệt vọng: Kitô hữu chống luật, tôn thờ ngẫu tượng tiền tài, sự phù phiếm và cái tôi ích kỷ.
Để không bị lạc đường trên hành trình đức tin, các Kitô hữu phải có một người chỉ đường vững chắc. Đó chính là các Mối Phúc Thật. Khi lãng quên các Mối Phúc, người ta sẽ lạc lối và trượt dài trên ba nấc thang tôn thờ của cái tôi ích kỷ, tiền tài, và những thứ phù phiếm. Khi con tim tràn gập những điều này, nó bắt đầu cảm thấy thỏa mãn, hả hê và lãng quên những điều quan trọng khác.
Những hoa tiêu trong đời sống Kitô hữu
Đức Giêsu chỉ ra một danh sách dựa trên những suy tư từ bài Phúc Âm theo Thánh Mát-thêu, tường thuật lại việc Đức Giêsu trình bày cho dân chúng một bài giảng rất nổi tiếng, được gọi là Bài Giảng Trên Núi. Đức Giêsu giảng dạy một lề luật mới, nhưng không hề hủy bỏ luật cũ mà là kiện toàn, mang lề luật đến chỗ tròn đầy.
Đây là lề luật mới, được chúng ta gọi là ‘Các Mối Phúc Thật’. Đây là luật mới Thiên Chúa dành cho chúng ta. Các Mối Phúc như là hướng dẫn viên trên đường, là những hoa tiêu trong đời sống của Kitô hữu. Chính nhờ sự hướng dẫn của những hoa tiêu này, chúng ta có thể tiến lên phía trước trong đời sống Kitô hữu.
Ba nấc thang dẫn đến diệt vong
Ngang qua các Mối Phúc Thật, dường như thánh sử Mát-thêu muốn nói về bốn điều khốn: khốn cho ai giàu có, khốn cho những ai no đầy, khốn cho ai vui cười, khốn cho những ai nói mình là công chính. Tôi đã chia sẻ với anh chị em nhiều lần rằng giầu có là tốt, nhưng quá bám víu vào sự giàu có lại là điều xấu, biến chúng ta thành những kẻ tôn thờ ngẫu tượng.
Đó là những người chống lại lề luật, là những hoa tiêu sai lầm, là ba nấc thang dẫn đến diệt vong. Trái lại, các Mối Phúc Thật là những nấc thang dẫn chúng ta không ngừng tiến lên trong cuộc sống. Những nấc thang dẫn đến diệt vong chính là sự bám víu vào tiền của, vì một khi quá quyến luyến với tiền của, người ta không còn cần điều gì khác nữa. Đó là nấc thang của sự phù phiếm: muốn người khác nói tốt về tôi, tôi thấy mình quan trọng, thật vinh quang, ngạo nghễ… Tôi tin là mình công chính, chứ không tội lỗi như người này, người kia… Chúng ta nhớ lại câu chuyện về người Pha-ri-sêu và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện. Người Pha-ri-sêu ngẩng cao đầu nói: ‘Tạ ơn Chúa vì con không giống như tên thu thuế tội lỗi kia…’ Cũng một cách thức ấy, có thể ta cũng đã thưa với Chúa: ‘Cám ơn Chúa, con là một người Công giáo tốt lành. Con không giống như người này, người nọ. Con không giống như những tên hàng xóm của con…’ Cuối cùng, đằng sau sự phù phiếm hư danh là nấc thang thứ ba: sự tự kiêu, ngạo mạn; cảm thấy no đầy thỏa mãn với chình mình nên đóng chặt con tim và không hề biết mở lòng ra.
Chìa khóa hệ tại ở sự hiền lành
Trong số các Mối Phúc Thật, tôi xin chọn ra một. Tôi không nói Mối Phúc này là chìa khóa cho tất cả nhưng nó giúp cho chúng ta suy tư nhiều: Phúc cho ai hiền lành. Chính Đức Giêsu cũng nói: ‘Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.’ Hiền lành là một cách thức hiện hữu mang chúng ta lại gần với Đức Giêsu hơn. Còn thái độ trái ngược sẽ luôn gây ra chiến tranh, thù hằn; rồi dẫn đến rất nhiều những thứ xấu xa tệ hại khác. Sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng không phải là khờ khạo, ngu ngốc. Hoàn toàn không phải. Hiền lành chính là chiều sâu thẳm trong việc hiểu biết sự vĩ đại, cao cả của Thiên Chúa, và thúc đẩy ta chạy đến bái thờ.”
PHỤC VỤ VÀ GẶP GỠ
VATICAN. Nếu chúng ta biết học cách phục vụ và biết đi đến gặp gỡ tha nhân, thế giới của chúng ta sẽ được biến đổi. Đây là nhận định của Đức Thánh Cha Phanxicô khi ngài kết thúc bài giảng trong thánh lễ sáng thứ Ba, 31.05, tại nguyện đường Thánh Marta. Bởi vì hôm nay là ngày cuối cùng trong tháng kính Đức Mẹ, Đức Thánh Cha đã chia sẻ những suy tư của ngài về Mẹ Maria.
Mẹ là một phụ nữ can đảm, có khả năng đến với người khác, đôi tay lúc nào cũng rộng mở để giúp đỡ, quan tâm, chăm sóc. Và trên hết, Mẹ là một người của niềm vui, niềm vui tràn gập tâm hồn, mang lại cho cuộc đời một ý nghĩa và một hướng đi mới.
Niềm vui và gương mặt nhăn nhó
Tất cả những điểm chia sẻ trong bài giảng đều được Đức Thánh Cha rút ra từ đoạn Phúc Âm, thuật lại cuộc thăm viếng của Mẹ Maria dành cho bà Ê-li-sa-bét. Đức Thánh Cha nói: “Bài Phúc Âm cùng với bài đọc một trích sách Xô-phô-ni-a và bài đọc hai trích thư Roma đã tạo nên một buổi phụng vụ chan chứa niềm vui mừng, ùa đến như một làn gió mới mẻ tràn ngập cuộc đời chúng ta.
Nhưng sẽ chẳng có gì xấu bằng những Kitô hữu với gương mặt nhăn nhó, buồn phiền. Thật là xấu lắm! Họ không phải là những Kitô hữu đúng nghĩa. Họ tưởng mình là Kitô hữu nhưng thật sự không phải là một Kitô hữu tròn đầy. Đây là một thông điệp cho chúng ta. Và trong bầu không khí vui mừng mà phụng vụ ngày hôm nay trao cho chúng ta như một món quà, tôi muốn nhấn mạnh đến hai điểm. Điểm thứ nhất là thái độ và điểm thứ hai là hành động. Thái độ chính là thái độ phục vụ.
Những phụ nữ can trường trong Giáo hội
Mẹ Maria sẵn sàng phục vụ mà không có chút do dự. Thật vậy, Tin Mừng thuật lại rằng Mẹ đã lên đường, vội vã đi đến miền núi cho dù Mẹ đang mang thai, và trên hành trình ấy có khả năng sẽ bị rơi vào tay bọn cướp. Lúc ấy, Mẹ mới chỉ là cô gái 16, 17 tuổi đầu chứ không hơn, nhưng Mẹ lại hết sức can trường. Mẹ lên đường và vội vã đi không hề chần chừ hay biện lý do.
Lòng can đảm của người phụ nữ. Trong Giáo hội, có những phụ nữ can trường giống như Mẹ Maria. Những người nữ này đã làm cho gia đình mình triển trở, đã giáo dục con cái thật tốt, đã sẵn sàng đương đầu với bao khó khăn, thử thách; đã chăm sóc biết bao bệnh nhân… Họ can đảm đứng dậy và phục vụ. Phục vụ là một dấu chỉ Kitô giáo. Ai không sống để phục vụ sẽ không phục vụ để mà sống. Phục vụ trong vui tươi chính là thái độ hay cung cách sống mà tôi muốn nhấn mạnh với anh chị em ngày hôm nay. Có niềm vui và cũng có phục vụ. Luôn luôn phục vụ.
Sự gặp gỡ là một dấu chỉ Kitô giáo
Điều thứ hai tôi muốn chia sẻ là sự gặp gỡ giữa Mẹ Maria và người chị họ. Hai người phụ nữ này gặp gỡ nhau và họ đã gặp nhau trong niềm vui. Thời khắc đó chính là thời khắc vui mừng của ngày lễ hội. Nếu chúng ta biết học lấy điều này: phục vụ và đến gặp gỡ tha nhân; thế giới của chúng ta sẽ được biến đổi.
Sự gặp gỡ chính là một dấu chỉ khác của người Kitô hữu. Ai nói mình là Kitô hữu nhưng lại không có khả năng ra đi gặp gỡ tha nhân thì hoàn toàn không phải là Kitô hữu. Cả việc phục vụ lẫn sự gặp gỡ đều đòi hỏi người ta phải đi ra khỏi chính mình: đi ra để phục vụ và đi ra để gặp gỡ, để ôm chầm lấy tha nhân. Ngang qua sự phục vụ của Mẹ Maria và cuộc gặp gỡ giữa Mẹ với người chị họ, Thiên Chúa đã làm mới lại lời đoan hứa của mình. Lời đoan hứa ấy đang xảy ra, và xảy ra ngay trong những giây phút hiện tại này. Như chúng ta đã nghe trong bài đọc một: ‘Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đang ngự giữa ngươi’. Đức Chúa đang ngự giữa chúng ta trong sự phục vụ và trong những cuộc gặp gỡ.”
SỰ GHI NHỚ, LỜI TIÊN TRI VÀ NIỀM TRÔNG CẬY
VATICAN. Trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Hai, 30.05.2016, tại nhà nguyện Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tập trung vào chủ đề về sự hợp nhất năng động trong đời sống Kitô hữu gồm ba yếu tố. Đó là sự ghi nhớ, lời ngôn sứ và niềm trông cậy.
Những chia sẻ của Đức Thánh Cha được khởi đi từ bài Phúc Âm theo Thánh Mác-cô, thuật lại việc Đức Giêsu dùng dụ ngôn những tá điền sát nhân mà nói với các thượng tế, kinh sư và kỳ mục. Các tá điền đã chống lại ông chủ vườn nho, người đã cho rào giậu chung quanh vườn, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh, rồi trao cho họ canh tác. Nhưng các tá điền đã quyết định nổi loạn; nhục mạ, đánh đập và giết chết người đầy tớ thứ nhất được ông chủ sai đến để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải trả. Tấn kịch đã đạt đến cao trào khi họ giết chết chính người con một của ông chủ. Họ tin tưởng cách mù quáng rằng khi làm như thế họ có thể chiếm được quyền thừa kế gia tài.
Lý lẽ ngụy biện và tự do
“Việc sát hại những đầy tớ và kể cả người con một của ông chủ – mà theo Thánh Kinh, đó chính là các tiên tri và Đức Kitô – cho thấy rằng người ta đã tự đóng mình lại, không hề biết mở ra với lời đoan hứa của Thiên Chúa. Đó là một dân không biết chờ đợi đến ngày lời hứa được thực hiện: một dân không biết nhớ, không có ngôn sứ và không có niềm trông cậy. Đặc biệt, những thủ lãnh của dân lại thích thú với việc dựng lên những tường thành của lề luật, một hệ thống tòa án đóng kín; ngoài ra, chẳng còn gì nữa.
Những ký ức không đáng bận tâm. Còn đối với các ngôn sứ ư? Tốt hơn là họ đừng xuất hiện. Niềm trông cậy cũng không cần nhắc đến. Hệ thống mà các thượng tế, kinh sư và kỳ mục hợp thức hóa cho mình là luôn đi theo con đường với những lý lẽ ngụy biện và không hề dành chỗ cho sự tự do của Thánh Thần. Họ không nhận ra hồng ân của Thiên Chúa, quà tặng của Thánh Thần. Họ giam hãm Thần Khí, vì không muốn lắng nghe các tiên tri trong niềm hy vọng.
Đây chính là hệ thống tôn giáo mà Đức Giêsu nói đến. Một hệ thống – như bài đọc một có nói – của sự hư đốn, của tinh thần thế gian và của dục vọng.”
Sự ghi nhớ giúp chúng ta tự do
Đức Thánh Cha tiếp tục nói rằng: “Chính Đức Giêsu cũng đã bị cám dỗ lãng quên sứ mạng của mình, từ bỏ con đường ngôn sứ và thích yên ổn an toàn hơn là dấn thân vào những hoàn cảnh bấp bênh cần đến niềm trông cậy. Đức Giêsu đã chiến đấu với ba cám dỗ này trong hoang địa.
Đối với dân Do Thái, vì biết được cám dỗ nơi chính bản thân mình nên Đức Giêsu mới sửa dạy họ: ‘Các ông cất công đi nửa vòng trái đất để tìm một người theo đạo. Khi tìm thấy rồi, các ông lại biến người ấy thành nô lệ.’
Họ đã đóng chặt mình lại. Và Giáo hội quá chặt chẽ, cứng ngắc sẽ biến người ta thành nô lệ. Qua đó, chúng ta có thể hiểu Thánh Phaolo đã phản ứng thế nào khi ngài nói về sự nộ lệ dưới ách lề luật và sự tự do mà ân sủng mang lại. Một dân tự do, một Giáo hội rộng mở, khi biết ghi nhớ, khi có chỗ dành cho các ngôn sứ và khi không đánh mất đi niềm trông cậy.”
Một con tim rộng mở hay đóng kín
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng vườn nho được rào giậu kỹ lưỡng xung quanh chính là hình ảnh của Dân Thiên Chúa, là hình ảnh của Giáo hội và cũng là hình ảnh của linh hồn chúng ta. Thiên Chúa Cha luôn hết mực quan tâm, chăm sóc cho khu vườn ấy với tất cả tình yêu và sự dịu dàng. Nổi loạn chống lại Thiên Chúa, như các tá điền sát nhân, chính là đã lãng quên đi những hồng ân được nhận lãnh nơi Ngài. Trong khi để ghi nhớ và không đi lầm đường lạc lối thì phải quay trở về với những điều căn bản sau:
“Tôi có nhớ những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện trong cuộc đời tôi hay không? Tôi có thể ghi nhớ những quà tặng của Thiên Chúa không? Tôi có dám mở lòng ra với các ngôn sứ khi họ mời gọi tôi: Đừng dừng lại nhưng hãy tiến về phía trước. Đừng sợ nguy hiểm, đừng ngại rủi ro? Tôi mở lòng ra hay tôi sợ hãi? Và phải chăng tôi muốn đóng mình lại với sự giam hãm của lề luật? Tôi có trông cậy vào lời đoan hứa của Thiên Chúa như tổ phụ Áp-ra-ham đã làm không? Ngài đã từ bỏ quê hương, đi đến một nơi chẳng hề biết, chỉ vì ngài một lòng trông cậy nơi Chúa. Bởi thế, sẽ thật hữu ích nếu chúng ta hãy tự tra vấn bản thân mình với những câu hỏi này.”
Đồng cảm với tội nhân nhưng không dàn xếp sự thật
VATICAN. Công bố Lời Thiên Chúa không bao giờ được tách rời khỏi sự cảm thông về yếu đuối của con người. Đây là thông điệp trong bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ Sáu, 20.05.2016, tại nguyện đường Thánh Marta. Khởi đi từ đoạn Tin Mừng, thuật lại cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người Pha-ri-sêu về vấn đề ngoại tình, Đức Thánh Cha nói rằng Thiên Chúa siêu vượt hơn cái nhìn của nhân loại, muốn giới hạn Ngài chỉ vào một phương trình những trường hợp đúng sai (như thế này là đúng, như thế kia là sai. Không có cảm thông và thương xót).
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy nhiều cạm bẫy. Đó là những cái bẫy mà người Pha-ri-sêu và các tiến sĩ luật đặt ra để thử Đức Giêsu, khiến Ngài phải lỡ lời, để làm mất đi uy tín và thẩm quuyền của Ngài trước mặt dân chúng. Câu hỏi ngày hôm nay họ đặt ra để chất vấn Đức Giêsu là: chồng có được phép rẫy vợ không?
Chân lý, không đơn thuần là đúng hay sai
Đức Thánh Cha nói về cạm bẫy trong những trường hợp đúng-sai do một nhóm nhỏ những ‘thần học gia học cao biết rộng’ (người Pha-ri-sêu và các tiến sĩ luật) đặt ra. Họ xác tín rằng họ nắm trong tay tất cả tri thức và mọi lẽ khôn ngoan của Dân Thiên Chúa. Đức Giêsu đã vượt qua cạm bẫy và Ngài cũng chỉ ra một điều cao xa hơn, chạm đến sự tròn đầy của hôn nhân. Trước đây nhóm Xa-đốc cũng đã từng gài bẫy Ngài như thế khi họ đề cập đến một người phụ nữ đã có bảy đời chồng. Đức Giêsu khẳng định rằng, trong ngày phục sinh, người phụ nữ ấy sẽ chẳng là vợ của ai hết, vì trên Nước Trời, người ta sẽ không dựng vợ gả chồng nữa. Như vậy, Đức Giêsu đã nhìn đến khía cạnh cứu cánh tròn đầy của hôn nhân.
Còn đối với người Pha-ri-sêu, Đức Giêsu mời gọi họ tiến đến sự tròn đầy của sự hòa hợp nơi công trình tạo dựng: ‘Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Họ không còn là hai, nhưng chỉ một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.’ Như thế, cả trong trường hợp về vấn đề hôn nhân hợp pháp mà nhóm Xa-đốc đặt ra và trường hợp ly dị của Pha-ri-sêu, Đức Giêsu đều trả lời bằng một chân lý hết sức rõ ràng, chắc chắn và thẳng thắn. Ngài không lèo lái hay dàn xếp để đạt đến chân lý. Còn những người này, nhóm nhỏ các ‘thần học gia có học thức này’, luôn dàn xếp sự thật, giới hạn sự thật chỉ trong một phương trình của đúng và sai. Đức Giêsu không bao giờ dàn xếp sự thật. Những gì Ngài nói chính là chân lý bất biến về đời sống hôn nhân, ngoài ra không còn gì khác.
Chân lý và sự cảm thông
Đức Giêsu luôn giàu lòng thương xót. Ngài thật cao cả và vĩ đại, chẳng bao giờ khép cửa lại với tội nhân. Và vì thế, Ngài không giới hạn trong việc công bố chân lý về Thiên Chúa nhưng còn tiến xa hơn bằng cách hỏi người Pha-ri-sêu điều mà Mô-sê đã viết trong Lề Luật. Và khi họ trả lời ông Mô-sê cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ, Đức Giêsu nói: ‘Chính vì các ông lòng chai dạ đá, ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông.’ Điều ấy có nghĩa là Đức Giêsu luôn phân biệt giữa chân lý và sự yếu đuối của con người, không có sự lẫn lộn.
Trong thế giới mà chúng ta đang sống, với một nền văn hóa tạm thời, thực tại tội lỗi này càng trở nên mạnh mẽ. Nhưng Đức Giêsu nói với chúng ta rằng tuy có cứng lòng, có tội lỗi nhưng vẫn tồn tại sự tha thứ, sự thấu hiểu, sự cảm thông, đồng hành, sự hội nhất và khả năng biết phân định. Chân lý không bao giờ được đem ra trả giá hay buôn bán. Đức Giêsu có khả năng công bố cách rõ ràng dứt khoát những chân lý cao vời nhưng đồng thời Ngài cũng biết cảm thông với tội nhân, với những kẻ yếu đuối.
Sự tha thứ không phải là một phương trình đúng sai
Ngày hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta hai điều: chân lý và sự cảm thông. Đây chính là điều mà những ‘thần học gia học cao biết rộng’ không biết đến, vì họ đã khép mình trong những cạm bẫy của một phương trình toán học: Điều này có thể làm. Điều kia không thể làm. Vì thế, họ không có khả năng để chạm tới những chân trời rộng mở cũng như tình yêu và sự cảm thông với yếu đuối của con người. Khi chiêm ngắm Đức Giêsu cư xử với chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, ta thấy Ngài tế nhị và dịu dàng đến là dường nào: ‘Ta không kết án chị đâu. Chị về đi và từ nay đừng phạm tội nữa.’
Xin Đức Giêsu giúp chúng ta có được một trái tim gắn chặt với chân lý, đồng thời cũng có một sự cảm thông, thấu hiểu với tất cả anh chị em của chúng ta, những người đang gặp khó khăn, thử thách. Đây chính là một món quà, là điều mà Chúa Thánh Thần dạy chúng ta. Chúa Thánh Thần dạy dỗ, hướng dẫn chúng ta, chứ không phải là những bậc tiến sĩ học sâu biết rộng dạy chúng ta giới hạn sự tròn đầy, sự toàn hảo của Thiên Chúa trong một phương trình toán học đúng-sai. Xin Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta.”
GIÁO LÝ VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT
Bài 17 về Tiệc Cưới Cana
TRONG NĂM THÁNH THƯƠNG XÓT-thứ Tư 8 tháng 6 năm 2016
“Chúa tiếp tục giữ rượu ngon cho phần rỗi của chúng ta,
như thể nó tiếp tục vọt ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa”.
Xin chào Anh Chị Em thân mến!
Trước khi bắt đầu bài giáo lý, tôi muốn chào một nhóm lứa đôi mừng kỷ niệm 50 năm thành hôn. Đây thật là “thứ rượu ngon” của gia đình! Chứng từ của anh chị em là một chứng từ mà các cặp mới thành hôn – thành phần tôi sẽ chào hỏi sau – và giới trẻ cần phải học hỏi. Nó là một chứng từ đẹp đẽ. Cám ơn chứng từ của anh chị em.
Sau khi đã bắt đầu cảm nhận một số dụ ngôn về lòng thương xót, hôm nay chúng ta chia sẻ về phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu, một phép lạ được thánh ký Gioan gọi là “dấu lạ”, vì Chúa Giêsu không thực hiện phép lạ ấy để gây lạ lùng bỡ ngỡ, mà là để tỏ tình yêu thương của Cha ra. Thật vậy, đoạn Phúc Âm Gioan 2:1-11 thuật lại dấu lạ đầu tiên trong các dấu kỳ lạ này, và nó được thực hiện ở Cana xứ Galilê. Nó là một thứ “cửa ngõ” được ghi khắc những lời nói và biểu hiện, những gì soi sáng cho thấy toàn thể mầu nhiệm về Chúa Kitô và giúp cho lòng tin của các môn đệ. Chúng ta hãy nhìn vào một số những lời nói và biểu hiệu ấy.
Ở phần giới thiệu, chúng ta thấy biểu hiệu “Chúa Giêsu và các môn đệ của Người” (câu 2). Những người mà Chúa Giêsu đã kêu gọi theo Người. Người đã liên kết với Người trong một cộng đồng và bấy giờ, như là một gia đình duy nhất, tất cả họ được kêu mời đến tiệc cưới. Bắt đầu thừa tác vụ công khai của Người ở tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu tỏ mình ra như là Phu Quân của Dân Thiên Chúa, vị được các tiên tri loan báo, và Người tỏ ra cho chúng ta tính chất phong phú nơi mối liên hệ liên kết chúng ta với Người: nó là một Giao Ước mới của tình yêu. Đâu là những gì ở nơi nền tảng đức tin của chúng ta? – Đó là một tác động thương xót mà Chúa Giêsu muốn sử dụng để liên kết chúng ta với Người. Và đời sống Kitô hữu là câu trả lời cho tình yêu thương này. Nó giống như câu chuyện của hai người đang yêu nhau. Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau, tìm kiếm nhau, gặp gỡ nhau, hân hoan và thương mến nhau:đích thực như người yêu và người tình trong Diễm Tình Ca vậy. Tất cả mọi sự khác đều là hoa trái của mối liên hệ này. Giáo Hội là gia đình của Chúa Giêsu, nơi trào tràn tình yêu thương của Người; chính tình yêu này là những gì Giáo Hội cảm thấy hân hoan và muốn cống hiến cho tất cả mọi người.
Cũng trong bối cảnh của Giao Ước còn có nhận định của Đức Mẹ: “Họ hết rượu rồi” (câu 3). Làm sao có thể cử hành lễ cưới và tiệc cưới nếu thiếu vắng những gì được các vị tiên tri nói đến, như là một yếu tố mẫu mực cho một bữa tiệc Cứu độ? (cf. Amos 9:13-14;Joel 2:24; Isaiah 25:6). Nước là những gì cần để sống, nhưng rượu là những gì biểu hiệu cho tính chất dồi dào phong phú của bữa tiệc và niềm vui của việc cử hành. Nó là một lễ cưới mà thiếu rượu thì đôi tân hôn cảm thấy xấu hổ. Thế nhưng anh chị em có thể nghĩ rằng một tiệc cưới được kết thúc bằng cách uống trà hay chăng? Nó hẳn là những gì hổ thẹn. Rượu là những gì cần thiết để mừng rỡ. Trong việc biến nước thành rượu trong các lu được sử dụng “cho nghi thức thanh tẩy của người Do Thái” (câu 6), Chúa Giêsu thực hiện một dấu lạ hùng hồn. Chúa Giêsu báo hiệu là Người đang hoàn trọn Lề luật và các tiên tri. Như chính Thánh ký Gioan nói: “Luật được ban bố qua Moisen; ân sủng và chân lý xuất phát từ Chúa Giêsu Kitô” (1:17).
Những lời của Mẹ Maria ngỏ cùng các đầy tớ là những gì làm thăng hoa bức tranh phối ngẫu này: “Người bảo gì các anh hãy làm theo như vậy?” Thật là ý vị: đó là những lời cuối cùng của Mẹ được các Phúc Âm ghi nhận: đó là di sản Mẹ cống hiến cho tất cả chúng ta. Cả hôm nay đây Đức Mẹ cũng nói với tất cả chúng ta rằng: “Hãy làm những gì Người – Chúa Giêsu nói với các con – thực hiện”. Đó là di sản Mẹ đã lưu lại cho chúng ta: thật là tốt đẹp! Nó là một biểu hiệu gợi lại công thức đức tin được dân Do Thái sử dụng ở Núi Sinai để đáp lại những lời hứa của Giao Ước: “Tất cả những gì Chúa phán chúng tôi sẽ thực hiện!” (Xuất Hành 19:8). Thật vậy, ở Cana, những người đầy tớ đã tỏ ra tuân phục: “Chúa Giêsu bảo họ rằng ‘các anh hãy đổ đầy nước vào các chum”. Và họ đã đổ đầy đến miệng. Rồi Người lại bảo họ: ‘Bây giờ hãy múc một chút cho người quản tiệc’ Vậy họ đã làm như thế” (câu 7-8). Trong những lễ cưới này, Giao Ước Mới thực sự đã được qui định và sứ vụ mới đã được ủy thác cho các người đầy tớ của Chúa tức là toàn thể Giáo Hội, đó là “hãy làm những gì Người bảo anh em!” Việc phục vụ Chúa nghĩa là việc lắng nghe Người và thực hành Lời của Người. Nó là một lời khuyên bảo giản dị nhưng thiết yếu của Mẹ Chúa Giêsu và nó là chương trình sống của Kitô hữu. Việc múc từ các chum là những gì tương đương với việc mỗi một người chúng ta ký thác bản thân mình cho Lời Chúa để cảm nghiệm thấy hiệu lực của Lời Người trong cuộc sống. Thế rồi, cùng với người quản tiệc đã nếm nước đã hóa thành rượu, cả chúng ta nữa kêu lên rằng: “Anh em đã giữ rượu ngon cho tới bây giờ” (câu 10). Phải, Chúa tiếp tục giữ rượu ngon cho phần rỗi của chúng ta, như thể nó tiếp tục vọt ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa.
Kết thúc trình thuật này là câu: “Chúa Giêsu đã thực hiện dấu lạ đầu tiên này ở Cana xứ Galilê hầu tỏ vinh quang của Người ra, nhờ đó các môn đệ của Người bắt đầu tin vào Người” (câu 11). Tiệc cưới ở Cana không phải chỉ là một trình thuật giản dị về phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu. Như một cái hòm trân châu quí báu, Chúa Giêsu giữ cái bí mật về con người của mình và mục đích của việc Người đến: đó là một vị Phu Quân được đợi chờ bắt đầu các lễ cưới đang được hoàn trọn nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua. Nơi các lễ cưới này, Chúa Giêsu liên kết các môn đệ của Người với Người bằng một Giao Ước mới mẻ và vĩnh viễn. Ở Cana, các môn đệ của Chúa Giêsu đã trở nên gia đình của Người, và ở Cana đức tin của Giáo Hội đã được nẩy sinh. Tất cả chúng ta được kêu mời đến tiệc cưới này, vì không bao giờ còn thiếu thứ rượu mới nữa!
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
Bài giảng I của Đức Phanxicô cho các linh mục, nhân Năm Thánh Lòng Thương Xót
Vũ Văn An dịch
Mấy ngày trước chúng tôi đã lần lượt đăng tải các bài giảng của Đức Phanxicô cho các linh mục và chủng sinh nhân Năm Thánh Lòng Thương Xót. Nhưng bản văn chúng tôi dựa vào để dịch do Hãng Tin Zenit cung cấp, và không hiểu vì lý do gì, họ đã cắt xén nhiều ý tưởng của Đức Giáo Hoàng. Nay đọc lại bản văn do Tòa Thánh công bố trên trang mạng chính thức, chúng tôi đã bổ túc những chỗ thiếu và thêm phần dẫn nhập của chính Đức Phanxicô. Xin thành thực cáo lỗi cùng độc giả. Và xin qúy vị thay bài này cho các bài đã đăng lẻ tẻ trước đây.
Nhân dịp Năm Thánh Thương Xót dành cho các linh mục và chủng sinh, kéo dài 3 ngày từ ngày 1 tới ngày 3 tháng Sáu, với chủ đề “Người Chăn Chiên Nhân Lành: Linh Mục trong tư các Thừa Tác Viên của Thương Xót và Cảm Thương, Gần Gũi Dân Mình và Tôi Tớ Mọi Người”, Đức Thánh Cha đã đích thân lần lượt giảng cho các linh mục và chủng sinh ba bài giảng cùng trong ngày 2 tháng Sáu. Bài đầu tiên tại Vương Cung Thánh Đường Gioan Latêranô vào buổi sáng, bài thứ hai tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả vào buổi trưa, và bài thứ ba tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành vào lúc 4 giờ chiều.
Dẫn Nhập
Trước ba bài giảng, Đức Thánh Cha đã có lời dẫn nhập như sau:
Chào các linh mục thân yêu,
Chúng ta hãy bắt đầu ngày tĩnh tâm thiêng liêng này. Tôi nghĩ điều hữu ích cho chúng ta là cầu nguyện cho nhau, trong tình hiệp thông. Tĩnh tâm đã đành, nhưng mọi người chúng ta trong tình hiệp thông! Tôi đã chọn chủ đề lòng thương xót. Trước hết, là một dẫn nhập ngắn vào toàn bộ buổi tĩnh tâm.
Lòng thương xót, nhìn theo cái nhìn nữ giới, là tình yêu dịu dàng của một người mẹ, xúc động trước sự mảnh mai yếu đuối của đứa con mới sinh, bèn ôm lấy con vào lòng và cung cấp mọi điều con cần để sống và lớn lên (rahamim). Nhìn theo cái nhìn nam giới, lòng thương xót là lòng trung tín vững bền của một người cha luôn nâng đỡ, tha thứ và khích lệ con cái lớn lên. Lòng thương xót là kết quả của một giao ước; chính vì thế ta mới nói Thiên Chúa nhớ tới giao ước thương xót của Người (hesed). Đồng thời, nó là một hành vi hoàn toàn tự do của lòng nhân và lòng tốt (eleos) phát xuất từ thẳm sâu hữu thể ta và tìm cách phát biểu ra ngoài trong đức ái. Đặc tính bao hàm mọi sự này có nghĩa: mọi người đều biết đánh giá ý nghĩa của việc có lòng thương xót, của việc cảm thấy xót thương những người đang đau khổ, của viêc có thiện cảm với những người thiếu thốn, bất bình một cách tự nhiên trước những bất công tỏ tường và ước nguyện đáp ứng bằng một lòng kính trọng yêu thương qua việc cố gắng chỉnh đốn mọi sự. Chịu suy nghĩ về các cảm xúc thương xót tự nhiên này, ta sẽ bắt đầu hiểu được tại sao ta cũng có thể hiểu chính Thiên Chúa theo thuộc tính có tính định tính này qua đó Chúa Giêsu muốn mặc khải Người cho ta. Tên Thiên Chúa chính là lòng thương xót.
Khi ta suy niệm về lòng thương xót, một điều đặc biệt sẽ diễn ra. Tính năng động của Linh Thao sẽ nhận được một sức mạnh mới. Lòng thương xót giúp ta thấy điều này: ba cách của thần nghiệm (mysticism) cổ điển: thanh tẩy, soi sáng và kết hợp, không phải là ba giai đoạn nối tiếp nhau mà khi đã cảm nghiệm được rồi, ta sẽ vứt chúng lại phía sau. Chúng ta không bao giờ ngưng cần đến việc hồi tâm đổi mới, chiêm niệm sâu xa hơn và yêu thương lớn lao hơn. Ba giai đoạn này chồng chéo lên nhau và liên tiếp tái hiện. Không gì kết hợp ta với Thiên Chúa nhiều hơn một hành vi thương xót, và đây không phải là một điều nói quá: không gì kết hợp ta với Thiên Chúa nhiều hơn một hành vi thương xót, vì chính vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã tha thứ tội lỗi ta và ban ơn thánh để ta thực hành các hành vi thương xót nhân danh Người. Không gì củng cố đức tin ta nhiều hơn việc được tẩy sạch mọi tội lỗi. Không gì có thể rõ ràng hơn giáo huấn của tin mừng Mátthêu chương 25 và các mối phúc thật, “phúc thay người có lòng thương xót, vì họ sẽ được thương xót” (Mt 5:7), đối với cái hiểu của ta về thánh ý Thiên Chúa và sứ vụ Người ủy thác cho ta. Ta có thể áp dụng vào lòng thương xót câu Chúa phán rằng “đong đấu nào các con sẽ được đấu đó” (Mt 7:2). Nếu anh em cho phép, tôi xin nghĩ tới tất cả các cha giải tội thiếu kiên nhẫn luôn “mạnh tay” với các hối nhân, la mắng họ. Nhưng đó là cách Thiên Chúa sẽ cư xử với các ngài! Nếu chỉ vì lý do này, xin anh em đừng hành động như thế. Lòng thương xót giúp chúng ta nhận ra rằng sở dĩ chúng ta nhận được lòng thương xót là để muốn được tỏ lòng thương xót cho người khác. Chúng ta có thể cảm nhận ngay trong chúng ta một sự căng thẳng lành mạnh giữa việc hối hận vì tội lỗi mình và phẩm giá mà Chúa đã ban cho chúng ta. Không chần chừ gì thêm nữa, chúng ta có thể từ ghẻ lạnh bước qua ôm ấp, như dụ ngôn người con trai hoang đàng, và thấy được Thiên Chúa đã dùng tội lệ của ta làm bình chứa lòng thương xót của Người như thế nào. Tôi muốn lặp lại điều này, nó vốn là chìa khóa dẫn vào bài suy niệm thứ nhất: dùng tội lệ của ta như bình chứa lòng thương xót của Người. Lòng thương xót thúc giục ta từ bản thân bước sang cộng đoàn. Ta thấy điều này trong phép lạ hóa bánh, một phép lạ phát sinh từ lòng cảm thương của Chúa Giêsu đối với dân Người và đối với nhiều người khác. Một điều tương tự cũng diễn ra khi ta hành động một cách có lòng thương xót: bánh thương xót luôn hóa nhiều khi được chia sẻ.
Ba Gợi Ý
Tôi có ba gợi ý cho ngày tĩnh tâm này. Sự thân mật tự do và hân hoan phát sinh ở mọi bình diện giữa những người đối xử với nhau bằng lòng thương xót, sự thân mật của Nước Thiên Chúa theo lời mô tả của Chúa Giêsu trong các dụ ngôn của Người, khiến tôi đưa ra ba gợi ý để anh em đích thân cầu nguyện hôm nay.
Gợi ý thứ nhất liên quan tới hai lời khuyên thực tế được Thánh Inhaxiô đưa ra và tôi xin lỗi đã quảng cáo cho “gà nhà”. Ngài nói với chúng ta rằng “Không phải nhận thức lớn làm đầy và thỏa mãn linh hồn, mà là khả năng biết cảm nhận và thưởng thức những điều thuộc về Chúa ở bên trong” (Linh Thao, 2). Thánh Inhaxiô viết thêm rằng bất cứ khi nào gặp được và thưởng thức được điều mình ước muốn, ta đều nên cầu nguyện trong bình an, “không cần lo lắng tiến thêm bao lâu mình đã thỏa mãn” (cùng chỗ, 76). Cũng thế, trong các bài suy niệm này về lòng thương xót, ta có thể bắt đầu với điều ta thưởng thức nhiều nhất và dừng lại ở đấy, vì điều chắc chắn là việc thương xót này sẽ dẫn chúng ta tới việc thương xót kia. Nếu chúng ta bắt đầu cảm thấy thương cảm đối với người nghèo và người bị xua đuổi, chắc chắn ta sẽ tiến tới chỗ hiểu ra rằng chính chúng ta cũng cần lòng thương xót.
Gợi ý thứ hai của tôi giúp anh em cầu nguyện liên quan tới cung cách chúng ta nói tới lòng thương xót. Cho tới nay, anh em đã hiểu ra rằng trong tiếng Tây Ban Nha, tôi thích dùng chữ “thương xót” như một động từ: chúng ta phải “tỏ lòng thương xót” [misericordiar trong tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa như thương xót hóa: chúng ta phải mở rộng nghĩa của ngôn từ đôi chút] để “nhận được lòng thương xót [ser misericordiados – để được thương xót hóa]”. “Nhưng thưa cha, đấy đâu phải chữ trên thực tế!’ – “Đúng, nhưng nó là hình thức tôi thấy hữu ích để nắm được thực tại này: tỏ lòng thương xót, misericordiar và nhận lòng thương xót ser misericordiados”. Lòng thương xót nối kết nhu cầu con người với trái tim Thiên Chúa và việc này dẫn tới hành động tức khắc. Chúng ta không thể suy niệm về lòng thương xót mà không biến nó thành hành động. Trong cầu nguyện, chẳng ích chi khi chỉ trí thức hóa sự việc. Với trợ lực của ơn thánh, cuộc đối thoại của ta với Chúa phải tập chú ngay lập tức vào thứ tội mà vì nó tôi cần lòng thương xót của Chúa hơn cả, thứ tội mà tôi cảm thấy xấu hổ hơn hết, thứ tội mà tôi muốn tu sửa hơn cả. Ngay từ đầu, ta cũng phải nói tới điều làm chúng ta xúc động hơn hết, mọi khuôn mặt khiến ta muốn làm một điều gì đó để thỏa mãn cơn đói cơn khát Thiên Chúa, công lý và tình âu yếm của họ. Lòng thương xót được chiêm niệm bằng hành động, nhưng là loại hành động bao trùm mọi người. Lòng thương xót liên hệ tới trọn con người ta, cả các cảm xúc lẫn tinh thần ta, và mọi con người khác nữa.
Gợi ý sau cùng của tôi cho buổi tĩnh tâm hôm nay liên quan tới hoa trái của Các Thao Tác này, tức ơn thánh chúng ta cầu xin nhận được. Tóm một lời, là ơn thánh trở thành các linh mục sẵn sàng hơn bao giờ hết “tiếp nhận lòng thương xót” (misericordiados) và “tỏ bầy lòng thương xót” (misericordiosos). Một trong những điều đẹp đẽ nhất, và là những điều làm tôi xúc động, là việc xưng tội của một linh mục: việc này vĩ đại, đẹp đẽ, vì con người tới xưng thú tội lỗi của chính mình này cũng là một với con người lắng nghe trái tim của các hối nhân khác tới xưng thú tội lỗi của họ. Ta có thể tập trung vào lòng thương xót vì nó là điều chủ yếu và dứt khoát nhất. Nhờ chiếc thang thương xót (Xem Laudato Si’, 77), ta có thể leo xuống tận thẳm sâu thân phận con người, kể cả sự yếu đuối và tội lỗi của ta, và leo lên tận đỉnh cao sự hoàn thiện của Thiên Chúa: “hãy thương xót (hoàn thiện) như Cha các con là Đấng thương xót”. Nhưng luôn để “hái” được lòng thương xót lớn lao hơn. Hoa trái này cũng nên được thấy trong việc hoán cải tâm thức thích định chế của ta: nếu các cơ cấu của ta không sinh động và nhắm làm cho chúng ta cởi mở hơn với lòng thương xót của Thiên Chúa và có lòng thương xót đối với người khác hơn, thì chúng có thể biến thành một điều gì đó rất kỳ quặc và cuối cùng phản tác dụng. Phạm vi này thường được bàn tới trong một số văn kiện của Giáo Hội và các bài diễn văn của một số vị giáo hoàng: hoán cải định chế, hoán cải mục vụ.
Như thế, buổi tĩnh tâm này sẽ đi theo con đường “đơn sơ của Tin Mừng”, một con đường nhìn và làm mọi sự bằng chìa khóa thương xót. Lòng thương xót này năng động, không hẳn là một danh từ với một ý nghĩa nhất định và dứt khoát, hay một tĩnh từ dùng để mô tả, mà đúng hơn là một động từ – “tỏ lòng thương xót” và “tiếp nhận lòng thương xót” [misericordiar và ser misericordiados]. Điều này thúc đẩy chúng ta hành động trong thế giới này. Hơn thế nữa, đây là một lòng thương xót “lớn hơn mãi” (magis), một lòng thương xót lớn lên và trải rộng, tiến từ tốt tới tốt hơn và từ kém tới hơn. Vì mẫu mực được Chúa Giêsu thiết lập trước mặt ta là mẫu mực của Chúa Cha, Đấng luôn lớn hơn mãi – Deus semper maior – và, theo một nghĩa nào đó, lòng thương xót vô lượng của Người không ngừng “lớn mạnh”. Lòng thương xót của Người không có mái hoặc tường vì nó phát sinh từ tự do tối thượng của Người. Bài suy niệm thứ nhất: từ ghẻ lạnh tới cử hành mừng vui
Giờ đây, chúng ta tiến qua bài suy niệm thứ nhất. Tôi đặt tựa cho nó là “từ ghẻ lạnh tới cử hành mừng vui”. Như chúng ta vốn nói, nếu Tin Mừng trình bầy lòng thương xót như một sự dư tràn tình yêu Thiên Chúa, thì điều đầu tiên chúng ta phải làm là xem xem ở đâu trên thế giới ngày nay, và mọi người trong đó, cần đến thứ dư tràn tình yêu này nhất. Ta cần tự hỏi: lòng thương xót như thế phải được tiếp nhận ra sao. Dòng lũ con nước hằng sống này phải vọt lên trên mảnh đất cằn cỗi và nứt nẻ nào? Đâu là các vết thương cần thứ dầu qúy giá này? Cảm thức bị bỏ rơi nào đang van nài được yêu thương chăm sóc? Cảm thức ghẻ lạnh nào khao khát được ôm ấp và gặp gỡ?
Dụ ngôn mà bây giờ tôi sẽ đề nghị để anh em suy niệm là dụ ngôn về Người Cha đầy lòng thương xót (xem Lc 15: 11-31). Chúng ta thấy bản thân mình đứng trước mầu nhiệm của Người Cha. Tôi nghĩ chúng ta nên bắt đầu với thời điểm khi người con trai hoang đàng đứng ở giữa chuồng heo, trong cái địa ngục của sự ích kỷ nơi, sau khi đã thực hiện tất cả mọi thứ anh ta muốn thực hiện, giờ đây, thay vì được tự do, anh ta cảm thấy mình trở thành nô lệ. Anh ta nhìn vào những con heo đang ăn bã vỏ của chúng … và anh ta ganh tị với chúng. Anh ta cảm thấy nhớ nhà. Anh ta mong mẩu bánh mới nướng mà đầy tớ trong nhà anh, nhà của cha anh, thường ăn vào bữa ăn sáng. Nhớ nhà …, hoài hương. Hoài hương là một cảm xúc mạnh mẽ. Giống như lòng thương xót, nó mở rộng tâm hồn. Nó làm chúng ta nghĩ đến trải nghiệm đầu tiên của chúng ta về sự tốt lành – quê hương từ đó chúng ta phát xuất – và nó đánh thức trong chúng ta hy vọng quay trở lại đó. Nó là nostos algos (một điều để nhớ?). Trước chân trời nhớ nhung bao la này, chàng tuổi trẻ – như Tin Mừng cho chúng ta biết – bỗng trở về với cảm thức của mình và nhận ra rằng anh quả khốn cùng. Mỗi người chúng ta đều có thể tiến tới hay dẫn tới điểm cảm nhận sự khốn cùng lớn lao hơn. Mỗi người chúng ta đều có nỗi khốn cùng giấu kín của mình… ta cần xin ơn biết tìm thấy nó.
Không lưu lại ở niềm đáng thương của anh ta, chúng ta hãy chuyển sang thời điểm khác, lúc cha anh ôm lấy anh và hôn anh. Anh vẫn thấy mình còn bẩn thỉu, dù đã mặc quần áo dự tiệc. Vì cha anh không nói: “hãy đi tắm đi rồi tới đây”. Anh xỏ vào ngón tay chiếc nhẫn anh đã được ban cho, giống như chiếc nhẫn của cha mình. Anh mang giầy mới ở đôi chân. Anh ngồi giữa buổi tiệc, giữa một đám đông người. Hơi giống chúng ta, nếu có bao giờ chúng ta đi xưng tội trước Thánh Lễ và rỗi bỗng thấy mình được mặc áo và ở giữa một nghi lễ.
Một phẩm giá ngượng ngùng
Chúng ta hãy suy nghĩ một chút về “phẩm giá ngượng ngùng” của người con trai hoang đàng nhưng được yêu thương này. Nếu chúng ta có thể bình thản giữ cho trái tim của chúng ta được cân bằng giữa hai thái cực – phẩm giá và ngượng ngùng – mà không bỏ điều nào cả, có lẽ chúng ta sẽ cảm nhận được trái tim người Cha của chúng ta sẽ rộn rã đập nhịp yêu thương như thế nào đối với chúng ta. Đây là một trái tim đang đập vì lo âu, khi ngài leo lên mái nhà để nhìn về phía xa. Ông nhìn gì? Nhìn đứa con trai ông có thể trở về…Lúc đó, ở chỗ đó, nơi phẩm giá và ngượng ngừng đang hiện diện bên cạnh nhau, ta có thể nhận rõ trái tim người Cha đập ra sao. Chúng ta có thể tưởng tượng: lòng thương xót trào dâng trong nó giống như máu trào dâng. Người đi ra để tìm kiếm chúng ta, những kẻ tội lỗi. Người kéo chúng ta vào lòng Người, thanh tẩy chúng ta và sai chúng ta đi, mới mẻ và đổi mới, tới mọi vùng ngoại vi, để mang lòng thương xót tới cho mọi người. Máu đó là máu của Chúa Kitô, máu của giao ước thương xót mới và vĩnh cửu, đổ ra cho chúng ta và cho tất cả, để được tha tội. Chúng ta suy ngắm máu ấy bằng cách ra vào trái tim Người và trái tim Chúa Cha. Đó là kho báu duy nhất của chúng ta, điều duy nhất chúng ta phải cung cấp cho thế giới: máu thanh tẩy và mang bình an tới cho mọi thực tại và mọi người. Máu của Chúa vốn tha thứ tội lỗi. Máu vốn là của uống thật, vì nó đánh thức và làm sống lại những gì đã chết vì tội lỗi.
Trong lời cầu nguyện thanh thản của chúng ta, lời cầu nguyện chập chờn giữa ngượng ngùng và phẩm giá, giữa phẩm giá và ngượng ngùng, chúng ta hãy xin cho được ơn biết cảm nhận lòng thương xót như đem lại ý nghĩa cho toàn bộ cuộc sống của chúng ta, ơn biết cảm thấy trái tim Chúa Cha cùng đập như một với trái tim ta ra sao. Nghĩ đến ơn này như một điều Thiên Chúa thỉnh thoảng mới ban cho chúng ta khi Người tha thứ một vài tội lỗi lớn lao của chúng ta, còn sau đó, những phần còn lại, chúng ta có thể phải tự làm lấy một mình là điều không đủ. Nhất định không đủ.
Thánh Inhaxiô cho chúng ta một hình ảnh rút ra từ nền văn hóa cung đình của thời ngài, nhưng vì lòng trung thành giữa bạn bè là một giá trị trường cửu, nên nó cũng có thể giúp ích chúng ta. Ngài nói rằng, để cảm thấy “ngượng ngùng và xấu hổ” vì tội lỗi của mình (nhưng không quên lòng thương xót của Thiên Chúa), chúng ta có thể sử dụng ví dụ về “một hiệp sĩ đứng trước nhà vua và toàn bộ triều đình của vua, xấu hổ và ngượng ngùng vì đã làm sai cách nặng nề đối với nhà vua, sau khi đã nhận được từ ngài rất nhiều ơn phúc và ơn huệ” (Linh Thao, 74). Nhưng, giống như người con trai hoang đàng, thấy mình ở giữa bàn tiệc, chàng hiệp sĩ này, người nên cảm thấy xấu hổ trước mặt mọi người, đột nhiên thấy nhà vua nắm lấy tay chàng và phục hồi phẩm giá của chàng. Quả thật, không những nhà vua yêu cầu chàng theo ngài lâm trận, ngài còn đặt chàng đứng đầu các đồng nghiệp của chàng nữa. Chàng hiệp sĩ này sẽ phục vụ ngài với môt lòng khiêm cung và trung thành từ đó trở về sau xiết bao! Điều này làm tôi nghĩ đến phần cuối của chương sáu Sách Tiên Tri Êdêkien.
Bất kể chúng ta coi mình như người con trai hoang đàng ở giữa bàn tiệc, hay chàng hiệp sĩ bất trung được phục hồi và thăng thưởng, điều quan trọng là mỗi người chúng ta cảm nhận được sự căng thẳng có hiệu quả phát sinh từ lòng thương xót của Chúa: chúng ta cùng một lúc là những kẻ tội lỗi được ân xá và những kẻ tội lỗi được phục hồi phẩm giá.
Simon Phêrô đại diện khía cạnh thừa tác của sự căng thẳng lành mạnh này. Tại mỗi bước trên đường đi, Chúa đều huấn luyện ngài trở thành cả Simon lẫn Phêrô. Simon, người đàn ông bình thường với tất cả những lỗi lầm và bất nhất của mình, và Phêrô, người mang chìa khóa dẫn đầu những người khác. Khi Anrê đem Simon, mới từ lưới cá lên, tới với Chúa Kitô, Chúa ban cho ông tên Phêrô, nghĩa là Đá. Tuy nhiên, ngay sau khi ca ngợi lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, một lời tuyên xưng vốn xuất phát từ Chúa Cha, Chúa Giêsu đã nghiêm khắc khiển trách ông vì đã bị cám dỗ nghe lời ma quỷ mà nói với Người chạy trốn khỏi thập giá. Chúa Giêsu sau đó, đã mời Phêrô đi trên nước; Người sẽ để ông chìm trong sợ hãi chỉ để sau đó dơ thẳng tay ra và kéo ông lên. Ngay sau khi Phêrô xưng thú rằng mình là một kẻ tội lỗi, Chúa đã biến ông thành một người đánh cá người. Người sẽ tra vấn Phêrô nhiều về tình yêu của ông, cố ý thấm nhiễm nơi ông niềm hối hận và xấu hổ vì sự bất trung và lòng hèn nhát của mình, nhưng Người cũng sẽ ba lần giao phó cho ông chăm sóc đoàn chiên của Người. Hai việc đối nghịch nhau này luôn đi đôi với nhau.
Đó là cách chúng ta phải thấy mình: thăng bằng giữa xấu hổ hoàn toàn và phẩm giá tuyệt vời của chúng ta. Ta cảm thấy gì khi người ta hôn tay ta, khi ta được Dân Chúa tôn trọng, nếu ta biết nhìn vào thẳm sâu sự khốn cùng của ta? Có một hoàn cảnh khác giúp ta hiểu. Tương phản luôn luôn có mặt. Ta phải đặt ta vào bối cảnh đó, vào chỗ đó nơi nỗi khốn cùng đáng xấu hổ nhất và phẩm giá cao nhất của ta hiện diện bên nhau. Ở cùng một chỗ. Dơ bẩn, không trong sạch, tầm thường, hư danh – hư danh vốn là tội của các linh mục –và ích kỷ, nhưng đồng thời, với bàn chân đã rửa sạch, được gọi và được chọn để phân phối các ổ bánh hóa nhiều của Chúa, được chúc phúc bởi dân của chúng ta, được yêu thương và chăm sóc. Chỉ có lòng thương xót mới làm ta chịu đựng được tình thế đó. Không có nó, hoặc chúng ta tin vào sự công chính của chúng ta như những người Biệt Phái, hoặc chúng ta co rúm lại như những người cảm thấy bất xứng. Trong cả hai trường hợp, trái tim chúng ta đều trở nên chai đá: khi ta cảm thấy mình chính trực như những người Biệt Phái hay khi ta tự tách mình ra như những người cảm thấy bất xứng. Tôi không cảm thấy xứng đáng, nhưng tôi không nên tự tách mình ra: tôi phải có một phẩm giá ngượng ngùng, hai yếu tố này phải đi đôi với nhau.
Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn một chút vào điều này, và hỏi xem tại sao sự căng thẳng này lại có hiệu quả như thế giữa sự khốn cùng và phẩm giá, giữa sự ghẻ lạnh và cử hành mừng vui? Lý do, theo tôi, nó là kết quả của một quyết định tự do. Chúa hành động chủ yếu thông qua tự do của chúng ta, mặc dù sự giúp đỡ của Người không bao giờ rời xa chúng ta. Lòng thương xót là một vấn đề tự do. Như một cảm xúc, nó phát sinh một cách tự phát. Khi chúng ta nói rằng nó có tính bản năng, xem ra nó đồng nghĩa với “thú tính”. Nhưng thú vật không cảm nghiệm lòng thương xót “tinh thần”, mặc dù một số trong chúng có thể cảm nghiệm được một điều gì đó giống như lòng cảm thương, như con chó trung thành canh giữ bên cạnh người chủ ốm yếu của mình. Lòng thương xót là một cảm xúc theo bản năng nhưng nó cũng có thể là kết quả của một cái nhìn sâu sắc trí tuệ tinh tường – làm sửng sốt như một tia sét nhưng không kém phần phức tạp vì tính đơn giản của nó. Chúng ta trực giác được nhiều điều khi cảm nhận được lòng thương xót. Thí dụ như hiểu được rằng một người nào khác đang sa vào một tình trạng tuyệt vọng, một tình huống có giới hạn; một điều gì đó đang xảy ra lớn hơn tội lỗi và thiếu sót của mình. Chúng ta cũng nhận ra rằng người khác đó là người đồng trang đồng lứa với chúng ta, rằng chúng ta có thể đứng trong đôi giày của họ. Hoặc sự ác là một điều to lớn và nặng nề đến nỗi không thể chỉ đơn giản được được giải quyết bằng công lý mà thôi… Tận đáy lòng, chúng ta nhận ra rằng điều cần là một lòng thương xót vô hạn, giống như lòng thương xót của trái tim Chúa Kitô, mới sửa chữa được mọi điều ác và đau khổ chúng ta thấy trong cuộc sống của con người … Bất cứ điều gì ít hơn thế đều không đủ. Chúng ta có thể hiểu rất nhiều điều chỉ bằng cách đơn giản nhìn thấy một người đi chân đất trên đường phố vào một buổi sáng lạnh lẽo, hoặc bằng cách suy ngắm Chúa bị đóng đinh trên thập giá – vì tôi!
Hơn nữa, lòng thương xót có thể được tự do chấp nhận và nuôi dưỡng, hoặc tự do từ chối. Nếu chúng ta chấp nhận nó, điều này sẽ dẫn đến điều kia. Nếu chúng ta chọn bỏ qua nó, trái tim của chúng ta sẽ trở nên lạnh lùng. Lòng thương xót làm chúng ta cảm nghiệm được sự tự do của chúng ta, và do đó, sự tự do của chính Thiên Chúa, Đấng, như Người đã nói với Môsê, “thương xót với những ai Người thương xót” (xem Đnl 5:10). Qua lòng thương xót của Người, Chúa đã nói lên tự do của Người. Và chúng ta, chúng ta nói lên tự do của chúng ta.
Chúng ta có thể “bất cần” lòng thương xót của Chúa trong một thời gian dài. Nói cách khác, chúng ta có thể sống trên đời mà không hề suy nghĩ về nó một cách có ý thức hay minh nhiên yêu cầu có nó. Rồi một ngày nào đó, chúng ta bỗng nhận ra “tất cả là lòng thương xót” và chúng ta khóc lóc thảm thiết vì đã không biết đến nó sớm hơn, khi chúng ta cần nó nhất!
Cảm giác trên là một loại khốn cùng tinh thần. Nó là một nhận thức hoàn toàn có tính bản thân khi hiểu ra rằng ở một thời điểm nào đó trong cuộc sống của tôi, tôi đã quyết định đi một mình: Tôi đã thực hiện sự lựa chọn của tôi và tôi đã chọn nó một cách tệ hại. Đó là những vực thẳm mà chúng ta cần với tới để cảm thấy đau đớn vì tội lỗi chúng ta và sự ăn năn thật. Nếu không, chúng ta sẽ thiếu tự do để thấy rằng tội lỗi quả đã ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Chúng ta không nhận ra sự khốn cùng của chúng ta, và do đó chúng ta bỏ lỡ cơ hội thương xót, một cơ hội chỉ hành động với điều kiện đó. Người ta không tới một dược phòng và hỏi mua một viên aspirin để chữa lòng thương xót. Muốn chữa lòng thương xót, chúng ta phải mua morphine, cho người bị bệnh ở giai đoạn chót và đang bị hành hạ hết sức đau đớn. Tất cả hay không là gì cả. Nếu ta không đi sâu vào điều này, ta sẽ không hiểu chi hết.
Trái tim mà Thiên Chúa muốn nối kết với nỗi khốn cùng tinh thần này của chúng ta là trái tim của Chúa Kitô, Con yêu dấu của Người, một trái tim đập như một với trái tim của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Tôi nhớ khi Đức Piô XII hoàn tất thông điệp nói về Trái Tim Chúa Giêsu, một ai đó bình luận: “Tại sao cần một thông điệp về việc này? Đây là chuyện dành cho các nữ tu…”. Trái Tim Chúa Giêsu là trung tâm, là chính trung tâm của lòng thương xót. Có lẽ các nữ tu hiểu điều này hơn chúng ta, vì các chị là các bà mẹ trong Giáo Hội, là hình ảnh của Giáo Hội, Bà Mẹ Diễm Phúc. Nhưng trung tâm là trái tim Chúa Giêsu. Có lẽ ta nên đọc Thông Điệp Haurietis aquas này trong tuần này hay ngày mai… “Nhưng nó có trước công đồng mà!” Đúng, nhưng nó có ích cho tôi! Đọc nó có ích cho chúng ta!Trái Tim Chúa Giêsu là một trái tim chọn lộ trình nhanh nhất và đã đi lộ trình này. Lòng thương xót đã làm bàn tay mình ra vấy bẩn. Nó đụng chạm, nó can dự, nó cấu kết với những người khác, nó trở thành bản vị. Nó không tiếp cận “các trường hợp”, nhưng tiếp cận những con người và nỗi đau của họ. Ta hãy khảo sát việc dùng từ ngữ của ta. Biết bao lần, dù không hay, ta từng nói rằng: “tôi có vụ này…” Ngưng ngay lập tức! Thay vào đó, hãy nói: “tôi có người này…”. Nghe quá giáo sĩ khi nói “tôi có vụ này…”, “tôi gặp vụ này…”. Chuyện này thường xẩy ra với tôi. Chủ nghĩa giáo sĩ là ở đây: giản lược tính cụ thể của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu Thiên Chúa ban cho tôi và tình yêu đối với những con người, thành một “vụ”. Theo cách này, tôi tự tách mình ra, không liên lụy chi hết. Theo cách này, bàn tay tôi không vấy bẩn; tôi có thể tiến hành những việc mục vụ sạch sẽ, cao sang, và trong đó, tôi không gặp nguy cơ nào cả. Và trong đó, tôi khỏi bị tai tiếng – tôi không thể phạm tội cách xầu hổ. Lòng thương xót vượt quá công lý; nó mang lại kiến thức và lòng cảm thương; nó dẫn đến việc tham gia. Qua phẩm giá nó mang lại, lòng thương xót đã nâng người khác lên, người được người ta cúi xuống giúp đỡ. Người biểu lộ lòng thương xót và người được lòng thương xót biểu lộ trở thành bình đẳng. Giống như người đàn bà tội lỗi trong Tin Mừng (Lc 7:36-50), người được tha thứ nhiều, vì đã yêu nhiều và trước đó đã phạm tội nhiều.
Đó là lý do tại sao ta cần có Người Cha để cử hành, để mọi sự được phục hồi ngay một lúc, và để người con trai của ông có thể lấy lại phẩm giá đã mất của mình. Việc hiểu ra này làm ta có thể nhìn về tương lai theo một cách khác. Không phải lòng thương xót bỏ qua sự thiệt hại khách quan do điều ác mang lại. Đúng hơn, nó lấy đi sức mạnh của tà ác đối với tương lai. Nó lấy đi sức mạnh của tà ác đối với đời sống, một đời sống sau đó vẫn tiếp tục diễn tiến. Lòng thương xót là biểu thức chính hiệu của cuộc sống sẵn sàng chống lại sự chết, vốn là kết quả cay đắng của tội lỗi. Với tính cách ấy, nó hoàn toàn sáng suốt và không hề ngây thơ. Nó không hề bị mù đối với điều ác; đúng hơn, nó thấy cuộc sống vắn vỏi xiết bao và mọi điều tốt vẫn còn cần được thực hiện như thế nào. Đó là lý do tại sao điều rất quan trọng là tha thứ hoàn toàn, để nhiều người khác có thể nhìn về tương lai mà không lãng phí thời gian vào việc tự kết tội mình và tự thương hại vì các lỗi lầm quá khứ của mình. Khi bắt đầu biết quan tâm tới những người khác, chúng ta sẽ xét lương tâm của chúng ta, và theo mức độ giúp đỡ người khác, chúng ta sẽ đền bù các sai sót chính chúng ta đã làm. Lòng thương xót luôn nhuốm màu hy vọng. Lòng thương xót là mẹ của hy vọng.
Để chúng ta được trái tim đang đập của Chúa Cha lôi cuốn và sai đi là tiếp tục ở lại trong sự căng thẳng lành mạnh giữa ngượng ngùng và phẩm gía này. Để chúng ta được lôi cuốn vào trái tim của Người, như máu đã vị vấy bẩn trên đường trao ban sự sống cho tứ chi, ngõ hầu Chúa có thể làm sạch chúng và rửa chân chúng ta. Để chúng ta được sai đi, đầy đủ lượng oxy của Chúa Thánh Thần, ngõ hầu làm sống lại toàn bộ cơ thể, đặc biệt là những chi thể ở xa nhất, yếu đuối và bị tổn thương.
Một linh mục, và điều này xẩy ra thực sự, đã nói với tôi về một người ở đường phố, kết cục phải sống trong một nhà tế bần. Ông đã bị tiêu hao bởi sự cay đắng và không tương tác với những người khác. Ông là một người có học vấn, như sau này họ phát hiện ra. Đôi khi sau đó, người đàn ông này đã phải nhập viện vì một căn bệnh đã đến hồi cuối cùng. Ông nói với vị linh mục rằng trong khi ông ở đó, cảm thấy trống rỗng và vỡ mộng, người đàn ông ở giường bên cạnh yêu cầu ông di chuyển chiếc bình cạnh giường của mình và đổ nó đi. Lời yêu cầu từ một người thực sự có nhu cầu này, một người đã trở nên tồi tệ hơn ông, đã mở mắt và trái tim ông đón nhận một cảm giác mạnh mẽ về tình người, một mong muốn được giúp đỡ một người khác và để chính mình được Thiên Chúa giúp đỡ. Một hành vi thương xót đơn giản đã đưa ông tới chỗ tiếp giáp với lòng thương xót vô hạn. Nó đã dẫn ông đến việc giúp đỡ người khác, và khi làm như vậy, chính ông đã được giúp đỡ. Ông qua đời sau khi xưng tội, và qua đời trong bình an. Đây là mầu nhiệm của lòng thương xót.
Vì vậy, tôi để anh em ở lại với bài dụ ngôn về Người Cha thương xót, bây giờ là lúc chúng ta, chúng ta đã bước vào tình thế trong đó người con trai cảm thấy bẩn thỉu dù đã được mặc quần áo, một tội nhân có phẩm giá, xấu hổ vì mình, nhưng tự hào về cha mình. Dấu chỉ ta vừa bước vào là chính chúng ta muốn trở nên thương xót đối với mọi người. Đây là ngọn lửa Chúa Giêsu đã xuống thế để đem đến cho trần gian, một ngọn lửa thắp cháy mọi ngọn lửa khác. Nếu tia lửa không bắt, thì chính bởi vì một trong những tim đèn không bắt liên lạc. Hoặc vì quá xấu hổ, mà không chịu bóc trần dây điện và, thay vì tự do thú nhận: “Tôi đã làm điều này hay điều nọ”, vẫn cứ trùm bọc; hoặc vì quá trọng phẩm giá, nên chạm vào thứ gì cũng cần găng tay.
Dư tràn lòng thương xót
Một vài lời về sự dư tràn lòng thương xót để kết luận. Cách duy nhất để chúng ta “dư tràn” trong việc đáp ứng lòng thương xót quá mức của Thiên Chúa là hoàn toàn mở lòng ra để tiếp nhận nó và chia sẻ nó với những người khác. Tin Mừng cho chúng ta nhiều ví dụ cảm động về những người đã đi đến dư tràn ngõ hầu nhận được lòng thương xót của Người. Người bại liệt chẳng hạn đã được bạn bè đưa anh từ mái nhà xuống chỗ Chúa đang rao giảng – họ có cường điệu đôi chút. Hoặc người phung cùi bỏ chín đồng bạn của mình để trở lại tôn vinh và lớn tiếng tạ ơn Thiên Chúa, bằng cách qùy mọp dưới chân Chúa. Hoặc người mù lòa Bartimêô mà tiếng kêu van kịch liệt đã làm Chúa Giêsu dừng lại trước mặt anh – và thậm chí còn qua mặt cả các “trạm kiểm soát quan thuế của các tư tế” để đến với Chúa. Hoặc người phụ nữ bị xuất huyết, rụt rè đến gần Chúa và chạm vào áo choàng của Người; như Tin Mừng cho chúng ta biết, Chúa Giêsu cảm thấy một sức mạnh-một thứ dynamis (nhân điện?)- “xuất ra” khỏi Người … Tất cả đều là những ví dụ về sự tiếp xúc có thể đốt sáng các ngọn lửa và giải phóng sức mạnh tích cực của lòng thương xót. Rồi chúng ta cũng có thể nghĩ đến người đàn bà tội lỗi, từng rửa chân Chúa bằng nước mắt và lau khô chúng bằng mái tóc của nàng; Chúa Giêsu nhìn thấy việc biểu lộ tình yêu dư tràn của nàng như một dấu chỉ cho thấy nàng đã nhận được một lòng thương xót lớn lao. Lòng thương xót luôn dư tràn! Những người bình thường – những người tội lỗi, những người ốm yếu và những người bị quỷ ám- đều được Chúa nâng dậy ngay lập tức. Người làm họ từ loại trừ bước qua bao gồm trọn vẹn, từ ghẻ lạnh bước qua ôm ấp. Đó là cách nói lên rằng: lòng thương xót làm chúng ta bước “từ ghẻ lạnh qua cử hành mừng vui”. Và nó chỉ có thể hiểu được bằng chìa khóa hy vọng, bằng chìa khoá tông đồ, bằng chìa khóa nhận biết lòng thương xót và sau đó biểu lộ lòng thương xót.
Chúng ta hãy kết luận bằng cách đọc Kinh Ngượi Khen của Lòng Thương Xót, tức Thánh Vịnh 51 của Vua Đavít, một Thánh Vịnh ta đọc mỗi Thứ Sáu vào giờ Kinh Ban Sáng. Đây là Kinh Ngợi Khen của “một trái tim khiêm nhường và thống hối” có khả năng thú nhận tội lỗi của mình trước Thiên Chúa, Đấng, trong lòng trung tín của Người, vốn lớn hơn bất cứ tội lỗi nào của chúng ta. Nếu chúng ta đặt mình vào vị trí của người con trai hoang đàng, vào lúc, thay vì bị Cha quở trách, anh phát hiện Cha anh đang tổ chức một tiệc vui, chúng ta có thể tưởng tượng chắc hẳn anh ta sẽ đọc Thánh Vịnh 51. Chúng ta có thể đọc Thánh Vịnh này kiểu đáp ca với anh. Ta có thể nghe thấy anh đọc: “Xin thương xót con, ôi lạy Thiên Chúa, trong lòng nhân từ của Ngài; trong lòng cảm thương của Ngài, xin xóa hết hành vi tội lỗi của con “… Và chúng ta tiếp theo: “Các hành vi tội lỗi của con, con thật sự biết rõ chúng; tội lỗi của con luôn ở trước mặt con “. Và cùng thân thưa: “Lạy Cha, con đã phạm tội chống lại Cha, chống lại Cha, chỉ một mình Cha”.
Ước chi lời cầu nguyện của chúng ta được nâng lên từ sự căng thẳng nội tâm vốn gợi lên lòng thương xót, sự căng thẳng giữa sự xấu hổ biết thân thưa: “Xin Ngài ngoảnh mặt khỏi tội lỗi của con, và xóa hết mọi tội lỗi của con”, và sự tự tin biết nói: “Ôi, xin thanh tẩy con, thì con sẽ được sạch sẽ; Ôi, xin rửa con, thì con sẽ được trắng hơn tuyết”. Một sự tự tin biết trở thành tông đồ: “Một lần nữa, hãy ban cho con niềm vui được Ngài giúp đỡ; hãy nâng đỡ con bằng tinh thần nhiệt thành, để con dạy cho kẻ phạm tội biết đường lối của Ngài, và những kẻ tội lỗi biết trở về với Ngài”.
Bài suy niệm thứ hai: Bình chứa lòng thương xót
ĐTC Phanxicô
Sau khi suy niệm về “phẩm giá ngượng ngùng” và “sự ngượng ngùng có phẩm giá” vốn là hoa trái của thương xót, ta hãy tiếp tục bằng cách nói đến “bình chứa lòng thương xót”. Đây không phải là một điều phức tạp. Để tôi nói một cách đơn giản rằng bình chứa lòng thương xót là tội lỗi của chúng ta. Tội lỗi của chúng ta thường giống như một cái sàng, hoặc một cái thùng bị rò rỉ, từ đó ơn thánh mau chóng bị cạn khô. “Vì dân Ta đã phạm hai điều gian ác: họ đã lìa bỏ Ta, vốn là nguồn nước hằng sống, và đã đào bể chứa cho mình, bể nứt không thể giữ được nước” (Grm 2,13). Đó là lý do tại sao Chúa đã dạy Thánh Phêrô sự cần thiết phải “tha thứ bảy mươi lần bảy”. Thiên Chúa tiếp tục tha thứ, mặc dù Người thấy ân sủng của Người khó bén rễ trong mảnh đất khô cằn và sỏi đá của tâm hồn chúng ta. Nói tóm lại, Thiên Chúa không phải là Pêlagiô: đây là lý do tại sao Người không mệt mỏi tha thứ. Người vẫn không bao giờ ngưng việc gieo trồng lòng thương xót và sự tha thứ của Người.
Những trái tim được tái tạo
Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn lòng thương xót này của Thiên Chúa, một lòng thương xót luôn “lớn” hơn ý thức của chúng ta về tội lỗi của mình. Chúa không bao giờ mỏi mệt tha thứ cho chúng ta; thực vậy, Người canh tân các chiếc bình da trong đó chúng ta tiếp nhận sự tha thứ đó. Người sử dụng bình da mới cho rượu nho mới của lòng thương xót của Người, không phải thứ bình vá víu hay cũ mèm. Bình da đó chính là lòng thương xót: lòng thương xót của riêng Người, mà chúng ta cảm nghiệm rồi sau đó biểu lộ ra ngoài qua việc giúp đỡ những người khác. Một trái tim đã biết thương xót thì không cũ mèm và vá víu, nhưng mới và được tái tạo. Đó là trái tim mà Đavít đã cầu xin cho có được: “Ôi lạy Chúa, xin Chúa tạo cho con một trái tim tinh khiết, hãy đặt trong con một tinh thần kiên định” (Tv 51:12).
Trái tim đó, được tái tạo, là một chiếc bình tốt; nó không còn méo mó và rò rỉ nữa. Phụng vụ vang dội niềm xác tín chân thành của Giáo Hội trong lời cầu nguyện đẹp đẽ tiếp sau bài đọc thứ nhất của Đêm Vọng Phục Sinh: “Lạy Thiên Chúa, Đấng tạo dựng vũ trụ cách kỳ diệu, sau đó còn tái tạo nó cách kỳ diệu hơn nữa trong ơn cứu chuộc”. Trong lời cầu nguyện này, chúng ta khẳng định rằng việc sáng tạo thứ hai thậm chí còn kỳ diệu hơn việc sáng tạo thứ nhất. Trái tim chúng ta là một trái tim biết ý thức mình được tái tạo nhờ việc liên kết giữa sự nghèo nàn của nó và sự tha thứ của Thiên Chúa; nó là một “trái tim được ban phát lòng xót thương và biểu lộ lòng thương xót ấy ra”. Nó cảm nhận dầu ân sủng đổ xuống trên các vết thương và tội lỗi của nó; nó cảm thấy lòng thương xót xoa dịu mặc cảm tội lỗi của nó, tưới gội sự khô cằn của nó bằng tình yêu và thắp sáng hy vọng. Khi, với cùng một ân sủng này, nó biết tha thứ cho các người có tội khác và đối xử với họ một cách cảm thương, thì lòng thương xót này sẽ bén rễ trong đất tốt, nơi nước không thoát đi nhưng chẩy vào và đem lại sự sống.
Những người thực hành tốt nhất của lòng thương xót biết sửa sai các lầm lẫn này chính là những người biết rằng bản thân họ đã được tha thứ cùng một sai lầm như thế. Hãy nhìn chính bạn; hãy nhớ tới chính tiểu sử của bạn; và bạn sẽ tìm được ở đấy thật nhiều thương xót. Chúng ta thấy điều này nơi các huấn đạo viên về nghiện ngập: những người đã vượt qua được cơn nghiện của họ thường là những người có khả năng hiểu, giúp đỡ và đòi hỏi người khác hơn hết. Cũng vậy, các cha giải tội tốt nhất thường cũng là các hối nhân tốt nhất. Ta có thể nghĩ tới việc chính chúng ta, chúng ta là loại hối nhân nào. Hầu như tất cả các vị thánh lớn đều là những người có tội lớn hay như Thánh Therese nói, các ngài biết rằng chỉ nhờ ân sủng nên các ngài mới không phạm tội.
Như thế, bình chứa lòng thương xót thực sự chính là lòng thương xót mà mỗi người chúng ta đã nhận được và đã tạo nên trong chúng ta một trái tim mới. Đây là “bình đựng rượu mới” mà Chúa Giêsu đã nhắc đến (x Lk5: 37), “vết thương đã được chữa lành”.
Ở đây, chúng ta đi sâu hơn vào mầu nhiệm của Chúa Con, tức Chúa Giêsu, Đấng vốn là lòng thương xót nhập thể của Chúa Cha. Ở đây chúng ta cũng có thể tìm được hình tượng dứt khoát của bình chứa thương xót trong các vết thương của Chúa Phục Sinh. Những vết thương này nhắc nhở chúng ta rằng các dấu vết tội lỗi của chúng ta, tuy Thiên Chúa tha thứ, nhưng không bao giờ hoàn toàn chữa lành hoặc biến mất; chúng vẫn còn đó như những vết sẹo. Thánh Bernard có hai bài giảng rất tinh tế về các vết thương của Chúa. Ở đó, trong các vết thương đó, ta thấy lòng thương xót. Thánh Bernard hỏi một cách sâu sắc: “Bạn cảm thấy lạc đường phải không? Bạn bối rối phải không? Bạn hãy bước vào các vết thương của Chúa và ở đấy, bạn sẽ tìm thấy lòng thương xót”.
Các vết sẹo, như chúng ta biết, rất nhậy cảm; chúng không làm ta đau, nhưng chúng nhắc chúng ta nhớ các vết thương cũ của mình. Lòng thương xót của Thiên Chúa ở trong các vết sẹo này, các vết sẹo của chúng ta. Chúa vẫn mang các vết thương của Người; Người muốn mang các vết sẹo này, và cả các vết thương của ta nữa. Khi ta đi gặp bác sĩ và bác sĩ thấy vết sẹo, ông sẽ hỏi ta làm sao có vết sẹo này, lý do tại sao ta có cuộc giải phẫu này hay cuộc giải phẫu nọ. Ta hãy nhìn các vết sẹo trong linh hồn ta và thưa với Chúa: “Chúa thực hiện cuộc giải phẫu này với lòng thương xót của Chúa, đây là vết thương Chúa đã chữa lành…”.
Trong những vết sẹo của Chúa Kitô phục sinh, những dấu tích của những vết thương ở tay và chân của Người và cả trong trái tim bị đâm thâu của Người, chúng ta tìm thấy ý nghĩa thực sự của tội lỗi và ân sủng. Khi chiêm ngắm trái tim bị thương của Chúa, chúng ta thấy mình phản ảnh trong Người. Trái tim Người, và trái tim chúng ta, tương tự nhau: cả hai đều bị thương và đã trỗi dậy. Nhưng chúng ta biết rằng trái tim Người là tình yêu tinh khiết và bị thương vì nó muốn bị như thế; trái tim của chúng ta, mặt khác, là vết thương không hơn không kém, được chữa lành vì nó để mình được yêu thương.
Các thánh của chúng ta tiếp nhận lòng thương xót
Chúng ta có thể có lợi nhờ việc chiêm ngắm những người khác biết để trái tim họ được tái tạo bởi lòng thương xót và nhờ nhìn thấy “bình chứa” trong đó họ nhận được lòng thương xót ấy. Thánh Phaolô nhận được lòng thương xót trong chiếc bình phán đoán khắc nghiệt và cứng ngắc của ngài, vốn do Lề Luật tạo khuôn. Lối phán đoán khắc nghiệt của ngài khiến ngài trở thành kẻ bách hại. Lòng thương xót đã thay đổi ngài đến nỗi ngài đã lên đường tìm kiếm những người ở xa xôi nhất, thuộc thế giới ngoại giáo, và, đồng thời, biểu lộ một sự hiểu biết và một lòng thương xót lớn lao đối với những người giống như ngài trước đây. Thánh Phaolô đã sẵn sàng trở thành một kẻ bị ruồng bỏ, miễn là ngài có thể cứu được dân của ngài. Cách tiếp cận của ngài có thể được tóm tắt như sau: ngài không phán đoán cả chính mình, nhưng thay vào đó, đã để mình được biện minh bởi một Vị Thiên Chúa lớn hơn lương tâm của mình, kêu gọi Chúa Giêsu như Đấng biện hộ trung thành mà không điều gì và không một ai có thể tách ngài ra khỏi tình yêu của Đấng này. Cái hiểu của Thánh Phaolô về lòng thương xót vô điều kiện của Thiên Chúa có tính triệt để. Việc ngài nhận ra rằng lòng thương xót của Thiên Chúa thắng vượt vết thương bên trong từng bắt ta lệ thuộc hai lề luật, lề luật của xác thịt và lề luật của Thánh Linh, là kết quả của một tâm trí biết cởi mở đối với chân lý tuyệt đối, một tâm trí từng bị thương tại chính nơi cả Lề Luật lẫn Ánh Sáng trở thành một cái bẫy. “Cái gai” nổi tiếng mà Chúa không lấy đi khỏi ngài là chiếc bình chứa mà Thánh Phaolô dùng tiếp nhận lòng thương xót của Chúa (x 2 Cor 12: 7).
Thánh Phêrô nhận được lòng thương xót trong việc cầm bằng rằng mình là một con người có lương tri. Ngài có lý với một sự khôn ngoan lành mạnh, thực tiễn của một ngư phủ, nhờ kinh nghiệm, biết rõ khi nào nên và khi nào không nên đánh cá. Nhưng ngài còn có lý khi, vì quá phấn khích được đi trên mặt nước và kéo được mẻ cá thần kỳ, nên đã quá say sưa với chính mình, nhưng vẫn còn nhận ra rằng mình cần xin sự giúp đỡ của Đấng duy nhất có thể cứu mình. Thánh Phêrô đã được chữa lành khỏi vết thương nặng hơn hết, đó là vết thương phủ nhận người bạn của mình. Có lẽ lời trách móc của Thánh Phaolô, người đã đối chất với ngài về sự tráo trở, có liên quan tới điều vừa nói; có thể Thánh Phaolô cảm thấy mình tồi tệ hơn “trước khi” biết Chúa Kitô, còn Thánh Phêrô thì lại chối Chúa Kitô, sau khi đã biết Người … Tuy nhiên, một khi Thánh Phêrô đã được chữa khỏi các vết thương đó, Ngài trở thành một mục tử có lòng thương xót, một tảng đá vững chắc trên đó người ta có thể luôn luôn xây dựng, vì nó là một tảng đá yếu nhưng đã được chữa lành, chứ không phải là một tảng đá để vấp ngã. Trong Tin Mừng, Thánh Phêrô là môn đệ thường được Chúa sửa sai hơn cả. Ngài vốn bị “sàng” nhiều hơn những người khác! Chúa Giêsu không ngừng sửa sai ngài, thậm chí cho đến tận cùng: “việc gì đến anh? Hãy theo Thầy! “(Ga 21:22). Truyền thống cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu còn hiện ra lần nữa với Thánh Phêrô khi ngài chạy trốn khỏi Rôma. Hình ảnh Thánh Phêrô bị đóng đinh ngược đầu xuống có lẽ diễn tả hay hơn hết chiếc bình chứa này của một con người cứng đầu, một người, để được thương xót, đã hạ mình xuống cả trong lúc làm chứng tối hậu cho tình yêu của mình đối với Chúa. Thánh Phêrô không muốn kết thúc cuộc sống của mình bằng cách nói rằng: “Tôi đã học được bài học”, nhưng đúng hơn, “Vì đầu tôi sẽ không bao giờ làm cho nó đúng, tôi sẽ đặt nó xuống phía cuối”. Phần ngài đặt lên đầu là đôi chân, đôi chân đã được Chúa rửa sạch. Đối với Thánh Phêrô, đôi chân này chính là bình chứa để ngài nhận lòng thương xót của Người Bạn và là Chúa của ngài.
Thánh Gioan đã được chữa lành trong niềm kiêu hãnh của ngài muốn dùng lửa báo ác. Vốn là “con của sấm sét” (Mc 3:17), nhưng kết cục, ngài lại viết cho các “con nhỏ” của ngài và có vẻ như một người ông nhân từ chỉ biết nói về tình yêu.
Thánh Augustinô đã được chữa lành trong niềm hối tiếc làm người tới trễ của ngài. Việc này làm ngài bối rối và trong ước nguyện muốn bù đắp thời gian bị mất, ngài đã được chữa lành: “Con đã yêu Ngài quá trễ”. Ngài sẽ tìm một cách sáng tạo và đầy yêu thương để bù đắp cho thời gian đã mất bằng cách viết cuốn Tự Thú của ngài.
Thánh Phanxicô trải nghiệm lòng thương xót ở nhiều thời điểm trong cuộc sống của ngài. Có lẽ chiếc bình dứt khoát, chiếc bình đã trở thành các vết thương thực sự, không hẳn là việc hôn người phong cùi, kết hôn với Thục Nữ Nghèo hoặc cảm thấy mình là anh em của mọi tạo vật, cho bằng là trải nghiệm phải trông chừng trong im lặng thương xót Hội Dòng mà ngài sáng lập. Chính đây là chỗ tôi thấy sự anh hùng vĩ đại của Thánh Phanxicô: trong việc ngài phải trông chừng trong im lặng thương xót Hội Dòng ngài đã sáng lập. Đó chính là chiếc bình lớn chứa lòng thương xót của ngài. Thánh Phanxicô thấy anh em mình chia rẽ dưới chính ngọn cờ nghèo của mình. Ma quỷ làm chúng ta cãi cọ nhau, bảo vệ những điều thiêng liêng nhất “bằng một tinh thần ác”.
Thánh Inhaxiô đã được chữa lành trong tính hư danh của ngài, và nếu đó là chiếc bình chứa, chúng ta có thể thoáng nhìn thấy lòng khao khát hư vinh của ngài lớn đến cỡ nào, một lòng hư vinh sau này được tái tạo trong nỗ lực hết sức tích cực của ngài để tìm vinh quang lớn hơn cho Thiên Chúa.
Trong cuốn Nhật Ký của Một Linh Mục Miền Quê, Bernanos kể lại cuộc đời của một linh mục bình thường, được cuộc đời của Cha Sở họ Ars linh hứng. Có hai đoạn văn rất đẹp mô tả các suy tư của vị linh mục này trong những giây phút cuối cùng của căn bệnh bất ngờ: “Xin Chúa ban cho con ân sủng trong những tuần cuối cùng này để con tiếp tục chăm sóc giáo xứ … Nhưng con sẽ dành ít suy nghĩ hơn cho tương lai, con nên làm việc trong hiện tại. Con cảm thấy công việc đó hợp với khả năng của con. Vì con chỉ thành công trong những việc nhỏ mọn, và khi con bị xao xuyến thử thách, con buộc phải nói rằng chính những điều nhỏ đã làm con nhẹ nhõm”. Ở đây chúng ta thấy một chiếc bình nhỏ chứa lòng thương xót, một chiếc bình buộc phải liên hệ tới những niềm vui nho nhỏ của cuộc sống mục vụ, nơi chúng ta tiếp nhận và phân bổ lòng thương xót vô biên của Chúa Cha trong những cử chỉ nhỏ mọn. Những cử chỉ nhỏ mọn của linh mục.
Các đoạn khác viết: “Bây giờ, mọi sự đã qua đi. Sự thiếu tin tưởng lạ kỳ đối với chính bản thân tôi, đối với hữu thể tôi, đã cao chạy xa bay, mà tôi tin là mãi mãi. Cuộc xung đột đó đã qua đi. Tôi không thể hiểu được nó nữa. Tôi đã hòa giải với bản thân mình, với cái vỏ bọc đáng thương của tôi. Ghét chính mình là điều dễ dàng xiết bao. Quên được là một ơn thánh thực sự. Ấy thế nhưng, nếu kiêu căng có thể chết trong chúng ta, thì ơn thánh tối cao sẽ là yêu mình một cách đơn sơ – như người ta yêu bất kỳ người nào trong số những người chịu đau khổ và yêu mến trong Chúa Kitô “. Bình chứa là đây: “yêu bản thân mình một cách đơn sơ, người ta yêu bất kỳ người nào trong số những người chịu đau khổ và yêu mến trong Chúa Kitô”. Đó là chiếc bình chứa bình thường, giống chiếc bình cũ mà thậm chí, chúng ta có thể mượn của người nghèo.
Chân Phúc José Gabriel del Rosario Brochero, vị linh mục người Á Căn Đình, người đồng hương của tôi! người sắp được phong thánh, “đã để trái tim ngài được lên khuôn bởi lòng thương xót của Thiên Chúa”. Cuối cùng, chiếc bình chứa của ngài là cơ thể phung cùi của ngài. Ngài muốn được chết trên lưng ngựa, băng qua một dòng suối ở miền núi trên đường đến xức dầu cho một người bệnh. Trong số những điều cuối cùng ngài nói, có điều này: “Không có vinh quang tối hậu ở đời này”. Đối với tôi, những lời này rất đỗi gây ngạc nhiên: “không có vinh quang tối hậu ở đời này”. Gần cuối đời, khi bệnh phung cùi làm ngài bị mù, ngài nói: “Tôi khá hài lòng với những gì Thiên Chúa đã làm cho tôi liên quan tới thị giác của tôi, và tôi cảm ơn Người vì điều đó. Trong khi tôi còn phục vụ được người khác, Người gìn giữ các giác quan tôi được toàn vẹn và mạnh mẽ. Hôm nay, khi tôi không còn làm được như vậy nữa, Người đã lấy đi khỏi tôi, một trong những giác quan thể lý. Ở đời này, không hề có vinh quang tối hậu, và chúng ta có quá dư khốn cùng”. Thường thì công việc của chúng ta vẫn luôn dở dang, nên bình thản với việc này luôn là một ân sủng. Chúng ta được phép “để sự việc vượt khỏi tầm tay”, ngõ hầu Chúa có thể chúc phúc và hoàn thiện chúng. Chúng ta không nên quá lo lắng. Nhờ cách này, chúng ta có thể cởi mở đón nhận các nỗi đau và niềm vui của anh chị em chúng ta. Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận từng nói rằng, ở trong tù, Chúa đã dạy ngài phân biệt giữa “việc làm của Thiên Chúa”, một việc ngài tận lực làm lúc còn sống tự do làm linh mục và giám mục, và chính Thiên Chúa, Đấng mà ngài đã tận lực phụng sự lúc bị giam cầm (Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá, nhà xuất bản Pauline Books and Media, năm 2003).
Chúng ta dễ dàng nói tiếp thêm về việc các thánh là những chiếc bình chứa lòng thương xót ra sao, nhưng thôi, ta hãy hướng về Đức Mẹ. Dù gì, ta cũng đang ở trong nhà ngài!
Đức Maria như bình và nguồn của lòng thương xót
Lên cao hơn trên bậc thang các thánh trong cuộc tìm kiếm các bình chứa lòng thương xót của chúng ta, cuối cùng, chúng ta đến với Đức Mẹ. Đức Mẹ là bình chứa đơn giản nhưng hoàn hảo, vừa nhận vừa ban phát lòng thương xót. Lời “xin vâng” đầy tự do của ngài đối với ân sủng trái ngược hẳn với thứ tội đã dẫn đến sự xuống dốc của người con trai hoang đàng. Lòng thương xót của ngài rất là của riêng ngài, rất là của riêng chúng ta và rất là lòng thương xót của Giáo Hội. Như ngài đã nói trong kinh Magnificat, ngài biết rằng Thiên Chúa đã đoái nhìn sự khiêm cung của ngài và ngài nhận ra rằng lòng thương xót của Chúa kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mẹ Maria có thể nhìn thấy việc hành động của lòng thương xót này và ngài cảm thấy được nó “ôm ấp”, cùng với toàn thể dân Israel. Ngài trân trọng duy trì trong trái tim ngài ký ức và lời hứa thương xót vô hạn của Thiên Chúa dành cho dân Người. Kinh Magnificat của ngài là lời ngợi khen của một trái tim trong sáng và tràn đầy, nhìn tất cả lịch sử và mỗi con người cá nhân bằng một lòng thương xót của một người mẹ.
Trong chuyến viếng thăm Mễ Tây Cơ của tôi, trong những lúc có thể dành ra để ở một mình bên cạnh Đức Mẹ, khi tôi nhìn ngắm Đức Mẹ, Trinh Nữ Guadalupe, và khi tôi để ngài nhìn tôi, tôi đã cầu xin cho các anh em, các linh mục thân mến, trở thành các mục tử tốt lành của các linh hồn. Trong bài diễn văn của tôi với các giám mục, tôi có nói rằng tôi thường nghĩ tới mầu nhiệm trong ánh mắt của Đức Maria, vẻ dịu dàng và ngọt ngào của nó, từng mang lại cho chúng ta sự can đảm để mở lòng mình ra đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa. Giờ đây, tôi muốn cùng anh em suy niệm về một vài cách thức Đức Mẹ đặc biệt “nhìn ” các linh mục, vì qua chúng ta, ngài muốn nhìn vào dân của ngài.
Ánh mắt của Đức Maria làm chúng ta cảm nhận được vòng tay mẫu thân của ngài. Ngài cho chúng ta thấy rằng “sức mạnh duy nhất có thể chiếm được trái tim con người là sự dịu dàng của Thiên Chúa. Điều làm ta vui thích và thu hút ta, làm ta khiêm nhường và chiến thắng, cởi mở và giải thoát không phải là sức mạnh của các công cụ hoặc các sức mạnh của pháp luật, mà đúng ra, là sự yếu đuối vạn năng của tình yêu Thiên Chúa, vốn là sức mạnh không thể cưỡng lại được của sự dịu dàng và lời cam đoan bất phản hồi của lòng thương xót” (Diễn Văn với các giám mục Mễ Tây Cơ, ngày 13 tháng 2 năm 2016). Điều mà mọi người tìm kiếm trong đôi mắt của Đức Maria là “một nơi an nghỉ, trong đó những người, dù vẫn đang mồ côi và không được hưởng bất cứ di sản nào, có thể tìm được một nơi ẩn náu, một mái ấm.” Và điều đó có liên quan với cách ngài “nhìn” – đôi mắt ngài mở ra cả một không gian mời đón, không hề giống như một tòa án hoặc một văn phòng. Nếu đôi khi anh em nhận ra rằng cái nhìn riêng của anh em đã trở nên chai đá vì công việc khó khăn hay kiệt lực – đây là điều vẫn thường xẩy ra cho tất cả chúng ta- hoặc anh em có xu hướng nhìn người khác một cách khó chịu hoặc lạnh lùng, anh em hãy dừng lại và một lần nữa nhìn lên ngài với một sự khiêm tốn tận đáy lòng. Vì Đức Mẹ có thể lấy đi mọi thứ “đục nhãn mắt” vốn ngăn cản họ nhìn thấy Chúa Kitô trong tâm hồn con người. Ngài có thể lấy đi bệnh cận thị vốn không nhìn thấy các nhu cầu của người khác, vốn cũng là các nhu cầu của Chúa nhập thể, và cả bệnh viễn thị vốn không thể nhìn thấy các chi tiết, những “chữ in nhỏ”, nơi những điều thật sự quan trọng đang diễn ra trong đời sống Giáo Hội và đời sống gia đình. Cái nhìn của Đức Mẹ đem lại sự lành lặn.
Một khía cạnh khác trong cái nhìn của Đức Maria liên quan tới việc dệt. Đức Maria nhìn “bằng cách dệt”, bằng việc tìm cách rút ra điều tốt từ tất cả những điều người ta đặt dưới chân ngài. Tôi đã nói với các giám mục Mễ Tây Cơ rằng, “trong chiếc áo choàng của linh hồn Mễ Tây Cơ, với các sợi chỉ của đặc điểm mestizo, Thiên Chúa đã dệt nơi Đức Mẹ Nâu một khuôn mặt mà qua đó, Người muốn được biết đến”. Một bậc thầy tâm linh đã dạy chúng ta rằng “bất cứ điều gì được nói về Đức Maria đều đặc biệt được nói về Giáo Hội cách chung và về mỗi linh hồn cách riêng” (xem Isaac thành Stella, Serm 51: PL 194, 1863). Khi xem xét cách thức Thiên Chúa dệt nên khuôn mặt và khuôn dung của Đức Mẹ Guadalupe vào chiếc áo choàng của Juan Diego, chúng ta cũng có thể suy niệm cách Người dệt linh hồn chúng ta và sự sống của toàn thể Giáo Hội.
Người ta nói rằng không thể coi bức ảnh Đức Mẹ Guadalupe như đã được “vẽ”; dường như nó đã được “in” vậy đó. Tôi thích nghĩ rằng phép lạ không phải chỉ là ảnh này được in hay được vẽ, nhưng toàn bộ chiếc áo choàng đã được tái tạo, biến đổi từ trên xuống dưới. Mỗi sợi chỉ – những sợi chỉ của lá cây lôi hộ mà các phụ nữ đã học từ thời thơ ấu để dệt vào những hàng may mặc tốt nhất của họ – đã được hiển dung tại chỗ của nó, và, dệt xen với tất cả những chi tiết khác, làm nổi bật khuôn mặt của Đức Mẹ, sắc diện của ngài và môi trường xung quanh ngài. Lòng thương xót của Thiên Chúa cũng thực hiện được điều tương tự. Nó không “vẽ” cho chúng ta một khuôn mặt xinh đẹp, hoặc sơn xì thực tại của chúng ta. Đúng hơn, với các sợi chỉ của cảnh khốn cùng và tội lệ của chúng ta, dệt xen với tình yêu của Chúa Cha, nó dệt chúng ta đến nỗi linh hồn chúng ta được đổi mới và phục hồi được hình ảnh chân thực của nó, tức hình ảnh Chúa Giêsu. Vì vậy, anh em hãy là những linh mục “có khả năng bắt chước sự tự do này của Thiên Chúa, Đấng đã chọn người khiêm tốn để mặc khải vẻ uy nghi của nhan thánh Người, những linh mục có khả năng bắt chước sự kiên nhẫn của Thiên Chúa bằng cách dệt nên một nhân loại mới mà đất nước anh em đang mong đợi bằng các sợi chỉ mịn màng của tất cả những người anh em gặp gỡ. Đừng đầu hàng cơn cám dỗ muốn bỏ đi nơi khác – đây là một trong các cơn cám dỗ của chúng ta, là xin đức giám mục thuyên chuyển! như thể tình yêu của Thiên Chúa không mạnh mẽ đủ để mang lại sự thay đổi “(Diễn văn gửi các giám mục Mễ Tây Cơ, ngày 13 tháng 2 năm 2016).
Khía cạnh thứ ba là khía cạnh chăm sóc chu đáo. Ánh mắt của Đức Maria là ánh mắt quan tâm trọn vẹn. Ngài để tất cả mọi thứ khác lại đằng sau, và chỉ quan tâm tới những người ở phía trước ngài. Giống như một người mẹ, ngài hoàn toàn lắng nghe đứa con có điều muốn nói với ngài. Anh em có thấy các bà mẹ còn bắt chước cả giọng nói của con thơ để khuyến khích con nói không? Chính họ trở nên nhỏ bé. Tại Mễ Tây Cơ, tôi có nói rằng: “Như truyền thống Guadalupe tuyệt vời đã dạy chúng ta, Đức Mẹ Nâu trân quí cái nhìn của tất cả những ai ngắm nhìn ngài; ngài phản ánh khuôn mặt của tất cả những ai đến với ngài. Có một điều gì đó độc đáo trong khuôn mặt của mọi người đến với chúng ta để tìm kiếm Thiên Chúa. Không phải ai cũng nhìn chúng ta cùng một cách. Chúng ta cần phải nhận ra điều này, để mở rộng lòng mình và tỏ ra quan tâm tới họ. Chỉ có một Giáo Hội có khả năng quan tâm chu đáo đối với tất cả những ai gõ cửa nhà mình mới có thể nói chuyện với họ về Thiên Chúa. Trừ khi nào, nhìn vào sự đau khổ của người ta mà biết nhận ra nhu cầu của họ, chúng ta sẽ không có gì để cung cấp cho họ. Sự giầu có mà chúng ta đang sở hữu sẽ chỉ lưu chảy khi chúng ta thật sự gặp gỡ nhu cầu của người khác, và cuộc gặp gỡ này chỉ diễn ra trong chính trái tim mục tử của chúng ta”(ibid.). Tôi yêu cầu các giám mục của anh em phải lưu tâm đến anh em, các linh mục của họ, chứ không để anh em “chơ vơ với sự cô đơn và bỏ rơi, dễ làm mồi cho tính thế gian vốn nuốt chửng trái tim ta” (ibid.). Thế giới đang theo dõi chúng ta cách chặt chẽ, ngõ hầu “nuốt chửng” chúng ta, biến chúng ta thành người tiêu dùng … Tất cả chúng ta cần chú ý, một ánh mắt quan tâm chính đáng. Như tôi đã nói với các giám mục: “Hãy chú ý và học cách đọc nét mặt các linh mục của mình, để vui mừng với họ khi họ cảm nhận được niềm vui được thuật lại tất cả những gì họ đã “thực hiện và giảng dạy”(Mc 6:30). Cũng đừng bước khỏi khi họ bị ô nhục và chỉ còn biết khóc vì ‘đã từ chối Chúa’(Lc 22: 61-62). Hãy cung ứng sự hỗ trợ của các hiền huynh, trong tình hiệp thông với Chúa Kitô, bất cứ khi nào một trong số họ, nản lòng, đi ra ngoài với Judas để bước vào ‘đêm đen’ (xem Ga13: 30). Trong những tình huống này, sự chăm sóc phụ thân của các hiền huynh đối với các linh mục của các hiền huynh không bao giờ được thiếu cả. Hãy khuyến khích sự hiệp thông giữa họ với nhau; tìm cách rút được những điều tốt nhất ở nơi họ, và tranh thủ họ tham gia các dự án lớn lao, vì trái tim của một tông đồ đã không được tạo nên cho những điều nhỏ nhặt “(ibid.).
Cuối cùng, ánh mắt của Đức Maria là ánh mắt “toàn diện”, ôm lấy tất cả. Nó mang mọi sự lại với nhau: quá khứ, hiện tại và tương lai của chúng ta. Nó không phân mảnh hoặc từng phần: lòng thương xót có thể nhìn sự vật như một toàn thể và nắm bắt những gì cần thiết nhất. Tại Cana, Đức Maria “một cách tương cảm” nhìn thấy trước: việc thiếu rượu tại tiệc cưới sẽ có ý nghĩa như thế nào, nên ngài đã yêu cầu Chúa Giêsu giải quyết vấn đề, mà không ai để ý. Chúng ta có thể coi toàn bộ đời sống linh mục của chúng ta phần nào như đã được lòng thương xót của Đức Maria “thấy trước”; Ngài nhìn thấy trước những điều chúng ta thiếu và cung ứng chúng. Nếu có bất kỳ thứ “rượu ngon” hiện diện trong cuộc sống của chúng ta, thì đó không phải do công lao của chúng ta nhưng do lòng “thương xót dự ứng” của ngài. Trong kinh Magnificat, ngài tuyên xưng Chúa đã “đoái nhìn phận hèn tôi tớ” và “nhớ tới (giao ước) thương xót của Người”, một “lòng thương xót được biểu lộ từ đời này tới đời kia” đối với người nghèo và người bị áp bức. Đối với Đức Maria, lịch sử là lòng thương xót.
Chúng ta có thể kết luận bằng cách đọc kinh Lạy Nữ Vương (Salve Regina). Những lời của kinh này ngân vang với mầu nhiệm của kinh Magnificat. Đức Maria là Mẹ của lòng thương xót, là sự sống của chúng ta, là vị ngọt ngào của chúng ta và là niềm hy vọng của chúng ta. Bất cứ khi nào linh mục anh em có những khoảnh khắc đen tối hay đau buồn, bất cứ khi nào trái tim anh em bối rối, tôi khuyến khích anh em đừng chỉ “nhìn Mẹ anh em”, một việc dù sao anh em cũng sẽ làm, nhưng hãy đến với ngài, để ngài nhìn anh em, anh em hãy giữ im lặng và thậm chí thiếp ngủ trước mặt ngài. Sự đau buồn của anh em, và tất cả những lầm lỗi từng gây ra sự đau buồn ấy… tất cả những bẩn tưởi này đều sẽ trở thành chiếc bình chứa lòng thương xót. Hãy để Đức Mẹ nhìn anh em! Đôi mắt thương xót của ngài chắc chắn là chiếc bình vĩ đại nhất chứa lòng thương xót, vì cái nhìn của chúng giúp chúng ta uống thoả thuê trong sự nhân hậu và tốt lành ấy mà chúng ta hằng khao khát với một niềm hoài mong mà chỉ có cái nhìn yêu thương mới có thể thỏa mãn. Đôi mắt thương xót của ngài cũng giúp chúng ta nhìn thấy lòng thương xót của Thiên Chúa hoạt động trong lịch sử nhân loại và tìm thấy Chúa Giêsu trên khuôn mặt của anh chị em chúng ta. Trong Đức Maria, chúng ta thoáng nhìn thấy đất hứa – Vương Quốc thương xót do Chúa chúng ta thiết lập – đã hiện diện ở đời này, bên kia cuộc lưu đầy mà tội lỗi đã dẫn chúng ta vào.
Như thế, hãy để Đức Mẹ nắm lấy tay anh em, và anh em hãy bám lấy tà áo ngài. Tại văn phòng của tôi, tôi có một bức ảnh đáng yêu Đức Bà Synkatabasis mà Cha Rupnik tặng tôi. Bức ảnh cho thấy Đức Maria duỗi hai bàn tay ra như một cầu thang để Chúa Giêsu leo lên. Điều tôi thích nhất về bức ảnh này là Chúa Giêsu một tay cầm trọn bộ Lề Luật, còn tay kia thì bám lấy tà áo Mẹ. Trong truyền thống Nga, các đan sĩ già cho ta hay rằng giữa gió bão thiêng liêng, chúng ta cần đến trú ẩn dưới tà áo Đức Mẹ. Đáp ca Thánh Mẫu đầu tiên ở Phương Tây cũng đã nói cùng một điều: Sub Tuum Praesidium (chúng con trông cậy). Dưới tà áo Mẹ. Như thế, anh em đừng xấu hổ, đừng nói hoài nữa, cứ ở đó đi và để anh em được che chở, hãy để anh em được nhìn ngắm. Và hãy khóc. Khi chúng ta tìm được một linh mục có thể làm điều này, có thể chạy đến với Đức Mẹ với mọi tội lỗi của mình và khóc, thì, tôi xin nói đó chính là một linh mục tốt, vì ngài là một người con tốt. Ngài sẽ là một người cha tốt.
Nắm bàn tay ngài và dưới cái nhìn của ngài, chúng ta có thể hân hoan tuyên xưng sự cao cả của Chúa. Cùng với Đức Maria, chúng ta có thể thưa rằng: Lạy Chúa, linh hồn con ca ngợi Chúa, vì Chúa đã đoái nhìn phận thấp hèn và khiêm hạ của tôi tớ Chúa. Con diễm phúc xiết bao vì đã được tha thứ. Lạy Chúa, lòng thương xót của Chúa, mà Chúa đã biểu lộ với các thánh của Chúa và với tất cả dân trung thành của Chúa, Chúa cũng đã biểu lộ với con. Con đã xa lạc, chỉ tìm kiếm bản thân mình, vì cao ngạo trong lòng, nhưng nào thấy vinh quang. Vinh quang duy nhất là Mẹ của Chúa đã ôm lấy con, đã bao phủ con bằng tà áo của ngài, và kéo con vào tâm hồn ngài. Con muốn được yêu như một trong những người nhỏ bé nhất của Chúa. Con muốn dùng bánh của Chúa nuôi sống tất cả những người đang đói khát Chúa. Lạy Chúa, xin Chúa nhớ tới giao ước thương xót của Chúa với con cái Chúa, các linh mục của dân Chúa. Với Đức Maria, ước chi chúng ta trở thành dấu hiệu và bí tích của lòng thương xót Chúa.
BÀI SUY NIỆM THỨ BA: Mùi Thơm của Chúa Kitô và ánh sáng lòng thương xót của Người
ĐTC Phanxicô
Chúng ta hãy hy vọng rằng Chúa sẽ ban cho ta điều ta tìm trong lời cầu nguyện: noi gương kiên nhẫn của Chúa Giêsu, và với sự kiên nhẫn này, sẽ vượt qua mọi khó khăn.
Bài suy niệm thứ ba này của chúng ta có tựa đề là: Mùi thơm của Chúa Kitô và ánh sáng lòng thương xót của Người.
Trong buổi gặp gỡ thứ ba của chúng ta này, tôi đề nghị chúng ta suy niệm về các việc thương xót, bằng cách tiếp nhận bất cứ việc nào ta cảm thấy có liên hệ mật thiết nhất với đặc sủng của chúng ta, và bằng cách nhìn vào các việc này như một toàn thể. Chúng ta có thể chiêm ngắm chúng qua con mắt thương xót của Đức Mẹ, đấng giúp ta tìm ra “rượu đang thiếu” và khuyến khích chúng ta “làm bất cứ điều gì Chúa Giêsu nói với chúng ta” (Ga 2: 1-12), ngõ hầu lòng thương xót của Người có thể làm các phép lạ mà người của chúng ta cần.
Các việc thương xót được liên kết chặt chẽ với các “giác quan tâm linh”. Trong lời cầu nguyện của chúng ta, chúng ta xin ơn biết “cảm nhận và thưởng thức” Tin Mừng đến nỗi nó có thể làm chúng ta “nhạy cảm” hơn trong cuộc sống của chúng ta. Được Chúa Thánh Thần đánh động và được Chúa Giêsu dẫn dắt, chúng ta có thể, bằng con mắt của lòng thương xót, nhìn thấy từ xa những người gục ngã dọc bên đường. Chúng ta có thể nghe thấy tiếng kêu của Bartimêô và cùng với Chúa Giêsu, cảm thấy cái đụng tay nhút nhát nhưng cương quyết của người phụ nữ bị băng huyết, khi bà nắm lấy áo choàng của Người. Chúng ta có thể xin ơn cùng với Chúa Giêsu chịu đóng đinh biết nếm mật đắng của tất cả những người đang chia sẻ thập giá của Người, và ngửi thấy mùi hôi của khốn khổ – trong các bệnh viện dã chiến, trong xe lửa và trong các tàu thuyền chật ních người. Dầu của lòng thương xót không che đây được mùi hôi này. Đúng hơn, khi xức dầu này, nó nức lên niềm hy vọng mới.
Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, khi thảo luận về các việc thương xót, cho chúng ta biết rằng “khi mẹ ngài trách cứ ngài đã chăm sóc người nghèo và người bệnh tại nhà, Thánh Rose thành Lima nói với bà rằng: ‘Khi chúng ta phục vụ người nghèo và người bệnh, chúng ta là mùi thơm của Chúa Kitô’”(số 2449, Latinh). Mùi thơm của Chúa Kitô đó – tức việc chăm sóc người nghèo – vốn là, và luôn luôn đã là, dấu ấn của Giáo Hội. Thánh Phaolô đã làm cho nó trở thành trọng tâm của cuộc họp giữa ngài với các Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, vốn là “các cột trụ” của Giáo Hội. Ngài nói với chúng ta rằng các ngài “chỉ xin một điều, đó là chúng ta nhớ đến người nghèo” (Gl 2:10). Điều này nhắc nhớ một câu truyện tôi đã từng kể. Ngay sau khi tôi vừa được bầu làm giáo hoàng, trong lúc vẫn còn đang đọc tiếp các lá phiếu, một hiền huynh hồng y đến với tôi, ôm tôi và nói: “Đừng quên người nghèo!”. Đó chính là sứ điệp đầu tiên Chúa gửi cho tôi lúc ấy.
Sách Giáo Lý nói tiếp một cách đáng kể rằng “những người bị áp bức bởi nghèo khó là đối tượng của một tình yêu ưu tiên đối với Giáo Hội, một tình yêu mà từ những ngày đầu của Giáo Hội, và bất chấp các thiếu sót của nhiều chi thể của Giáo Hội, vẫn không ngừng làm việc để cứu trợ, bảo vệ và giải phóng họ”(số 2448). Không cần các ý thức hệ, chỉ cần sức mạnh của Tin Mừng mà thôi.
Trong Giáo Hội, chúng ta phạm, và đã luôn luôn phạm, nhiều tội lỗi và thiếu sót. Nhưng khi nói đến việc phục vụ người nghèo bằng các việc thương xót, trong tư cách một Giáo Hội, chúng ta đã luôn luôn đi theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Các thánh của chúng ta đã làm điều này theo những cách khá sáng tạo và hữu hiệu. Tình yêu đối với người nghèo đã là dấu hiệu, là ánh sáng thu hút mọi người để làm vinh danh Chúa Cha. Giáo dân ta đánh giá cao điều này nơi một linh mục biết quan tâm tới người nghèo và người bệnh, tới những người có tội được ngài tha thứ và tới những người được ngài kiên nhẫn dạy dỗ và sửa chữa … Giáo dân ta tha thứ cho các linh mục chúng ta nhiều sai phạm, ngoại trừ sai phạm quá dính bén với tiền bạc. Điều này, thì họ không tha thứ. Nhưng nó không liên quan nhiều tới chính tiền bạc cho bằng sự kiện này: tiền bạc làm chúng ta quên lãng kho tàng của lòng thương xót. Giáo dân ta có thể đánh hơi được tội lỗi nào thực sự nghiêm trọng đối với một linh mục, những tội nào giết chết thừa tác vụ của ngài vì chúng biến ngài thành một quan chức hoặc còn tệ hơn nữa, thành một kẻ làm thuê. Họ cũng có thể nhận ra những tội lỗi nào, tôi sẽ không nói là phụ thuộc (tôi không dám chắc liệu anh em có thể nói thế về phương diện thần học hay không!), nhưng là thứ tội cần được mang giống như một thánh giá, cho đến khi, cuối cùng, Chúa sẽ đốt chúng đi như đốt trấu. Nhưng sự thất bại, không có lòng thương xót, nơi một linh mục là một mâu thuẫn trắng trợn. Nó đánh ngay vào tâm điểm của ơn cứu rỗi, chống lại chính Chúa Kitô, Đấng “đã trở thành nghèo để nhờ cái nghèo của Người, chúng ta có thể trở nên giàu có” (xem 2Cr 8: 9). Vì lòng thương xót chữa lành “nhờ mất đi một điều gì tự nó”. Chúng ta cảm thấy nhói đau hối tiếc và chúng ta mất đi một phần cuộc sống của chúng ta, bởi vì, thay vì làm những gì chúng ta muốn làm, chúng ta đã vươn tay ra với một người nào khác.
Như thế, đây không phải là việc Thiên Chúa tỏ cho tôi thấy lòng thương xót đối với tội này hay tội nọ, như thể tôi là người tự túc, hoặc là việc chúng ta thực hiện một số hành vi thương xót đối với người này hoặc người nọ có nhu cầu. Ân sủng chúng ta tìm kiếm trong lời cầu nguyện này là để cho mình được Thiên Chúa tỏ lòng thương xót trong mọi khía cạnh của cuộc sống chúng ta và đến lượt ta, ta tỏ lòng thương xót với nhiều người khác trong mọi việc chúng ta làm. Là linh mục và giám mục, chúng ta làm các bí tích, rửa tội, giải tội, cử hành Thánh Lễ … Lòng thương xót là cách chúng ta biến toàn bộ cuộc sống của dân Chúa thành một bí tích. Có lòng thương xót không những là “một lối sống”, mà là “lối sống” duy nhất. Không có cách nào khác để làm một linh mục. Cha Brochero, sẽ được phong thánh nay mai, đã nói điều này: “linh mục nào ít có lòng thương xót đối với các tội nhân thì chỉ là linh mục một nửa. Những lễ phục tôi mặc không làm tôi thành một linh mục; nếu tôi không có lòng bác ái trong tâm hồn, tôi không là ngay cả một Kitô hữu”.
Nhìn thấy nhu cầu và cứu trợ ngay lập tức, và còn hơn thế nữa, dự đoán các nhu cầu đó: đấy chính là dấu chỉ cái nhìn của một người cha. Ánh mắt linh mục này – một ánh mắt chiếm vị trí của người cha giữa lòng Mẹ Giáo Hội – làm chúng ta nhìn người ta bằng con mắt của lòng thương xót. Nó cần được học ngay từ trong chủng viện, và nó phải làm giàu cho tất cả các kế hoạch và dự án mục vụ của chúng ta. Chúng ta mong muốn, và chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta, một cái nhìn có khả năng biện phân được các dấu chỉ thời đại, biết “những việc thương xót nào dân chúng của ta ngày hôm nay cần đến” ngõ hầu cảm nhận được và thưởng thức được vị Thiên Chúa của lịch sử, Đấng đang đồng hành với họ. Vì, như Văn Kiện Aparecida đã nói, qua câu trích dẫn Thánh Alberto Hurtado: “Trong các việc làm của chúng ta, người dân chúng ta biết rằng chúng ta hiểu được nỗi khổ của họ” (số 386). Trong các việc làm của chúng ta …
Bằng chứng mà chúng ta hiểu là các việc thương xót của ta được Chúa chúc lành và gặp được sự giúp đỡ và hợp tác của người dân chúng ta. Một số kế hoạch và dự án không diễn tiến tốt, mà không ai hiểu lý do tại sao bao giờ. Họ nặn óc, cố gắng moi ra một kế hoạch mục vụ, khi một ai đó chỉ biết nói: “Nó không tiến hành được đâu vì thiếu lòng thương xót”, không cần cố gắng thêm làm gì. Nếu nó không được chúc phúc, thì là vì nó thiếu lòng thương xót. Thiếu lòng thương xót vẫn thấy nơi một bệnh viện dã chiến, chứ không phải nơi một bệnh xá đắt tiền; thiếu lòng thương xót vốn trân quí lòng tốt và mở cửa cho cuộc cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, chứ không phải làm một ai đó phải quay gót trước những lời chỉ trích gay gắt …
Tôi đề nghị một lời cầu nguyện dựa trên việc người phụ nữ được tha thứ tội lỗi (Ga 8: 3-11), để xin ơn thương xót nơi tòa giải tội, và một lời cầu nguyện khác dựa trên chiều kích xã hội của các việc thương xót.
Tôi luôn luôn bỡ ngỡ bởi đoạn văn nói về cuộc gặp gỡ của Chúa với người phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại tình, và, khi từ chối lên án nàng, Người “đã vi phạm” Lề Luật ra sao. Để trả lời câu họ hỏi dùng để thử thách Người – “có nên ném đá cô ta hay không?” – Người đã không ra luật, Người đã không áp dụng lề luật. Người giả bộ câm, và rồi quay sang một điều khác. Nhờ thế, Người đã khởi diễn một quá trình trong trái tim người phụ nữ đang cần được nghe những lời này: “tôi cũng không kết tội chị”. Người vươn tay ra và giúp nàng đứng dậy, cho nàng nhìn thấy ánh mắt dịu dàng làm thay đổi trái tim nàng. Chúa đã cầm tay con gái ông Giairô và nói: “Hãy cho cháu ăn thứ gì đi”. Người cho người con trai bà góa Thành Naim sống lại và trao anh cho mẹ anh. Còn ở đây, Người nói với người đàn bà tội lỗi đứng lên. Người đặt ta đúng vào chỗ Thiên Chúa muốn chúng ta có mặt: đứng thẳng trên đôi chân, không bao giờ nằm dưới đất.
Đôi khi tôi cảm thấy một chút buồn và khó chịu khi người ta đi thẳng tới những lời cuối cùng của Chúa Giêsu nói với người phụ nữ này: “Hãy đi và đừng phạm tội nữa”. Họ sử dụng những chữ này để “bênh vực” Chúa Giêsu khỏi tội bỏ qua luật pháp. Tôi tin những lời của Chúa Kitô liền mảnh làm một với hành động của Người. Người cúi xuống viết trên mặt đất như một khúc dạo đầu cho những gì Người muốn nói với những người muốn ném đá người phụ nữ, và Người làm như vậy một lần nữa trước khi nói với nàng. Điều này cho chúng ta biết một điều gì đó về “thời gian” Chúa sẽ dùng để phán xử và tha thứ.
Thời gian Người cho mỗi người để họ nhìn vào trái tim của mình và rồi bước đi. Khi nói với người phụ nữ, Chúa đã mở ra nhiều không gian khác: một là không gian không kết án. Tin Mừng nêu rõ không gian rộng mở này. Nó làm chúng ta nhìn sự việc qua đôi mắt của Chúa Giêsu, Đấng nói với chúng ta: “Tôi không thấy ai khác, ngoài người phụ nữ này”.
Rồi, Chúa Giêsu làm cho người phụ nữ nhìn quanh. Người hỏi nàng: “những người lên án chị đâu cả rồi?” (chữ “lên án” tự nó rất quan trọng, vì nó nói tới điều ta thấy không thể chấp nhận được liên quan tới những người phán xét hay biếm họa chúng ta …). Sau khi đã mở ra trước mắt nàng cái không gian không có sự phán xét người khác này, Người nói với nàng rằng Người cũng sẽ không ném một hòn đá nào ở đó: “Tôi cũng không lên án chị”. Rồi Người mở ra một không gian tự do nữa trước mắt nàng: “Hãy đi và đừng phạm tội nữa”. Mệnh lệnh của Người có liên quan với tương lai, để giúp nàng thực hiện một khởi đầu mới và “bước đi trong tình yêu”. Sự nhạy cảm của lòng thương xót là đây: nó cảm thương ngoái nhìn dĩ vãng và đưa ra lời khích lệ tương lai.
Những lời “Hãy đi và đừng phạm tội nữa” không dễ dàng. Chúa nói chúng ra “với nàng”. Người giúp nàng đặt thành lời những gì chính bản thân nàng đã cảm nhận, một chữ “không” đầy tự do đối với tội lỗi giống chữ “vâng” của Đức Maria đối với ân sủng. Chữ “không” này cần được nói cho thứ tội lỗi bắt rễ sâu vốn hiện diện trong tất cả mọi người. Nơi người đàn bà này, nó là một tội xã hội; người ta đến gần nàng, hoặc để ngủ với nàng hoặc để ném đá nàng. Đó là lý do tại sao Chúa không những khai quang đường đi trước mặt nàng, Người còn đặt nàng lên con đường này, để nàng có thể chặn đứng việc trở thành “đối tượng” cho người khác nhìn và thay vào đó nhận lấy quyền kiểm soát cuộc sống của mình. Những lời “đừng phạm tội nữa” không những ám chỉ luân lý tính, nhưng, tôi tin, còn ám chỉ thứ tội vốn cản ngăn nàng sống cuộc sống của nàng. Chúa Giêsu cũng nói với người bại liệt ở Bethzatha đừng phạm tội nữa (Ga 5:14). Nhưng người đàn ông đó đã tự biện minh bằng tất cả những điều đáng buồn đã “xảy ra với anh”; anh ta bị chứng mặc cảm nạn nhân. Do đó, Chúa Giêsu đã thách thức anh ta cách khá nhẹ nhàng chưa từng có bằng cách nói: “… kẻo một điều gì đó tệ hơn có thể xảy đến với ngươi”. Chúa đã tận dụng lối suy nghĩ của anh ta, nỗi sợ của anh ta, để kéo anh ta ra khỏi cảnh tê liệt của mình. Tôi dám nói, Người đã đem tới cho anh ta một chút e sợ. Trọng điểm là mỗi người chúng ta phải nghe những lời “đừng phạm tội nữa” theo phương thức sâu sắc của chính bản thân mình.
Hình ảnh về Chúa, Đấng đặt người ta lên đường đi của họ, là hình ảnh hết sức đặc trưng. Người là Đấng Thiên Chúa bước đi bên cạnh dân của Người, Đấng dẫn họ về phía trước, Người đồng hành với lịch sử của chúng ta. Do đó, đối tượng của lòng thương xót của Người khá rõ ràng: nó là tất cả mọi điều giữ cho một người đàn ông hoặc một người đàn bà tiếp tục bước trên nẻo đường chính, cùng với dân của họ, theo tốc độ của riêng họ, tới nơi Thiên Chúa yêu cầu họ tới. Điều làm Người lo phiền là người ta đi lạc, hoặc rơi lại phía sau, hoặc cố gắng theo lối riêng của họ. Là kết cục sẽ không đi tới đâu. Là họ không ở đó chờ Chúa, sẵn sàng đi tới bất cứ nơi nào Người muốn sai họ tới. Là họ không đi một cách khiêm nhường trước mặt Người (xem Mk 6: 8), là họ không bước đi trong tình yêu (xem Ep 5: 2).
Không gian của tòa giải tội, nơi sự thật làm chúng ta tự do
Bây giờ, ta hãy tới tòa giải tội, nơi sự thật làm chúng ta tự do. Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo trình bày tòa giải tội như là nơi sự thật làm chúng ta được tự do để gặp gỡ. “Khi cử hành bí tích giải tội, linh mục hoàn thành thừa tác vụ của Đấng Chăn Chiên Lành trên đường tìm con chiên lạc, của người Samaria Nhân Hậu đang băng bó các vết thương, của Người Cha đang chờ đợi đứa con trai hoang đàng và chào đón anh trên đường trở về, và của Thẩm Phán công minh và vô tư phán xử vừa công chính vừa thương xót. Linh mục là dấu chỉ và khí cụ của tình yêu thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân “(số 1465). Sách Giáo Lý cũng nhắc nhở chúng ta rằng “cha giải tội không phải làm chủ sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng làm tôi tớ của nó. Thừa tác viên của bí tích này nên kết hợp với ý định và đức ái của Chúa Kitô “(số 1466).
Các dấu chỉ và công cụ của gặp gỡ. Đó là những gì chúng ta là. Một lời mời hấp dẫn để gặp gỡ. Là các dấu chỉ, chúng ta phải có thái độ chào đón, đưa ra một thông điệp có thể thu hút sự chú ý của người ta. Các dấu chỉ này cần phải nhất quán và rõ ràng, nhưng trên hết phải dễ hiểu. Một số dấu hiệu chỉ rõ ràng dễ hiểu đối với các chuyên gia, không ích lợi bao nhiêu. Dấu chỉ và các công cụ. Công cụ phải hữu hiệu, có sẵn đó, chính xác và phù hợp với công việc. Chúng hoặc hữu dụng hoặc không hữu dụng. Chúng ta là những công cụ nếu mọi người có được cuộc gặp gỡ chân chính với Thiên Chúa của lòng thương xót. Nhiệm vụ của chúng ta là “làm cho cuộc gặp gỡ này khả hữu”, mặt đối mặt. Những gì người ta làm sau đó là việc của họ. Có đứa con trai hoang đàng giữa bầy heo và người cha mỗi chiều ra ngoài để xem xem liệu anh ta có trở về nhà hay không. Có con chiên lạc và một mục tử ra đi để tìm kiếm nó. Có người bị thương bị bỏ lại bên đường và người Samaria nhân hậu. Thừa tác vụ của chúng ta là gì? Là làm dấu chỉ và dụng cụ giúp cuộc gặp gỡ này thành khả hữu. Chúng ta hãy luôn nhớ rằng chúng ta không phải là người cha, người chăn chiên hoặc Samaria. Đúng hơn, bao lâu còn là các tội nhân, chúng ta vẫn chỉ đang ở phía bên kia của ba vị này. Thừa tác vụ của chúng ta phải là dấu chỉ và khí cụ của cuộc gặp gỡ này. Chúng ta là thành phần của mầu nhiệm Chúa Thánh Thần, Đấng tạo ra Giáo Hội, xây dựng sự hiệp nhất, và không ngừng mời ta vào cuộc gặp gỡ.
Một đặc điểm khác của dấu chỉ và khí cụ là nó không qui chiếu về chính mình. Nói đơn giản hơn, nó không phải là một cùng đích trong chính nó. Không ai dính kết với một dấu hiệu, khi đã hiểu rõ thực tại của nó. Không ai tiếp tục nhìn vào cái tuốc nơ vít hay cái búa, nhưng nhìn vào bức tranh treo ngay ngắn. Chúng ta là những đầy tớ vô dụng. Là dụng cụ và dấu hiệu giúp hai con người kết hợp với nhau trong một cái ôm, giống như người cha và đứa con trai của ông.
Đặc điểm thứ ba của dấu chỉ và khí cụ là sự sẵn sàng có đó. Dụng cụ cần phải sẵn sàng có đó để được sử dụng; dấu hiệu phải được nhìn thấy. Làm một dấu chỉ và khí cụ là làm một người trung gian, là sẵn có đó. Có lẽ đây là chìa khóa thực sự dẫn vào sứ vụ của chúng ta trong cuộc gặp gỡ đầy lòng thương xót của Thiên Chúa và con người. Thậm chí, chúng ta còn có thể diễn tả nó bằng những từ ngữ tiêu cực. Thánh Inhaxiô nói tới việc “không vào được đường”. Người trung gian tốt làm cho mọi thứ ra dễ dàng, chứ không thiết lập ra chướng ngại vật. Ở nước tôi, có một cha giải tội nổi tiếng, Cha Cullen. Ngài thường ngồi ở tòa giải tội và, khi không có ai tới, ngài thường làm một trong hai việc: sửa những trái banh túc cầu đã mòn cho những đứa trẻ địa phương, hoặc dùng ngón tay cái lật một cuốn từ điển lớn bằng tiếng Trung Quốc. Ngài đã ở Trung Quốc nhiều năm và muốn duy trì ngôn ngữ của họ. Ngài thường nói rằng khi người ta thấy ngài làm những việc hoàn toàn vô dụng như sửa trái banh cũ hoặc cố gắng thông thạo tiếng Trung Quốc như thế, họ thường nghĩ: “Tôi phải tới và nói chuyện với vị linh mục này mới được, vì ngài rõ ràng không có mấy việc để làm!” Ngài sẵn sàng có đó cho những gì thiết yếu. Ngài đã dành nhiều giờ thường xuyên để nghe người ta xưng tội, nhưng ngài luôn ở đó. Ngài đã phá bỏ các trở ngại luôn coi mình có vẻ bận rộn và nghiêm trọng. Vấn đề là ở chỗ này: người ta không đến với các linh mục khi họ thấy các ngài luôn bận bịu và chạy đôn chạy đáo.
Mọi người đều đã biết các cha giải tội tốt lành. Chúng ta phải học hỏi từ các cha giải tội tốt lành của chúng ta, những vị được mọi người tìm kiếm, những vị không làm cho họ sợ mà còn giúp họ nói chuyện thành thực, như Chúa Giêsu đã làm với Nicôđêmô. Điều quan trọng là hiểu ngôn ngữ thân xác, đừng hỏi những điều đã hiển nhiên qua ngôn ngữ thân xác. Nếu có người nào đến xưng tội thì họ chính là hối nhân; sự ăn năn đã hiển hiện. Họ đến xưng tội vì họ muốn thay đổi. Hoặc ít nhất họ muốn được muốn thay đổi, nếu họ nghĩ rằng tình huống của họ không thể thay đổi. Ad impossibilia nemo tenetur, như câu châm ngôn cũ vốn nói: không ai bị buộc phải làm những điều không thể làm được.
Ngôn ngữ thân xác. Tôi có đọc trong tiểu sử của một trong các vị thánh gần đây của chúng ta: vị thánh tội nghiệp này chịu nhiều đau khổ thời chiến tranh. Ngài phải giải tội cho một người lính sắp sửa đối diện với đội xử bắn. Người đàn ông này rõ ràng là một thứ hay tán gái, nên vị thánh của chúng ta hỏi anh ta: “anh có hối hận về việc này không?”. Người đàn ông trả lời: “Thưa cha, không! Nó tuyệt lắm!” Vị thánh của chúng ta không biết phải làm gì. Đội xử bắn đang chờ để xử tử anh ta, nên anh ta nói: “ít nhất, cha cũng hãy cho con biết cha có hối hận vì đã không hối hận hay không?”… “Chắc chăn có!”… “Vậy thì tốt!” Vị giải tội luôn tìm cách hành động và ăn nói đúng thời đúng lúc để chiếm được tâm điểm sự vật.
Chúng ta phải học hỏi từ các cha giải tội tốt, những cha dịu dàng với người tội lỗi, những cha sau một vài lời, đã hiểu mọi sự, như Chúa Giêsu đã hiểu với người phụ nữ bị xuất huyết, và ngay lập tức, sức mạnh tha thứ đã từ các ngài tuôn ra. Tôi luôn được xây dựng bởi một vị hồng y trong giáo triều, người tôi nghĩ khá nghiêm ngặt. Nhưng khi ngài gặp một hối nhân tỏ ra bối rối rõ ràng về việc xưng thú tội lỗi, chỉ sau một vài lời, ngài sẽ ngắt ngang để nói với họ rằng ngài đã hiểu và để họ tiếp tục. Ngài ngắt ngang vì ngài đã hiểu. Đó là tài ứng biến. Nhưng có những vị giải tội khác, xin lỗi, cứ thế mà dò với xét. “Nói cho cha điều này, nói cho cha điều nọ”. Anh em có thực sự cần mọi chi tiết ấy để giải tội không hay anh em muốn “làm phim”? Vị hồng y kia xây dựng tôi rất nhiều.
Sự toàn vẹn của phép xưng tội không phải là một vấn đề toán học. Bao nhiêu lần? Cách nào? Khi nào? Đôi khi người ta cảm thấy ít xấu hổ khi xưng thú một tội hơn là phải nêu rõ số lần họ vi phạm tội đó. Chúng ta phải để mình được đánh động bởi tình huống của người ta, một tình huống có khi hỗn tạp, gồm cả việc làm riêng của họ, lẫn sự yếu đuối của con người, tội lỗi và những giới hạn không thể nào vượt qua được. Chúng ta phải giống như Chúa Giêsu, Đấng đã xúc động sâu xa khi thấy người ta và các vấn đề của họ, và cứ liên tục chữa bệnh cho họ, cả khi họ “không yêu cầu thích đáng”, như người phung cùi kia, hoặc xem ra đang nói loanh quanh, như người phụ nữ Samaria. Người phụ nữ này giống như con chim chúng tôi có ở Nam Mỹ: nó quác quác ở một nơi nhưng tổ của nó thì ở nơi khác. Chúa Giêsu luôn kiên nhẫn.
Chúng ta phải học hỏi từ các cha giải tội biết giúp các hối nhân cảm nhận được việc sửa đổi bằng cách bước những bước tiến nhỏ, như Chúa Giêsu, Đấng đã đưa ra một việc đền tội thích đáng và biết đánh giá cao người phung cùi trở lại cảm ơn Người, một người được Chúa ban nhiều hơn. Chúa Giêsu đã không tính toán với người bại liệt, nhưng Người đã làm cho người đàn ông mù và người phụ nữ Syro-Phoenician phải kêu xin. Đối với Người, không thành vấn đề nếu họ không lưu ý đến Người, giống như người bại liệt tại hồ bơi Bethzatha, hoặc nói với người khác những gì Người ra lệnh cho họ đừng nói, kết quả chính Người trở thành người phong cùi, vì Người không thể vào các thị trấn hay vì kẻ thù của Người tìm lý do để kết án Người. Người chữa lành người ta, tha thứ tội lỗi của họ, xoa dịu nỗi đau của họ, cho họ nghỉ ngơi và làm họ cảm nhận được hơi thở an ủi của Thần Khí.
Có lẽ một số anh em đã nhe điều tôi sắp kể. Ở Buenos Aires, tôi biết một tu sĩ dòng Capuchin. Hiện ngài còn sống. Ngài nhỏ tuổi hơn tôi và là một cha giải tội vĩ đại. Luôn luôn có một hàng nối đuôi dài trước tòa giải tội của ngài, nhiều người xưng tội – đủ loại người, giầu và nghèo, linh mục và nữ tu– suốt ngày. Ngài thực sự tốt lành trong việc tha thứ. Ngài luôn tìm cách để tha thứ và đem người ta tiến theo. Quả là một hồng phúc thực sự của Thần Khí. Nhưng thỉnh thoảng có khi sinh ra bối rối về việc tha thứ dễ dàng như thế. Có lần, trong khi trò chuyện, ngài nói với tôi: “Đôi khi con bối rối quá”. Do đó, tôi hỏi ngài: “cha làm gì khi cha bối rối như thế?” Ngài trả lời: “con đến trước nhà tạm, con nhìn Chúa chúng ta và con thưa với Người ‘Lạy Chúa, xin tha tội cho con, hôm nay con đã tha thứ rất nhiều. Nhưng chúng ta hãy làm rõ việc này, tất cả đều là lỗi của Chúa, vì Chúa đã làm gương xấu cho con!’” Ngài đã thêm lòng thương xót vào lòng thương xót.
Cuối cùng, liên quan tới việc xưng tội, tôi có hai lời khuyên nhỏ. Thứ nhất, không bao giờ hành động giống như một viên chức hay một quan tòa, một người chỉ thấy các “trường hợp” phải xử lý. Lòng thương xót giải phóng chúng ta khỏi thứ linh mục này, thứ linh mục quen thuộc với việc phán xử các “trường hợp” đến nỗi hết nhạy cảm với những con người, với những khuôn mặt. Khi tôi học năm thần học thứ hai, tôi quen cùng các bạn cùng lớp tới nghe các cuộc khảo hạch công khai các sinh viên thần học năm thứ ba, những người sắp sửa chịu chức thánh. Chúng tôi đi để học hỏi và luôn học được một điều gì đó. Có lần, tôi còn nhớ, một sinh viên được hỏi về đức công bình, nhưng câu hỏi quá khó hiểu và không hiện thực đến nỗi sinh viên này trả lời một cách rất khiêm tốn rằng: “Nhưng thưa cha, điều này không bao giờ xẩy ra ở đời thực!”. Sinh viên này được trả lời: “Nhưng nó có trong sách vở!”. Đúng là luân lý sách vở, chẳng liên quan gì tới kinh nghiệm.
Quy tắc của Chúa Giêsu là “đừng phán xét để khỏi bị phán xét”. Đây là chìa khóa để chúng ta phán xử: chúng ta phải đối xử với những người khác một cách xứng đáng, chúng ta không được hạ giá hoặc ngược đãi họ, chúng ta giúp nâng họ dậy, và chúng ta đừng bao giờ quên rằng Chúa sử dụng chúng ta, dù chúng ta yếu đuối, làm khí cụ của Người. Không nhất thiết vì phán xử của chúng ta “tốt nhất”, nhưng vì nó chân thành và có thể xây dựng được một mối quan hệ tốt.
Mẩu lời khuyên nữa của tôi là không nên tò mò ở trong tòa giải tội. Thánh Therese cho chúng ta biết: khi các đệ tử của bà tâm sự với bà, bà rất cẩn thận không hỏi sự việc kết quả ra sao. Bà không xoi mói linh hồn người ta (Xem Truyện Một Linh Hồn, thủ bản C, gửi Mẹ Gonzaga, c. XII, 32r.). Đặc điểm của lòng thương xót là che tội lỗi bằng chiếc áo choàng của nó, để không làm tổn thương phẩm giá của người ta. Giống như hai con trai của Nôê, đã dùng chiếc áo choàng che sự trần truồng của cha mình khi ông say rượu (xem St 9:23).
Chiều kích xã hội của các việc thương xót
Giờ đây, ta hãy nói đôi điều về chiều kích xã hội của các việc thương xót.
Vào cuối cuốn Linh Thao, Thánh Inhaxiô viết bài “chiêm niệm để đạt được tình yêu”, một bài nối kết điều cảm nghiệm được trong lời cầu nguyện với cuộc sống hàng ngày. Ngài làm chúng ta suy niệm về việc phải đặt tình yêu vào việc làm nhiều hơn vào lời nói. Những việc làm này là các việc thương xót mà Chúa Cha “đã chuẩn bị từ trước làm cách sống của chúng ta” (Ep 2:10), những việc mà Chúa Thánh Thần linh hứng nơi mỗi người vì lợi ích chung (xem 1Cr12: 7). Trong lúc cảm tạ Chúa vì tất cả những hồng phúc chúng ta nhận được từ lòng rộng rãi của Người, chúng ta xin ơn biết mang đến cho tất cả nhân loại lòng thương xót vốn đã cứu rỗi chúng ta.
Về chiều kích xã hội này, tôi đề nghị chúng ta suy niệm về một trong những đoạn văn cuối cùng của Tin Mừng. Ở đấy, chính Chúa nối kết giữa điều chúng ta nhận được và điều chúng ta được kêu gọi cho đi. Chúng ta có thể đọc những kết luận này với chìa khóa “các việc thương xót”, những việc từng cụ thể hóa thời của Giáo Hội, thời trong đó Chúa Giêsu phục sinh sống, hướng dẫn, sai đi và kêu gọi sự tự do của chúng ta, một sự tự do tim thấy nơi Người sự thể hiện cụ thể hàng ngày.
Thánh Mátthêu nói với chúng ta rằng Chúa gửi các Tông Đồ của Người ra đi để làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ bằng cách “dạy họ giữ hết mọi điều Thầy đã truyền dạy” (28:20). Việc “mở dạy kẻ mê muội” này chính là một trong các việc thương xót. Nó tỏa lan như ánh sáng đối với các việc khác: những việc được liệt kê trong Tin Mừng Mátthêu chương 25, tức các việc liên quan nhiều hơn với những điều gọi là “các việc thương người về phần xác”, và với mọi điều răn và lời khuyên Phúc Âm, như “tha thứ”, “anh em sửa chữa cho nhau” , an ủi người buồn sầu, và chịu đựng sự bách hại…
Tin Mừng Maccô kết thúc với hình ảnh về Chúa, Đấng “hợp tác” với các Tông Đồ và “xác nhận lời nói bằng những dấu lạ kèm theo”. Những “dấu chỉ” này rất giống với các việc thương xót. Trong số nhiều điều khác, Thánh Maccô nói đến việc chữa lành người bệnh và xua đuổi ma quỉ (xem 16: 17-18).
Thánh Luca tiếp tục Tin Mừng của ngài bằng cuốn “Công Vụ” – tức các thực hành – của Các Tông Đồ, thuật lại lịch sử các ngài hành động ra sao và các việc các ngài làm, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh.
Tin Mừng Thánh Gioan kết thúc bằng cách đề cập đến “nhiều việc khác” (21:25) hay “các dấu lạ” (20:30) mà Chúa Giêsu đã làm. Các hành động của Chúa, các việc Người làm, không phải chỉ là những việc làm mà đều là những dấu lạ qua đó, bằng một cách hoàn toàn có tính bản thân, Người tỏ bầy tình yêu và lòng thương xót của Người cho mỗi người.
Chúng ta có thể chiêm ngắm Chúa, Đấng sai chúng ta đi thi hành sứ vụ này, bằng cách dùng bức ảnh Chúa Giêsu hay thương xót như đã được tiết lộ với Nữ Tu Faustina. Trong bức ảnh này, chúng ta có thể nhìn thấy lòng thương xót như một tia sáng duy nhất phát xuất từ thẳm sâu Thiên Chúa, băng qua trái tim Chúa Kitô, và xuất hiện thành nhiều màu sắc đa dạng, mỗi mầu đại diện cho một việc thương xót.
Các việc thương xót thì vô tận, nhưng mỗi việc mang dấu ấn của một khuôn mặt đặc thù, một lịch sử bản thân. Chúng không phải chỉ là những bản danh sách liệt kê bảy việc phần xác và bảy việc phần hồn của lòng thương xót. Các danh sách này giống như các nguyên vật liệu – vật liệu của chính cuộc sống – sau khi được nhào nặn bởi bàn tay thương xót, biến thành một sáng tạo nghệ thuật cá nhân. Mỗi việc sẽ được hóa nhiều giống như bánh mì trong các giỏ; mỗi việc đem lại sự phát triển phong phú như hạt cải. Vì lòng thương xót vốn sinh hoa trái và có tính bao gồm.
Chúng ta thường nghĩ đến những việc thương xót một cách cá thể và trong tương quan với một sáng kiến chuyên biệt: bệnh viện cho người nghèo, nhà bếp nấu cháo cho người đói ăn, nơi tạm trú cho người vô gia cư, trường học cho những người cần được giáo dục, hướng dẫn xưng tội và linh đạo cho những người cần huấn đạo và tha thứ … Nhưng nếu nhìn vào các việc thương xót như một toàn thể, chúng ta sẽ thấy rằng đối tượng của thương xót là chính sự sống của con người và tất cả mọi thứ nó bao trùm. Chính sự sống, vì là một “xác thịt”, nên biết đói biết khát; nó cần phải được mặc quần áo, cung cấp chỗ ở và được viếng thăm, ấy là chưa nói tới việc được chôn cất tươm tất, một điều không một ai trong chúng ta, dù giầu có bao nhiêu, có thể tự làm cho chính mình. Ngay cả những người giàu có nhất, trong cái chết, cũng trở thành kẻ khốn cùng; không hề có xe dọn đồ trong đoàn xe tang. Chính sự sống, vì là một “tinh thần”, nên cần được giáo dục, sửa trị, khuyến khích và an ủi. Chữ cuối cùng vừa rồi rất quan trọng trong Thánh Kinh; anh em hãy nghĩ tới Sách An Ủi Israel trong Isaia. Chúng ta cần người khác để huấn đạo chúng ta, tha thứ cho chúng ta, chịu đựng chúng ta và cầu nguyện cho chúng ta. Gia đình là nơi những việc thương xót này được thực hành một cách bình thường và khiêm tốn đến nỗi chúng ta thậm chí không nhận ra. Ấy thế nhưng, một khi một gia đình có trẻ nhỏ mất đi người mẹ, mọi sự bắt đầu tan rã. Hình thức nghèo nàn độc ác nhất và tàn nhẫn nhất là hình thức các trẻ em đường phố, không cha mẹ và làm mồi cho đủ thứ kền kền.
Chúng ta đã xin được ơn trở nên dấu chỉ và dụng cụ. Bây giờ chúng ta phải “hành động”, không chỉ bằng những cử chỉ, nhưng còn bằng các dự án và cơ cấu, bằng cách tạo ra một nền văn hóa thương xót. Nền văn hóa này không y hệt như nền văn hóa từ thiện; ta cần phân biệt hai loại văn hóa này. Một khi đã bắt đầu, chúng ta sẽ cảm nhận được ngay lập tức rằng Thần Khí lên sinh lực và nâng đỡ các việc này. Thần Khí làm việc này bằng cách sử dụng các dấu chỉ và dụng cụ Người muốn, ngay cả đôi khi các dấu chỉ và dụng cụ này xem ra không phải là những dấu chỉ và dụng cụ thích đáng nhất. Thậm chí, người ta còn có thể nói được rằng, để thực hiện các việc thương xót, Thần Khí có xu hướng lựa chọn những dụng cụ nghèo nàn nhất, khiêm tốn nhất và vô nghĩa nhất, những dụng cụ chính chúng cũng cần các tia thương xót đầu tiên của Thiên Chúa hơn cả. Chúng là những dụng cụ có thể được lên khuôn và chuẩn bị tốt nhất để phục vụ hữu hiệu và tốt đẹp nhất. Niềm vui khi nhận ra rằng chúng ta là “đầy tớ vô dụng” được Chúa chúc phúc với tính sinh hoa trái của của ân sủng Người, được Người cho ngồi tại bàn ăn của Người và dọn Thánh Thể cho chúng ta, là một xác nhận rằng chúng ta đang tham gia vào các việc thương xót của Người.
Các tín hữu của chúng ta rất vui được tụ tập quanh các việc thương xót. Chỉ cần tới dự triều kiến chung vào các hôm Thứ Tư, anh em sẽ thấy rất nhiều nhóm và hiệp hội dấn thân vào các việc thương xót. Trong các cuộc cử hành sám hối và lễ hội, và trong các hoạt động giáo dục và từ thiện, tín hữu của chúng ta tự nguyện đến với nhau và để được chăn dắt theo những cách không luôn được nhìn nhận hoặc đánh giá cao, trong khi rất nhiều kế hoạch mục vụ trừu tượng và có tính học thuật hơn của chúng ta không tiến hành được. Sự hiện diện lớn lao của tín hữu chúng ta trong các đền thánh và các cuộc hành hương là một sự hiện diện ẩn danh, nhưng chỉ ẩn danh vì nó bao gồm rất nhiều khuôn mặt và trong một mong muốn đơn giản chỉ để được Chúa Giêsu và Đức Mẹ nhìn một cách thương xót. Cũng có thể nói tương tự như thế về rất nhiều những cách, trong đó tín hữu giáo dân ta tham gia vào rất nhiều sáng kiến liên đới; điều này cũng cần được chúng ta nhìn nhận, đánh giá cao và cổ vũ. Tôi rất thích thú ngạc nhiên khi khám phá ra rằng ở Ý các tổ chức loại này rất mạnh và mời gọi được rất nhiều người.
Là linh mục, chúng ta xin hai ân sủng của Đấng Chăn Chiên Lành, là để ta được hướng dẫn bởi cảm thức đức tin (fidei sensus) của tín hữu giáo dân chúng ta, và được hướng dẫn bởi “cảm thức người nghèo” của họ. Cả hai “cảm thức” này phải liên hệ với cảm thức Chúa Kitô (sensus Christi) mà Thánh Phaolô từng nói tới, với tình yêu Chúa Kitô và đức tin vào Người của các tín hữu giáo dân chúng ta.
Chúng ta hãy kết luận bằng cách đọc kinh Lạy Linh Hồn Chúa Kitô (Anima Christi), lời cầu nguyện đẹp đẽ này vốn nài xin lòng thương xót của Chúa, Đấng đã đến giữa chúng ta bằng xác thịt và nhân từ nuôi dưỡng chúng ta bằng mình và máu của Người. Chúng ta xin Người tỏ lòng thương xót đối với chúng ta và đối với dân của Người. Chúng ta xin linh hồn của Người “thánh hóa chúng con”, thịt Người “cứu vớt chúng con”, máu của Người làm “say sưa chúng con” và loại khỏi ta mọi cơn khát khác không phải là khát Người. Chúng ta xin nước chảy ra từ cạnh sườn Người “rửa sạch chúng con”, sự thống khổ của Người “củng cố chúng con”. Lạy Chúa chịu đóng đinh, xin Chúa an ủi dân của Chúa! Xin các vết thương của Chúa “che chở chúng con” … Lạy Chúa, xin ban ơn cho dân Chúa, để họ không bao giờ bị lìa xa Chúa. Xin đừng để điều nào và người nào có thể tách chúng con ra khỏi lòng thương xót của Chúa, một lòng thương xót bảo vệ chúng khỏi các cạm bẫy của kẻ thù độc ác. Nhờ đó, lạy Chúa, chúng con sẽ hát ca những sự thương xót của Chúa, cùng với mọi vị thánh của Chúa khi Chúa mời gọi chúng con đến với Chúa.
[Đọc Kinh Lạy Linh Hồn Chúa Kitô]
Thỉnh thoảng tôi nghe nhận định của các linh mục nói rằng: “Đức Giáo Hoàng này luôn la rầy chúng ta, luôn luôn la mắng chúng ta”. Quả có đôi chút thật. Nhưng tôi phải nói rằng tôi đã được xây dựng bởi một số linh mục tốt lành! Bởi những vị – và tôi đã biết họ – thời trước khi có máy trả lời, ngủ với máy điện thoại trên chiếc bàn ban đêm của các ngài. Không ai chết mà không được chịu bí tích; khi điện thoại reo vào bất cứ giờ nào, các ngài cũng đều đứng dậy và ra đi. Các linh mục tốt lành! Và tôi cảm ơn Chúa vì ơn phúc này. Tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, nhưng chúng ta có thể nói rằng có rất nhiều linh mục tốt lành và thánh thiện, những vị hoạt động âm thầm và không ai thấy. Đôi khi có vụ tai tiếng xẩy ra, nhưng, như chúng ta đã biết, một cây khi nó đổ gây nhiều ồn ào hơn cả một cánh rừng đang mọc.
Hôm qua tôi nhận được một lá thư. Tôi để nó trên bàn của tôi với các thư từ cá nhân. Tôi mở nó hôm nay, ngay trước khi đến đây và tôi tin rằng Chúa muốn tôi làm việc này. Nó đến từ một linh mục ở Ý, một mục tử của ba thị trấn nhỏ. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên lắng nghe chứng từ này từ một trong những người anh em của chúng ta.
Nó được viết vào ngày 29 tháng 5, chỉ vài ngày trước đây thôi.
“Xin lỗi con đã làm phiền Đức Thánh Cha. Con lợi dụng một người bạn linh mục đang tới Rome để dự Năm Thánh của các linh mục để đơn giản gửi tới Đức Thanh Cha, trong tư cách một linh mục bình thường phụ trách ba giáo xứ nhỏ miền núi, một vài suy nghĩ về việc mục vụ của riêng con. Chúng được gợi ra bởi một số điều Đức Thánh Cha đã nói, vốn thách thức con hàng ngày phải hồi tâm, và vì điều này con xin cảm ơn Đức Thánh Cha. Con biết con không nói với Đức Thánh Cha bất cứ điều gì mới; chắc chắn đây là những điều Đức Thánh Cha đã nghe trước cả rồi. Nhưng con cảm thấy tự con phải nói ra.
Con thường bỡ ngỡ bởi lời kêu gọi của Đức Thánh Cha muốn các chủ chăn chúng con có mùi của chiên. Con đang ở trên vùng núi, vì vậy con biết rất rõ điều đó có nghĩa gì. Chúng con trở thành linh mục để biết mùi đó, mùi thực sự là nước hoa của đoàn chiên. Sẽ là điều tuyệt vời nếu việc tiếp xúc hàng ngày và các cuộc viếng thăm đoàn chiên của chúng ta, vốn là lý do đích thực cho ơn gọi của chúng ta, không bị thay thế bởi các trách nhiệm hành chính và bàn giấy tại các giáo xứ, trường học và vv. Con may mắn có được những giáo dân tốt và có khả năng đảm nhiệm những điều này. Nhưng là người đại diện hợp pháp duy nhất của giáo xứ, với tất cả mọi trách nhiệm của mình, vị mục tử luôn kết cục phải chạy đôn chạy đáo, đôi khi phải cho các cuộc viếng thăm người bệnh và các gia đình xuống dưới chót. Con nói điều này về bản thân con. Đôi khi, quả ngã lòng khi thấy trong đời sống linh mục của con, con đã bị liên lụy vào các vấn đề hành chính và bàn giấy, mà giáo dân của con, mà đoàn chiên nhỏ đã được ủy thác cho con chăm sóc, hầu như phải tự lo liệu lấy cho bản thân họ. Thưa Đức Thánh Cha, xin Đức Thánh Cha tin con khi con nói rằng việc ấy làm cho con đến phát khóc. Chúng con cố gắng tổ chức sự việc, nhưng cuối cùng, chỉ gặp những cơn lốc trong công việc hàng ngày.
Một điều khác Đức Thánh Cha đã nói đến là thiếu tình cha con. Người ta bảo xã hội ngày nay thiếu những người cha và người mẹ. Điều làm con ngỡ ngàng là cả chúng con cũng có thể đã từ bỏ tư cách làm cha tinh thần, tự để cho mình bị giản lược thành những ông bàn giấy thánh thiêng, với kết quả đáng buồn là chúng con cảm thấy bị bỏ rơi và cô độc. Như thế, khó khăn của chúng con trong việc làm cha có những vang dội không thể tránh khỏi đối với các bề trên của chúng con, những vị có các trách nhiệm và những vấn đề riêng của các ngài. Mối liên hệ của các ngài với chúng con cũng có thể có nguy cơ trở thành hoàn toàn có tính hình thức trang trọng, liên quan đến việc quản trị cộng đồng, chứ không liên quan gì đến cuộc sống của chúng con như những con người, những tín hữu và những linh mục.
Tất cả điều này – và ở đây con xin kết luận – không lấy mất điều gì khỏi niềm vui và sự phấn khích của con được làm một linh mục cho mọi người và với mọi người. Nếu có những lúc, trong tư cách một mục tử, con không có mùi chiên, con vẫn cảm động khi nhận ra rằng đoàn chiên của con không mất mùi của vị mục tử của mình! Thưa Đức Thánh Cha, quả là một điều tuyệt vời khi nhận ra rằng đoàn chiên không bỏ chúng con cô độc. Họ có thể đo lường mức độ chúng con có đó cho họ, và nếu không may vị mục tử lạc xa đường và mất hướng đi, họ sẽ đi tìm ngài và lấy tay nắm lấy ngài. Con luôn cảm ơn Chúa vì Người luôn cứu chúng con qua bầy chiên, bầy chiên được trao phó cho chúng con, tất cả những con người tốt lành, tầm thường, khiêm tốn và thanh thản, đoàn chiên là phước lành thật sự của mọi người chăn chiên.
Con muốn gửi cho Đức Thánh Cha những suy nghĩ đơn giản nhỏ mọn này vì Đức Thánh Cha gần gũi với đoàn chiên. Đức Thánh Cha có thể hiểu chúng con và có thể tiếp tục giúp đỡ và nâng đỡ chúng con. Con cầu nguyện cho Đức Thánh Cha và con cảm ơn Đức Thánh Cha, về việc thỉnh thoảng “trách mắng” mà con cảm thấy cần thiết cho cuộc hành trình của con. Thưa Đức Giáo Hoàng Phanxicô, xin Đức Giáo Hoàng chúc lành cho con và cầu nguyện cho con và cho giáo xứ của con. ”
Ngài đã ký bức thư rồi, cuối cùng, viết thêm, như mọi mục tử tốt lành: “con để lại cho Đức Thánh Cha một tặng phẩm nhỏ. Xin Đức Thánh Cha cầu nguyện cho cộng đồng của con, đặc biệt cho các người bệnh nặng và một vài gia đình có khó khăn tài chính, và không chỉ khó khăn tài chánh. Cảm ơn Đức Thánh Cha!”
Đây là một trong những người anh em của chúng ta. Có rất nhiều người khác như vị này! Hiển nhiên nhiều vị đang ở đây giữa chúng ta. Nhiều lắm. Ngài chỉ đường cho chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy tiến lên phía trước! Đừng quên cầu nguyện. Hãy cầu nguyện bao nhiêu có thể, và nếu anh em ngủ gục trước nhà tạm, thì cứ ngủ đi. Nhưng hãy cầu nguyện! Đừng bao giờ để mất việc này. Đừng bao giờ quên để mình được Đức Mẹ ngắm nhìn, và luôn giữ lấy ngài làm Mẹ của anh em. Đừng bao giờ mất lòng nhiệt thành của anh em, cả sự gần gũi và sẵn sàng có đó cho giáo dân của anh em. Và điều này nữa, tôi xin phép nói: Đừng bao giờ mất cảm thức hài hước … Vì vậy, hãy tiến lên phía trước!
ĐỨC GIÊSU DẠY CHÚNG TA NHỮNG THỰC HÀNH LÀNH MẠNH
VATICAN. Phải là điều này hoặc không gì cả. Thái độ ấy không phải là tâm tình của người Công giáo mà là dị giáo. Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyến cáo như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Năm, 09-06-2016, tại nhà nguyện Thánh Marta. Bài giảng của ngài tập trung vào những việc thực hành tốt lành mà Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ của mình. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nhấn mạnh đến hậu quả tai hại xảy ra với Dân Thiên Chúa khi những người trong Giáo hội nói một đường nhưng lại làm một nẻo. Từ đó, Đức Thánh Cha cũng mời gọi hãy vượt thoát khỏi một thứ chủ nghĩa duy lý tưởng cứng nhắc, ngăn cản người ta hòa hợp với nhau.
‘Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.’ Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu bài giảng của mình với những suy tư khởi đi từ bài Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, thuật lại lời mời gọi của Đức Giêsu dành cho các môn đệ, qua đó, Ngài muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc thực hành Kitô giáo. Dân chúng có chút thất vọng, vì những người dạy dỗ lề luật lại không nhất quán trong chứng tá cuộc sống của họ. Vì thế, Đức Giêsu mời gọi hãy vượt qua điều này, hãy bước đi xa hơn. Chẳng hạn, lấy điều răn thứ nhất làm ví dụ: Mến Chúa và yêu người thân cận. Luật xưa dạy: Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Đức Giêsu lại mong muốn một điều xa hơn: bất cứ ai giận anh em mình, thì đã đáng bị đưa ra tòa.
Xúc phạm người anh em cũng giống như giơ tay ra tát vào linh hồn người ta
“Dường như chúng ta rất quen với những từ đánh giá người khác. Chúng ta có những thuật ngữ rất sáng tạo để xúc phạm hay làm nhục tha nhân. Đây là một tội, cũng giống như giết người vậy. Bởi vì nó giống như một cái tát vào tâm hồn, vào phẩm giá của người anh em. Mỉa mai thay, nhiều khi chúng ta hay nói với người khác về lòng bác ái bằng những từ xấu xa.
Tác hại của việc nói một đường làm một nẻo
Đức Giêsu mời gọi đám đông dân chúng đang mất phương hướng hãy nhìn lên trên và tiến về phía trước. Bao nhiêu những tác hại xấu đã xảy ra với Dân Thiên Chúa bởi những phản chứng của Kitô hữu.
Rất nhiều lần, chúng ta nghe thấy trong Giáo hội những điều này. Linh mục đó, ông bà thuộc tổ chức Công giáo đó, vị Giám mục đó, Đức Giáo Hoàng đó nới với chúng ta: ‘Anh chị em phải làm như thế này.’ Nhưng chính các vị ấy lại làm điều trái ngược. Như thế, họ đã gây ra những tác hại làm thương tổn dân chúng và không để cho Dân Chúa lớn lên, triển nở. Dân không được tự do. Cũng vậy, trong bài Tin Mừng, dân chúng đã nhìn thấy sự chai cứng của các kinh sư và người Pha-ri-sêu. Mỗi khi có một ngôn sứ đến mang theo một làn gió mới và niềm vui cho dân chúng, họ liền bắt bớ và sát hại vị ngôn sứ ấy. Không có chỗ cho các ngôn sứ. Đức Giêsu nói với các kinh sư và người Pha-ri-sêu: ‘Các ông đã bách hại và giết chết các ngôn sứ, là những người mang đến một làn gió mới.’
Những thực hành tốt lành trong Giáo hội, đừng theo chủ nghĩa duy lý tưởng và sự cứng nhắc
Lòng quảng đại, sự thánh thiện mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta là phải bước ra ngoài và không ngừng tiến lên phía trước. Bước ra trong sự tiến lên. Đây chính là sự giải thoát khỏi tình trạng cứng nhắc của lề luật cũng như của chủ nghĩa duy lý tưởng, là những thứ không mang lại cho chúng ta bình an và hạnh phúc. Đức Giêsu biết chúng ta rất rõ. Ngài cũng biết rõ bản chất căn cốt của mỗi người chúng ta. Ngài cũng mời gọi chúng ta đạt tới một sự đồng thuận, một sự hòa hợp mỗi khi có những bất hòa xảy ra. Đức Giêsu dạy chúng ta những cách thức thực hành lành mạnh. Cho dù chúng ta không thể làm mọi thứ cách hoàn hảo, nhưng hãy cố gắng làm những gì có thể và hãy hòa hợp với nhau.
Đây là cách thức thực hành lành mạnh trong Giáo hội Công giáo. Giáo hội không dạy nhất quyết phải là điều này hay phải là điều kia. Thái độ đó không phải là của Giáo hội. Nhưng Giáo hội nói cách uyển chuyển hơn: điều này và điều kia. Hãy nên hoàn hảo. Hãy làm hòa với người anh em. Đừng mắng mỏ người khác nhưng hãy yêu thương. Nếu có xung đột, ít nhất là hãy cố đạt tới một đồng thuận với nhau, chứ đừng gây chiến. Đây là những thực hành lành mạnh. Thái độ khẳng định phải là điều này hay không là gì hết thì không phải tinh thần của Kitô giáo, nhưng là một thứ dị giáo nào đó. Đức Giêsu luôn bước đi với chúng ta, đem đến cho ta lý tưởng và đồng hành với ta để đạt đến lý tưởng ấy. Ngài giải thoát chúng ta khỏi gông cùm cứng ngắc của những luật lệ và nói với ta: ‘Con cứ làm tốt bao nhiêu sức con có thể. Vậy là được rồi.’ Chúa rất hiểu chúng ta. Ngài là Cha của chúng ta và đã dạy dỗ chúng ta điều ấy.
Làm hòa với nhau, một chút thánh thiện trong thỏa hiệp
Chúa mời gọi chúng ta đừng giả hình, giả bộ; đừng đến ca ngợi Chúa với cùng một ngôn ngữ mà chúng ta dùng để xúc phạm người anh em. Hãy làm điều mà chúng ta có thể. Đó là điều mà Đức Giêsu mời gọi. Đừng gây chiến tranh nhưng hay cố hòa hợp với nhau.
Tôi xin nói với anh chị em một từ có vẻ hơi lạ tai: Một chút thánh thiện trong thỏa hiệp. Tôi không thể làm tất cả mọi sự, nhưng tôi mong muốn làm tất cả. Tôi muốn hòa thuận với bạn. Hay ít là chúng ta không xúc phạm hay lăng nhục nhau. Chúng ta không gây chiến. Chúng ta cùng sống trong hòa bình. Đức Giêsu thật vĩ đại! Ngài giải thoát chúng ta khỏi tất cả những khổ đau, giải thoát chúng ta khỏi chủ nghĩa duy lý tưởng, một thứ chủ nghĩa không có tính Công giáo. Xin Thiên Chúa dạy dỗ chúng ta, trước hết, biết bước ra khỏi những cứng cỏi mà tiến lên phía trước để có thể thờ phượng và ngợi khen Chúa. Xin Thiên Chúa dạy chúng ta biết cách hòa giải với nhau và tiến tới một sự hòa thuận trong mức độ mà chúng ta có thể.”
BÀI HỌC TỪ NGÔN SỨ ÊLIA
VATICAN. Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành thánh lễ sáng thứ Sáu, 10-06-2016, tại nhà nguyện thuộc Nhà trọ Thánh Marta. Khởi đi từ Bài Đọc Một, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến ba thái độ làm nên đặc nét của người Kitô hữu: đứng trước nhan thánh Chúa trong thinh lặng để lắng nghe lời Người và sẵn sàng đi ra để tiến vào lòng đời nhằm công bố điều đã được nghe cho người khác biết. Đức Thánh Cha cũng cảnh giác mọi người trước nguy hiểm về một nỗi sợ hãi tê liệt trong đời sống Kitô hữu, không biết mình đang ở đâu trong cuộc hành trình với Thiên Chúa và không quan tâm đến tình trạng đời sống của mình trong Giáo hội.
Hãy đứng thẳng và bước đi
Để trình giải vấn đề này và làm sao để thoát khỏi sợ hãi, Đức Thánh Cha đã tập trung vào hình ảnh ngôn sứ Ê-li-a trong Bài Đọc Một trích Sách Các Vua. Đức Thánh Cha gợi nhắc lại việc ngôn sứ Ê-li-a đã chiến thắng như thế nào, ngài đã chiến đấu mãnh liệt ra sao vì đức tin, ngài đã đánh bại hàng trăm ngôn sứ giả tôn thờ ngẫu tượng Ba-an trên núi Carmen như thế nào. Nhưng cuối cùng, một trong những hành động bách hại nhằm vào Ê-li-a cũng đạt được mục tiêu. Ê-li-a đã ngã vật xuống trong sự thất vọng và chán nản dưới một gốc cây, chỉ chờ có chết. Nhưng Thiên Chúa không hề bỏ rơi ngài trong trạng thái mệt mỏi, kiệt sức đó. Chúa đã sai thiên thần đến an ủi đồng thời cũng kèm theo một mệnh lênh: Hãy trỗi dậy, cầm lấy mà ăn và bước ra ngoài.
Để gặp gỡ Chúa cần phải quay trở lại với bối cảnh mà ở đó con người đã được tạo dựng nên, đứng thẳng và bước đi. Thật vậy, Thiên Chúa tạo dựng và ban cho chúng ta có khả năng đứng thẳng và ngẩng cao đầu trước tôn nhan Ngài, vì chúng ta giống hình ảnh Ngài và bước đi trên đường cùng với Ngài. ‘Hãy đi và tiến về phía trước: Hãy cày cấy và canh tác đất đai’. Sau này, Thiên Chúa cũng phán với Ê-li-a như vậy: ‘Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa.’ Ê-li-a đã đứng thẳng trên đôi chân của mình và bắt đầu bước đi.
Tính căng thẳng của sự thinh lặng
Hãy ra ngoài và lắng nghe Thiên Chúa. Làm sao chúng ta có thể chắc chắn gặp được Chúa trong cuộc hành trình? Ngôn sứ Ê-li-a được thiên thần mời bước ra khỏi núi Khô-rép, nơi mà ông đã tìm được chỗ nghỉ qua đêm trong một cái hang, để gặp gỡ Thiên Chúa. Thiên Chúa không ở trong cơn gió to bão lớn xẻ núi non, cũng không ở trong trận động đất và cũng không ở trong lửa nhưng Ngài chỉ xuất hiện khi Ê-li-a bước ra ngoài trong cơn gió hiu hiu. Như vậy, dù có nhiều âm thanh ầm ầm vang dội hay là những cảnh tượng hoành tráng, kinh thiên động địa; Thiên Chúa vẫn không ở đó. Nhưng chỉ ở trong sự thinh lặng, trầm lắng; Thiên Chúa mới hiện diện và mới ngỏ lời với chúng ta.
Giờ của sứ mạng
Mệnh lệnh mà Ê-li-a nhận được từ Thiên Chúa ngang qua thiên thần là: Hãy đi ra. Vị ngôn sứ được mời gọi bước đi, tiến qua sa mạc, vì ngài đã được trao phó một sứ mạng cần phải thi hành. Điều ấy có nghĩa là ngài ở trên đường, luôn bước ra rộng mở, không đóng lại trong sự ích kỷ của những tiện nghi vật chất, nhưng luôn can đảm mang thông điệp của Thiên Chúa đến cho người khác. Đó chính là con người của sứ mạng.
Chúng ta phải luôn tìm kiếm Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều ý thức rằng sẽ có những giây phút rất tồi tệ: những giây phút ta chán nản, thất vọng, chẳng còn niềm tin tưởng, những giây phút đen tối, chẳng thấy chút ánh sáng nào phía chân trời. Có những giây phút ta không thể gượng dậy được nữa. Tất cả chúng ta đều biết những điều đó. Nhưng Thiên Chúa sẽ đến, sẽ thêm sức cho chúng ta và nói: ‘Hãy đứng dậy và lên đường!’ Như vậy, để gặp được Thiên Chúa chúng ta cũng phải đứng dậy và lên đường, chờ đợi Ngài ngỏ lời với chúng ta với một con tim rộng mở. Chắc chắn, Thiên Chúa sẽ đến và nói: ‘Chính ta đây.’ Khi ấy, đức tin của chúng ta sẽ trở nên vững mạnh. Và khi ấy, chúng ta cũng được trao cho sứ mạng mang thông điệp của Chúa đến cho người khác và sức dầu cho họ.
CẦU NGUYỆN CHO KẺ THÙ – sự hoàn thiện trong đời sống Kitô
Vũ Đức Anh Phương SJ
VATICAN. Cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta sẽ giúp ích hơn cho họ và làm cho chính chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa là cha hơn. Với suy tư này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kết thúc bài giảng trong thánh lễ sáng thứ 3, ngày 14.06.2016, tại nguyện đường thuộc Nhà trọ Thánh Marta. Bài giảng của Đức Thánh Cha khởi đi từ bài Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, thuật lại việc Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ hãy trở nên hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện, Đấng cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt.
“‘Anh em đã nghe luật dạy; còn Thầy, Thầy bảo anh em.’ Lời Chúa và hai cách thức không thể dung hợp giữa hai lối hiểu: (1) một danh sách khô khan những việc phải làm và không được làm; (2) lời mời gọi yêu thương Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em bằng tất cả tấm lòng. Lời mời gọi ấy đạt tới cao điểm khi chúng ta biết cầu nguyện cho chính những kẻ thù của mình.
Đây là sự biện chứng của cuộc tranh luận giữa các tiến sĩ luật và Đức Giêsu, giữa Lề Luật được trình bày trong một cách thức khô khan, cứng nhắc mà dân chúng đã được truyền lại từ cha ông của họ với sự tròn đầy, toàn hảo của cùng một Lề Luật đó nhưng đã được Đức Giêsu kiện toàn. Khi Đức Giêsu bắt đầu bài giảng, những phản đối từ kẻ ghen ghét ngài nổi lên. Đó là những lời giải thích về luật trong một bối cảnh khủng hoảng.
Một sự giải thích quá lý thuyết, quá nệ vào luật. Nói khác đi, đó là luật nhưng không có trọng tâm của luật, là tình yêu của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Vì vậy, Thiên Chúa nhắc lại luật của Cựu Ước: điều răn nào là quan trọng hơn cả? Mến Chúa hết lòng, hết sức lực, hết linh hồn và yêu mến người thân cận như chính mình vậy. Trong lời cắt nghĩa luật của các kinh sư, giới răn yêu thương này lại không phải là trọng tâm, hay là điều được nhắc đến. Trọng tâm lại là những trường hợp hay điều luật: người ta có thể thực hiện được điều này không? Hay người ta có thể thực hiện đến đâu? Và nếu không được thì sao?… Họ chỉ nghiên cứu về luật mà thôi. Đức Giêsu cũng nói về luật nhưng Ngài mang lại ý nghĩa đích thực cho luật và làm cho nó được kiện toàn.
Tiếp đến, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh đến việc Đức Giêsu đã dùng rất nhiều ví dụ để trình bày những giới răn trong một ánh sáng mới. Chẳng hạn, chớ giết người còn có nghĩa là không được xúc phạm hay làm tổn thương anh em. Tình yêu là từ ngữ trào tràn và quảng đại nhất được viết trong lề luật, đến nỗi ta sẵn sàng không chỉ cho đi áo trong mà còn cho luôn cả áo ngoài, sẵn sàng đi hai dặm thay vì chỉ phải đi một.
Đây không đơn thuần là việc kiện toàn lề luật nhưng còn là hành động chữa lành con tim. Với lối cắt nghĩa đối với lề luật mà Đức Giêsu đã thực hiện – trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu – luôn có một hành trình của việc chữa lành: một con tim bị tổn thương vì nguyên tội – tất cả chúng ta đều có một trái tim bị thương tổn vì tội lỗi. Chúng ta phải bước đi trên con đường của sự chữa lành này và chữa lành để được nên giống Chúa Cha là Đấng hoàn thiện: ‘Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời.’ Đây là con đường chữa lành để được trở nên con cái Thiên Chúa.
Sự hoàn thiện mà Đức Giêsu chỉ ra được đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay: ‘Anh em đã nghe luật dạy rằng: hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.’ Đó là bước cuối cùng trên con đường hoàn thiện và cũng là bước khó nhất. Đức Thánh Cha nhớ lại rằng khi còn bé, ngài có nghe nói đến một nhà độc tài thời đó. Người ta thường cầu nguyện xin Chúa hãy sớm phạt ông đó xuống hỏa ngục. Nhưng thật ra Thiên Chúa cũng đòi hỏi mỗi người chúng ta cũng phải xét mình hằng ngày.
Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ân sủng để chúng ta biết cầu nguyện cho kẻ thù của mình, cầu nguyện cho những kẻ muốn làm hại chúng ta, muốn gây ra cho chúng ta những điều xấu xa và cầu nguyện cho cả những kẻ muốn ngược đãi chúng ta. Ta biết tên họ của những người đó. Thế nên ta hãy thân thưa với Chúa: Lạy Chúa, con cầu nguyện cho người này; Con cầu nguyện cho người kia… Tôi dám đoan chắc với anh chị em rằng lời cầu nguyện này sẽ mang lại hai điều: giúp cho người mà ta cầu nguyện được tốt hơn, vì lời cầu nguyện có sức mạnh; và chúng ta sẽ được trở nên con cái của Thiên Chúa cha hơn.”
HÃY NHÌN MÌNH TRONG TẤM GƯƠNG TRƯỚC KHI XÉT ĐOÁN NGƯỜI KHÁC
ĐTC Phanxicô
VATICAN. Trước khi xét đoán người khác, chúng ta nên nhìn vào tấm gương để thấy chính bản thân chúng ta như thế nào. Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ Hai, 20.06, tại nguyện đường thuộc Nhà Thánh Marta. Trong thánh lễ cuối cùng tại nhà nguyện này trước kỳ nghỉ mùa hè, Đức Thánh Cha đã chỉ ra rằng điều phân biệt giữa sự phán xét của Thiên Chúa và sự xét đoán của con người chính là ‘Lòng Thương Xót’ chứ không phải sự ‘Toàn Năng’.
Chỉ Thiên Chúa mới có quyền phán xét. Vì thế, nếu không muốn bị xét xử, chúng ta đừng xét đoán người khác. Khởi đi từ bài đọc Tin Mừng, Đức Thánh Cha nói rằng: “Tất cả chúng ta ai cũng mong muốn Thiên Chúa đoái thương nhìn đến với sự quảng đại và tấm lòng tha thứ trong ngày Phán Xét. Chúng ta cũng mong Chúa quên đi những lầm lỗi cùng những điều xấu xa mà chúng ta đã vấp phạm trong đời.
Đức Giêsu sẽ gọi chúng ta là những kẻ đạo đức giả nếu chúng ta xét đoán người khác. Nếu ‘anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em.’ Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải nhìn xem mình trong tấm gương.
Nhìn xem mình trong gương không phải để trang điểm, to son kẻ mắt. Không! Không phải là chuyện trang điểm. Nhưng nhìn vào gương là để thấy mình như chính mình là. ‘Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới?’ Hay ‘sao anh lại nói với người anh em: hãy để tối lấy cái rác ra khỏi mắt bạn, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh?’ Vậy Thiên Chúa sẽ nhìn chúng ta như ra sao, khi chúng ta hành xử như thế này? Một câu thôi: ‘đạo đức giả’. ‘Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.’
Hãy cầu nguyện cho tha nhân chứ đừng xét đoán họ
Chúng ta nhận thấy rằng Chúa có vẻ hơi tức giận khi nói những điều này. Ngài mắng chúng ta là kẻ đạo đức giả khi chúng ta dám đặt mình vào vị trí của Thiên Chúa để xét xử người khác. Đây chính là điều mà con rắn xưa đã cám dỗ ông bà Adam và Eva: Nếu các ngươi ăn trái ấy, các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa. Và ông bà đã muốn giành lấy vị trí của Thiên Chúa.
Phát xét là chuyện thuộc riêng về Thiên Chúa, chỉ mình Ngài mà thôi. Còn nhiệm vụ của chúng ta là hãy yêu, cảm thông, thấu hiểu và cầu nguyện cho tha nhân khi ta nhận thấy những điều trái tai gai mắt, hay không được tốt đẹp cho lắm. Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy đến nói chuyện, gặp gỡ với người khác cách nhã nhặn, lịch sự để từ đó họ có thể nhận ra được những lỗi lầm của họ. Đừng bao giờ xét đoán. Đừng bao giờ. Nếu xét đoán, chúng ta sẽ là những kẻ đạo đức giả.
Xét đoán của chúng ta thiếu đi lòng thương xót, chỉ Thiên Chúa mới có quyền xét xử
Khi chúng ta xét đoán người khác, chúng ta đặt mình vào vị trí của Thiên Chúa. Nhưng xét đoán của chúng ta là một xét đoán tồi tệ và nghèo nàn, không bao giờ có thể là một phán xét đúng nghĩa được. Tuy nhiên, liệu xét đoán của ta có giống được với phát xét của Thiên Chúa không? Xin thưa là không. Bởi vì Thiên Chúa toàn năng, còn chúng ta thì không. Xét đoán của chúng ta sẽ thiếu đi tình thương xót. Còn khi phán xét, Thiên Chúa sẽ xét xử với lòng nhân hậu và đầy tình thương.
Ngày hôm nay, hãy ngẫm nghĩ thật nhiều về những điều Thiên Chúa nói với chúng ta: Đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán; đong đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại bằng đấu ấy; và cuối cùng, chúng ta hãy nhìn vào tấm gương trước khi muốn xét đoán người khác. ‘Tại sao anh kia lại làm cái này? Tại sao chị kia lại làm cái nọ?…’ Ta đừng vội vã xét đoán ngay. Hãy dừng lại chút đã. Hãy nhìn chính bản thân mình trong tấm gương và ngẫm nghĩ. Chúng ta xét đoán, chúng ta sẽ là những kẻ đạo đức giả, vì đã dám đặt mình vào vị thế của Thiên Chúa. Và sự xét đoán của chúng ta cũng thật nghèo nàn, tệ hại. Xét đoán của nhân loại thiếu đi lòng thương xót của Thiên Chúa. Xin Thiên Chúa ban ơn để mỗi người chúng ta có thể thấu hiểu được những điều này.”
Vũ Đức Anh Phương SJ
HÃY HỌC BIẾT LẮNG NGHE NHAU.
ĐTC Phanxicô
ĐTC Phanxicô chào tín hữu thám dự buổi đọc Kinh Truyên Tin trưa Chúa Nhất 17-7-2016
Hãy học biết lằng nghe nhau. Lắng nghe là một nhân đức nhân bản và kitô
Biết lắng nghe Chúa Giêsu, lắng nghe lời soi sáng của Ngài, là cách thức tiếp đón Chúa ưa thích nhất. Chúng ta hãy biết lắng nghe nhau giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái người thân, bạn bè. Nó là một nhân đức nhân bản và kitô quan trọng, ngày nay đang có nguy cơ bị lãng quên. Trong khả năng lắng nghe có gốc rễ của hoà bình.
ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật hôm qua với mấy chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu, tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô.
Trong bài huấn du ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng Chúa Nhật, trích từ chương 10 Phúc Âm thánh Luca, kể lại biến cố Chúa Giêsu vào làng Betania ghé thăm nhà hai chị em Marta và Maria. ĐTC nói: “Cả hai đều đều tiếp đón Chúa, nhưng họ làm điều đó trong các cách thức khác nhau. Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu và lắng nghe lời Ngài (c. 39). Marta, trái lại, hoàn toàn bận bịu với các điều phải chuẩn bị; và tới một lúc nào đó nàng nói với Chúa Giêsu: “Lậy Chúa, em con để một mình con phục vụ mà Chúa không quan tâm gì sao? Xin hãy bảo nó giúp con” (c-40). Và Chúa Giêsu trả lời: “Marta, Marta, con lo lắng nhiều chuyện quá, chỉ có một chuyện cần thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất, và nó sẽ không bị lấy mất đi” (cc.41-42). ĐTC giải thích điểm này như sau:
Trong sự chộn rộn và bận việc của mình Marta có nguy cơ quên. Và đây là vấn đề: có nguy cơ quên điều quan trọng nhất, nghĩa là sự hiện diện của vị khách, trong trường hợp này là Chúa Giêsu. Người ta quên sự hiện diện của khách. Và khách thì không phải chỉ được phục vụ, nuôi dưỡng, săn sóc trong mọi cách. Nhưng nhất là cần đưọc lắng nghe nữa. Xin anh chị em hãy nhớ kỹ từ này: lắng nghe! Bởi vì khách được tiếp đón như một người, với lịch sử của họ, với con tim giầu tình cảm và tư tưởng của họ, như thế họ có thể cảm thấy thực sự như ở trong gia đình. Nhưng nếu bạn tiếp đón một người khách vào nhà bạn và tiếp tục làm các việc, để họ ngồi đó, bạn câm nín và họ câm nín, như thể họ là đá: khách bằng đá. Không! Cần phải lắng nghe khách! Khi Chúa Giêsu nói với Marta chỉ có một điều cần thôi, chắc chắc câu Chúa trả lới cho Marta tìm thấy ý nghĩa tràn đầy của nó trong sự quy chiếu vào việc lắng nghe lời của chính Chúa Giêsu, lời soi sáng và nâng đỡ tất cả những gì chúng ta là và những gì chúng ta làm. Chẳng hạn nếu chúng ta đi cầu nguyện trước Chúa chịu đóng đanh và chúng ta nói, nói và nói, rồi đi về, chúng ta không lắng nghe Chúa Giêsu! Chúng ta không để cho Chúa nói với con tim chúng ta. Lắng nghe: đó là từ chià khóa. Xin anh chị em đừng quên! Chúng ta không được quên rằng Lời của Chúa Giêsu soi sáng chúng ta, nâng đỡ tất cả những gì chúng ta là và những gì chúng ta làm. Chúng ta không được quên rằng cả trong nhà của Marta và Maria, trước khi là Chúa và là Thầy, Chúa Giêsu là người hành hương và là khách. Như thế, câu trả lời của Ngài có ý nghĩa đầu tiên và lập tức này: “Marta, Marta, tại sao con lại bận rộn vì khách tới nỗi quên đi sự hiện diện của họ? Khách bằng đá. Để tiếp đón Ngài không cần phải có nhiều điều, trái lại chỉ có một điều duy nhất cần thiết thôi: lắng nghe Ngài – lời: lắng nghe Ngài – chứng minh cho Ngài thấy một cử chỉ huynh đêj, làm sao để Ngài cảm thấy đang ở trong gia đình, chứ không phải ở trong một nơi tạm bợ”.
ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ:
Hiểu như thế lòng hiếu khách là một trong các công việc của lòng thương xót, xem ra thực sự là một nhân dức nhân bản và kitô, một nhân đức mà trong thế giới ngày nay có nguy cơ bị lơ là. Thật thế, người ta gia tăng các nhà thương và nhà dưỡng lão, nhưng người ta không luôn luôn thực thi một lòng hiếu khách thực sự trong các môi trường này. Người ta làm nảy sinh ra nhiều cơ cấu, dự kiến cho nhiều hình thức bệnh tật, cô đơn, bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, nhưng lại giảm khả thể tìm thấy ai đó sẵn sàng lắng nghe đối với người ngoại quốc, bị gạt bỏ bên lề, bị loại trừ. Bởi vì họ là người xa lạ, tỵ nạn, di cư. Lắng nghe lịch sử đớn đau ấy của họ! Cả trong gia đình, giữa các người thân cũng có thể xảy ra việc dễ tìm thấy các phục vụ và săn sóc thuộc nhiều loại khác nhau hơn là sự lắng nghe và tiếp đón. Ngày nay chúng ta bận bịu một cách cuồng loạn bởi biết bao nhiêu vấn đề – và có vài vấn đề không quan trọng – đến nỗi thiếu khả năng lắng nghe. Chúng ta liên tục bận rộn, và như thế chúng ta không có thời giờ để lắng nghe. Tôi muốn hỏi anh chị em một điều, và mỗi người hãy trả lời trong tim mình: “Này anh là chồng, anh có thời giờ để lắng nghe vợ không? Và chị là vợ, chị có giờ lắng nghe chồng chị không? Các anh chị em là cha mẹ, các anh chị em có giờ, có giờ để mất thì giờ, để lắng nghe con cái, ông bà của các anh chị em, hoặc người già không? – “Nhưng mà ông bà luôn luôn nói cùng một chuyện, họ nhàm chán lắm… “ – “Nhưng họ cần được lắng nghe”. Lắng nghe. Tôi xin anh chị em học lắng nghe và dành nhiều thời giờ hơn để lắng nghe. Trong khả năng lắng nghe có gốc rễ của hoà bình.
Xin Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ của lắng nghe và sốt sắng phục vụ, dậy chúng ta biết tiếp đón và hiếu khách đối với các anh chị em của chúng ta.
Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành Toà Thánh cho mọi người.
Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã lại chia buồn về vụ khủng bố tại Nice tối 14 tháng 7 vừa qua. Ngài nói:
Trong tim của chúng ta vẫn còn sống động nỗi đớn đau vì tai ương xảy ra chiều thứ năm vừa qua tại Nice, đã đốn ngã biết bao mạng sống vô tội, kể cả trẻ em… Tôi gần gũi với từng gia đình và toàn quốc gia Pháp đang để tang. Xin Thiên Chúa là Cha từ nhân đón nhận tất cả các nạn nhân vào trong sự an bình của Ngài, nâng đỡ các người bị thương và an ủi thân nhân của họ. Xin Ngài đánh tan mọi dự tính khủng bố và chết chóc, để đừng có ai còn dám đổ máu người anh em nữa. Tôi xin gửi một vòng tay ôm hiền phụ và huynh đệ tới tất cả các cư dân thành phố Nice và toàn quốc gia Pháp. Và bây giờ tất cả chúng ta hãy cầu nguyện, nghĩ tới tai ương này, nghĩ tới các nạn nhân, các người thân. Chúng ta hãy cầu nguyện trong thinh lặng. ĐTC đã cùng mọi người đọc một Kinh Kính Mừng cầu nguyện cho các nạn nhân.
Ngài đã chào tín hữu hiện diện, đặc biệt các đoàn hành hương Ai Len, tín hữu các giáo phận Armagh và Derry, cũng như các Phó tế vĩnh viễn giáo phận Elphin và phu nhân. Ngài cũng chào cha giám đốc và các chủng sinh đại Chủng viện thần học thánh Pio X vùng Calabria, các bạn trẻ giáo phận Cremona, các bạn trẻ thuộc cộng đoàn các Thánh Tông Đồ Milano, các trẻ em giúp lễ giáo phận Treviso, và nhiều tín hữu Trung Quốc.
Linh Tiến Khải
THẾ GIỚI CHẲNG BAO GIỜ CÓ ĐƯỢC HÒA BÌNH…
Thánh lễ tại nguyện đường thuộc nhà trọ Thánh Marta, thứ năm, 08.09.2016 – OSS_ROM
08/09/2016 12:47
VATICAN. ‘Nài xin Thiên Chúa sự khôn ngoan’ để biết kiến tạo hòa bình ngang qua mỗi công việc của ngày sống, ngõ hẫu từ những cử chỉ nho nhỏ hằng ngày có thể nảy sinh khả thể của một nền hòa bình trên toàn thế giới. Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng nay, thứ 5, ngày 08.09, tại nguyện đường thuộc nhà trọ Thánh Marta. Hôm nay cũng là thánh lễ đầu tiên của Đức Thánh Cha tại nguyện đường này sau kỳ nghỉ mùa hè.
“Bình an không được kiến tạo trong những diễn đàn quốc tế to lớn. Bình an là quà tặng của Thiên Chúa, nảy sinh từ những nơi nhỏ bé, chẳng hạn như trong trái tim của con người. Hay trong giấc mơ như đã xảy ra với Thánh Giuse, khi thiên thần đến nói với ngài là đừng ngại đón Maria về nhà làm vợ, vì Mẹ sẽ hạ sinh cho thế gian Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là ‘Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’. Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là sự bình an.
Món quà từ việc lao tác mỗi ngày
Suy niệm của Đức Thánh Cha được khởi đi từ các bài đọc trong phụng vụ thánh lễ ngày hôn nay, đề cập đến danh từ ‘hòa bình’. Điều thu hút cách đặc biệt tâm trí của Đức Thánh Cha là động từ ‘triển nở’ trong lời nguyện nhập lễ: ‘để tất cả chúng con được triển nở trong sự hợp nhất và bình an’. ‘Triển nở’, vì bình an là một quà tặng được trao ban trong hành trình cuộc sống, vì thế, mỗi người phải ‘lao tác’ để sự bình an ấy được lớn lên mãi.
Con đường của các thánh và các tội nhân nói với chúng ta rằng chúng ta phải mang lấy quà tặng bình an này và hội nhất vào hành trình đời sống của ta, hội nhất vào tâm hồn ta và vào trong thế giới. Bình an không thể được làm ra từ ngày nay sang ngày khác; bình an là một món quà và món quà đó phải được nhận lãnh và lao tác mỗi ngày. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng bình an là quà tặng và trở thành một thành phẩm trong bàn tay lao tác của con người. Chúng ta là những người, mỗi ngày, tiến thêm một bước đến gần sự bình an. Đó là công việc của chúng ta. Nhiệm vụ của chúng ta với món quà được nhận lãnh là: kiến tạo hòa bình.
Cuộc chiến nội tâm, cuộc chiến ngoài thế giới
Nhưng làm sao để chúng ta có thể thành công trong việc kiến tạo hòa bình. Bài đọc hôm nay đã cho thấy rằng có một từ ngữ khác: Người ta nói đến sự nhỏ bé. Từ ngữ này miêu tả Đức Trinh Nữ Maria mà ngày hôm nay chúng ta mừng sinh nhật của Mẹ, và nói về thành Bêlem, một thành nhỏ bé đến nỗi dường như không thấy xuất hiện trên bản đồ.
Bình an là một quà tặng và món quà ấy chúng ta phải chăm chỉ lao tác hằng ngày, lao tác trong những điều nhỏ bé: trong những điều nhỏ bé của cuộc sống hằng ngày. Người ta không thể kiến tạo bình an trong những cuộc họp lớn, trong những diễn đàn quốc tế vĩ đại. Nhưng trái lại, bình an được tìm thấy trong những điều nhỏ bé. Chúng ta có thể nói về hòa bình bằng những lời rất đẹp, có thể triệu tập những hội nghị lớn để bàn về hòa bình… Nhưng nếu trong chính chúng ta, trong con tim của chúng ta không có bình an, trong gia đình của chúng ta không có bình an, trong khu phố của chúng ta không có bình an, trong nơi làm việc của chúng ta không có bình an; thì cũng sẽ chẳng bao giờ có được bình an trên thế giới này.
Câu hỏi cần phải hỏi
Cần phải nài xin Thiên Chúa ân sủng của sự khôn ngoan để biết kiến tạo hòa bình, trong những công việc nho nhỏ của cuộc sống nhưng lại tập trung vào chân trời hiện sinh của tất cả con người. Đặc biệt, ngày hôm nay, chúng ta đang sống trong một cuộc chiến và tất cả mọi người đều mong muốn bình an. Bởi vậy, câu hỏi sau đây thật là chính đáng:
‘Ngày hôm nay, tâm hồn của anh chị em như thế nào? Phải chăng là đang bình an? Nếu như không bình an, thì trước khi nói về bình an, hãy làm cho tâm hồn mình bình an đã. Gia đình của anh chị em hôm nay như thế nào? Có bình an không? Nếu anh chị em không thể thăng tiến gia đình, xứ đạo, cộng đoàn, dòng tu của anh chị em trong hòa bình thì hãy khoan nói về hòa bình cho thế giới này… Bởi thế, câu hỏi mà ngày hôm nay tôi muốn chia sẻ với anh chị em: Tâm hồn của mỗi người chúng ta như thế nào? Có bình an không? Gia đình của mỗi người chúng ta như thế nào? Có được bình an? Khi hỏi như thế, chúng đã bắt đầu từng bước mang hòa bình đến cho cả thế giới.”
Vũ Đức Anh Phương SJ
https://www.youtube.com/watch?v=sV5EIOuAw8c
ÁNH SÁNG ĐỨC TIN
ĐTC Phanxicô
Lễ thứ hai 19-9-16
Hãy giữ vững ánh sáng đức tin và làm cho ánh sáng ấy tiếp tục bừng cháy. Đừng để cho ánh sáng ấy bị che phủ. Đức Thánh Cha nói như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta. Đức Thánh Cha cảnh báo những hành vi làm lu mờ ánh sáng đức tin, như cạnh tranh trong ghen tỵ, chậm trễ làm việc thiện. Đức Thánh Cha cũng nói, những kế hoạch đen tối thì tựa như “mafia”, và “mọi kiểu mafia” đều đen tối.
Hãy để cho ánh sáng đức tin cháy sáng, bừng cháy trước mặt người đời. Đừng để cho ánh sáng ấy lịm tắt. Đó là ánh sáng mà chúng ta được ban tặng như một món quà, và món quà này làm chúng ta bừng sáng. Quà tặng ánh sáng này, chúng ta nhận được trong ngày chịu Phép Rửa. Ngay từ những thế kỷ đầu của Giáo Hội, và ngay cả cho tới hôm nay, Bí tích Rửa Tội vẫn được gọi là Bí tích Khai tâm, khai sáng linh hồn.
Đừng che giấu ánh sáng này, vì nếu làm như thế, bạn chỉ là “Kitô hữu trên danh nghĩa”. Ánh sáng đức tin là ánh sáng chân thực mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta trong ngày chịu Phép Rửa. Ánh sáng này không phải là loại ánh sáng nhân tạo. Ánh sáng này không bao giờ tàn phai.
Đừng bao giờ quên lãng: việc thiện ngày hôm nay chớ để ngày mai, vì nếu hôm nay không làm thì ngày mai cũng chẳng làm. Khi “đi, rồi trở lại và nói, tôi để dành cho ngày mai”, chúng ta đang che giấu ánh sáng. Đừng làm những kế hoạch đen tối để chống lại người thân cận. Đừng lợi dụng lòng tin của nhau để gây điều ác.
Đừng ghen tỵ tranh dành quyền lực, vì khi làm như thế là che giấu ánh sáng. Cám dỗ quyền lực luôn làm cho người ta đánh nhau, và cám dỗ này nói với người ta rằng “chẳng có gì sai cả”. Khi ấy chúng ta luôn tìm thấy có điều gì đó để tranh cãi. Nhưng sau tất cả tranh cãi giành giật thì anh em không thể sống còn. Tốt hơn là nên cho đi và tha thứ.
Đừng ghen tỵ với những kẻ bạo lực, cũng đừng ghen tỵ với những thành công của họ, vì Thiên Chúa là Đấng công bằng. Đã có lần, chúng ta có chút ghen tỵ như thế. Nhưng hãy nhìn xem lịch sử của bạo lực, lịch sử của việc tranh dành quyền bính. Có một kết cục như nhau là người ta cắn xé nhau. Ghen tỵ, tham quyền… điều này che phủ ánh sáng.
Hãy để cho ánh sáng mà chúng ta nhận được từ Thiên Chúa được giãi sáng, được tự do. Chúa Giêsu nói: Hãy là con cái của ánh sáng chứ đừng là con cái của bóng tối. Anh chị em hãy nhìn xem ánh sáng đã được ban cho chúng ta trong ngày chịu Phép Rửa. Đừng che giấu ánh sáng ấy dưới gầm giường, nhưng hãy để ánh sáng lan tỏa. Có nhiều bước để thực hành trong cuộc sống. Có nhiều thứ lạ lùng mà chúng ta thấy rằng, chúng đang che mờ ánh sáng.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần, Đấng mà tất cả chúng ta đã lãnh nhận khi chịu Phép Rửa, giúp chúng ta đừng rơi vào những thói quen xấu mà che phủ ánh sáng. Xin Ngài giúp chúng ta, biết để cho ánh sáng mà chúng ta đã lãnh nhận được tỏa sáng. Ánh sáng của Thiên Chúa có những hoa trái rất tuyệt vời: ánh sáng của tình bạn, ánh sáng của hiền hậu, ánh sáng của tin tưởng, ánh sáng của hy vọng, ánh sáng của kiên nhẫn, ánh sáng của tốt lành.
Tứ Quyết SJ
RA KHỎI CHÍNH MÌNH ĐỂ GIEO LỜI
ĐTC. Phanxicô
Lễ thứ bảy 17-9-16
Ra khỏi chính mình để loan báo Tin Mừng cho mọi ngõ ngách của thế giới. Đó là lời mà Đức Thánh Cha chia sẻ với các Sứ Thần Tòa Thánh vào sáng nay trong thánh lễ tại nhà nguyện thánh Marta. Đức Thánh Cha cám ơn các vị vì các ngài dấn thân với đầy niềm vui và lòng nhiệt thành nơi các quốc gia khác nhau.
Từ dụ ngôn Người gieo giống, Đức Thánh Cha nói về cách thế mà các Sứ thần Tòa Thánh gieo Tin Mừng vào thế giới. Đức Thánh Cha cho biết, đời sống của các vị Sứ thần tựa như ‘cuộc đời của người du mục’ vì nay đây mai đó.
“Khi bạn đã học ngôn ngữ tốt, thì có một cuộc gọi từ Roma và… ‘Ồ, bạn khỏe không?’ – ‘Tốt’ – ‘Bạn biết Đức Thánh Cha không, Người mà bạn rất yêu mến… Người nghĩ thế…’ – Những cuộc gọi ấy thật là êm tai phải không? – ‘… Người đã nghĩ tới bạn vì điều này…’. Và thế là bạn khăn gói lên đường và đến một nơi mới, rời xa bạn bè, rời xa những thói quen, rời xa nhiều thứ mình đã và đang làm… ra khỏi chính bản thân, ra khỏi nơi này và đến nơi khác, và ở đó, một khởi đầu mới.”
“Khi bạn đến một đất nước mới, thì chính bạn – người Sứ thần Tòa Thánh – phải làm một cuộc ‘ra khỏi’ nữa: ra khỏi chính mình để học ngôn ngữ mới, ra khỏi chính mình để đối thoại, để học văn hóa, học cách nghĩ.”
Đức Thánh Cha nói vui: “Ra khỏi chính mình để đến với người khác, thường là chán”, nhưng “ra khỏi bản thân, chính là gieo hạt”, “hạt giống này luôn tốt”. Đức Thánh Cha nói tiếp: “Có người nói, công việc của anh em quá là chuyên biệt, một loại công việc quản trị” ngay cả “đây là công việc đời quá”. Thế nhưng, tất cả anh em đều biết những gì anh em đã làm cho các linh hồn. Chúa Giêsu nói rằng, chúng ta, những người gieo giống, sau khi gieo hạt thì hãy đi nghỉ, vì chính Thiên Chúa sẽ làm cho hạt giống nảy mầm và sinh trưởng. Cũng như thế đối với các Sứ thần, “Anh em phải ra khỏi chính mình để Thiên Chúa có thể làm cho hạt giống nảy mầm và lớn lên; và anh em phải làm điều này đầu tiên là trước nhà tạm, trong cầu nguyện, trong việc thờ phượng.”
Cho dù có nhiều khó khăn, anh em vẫn khởi sự với niềm vui và lòng nhiệt thành. Đó là “lời chứng vĩ đại”, là “các Sứ thần chỉ thờ phượng Một Đấng ban sự sinh trưởng, Đấng ban sự sống”. Có ba nét ‘đi ra’ của một vị Sứ thần. Thứ nhất là đi ra về thể lý. Đó vác hành lý lên đường, sống du mục. Thứ hai là đi ra về văn hóa, về học ngôn ngữ. Có cuộc điện thoại ‘Vui lòng nói cho tôi’ – ‘Vui lòng nói cho tôi biết bạn đang nói tiếng gì vậy?’ – ‘Tôi nói tốt tiếng Anh, tiếng Pháp, và cũng nói được tiếng Tây Ban Nha…’ – ‘À, tốt lắm, tốt lắm … Nhưng nghe này: Đức Thánh Cha quyết định sai bạn đi Nhật Bản đấy!’ – ‘Nhưng một chữ tiếng Nhật tôi cũng không biết!’ – ‘À, Bạn sẽ học được thôi!’. Cuộc đi ra thứ ba chính là cầu nguyện.
Cám ơn quý anh em là các Sứ thần Tòa Thánh, vì sự phục vụ mà anh em dành cho Hội Thánh, vì anh em luôn sẵn sàng đi ra. Ba cuộc đi ra cũng là ba cách phục vụ Chúa Giêsu và Hội Thánh. Tôi rất ngưỡng mộ anh em, Giáo Hội biết ơn anh em. Xin Chúa ban cho anh em ân sủng của Ngài để anh em tiếp tục “đi ra” theo ba nét trên, đi ra chính bản thân mình.
Tứ Quyết SJ