• Nắm tay Cha-Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
  • Lòng Chúa xót thương-Tạ Duy Tuyền
  • Tôn vinh lòng Chúa thương xót!-Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
  • MẤT – TÌM – MỪNG-Lm. Vũ Xuân Hạnh
  • Anh còn nợ em…Đỗ Lực
  • Thiên Chúa thương xót và tha thứ- Lm Giuse Đinh lập Liễm
  • <strong>“</strong>HÃY CHIA VUI VỚI TÔI” Lm Giuse Nguyễn Hữu An
  • Tuyệt đỉnh tình cha-Am. Trần Bình An
  • Trong Thiên Chúa không ai bị loại trừ-NS-DMHCG
  • Sống chữ nhẫn-Lm Tạ Duy Tuyền
  • Cây táo-Mark Link S.J.
  • Thi ca phúc âm-Lm. Giuse Trần Việt Hùng

NẮM TAY CHÚA

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền00 tuye

Chúa nhật 24 Thường niên, năm C-2013 Nắm tay Cha

Một cô bé và cha đi ngang qua cây cầu. Cô bé sợ nên hỏi cha: “Cha ơi, con có thể nắm lấy tay cha để con khỏi rơi xuống sông không?”

Cha đáp: “Con yêu, không được, chính Cha sẽ nắm tay con đi.” Cô bé nói: “Như vậy thì có khác nhau gì đâu ?” Cha đáp.

“Rất khác đó con ơi.” Và người cha nói tiếp: “Nếu con nắm tay cha và có điều gì đó xảy ra với con, rất có thể là con thả tay cha ra. Nhưng nếu cha nắm tay con, con biết là cho dù điều gì xảy ra, cha sẽ không bao giờ buông tay con ra.”

Thiên Chúa không bao giờ buông tay chúng ta ra. Ngài luôn nắm chặt tay chúng ta để dìu chúng ta đi qua những khó khăn của giòng đời. Cho dù, đã nhiều phen chúng ta cố tình buông tay khỏi tay Chúa. Cho dù chúng ta muốn vuột khỏi tầm tay Chúa, Chúa vẫn níu kéo chúng ta và gìn giữ chúng ta. Vì Chúa biết một khi chúng ta vuột khỏi tầm tay Chúa, sẽ phải đối phó với biết bao cạm bẫy của Sa tan, của sự dữ. Chúa biết một khi chúng ta vuột khỏi tầm tay Chúa, sẽ lạc vào những ảo ảnh của danh lợi thú mau qua.

Tình yêu Chúa đời đời vẫn là thế! Nhân ái –  bao dung và nhẫn nại. Tình yêu của Ngài luôn ân cần với từng người chúng ta. Ngài ví cuộc đời chúng ta như con chiên đi lạc, như đồng tiền đã mất. Ngài đã tức tốc đi tìm mà không màng đến những con chiên còn lại và cũng không tiếc sót  mở tiệc ăn mừng khi tìm thấy đồng tiền đã mất. Ngài còn ví tình yêu của Ngài như người cha nhân ái bao dung. Một người cha đã chia gia tài cho con, thế nhưng nó lại dùng của cải để ăn chơi, để vượt ra khỏi mái nhà của cha. Nó đàn điếm đến nỗi thân tàn ma dại. Thế mà, chỉ cần thấy nó trở về, Cha đã quên hết quá khứ tội lỗi của con, và còn ban lại quyền làm con mà nó đã tự đánh mất.

Vâng, tình yêu Thiên Chúa thì bao dung và không giới hạn. Tình yêu của Ngài luôn chậm bất bình và rất mực khoan dung. Tình yêu ấy Ngài đã thể hiện qua sự bao dung dành cho Adam – Eva. Ngài không đoạn tình với ông bà, dù rằng ông bà đã cố tình quay lưng lại với Chúa. Ngài không bỏ rơi dân Ngài đã tuyển chọn, cho dù họ cố tình không để Chúa dẫn dắt họ. Tình yêu ấy, hôm nay Ngài vẫn dành cho chúng ta. Ngài vẫn kiên nhẫn với lỗi lầm chúng ta. Ngài vẫn vui mừng khôn xiết khi thấy chúng ta ăn năn trở về. Ngài sẽ ân cần choàng chiếc áo ân sủng và ban thưởng gia tài trên trời cho chúng ta.

Làm người ai cũng có những lầm lỗi. Ai cũng có những bước chân lầm lạc. Điều quan yếu là biết tỉnh thức và quay trở về. Đừng cố tình sống trong tội lỗi. Đừng làm ngơ trước tiếng mời gọi trở về của lương tâm, của lề luật. Đừng nại vào lòng thương xót của Chúa để cố tình ngủ mê trong tội lỗi.

Hãy nhớ rằng: Chúa không bao giờ buông tay và rời xa chúng ta, mà chính chúng ta đã nhiều lần cố tình rời xa Chúa. Ước gì cuộc đời chúng ta luôn bước đi trong sự dẫn dắt của Chúa. Xin hãy để Chúa dẫn dắt chúng ta hơn là để ma quỷ lôi kéo chúng ta. Xin hãy để Chúa cầm tay chúng ta trong sự phó thác trọn vẹn nơi Chúa. Amen.

LÒNG THƯƠNG XÓT

Tạ Duy Tuyền00 tuye

Chúa nhật 24 TN-C

Có ai đó đã nói rằng: “con tim có lý lẽ của con tim”. Hành động của con tim không đo lường bằng toán học, không kiểm chứng bằng khoa học. Hành động của con tim chỉ có thể hiểu được bằng tình yêu. Thế nên, chỉ có những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu được những việc làm xem ra thiếu tính toán của tình yêu. Đó cũng là cách hành xử mà Chúa Giêsu đã nói đến qua dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền đánh mất. Cả hai dụ ngôn đều nói lên một tình yêu vượt lên trên mọi tính toán vụ lợi. Vì không ai dại gì bỏ lại 99 con chiên trong rừng vắng để đi tìm con chiên lạc. Và cũng không có ai dại gì bỏ hàng vạn đồng để chiêu đãi bà con lối xóm khi tìm lại 1 đồng bạc bị đánh mất. Thiên Chúa không tính toán thiệt hơn.Thiên Chúa luôn hành động vì yêu thương. Chính tình yêu đã thúc bách Ngài phải lên đường ngay để tìm con chiên lạc. Chính trong sự nhẫn nại của tình yêu đã làm cho Ngài tràn ngập niềm vui sướng khi tìm được đồng tiền đã mất.

Con chiên và đồng tiền đánh mất tựa như cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì chạy theo danh vọng. Vì chạy theo những đam mê trần gian đã làm cho nhiều người lầm đường, lạc lối và đánh mất phẩm giá cao qúy của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Thiên Chúa dùng muôn nghìn cách để tìm lại chúng ta. Ngài sẽ làm tất cả để chuộc lại con người chúng ta. Đó cũng là cách mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt dọc dài của lịch sử ơn cứu độ. Loài người luôn bất trung, bội tín, bội thề. Thiên Chúa thì luôn tín trung. Tình yêu của Ngài dành cho con người mãi mãi vẫn là một. Ngài không bao giờ thay đổi. Ngài có giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương ngàn đời.

Tình yêu của Ngài hôm nay vẫn thế. Ngài vẫn đeo đuổi cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài sẽ đau khổ nếu chúng ta lạc xa tình Chúa. Ngài sẽ buồn nhiều nếu chỉ vì tiền tài và lạc thú mà chúng ta đánh mất phẩm giá làm người của mình. Phẩm giá con người lớn hơn những giá trị vật chất. Ngài không đang tâm đứng nhìn con người tự hạ thấp phẩm giá của mình để đổi lấy đồng tiền và lạc thú. Ngài càng không làm ngơ và bỏ mặc con người cho ma qủy lôi kéo vào hố diệt vong. Ngài sẽ làm muôn ngàn cách để đưa con người trở về nẻo chính đường ngay. Điều đó, Ngài đã thể hiện nơi cuộc đời của vua Đavít. Đavít là một con người được Chúa yêu thương nhưng lại vì đam mê lạc thú đã lỗi luật Chúa. Ông đã phạm tội ngoại tình với Batseva, là vợ của tướng Uria. Ông còn đang tâm đẩy Uria vào chỗ chết để chiếm lấy nàng Batseva. Thế nhưng, tình yêu Chúa còn lớn hơn tội của Đavít, Ngài đã  không giáng phạt theo như tội Đavít đã làm. Ngài đã cho Đavít cơ hội làm lại cuộc đời. Qua tiên tri Nathan, Thiên Chúa đã thức tỉnh Đavít nhận ra lỗi lầm mà ăn năn trở về. Đavít đã sám hối ăn năn. Đavít đã cảm nhận tình thương Chúa dành cho ông quá to lớn đến nỗi mà ông phải thốt lên: “Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được”. Chúa đã không chấp tội Đavít mà “lòng nhân từ của Chúa còn theo đuổi Đavít suốt cuộc đời”.

Vâng, lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn ở trong cuộc đời chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa ví tựa như tấm lòng người mẹ, luôn yêu con bằng trái tim chứ không bằng trí óc. Và cũng chỉ có tình thương trời bể của người mẹ mới cho chúng ta hiểu nổi tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhất là đối với kẻ tội lỗi, người nghèo khó bé mọn. Vì “Có người mẹ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau?  Nhưng cho dù người mẹ có quên con đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” .

Dù có những người mẹ độc ác bỏ con mình, Chúa không bao giờ bỏ chúng ta.  Người còn ban ơn chăm sóc chúng ta hằng ngày:  “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối.  Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy” ,

Chúng ta thường nghe hát: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình….”  Còn lòng Chúa thương chúng ta thì không gì sánh được.  Tình mẹ đã khó mà đền đáp cho đủ, còn tình Chúa thì sao? Liệu rằng chúng ta sẽ làm gì để đền đáp ơn Ngài cho cân xứng?

Ước gì mỗi người chúng ta cũng nhận ra lòng Chúa xót thương để ăn năn sám hối trở về với Chúa, và cũng biết sống tình yêu đó cho anh em. Amen.

TÔN VINH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT!

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

  1. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Trong mấy năm gần đây, ở hải ngoại cũng như ở trong nước, rộn lên một phong trào đạo đức sùng kính Lòng Chúa Thương Xót. Xuất phát điểm của Phong trào thánh thiện này là ‘mạc khải’ mà Chúa Giê-su đã ban cho Giáo hội qua Thánh Nữ Faustina Kowalska (1) và sự cổ võ mạnh mẽ của người đứng đầu Hội thánh Công giáo toàn cầu là Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II.

Nhưng giả như không có hai yếu tố quan trọng trên thì Lòng Chúa Thương Xót không được biết đến và tôn vinh sao? Những trang Thánh Kinh Cựu và Tân Ước, nhất là ba dụ ngôn trong Phúc âm Lu-ca của Phụng vụ Chúa nhật 24 Thường Niên năm C hôm nay không đủ sức thúc đẩy mọi người, mọi cộng đoàn Ki-tô hữu tôn vinh Lòng Chúa Thương Xót sao?

  1. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.

(1) Bài đọc 1: Lời Chúa trong Sách Xuất Hành (Xh 32,7-11.13-14):

7 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai Cập. 8 Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói: “Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai Cập.” 9 ĐỨC CHÚA lại phán với ông Mô-sê: “Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. 10 Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn.”

11 Ông Mô-sê cố làm cho nét mặt ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông, dịu lại. Ông thưa: “Lạy ĐỨC CHÚA, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với dân Ngài, dân mà Ngài đã giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ra khỏi đất Ai Cập? 13 Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời.” 14 ĐỨC CHÚA đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe.

(2) Bài đọc 2: Lời Chúa trong thư thứ nhất của Thánh Phao-lô Tông đồ gửi ông Ti-mô-thê (1 Tm 1,12-17):

12 Tôi tạ ơn Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ Người. 13 Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin. 14 Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người. 15 Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Ki-tô Giê-su đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. 16 Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giê-su Ki-tô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời. 17 Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. A-men.

(3) Bài Tin Mừng: Lời Chúa trong Sách Tin Mừng theo Thánh Lu-ca (Lc 15,1-32):

1 Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” 3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:

4 “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? 5 Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. 6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. 7 Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.

8 “Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? 9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất. 10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”

11 Rồi Đức Giê-su nói tiếp: “Một người kia có hai con trai. 12 Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. 13 Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. 14 “Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, 15 nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. 16 Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. 17 Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! 18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19 chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. 20 Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. 21 Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa… 22 Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, 23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! 24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.

25 “Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26 liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. 27 Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ. 28 Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29 Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30 Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!

31 “Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. 32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.”

2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?

(1) Bài đọc 1 (Xh 32,7-11.13-14) là một trích đoạn của Sách Xuất Hành kể lại sự nổi giận và dự tính tiêu diệt dân Ít-ra-en của Thiên Chúa trước sự cứng lòng và hành động phản bội của những người này và sự can thiệp hữu hiệu của ông Mô-sê khi ông nhắc lại với Thiên Chúa lời Người đã hứa với các tổ phụ là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en.

Qua đoạn Sách Xuất Hành trên (32,7-11.13-14) chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng rất trung tín với lời hứa và rất yêu thương dân Ít-ra-en nói riêng và loài người nói chung. Thiên Chúa không muốn một con người nào bị trừng phạt, bị tiêu diệt vì tội lỗi và sự phản bội mà người ấy đáng chịu. Chúng ta cũng thấy ông Mô-sê là người có “thần thế” như thế nào trước mặt Thiên Chúa, khi lời cầu xin và năn nỉ của ông đã làm cho Thiên Chúa nguôi lòng trong cơn thịnh nộ.

(2) Bài đọc 2 (1 Tm 1,12-17) là bức thư tuyệt vời mà Thánh Phao-lô viết cho ông Ti-mô-thê, một cộng sự thân cận của ngài, về hồng ân vĩ đại của Lòng Chúa Thương Xót. Từ một kẻ bắt đạo, Thánh Phao-lô chẳng những không bị Chúa trừng phạt mà còn được thứ tha, cứu vớt và được giao phó sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Thánh Phao-lô nhận thức sâu sắc lý do tại sao Thiên Chúa đã hành động như vậy là để Lòng Chúa Thương Xót nổi bật hơn, hầu đem lại niềm hy vọng cho tất cả mọi tội nhân.

Trong đoạn thư gửi ông Ti-mô-thê trên (1 Tm 1,12-17) của Thánh Phao-lô Tông đồ, chúng ta thấy rõ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vĩ đại như thế nào và cách hành động của Người diệu kỳ như thế nào trong cuộc đời của Thánh Phao-lô. Tình thương và quyền năng của Thiên Chúa đã biến “thù nghịch” thành “nghĩa thiết”, biến “đáng bị trừng phạt” thành “đáng được thưởng công”.

(3) Bài Tin Mừng (Lc 15,1-32) là ba dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót đối với tội nhân tức đối với hết mọi người chúng ta (vì có ai trong chúng ta không là tội nhân?). Đó là dụ ngôn người chủ chiên tìm lại được con chiên lạc; người phụ nữ tìm lại được đồng quan (tiền) bị mất và người cha tìm lại được đứa con trai đi hoang nay trở về. Ba dụ ngôn trên diễn tả ba niềm vui: niềm vui của việc tìm lại được con/cái/người đã mất và là hình bóng của niềm vui trên trời khi có một tội nhân thống hối trở về!

Qua Bài Phúc Âm theo Thánh Lu-ca trên (15,1-32) chúng ta có một khám phá đầy đủ và quyết liệt nhất về Thiên Chúa Cha và về chính Chúa Giê-su Ki-tô:

(a) Thiên Chúa Cha là Đấng đầy Lòng Xót Thương, không muốn một tội nhân nào phải hư mất, trái lại Người tìm kiếm hết mọi người có tội để thứ tha và phục hồi tư cách và phẩm giá là con Thiên Chúa cho họ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!”

(b) Chúa Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa xuống thế làm người và làm bạn với phường tội lỗi là để cứu vớt mọi người có tội, bằng cách mạc khải Lòng Cha Thương Xót và vạch đường chỉ lối cho tội nhân biết cách trở về với Cha. Đó là ăn năn sám hối và quay trở về như người con hoang đàng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…”

2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?

Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.”

III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY

Suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy sứ điệp của Lời Chúa hôm có hai áp dụng:

  • Cậy trông và đón nhận Lòng Chúa Thương Xót: Càng thánh thiện người Ki-tô hữu càng ý thức tình trạng yếu đuối, tội lỗi của mình và càng cảm thấy nhu cầu cần được Thiên Chúa xót thương và thứ tha. Ba bài đọc Lời Chúa hôm nay đủ sức thuyết phục mỗi người, dù tội lỗi yếu đuối đến đâu, vững lòng cậy trông và đón nhận Lòng Chúa Thương Xót!
  • Quảng bá và thể hiện Lòng Chúa Thương Xót với mọi người: Trong đời sống gia đình, cộng đoàn và xã hội, chúng ta được giao phó sứ mạng quảng bá và thể hiện Lòng Chúa Thương Xót với mọi người, nhất là với những người bé mọn, mang đầy mặc cảm tội lỗi và bị nỗi tuyệt vọng đè nặng. Cách quảng bá và thể hiện Lòng Chúa Thương Xót tốt nhất là gần gũi, chia sẻ, cảm thông với những người ấy để giúp họ cảm nhận được Lòng Chúa Xót Thuơng vô bờ vô bến.
  1. CẦU NGUYỆN

(Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)

  1. Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã mạc khải cho chúng con biết Chúa là Đấng Từ Bi Thương Xót. Xin Chúa thứ tha mọi tội lỗi, yếu đuối và xúc phạm của chúng con và ban ơn hoán cải cho chúng con, để chúng con được nhận lại tư cách và phẩm giá làm con của Chúa. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

2 Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã mạc khải cho chúng con biết Chúa là Đấng Từ Bi Thương Xót. Xin Chúa thứ tha mọi tội lỗi, yếu đuối và xúc phạm của các nhà lãnh đạo các Giáo hội Ki-tô giáo và ban ơn thánh hiến cho những con người ấy để tiếng nói của họ được thế giới yêu mến và lắng nghe hơn. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

3 Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã mạc khải cho chúng con biết Chúa là Đấng Từ Bi Thương Xót. Xin Chúa thứ tha mọi tội lỗi, yếu đuối và xúc phạm của các nhà cầm quyền trên toàn thế giới và ban ơn thay lòng đổi dạ cho những người ấy để thế giới bớt tội ác và khổ đau. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

  1. Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã mạc khải cho chúng con biết Chúa là Đấng Từ Bi Thương Xót. Xin Chúa thứ tha mọi tội lỗi, yếu đuối và xúc phạm của những người buôn bán ma túy, trẻ em và phụ nữ và ban ơn thay lòng đổi dạ cho những con người gây ra các tội ác ấy để xã hội trở nên trong sạch và tươi vui hơn. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội Seattle, WA (USA) ngày 03.09.2007

——————–

Ghi chú:

  1. Thánh Nữ Faustina Kowalska sinh ngày 5/10/1938 tại Glogowiec, qua đời ngày 5/10/1938 tại Cracovia (Ba Lan) và được phong thánh ngày 30/4/2000.

Một trong những lời Thánh Nữ Faustina Kowalska nhận được từ Chúa Giê-su là: “Vào lúc 3 giờ chiều, hãy khẩn cầu Lòng Thương Xót của Cha cho các tội nhân cách riêng, và nếu có thể trong giây lát, con hãy trầm mình vào cuộc khổ nạn của Cha, đặc biệt lúc Cha bị bỏ rơi trong lúc hấp hối. Ðây là giờ điểm của Lòng Thương Xót vĩ đại nhất đối với thế giới… Trong giờ này, Cha sẽ chẳng từ chối bất cứ ai điều gì với các linh hồn kêu van Cha nhân danh cuộc khổ nạn của Cha.”

MẤT – TÌM – MỪNG

Lm. Vũ Xuân Hạnh

Trong cuộc đời truyền giáo, Chúa Giêsu có nhiều dịp tiếp xúc nhiều hạn người, nhiều tầng lớp xã hội. Theo Tin Mừng, Chúa đặc biệt ưu ái người nghèo, nghèo vật chất và nhất là nghèo phẩm giá. Chúa lui tới, gặp gỡ, ăn uống với họ. Chúa bày tỏ tình yêu đối với họ là tình yêu thương xót, thông cảm, bao dung, tha thứ và đón nhận. Chúa đi ngược hẳn lối suy nghĩ của những người lãnh đạo trong đạo, ngoài đời của xã hội Dothái đương thời. Họ khinh miệt những người nghèo. Họ xa tránh và gọi những người nghèo ấy là “phường tội lỗi”.

Hôm nay, bằng ba dụ ngôn, Chúa dạy những “nhà lãnh đạo Dothái” bài học của lòng yêu thương thông cảm.

  1. MẤT – TÌM – MỪNG

Bài Tin Mừng hôm nay, với ba dụ ngôn, để diễn tả nỗi lòng yêu thương cao cả của Thiên Chúa, có nhiều động từ được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại, đó là những động từ: “mất” (6 lần), “tìm” (8 lần), “mừng” (8 lần).

  • Người ta bị mất, người ta đi tìm. Tìm thầy, người ta vui mừng.
  • Cái bị mất càng quý giá, càng phải tìm. Tìm thấy, nỗi vui mừng càng lớn.

Con người lưu lạc khỏi vòng tay Thiên Chúa, Thiên Chúa lạc mất con người. Cả dòng lịch sử cứu độ trải dài hàng thế kỷ là hành động của Thiên Chúa tình yêu đi tìm con người. Bởi thế, dòng lịch sử cứu độ đã ghi một dấu ấn tích cực, đó là dấu ấn của cả Hội Thánh Chúa và biết bao nhiêu anh chị em đã đáp lại sự tìm kiếm của Chúa.

Con người, đối với Thiên Chúa, đó là quà tặng quý giá dành cho chính bản thân Người. Bởi con người đáng quý, cho nên sự bội nghĩa vong ân của họ gây nên nỗi đau lớn nơi lòng Thiên Chúa. Một khi Thiên Chúa đã tìm thấy con người qua sự đáp trả của họ, đó là một niềm mừng vui không xiết. Chúa Giêsu diễn tả niềm vui này bằng nhiều hình ảnh:

– Người chủ chiên, sau khi tìm thấy con chiên tự ý bỏ đàn ra đi, đã “vui mừng vác chiên lên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: ‘Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc”.

– Người phụ nữ cất mọi công sức đi tìm đồng bạc bị lạc mất: “Đốt đèn, quét nhà, tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy”. Khi tìm thấy, “bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: ‘Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm thấy đồng bạc tôi bị mất”.

– Nhất là người cha nhân hậu, sau bao năm mỏi mòn trông đợi đứa con phụ nghĩa bạc tình, ông vui mừng hết sức khi tìm thấy con ông trở về. Niềm vui của ông vỡ òa trong ngày chính ông được chạm đến cuộc đời đứa con hư hỏng: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giày vào chân cậu. Hãy bắt con be béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.

Ba động từ MẤT – TÌM – MỪNG xuyên suốt ba dụ ngôn, trở thành một tình ca hay, ca ngợi lòng yêu thương vừa kỳ diệu, trường kỳ, sâu thẳm trong hành động tìm kiếm con người của Thiên Chúa, vừa cho thấy: Tội lỗi đáng ghét, đáng loại trừ, nhưng người có tội, dù tội của họ nặng đến mức độ nào, vẫn đáng thương, đáng được tha thứ một khi họ biết ăn năn.

Một con chiên lạc, một đồng bạc bị mất, một đứa con hư hỏng. Thực ra đó là hình ảnh của loài người tội lỗi, là linh hồn con người cần được tình yêu tha thứ của Chúa đón nhận. Linh hồn còn quý giá hơn bội lần đối với con chiên, quý giá hơn đồng bạc, quý giá hơn đứa con hoang đàng. Bởi vậy, một khi tìm lại được linh hồn con người, thì không phải chỉ cả nhà vui, người chủ vui, hàng xóm vui, nhưng cả thiên đàng đều vui: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”.

  1. THÁI ĐỘ NÀO CHO CHÚNG TA?

Thứ nhất: Biết mình có tội.

Cả vô tình lẫn cố ý, nhiều lần ta trở thành “người anh cả” trong dụ ngôn thứ ba, đã không thể thông cảm, không thể đón nhận anh em mình đứng lên sau khi đã vấp ngã, lại còn ganh ghét, lên án, kết tội. Đó là thái độ của những biệt phái và luật sĩ mà bài Tin Mừng nhắc đến nói riêng, các nhà lãnh đạo trong đạo ngoài đời của xã hội Dothái nói chung. Chính thái độ loại trừ một cách độc ác này đã “bị” Chúa dạy liên tiếp bằng ba dụ ngôn đáng giá, để nhắc nhở họ về tình trạng tội lỗi của chính họ. Họ cũng cần được tha thứ, cũng cần được Thiên Chúa yêu thương đón nhận như mọi người. Họ phải khôn ngoan nhìn mình để khám phá con người thực của mình hơn là nhìn người anh em để đổ vạ, để lên án.

Hơn bao giờ hết, chính lúc này đây, lúc mà ta đang lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, hãy biết rằng, Chúa dạy ta đừng xét đoán, đừng lên án anh em, bởi không phải anh em có tội, nhưng là chính bản thân ta có tội. Chúa đang dạy ta hãy cúi đầu nhìn nhận mình tội lỗi mà ăn năn tội và cầu xin ơn tha thứ như lời thú nhận của người con thứ trong dụ ngôn thứ ba: “Thưa Cha, con thật đắc tội với Cha”.

Thứ hai: Đừng đánh mất hy vọng.

Dù ta xấu thế nào, tội nặng đến đâu, ta vẫn không có quyền thất vọng. Hãy tin mãnh liệt rằng, trước khi ta trở về, Chúa đã đi tìm ta. Chẳng những Chúa không bỏ rơi người có tội, ngược lại Chúa chủ động đi tìm. Chúa tìm đến lúc tìm được mới thôi. Ngày nào ta còn xa Chúa, ngày ấy Chúa còn mòn mỏi trông ngóng, chờ đợi, đau khổ. Chúa tìm ta, Chúa cần ta, Chúa thương ta, Chúa nâng niu ta. Một khi đã tìm lại được ta, Chúa không chỉ đón nhận như đón nhận người con ân hận trở về. Nhưng lòng Chúa mở hội, lòng Chúa vui mừng khôn tả.

Ta không có quyền thất vọng trước tình yêu hãi hà của Chúa. Tại sao ta lại thất vọng trong khi Chúa đang tha thiết chờ đợi ta trở về cùng Chúa? Tại sao ta không xác tín rằng, với ơn Chúa, ta sẽ có đủ nghị lực đứng lên trở về với Chúa? Người con hoang đàng trong dụ ngôn thứ ba toàn làm điều xấu, chỉ duy nhất có một hành động đẹp mà thôi: Đứng lên trở về cùng cha. Dẫu chỉ một, nhưng hành động ấy quá đủ để anh lại được ngự giữa tình yêu của cha. Dù ta phạm tội đến mức độ nào đi nữa, thì cũng hãy dứt khoát thực hiện một hành động rất đẹp mà người con hoang đàng đã thực hiện: Ra đi, trở về cùng Cha và thưa với Cha rằng: Lạy Cha, con đã lỗi phạm đến Cha. Hãy nhớ một điều rất quan trọng: Thất vọng là động lực nguy hiểm lôi kéo ta càng ngày càng xa Chúa. Do đó, thất vọng càng nhấn chìm ta. Càng đẩy ta lún sâu vào vũng bùn dơ bẩn của tội lỗi. Thất vọng là giết chết cuộc đời mình, giết chết tương lai vĩnh cửu của mình, giết chết cơ hội trở về với tình yêu của Chúa.

Thứ ba: Tin vào khả năng mình sống thánh thiện.

Ai trong chúng ta cũng có khả năng làm việc thiện. Đó là thực tế. Ngay cả một người dù bậm trợn nhất, xấu xa nhất, thì nội tâm anh ta vẫn khao khát hướng về sự thiện.

Tin vào khả làm việc thiện, sẽ đưa ta tới một niềm tin quan trọng khác: Ta có thể đứng lên thay đổi đời sống và hoán cải lòng mình. Hình tượng người con hoang đàng quyết trở về với cha của anh là bằng chứng mà Chúa đã dùng để nhắc ta hãy tin vào khả năng mình nên thánh thiện. Lịch sử Hội Thánh đã ghi nhận nhiều tấm gương sống đúng như Lời Chúa dạy qua hình ảnh người con hoang đàng. Chẳng hạn: thánh Phêrô, thánh Âugustinô, Thánh Phanxicô Asisi, á thánh Charles de Foucauld… Tất cả những con người thánh ấy, đều đã có một thời gian sai phạm, nhưng đã tự tin đứng lên về cùng Chúa. Họ đã thành công. Họ đã nên thánh. Chính tình yêu của Chúa đã trao cho họ động lực hoán đổi đời mình. Cũng vậy, Chúa vẫn bao bọc đời ta bằng tình yêu triều mến của Chúa. Tin tưởng Chúa không bỏ ta, ta sẽ đủ nghị lực, đủ mạnh mẽ mà dứt khoát giả từ tội lỗi, trở về cùng Chúa..

ANH CÒN NỢ EM …

Đỗ Lực

Tuần qua, trước khi từ giã cõi đời, danh ca Luciano Pavarotti đã thoải mái nói: Thượng đế và tôi không còn mắc nợ gì nhau. Ông đã mắc nợ gì, nếu không phải là món nợ tình yêu, yêu đời yêu Trời. Nhưng món nợ tình yêu ai có thể trả xong?

Càng suy nghĩ, càng không thể hiểu nổi bản chất vô cùng sâu xa của tình yêu. Rất may, qua Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải phần nào bản chất tình yêu cao cả đó.

TỪ VỰC THẲM

Các dụ ngôn trong chương Lc 15 thường được gọi là “Tin Mừng trong Tin Mừng.” Chương 15 tóm tắt sứ điệp Luca về sự tha thứ và thống hối. Những chủ đề này thường hay xuất hiện trong Luca hơn các Tin Mừng khác: ông Dacaria tiên báo Chúa sẽ đem lại ơn tha tội (1:77), và lúc bắt đầu sứ vụ cả ông Gioan lẫn Chúa Giêsu đều loan báo ơn tha thứ và sám hối. Lần cuối cùng Chúa sai các môn đệ đi rao giảng sự thống hối và ơn tha thứ cho mọi dân tộc (24:47). Chủ đề sám hối sẽ trở lại trong các bài giảng ở Công vụ Tông đồ và xác định rõ phương hướng hoạt động trong cuộc đời thánh Phaolô (Cv 26:17-19).

Trong Kinh thánh, sám hối có một ý nghĩa rất phong phú. Tiếng Do thái teshubah nhắc đến việc “sám hối cá nhân vì nghiệm thấy Thiên Chúa là Ðấng từ nhân và đầy cảm thông.” (Tv 51) Tiếng Hy lạp, metanoia gợi nhớ “việc tưởng niệm và canh tân.” Việc “sám hối” ấy dẫn tới việc tha thứ tội lỗi, giải thoát khỏi tù đầy và bãi bỏ hình phạt. Sám hối không phải là leo lên tới Thiên Chúa qua những nấc thang sầu đau và hối hận, nhưng là khám phá niềm vui qua việc tìm kiếm Thiên Chúa. Ðức Giêsu tìm cách hiệp thông và kết bạn, rồi mới tới sám hối, kinh nghiệm về một Thiên Chúa tình yêu.

Chỉ có Thiên Chúa mới có thể mở rộng con tim, đem lại niềm vui lớn lao cho con người. Ðức Giêsu đã diễn tả niềm vui đó qua những chia sẻ rộn ràng của người chăn chiên sau khi tìm thấy con chiên lạc, của người phụ nữ sau khi kiếm lại được đồng bạc. Bữa tiệc sau đó phản ánh tiệc lớn trên thiên quốc, bữa tiệc đem lại “niềm vui lớn lao trên thiên quốc vì một người tội lỗi ăn năn trở lại thì hơn chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn.” (Lc 15:7)

Theo dõi bước chân người con thứ trở về nhà cha, chúng ta có thể hiểu phần nào ý nghĩa đích thực của việc sám hối. Người con thứ ra đi mang theo phần gia sản: “Những gì của cha là của con.” Khi anh ta trở về, người cha sẽ nói cùng một câu như thế với người anh cả, nhưng không theo cách chiếm hữu, mà theo nghĩa chia sẻ và tặng dữ. Người con thứ muốn sống tách biệt để có của riêng. Khi lìa bỏ nhà cha ra đi, anh ta muốn tự mình làm chủ chính mình và của cải mình. “Của cải mà người con thứ phung phí có nghĩa là ‘bản tính’ trong ngữ vựng triết học Hy lạp. Chính người con hoang đàng đã tiêu tán hết “bản tính của mình’”[1] Với thời gian, anh nhận thấy những gì anh tưởng là của riêng, đã bị cuộc đời “vét sạch.” Chẳng mấy chốc, anh nhẵn túi, mất cả tư cách làm người. Anh đã đánh mất tất cả phẩm giá của mình. Từ phẩm giá làm con với đầy đủ quyền tự do, anh mơ ước làm thân nô lệ.

Từ đáy vực khốn cùng, từ chỗ yếu đuối sâu thẳm nhất, anh đã hướng nhìn về người cha. Ai cho tôi một chút vinh dự, một chút tình yêu? Những vết thương lòng rỉ máu. Tôi đang sa lầy giữa cảnh lạnh lùng. Tôi sẽ đưa tay về hướng đâu? Chung quanh bầu bạn chỉ là sự trống vắng. Tôi xao xuyến lo âu. Phải chăng chưa bao giờ tôi hiểu nổi tình yêu?

Sau khi đã phá tán hết tài sản, người con thứ quyết định trở về. Nhưng anh sợ không biết còn mặt mũi nào gặp lại người cũ cảnh xưa không. Có thể mình còn là mình như trước khi ra đi chăng? Anh rất muốn nhưng vẫn “lưỡng lự,” dù “nhà cha” anh đã từng cư ngụ xưa kia. Thế nhưng, từ tận cùng bằng số, trái tim anh nhớ lại niềm hy vọng tràn đầy tình yêu: “Tại nhà cha tôi …” (Lc 15:17) Chỉ còn lại một mình cha tôi mà thôi!

Anh mơ tưởng “cảnh tượng” lúc trở về, nhẩm đi nhắc lại điều anh có thể nói trong hoàn cảnh mình. Anh không dám mường tượng lúc trở về lại được sống trong tình yêu anh đã phá vỡ bằng chính tính sở hữu ích kỷ của mình. Anh chỉ còn hy vọng trở về để kiếm miếng ăn chỗ ở lây lất qua ngày giữa những người làm công … Anh không còn đáng được nhận làm con nữa. Khi người con đi kiếm thức ăn, thì người cha đưa cho anh một thức ăn khác để anh sống mà vẫn còn là con, ngay cả khi người con chỉ có thể tưởng tượng cha vẫn hoàn toàn là cha. Khi người con đi kiếm một chỗ ở, người cha ban lại cho anh một chỗ khác, chỗ vẫn là của anh, ngay cả khi anh vắng nhà. Anh vẫn là trung tâm điểm của tình yêu gia đình. Tình yêu là phần tài sản thừa kế không biến mất. Những thứ thừa kế khác anh xài tan hoang rồi.

Cha anh đã không nói gì. Thay vì trả lời, ông đưa vòng tay ôm cứng lấy anh. Vòng tay đã ngăn không cho anh thực hiện điều anh yêu cầu. Người cha đã cắt ngang, ngay khi mới nghe lời con nói. Ông làm cho anh khám phá thấy điều quý giá nhất anh đã bỏ quên lúc ra đi. Niềm vui đột nhiên bùng vỡ: “Con ta đã sống lại.” Tất cả đã biến tan nơi phương xa: sự giàu có, ảo tưởng, phẩm giá … Giấc mơ cuối cùng chỉ còn là “đậu muồng heo ăn.” Nhưng tình yêu không bao giờ tan biến (1Cr 13.8).

Tình yêu muôn đời vẫn là một mầu nhiệm khôn dò. Qua một vài dụ ngôn Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu giúp chúng ta khám phá phần nào mầu nhiệm đó. Dụ ngôn dài nhất thường được gọi là “người con phung phá.” Nhưng dưới cái nhìn tích cực hơn, đó là “dụ ngôn người cha nhân hậu.”

ÐGH Bênêđictô XVI lại thấy đó là dụ ngôn về hai anh em. Cái nhìn khá sát thực, vì rõ ràng hai anh em tượng trưng hai nhóm người. Nhóm thứ nhất gồm những thu thuế và tội lỗi. Nhóm thứ hai gồm Pharisêu và các ký lục.[2]

Tình yêu thân phụ đã trả lại tất cả những gì người con thứ đã đánh mất. Món nợ tình yêu người anh cả muôn đời còn mắc nợ người em thứ, vì đã không đủ bao dung để thông cảm và chia sẻ với em. Mãi tới bây giờ, nhìn lại quãng đời đã qua, người anh cả đã than thở: “Anh còn nợ em …” Ðúng như thánh Phaolô quả quyết: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tình yêu.” (Rm 13:8)

Tình yêu là sức mạnh lôi kéo người con hoang đàng. Nhưng tình yêu lại trở thành cung đàn lạc điệu đối với những ai đang mải mê tìm kiếm chính mình.

Tuy không bỏ nhà ra đi như em, người anh cả đã tự tách lìa cha quá xa. Anh còn ở lại nhà. Thế thôi. Anh tự cho mình là một người đầy tớ, chứ không phải là một người thân thuộc trong gia đình. Ðàng khác, anh đã trách móc người cha về người em thứ: “Còn thằng con của cha đó!” Nhưng người cha mời anh vào để gặp gỡ và nối lại tình yêu trong gia đình: “Con, con cha … em con … tất cả những gì của cha là của con.” Ðứa con cha đã mất là em con và là con cha. Nó phải được con yêu mến, chia sẻ niềm vui, và chấp nhận. Cả con nữa, hãy mở rộng vòng tay. Cha là cha của hai đứa chúng con.

TÌNH YÊU VÀ NHÂN PHẨM

Chính tình yêu phục hồi nhân phẩm. Người cha là một chứng từ điển hình. Người cha đã phục hồi phẩm giá hoàn toàn cho người con thứ. Ngược lại, phản chứng chính là người anh cả. Muôn đời anh không thể trả món nợ tình yêu cho em ! Chẳng bao giờ anh có thể phục hồi phẩm giá người em. Từ đó tình anh em tan biến. Con người sống bên nhau như gỗ đá, đồ vật hay máy móc mà thôi. Tội lỗi từ đó phát sinh. Con người đánh mất khả năng sáng tạo và tái tạo như Thiên Chúa.

Trái lại, Thiên Chúa trung tín không ngừng tái tạo những gì Người thương mến. Chúng ta đang tìm kiếm sự tuyệt đối trong cuộc đời. Nhưng chúng ta đã đi vào ngõ cụt. Thật khó lùi về đường xưa để tìm lại sự sống đã đánh mất! Con người từ chối yêu thương chân thành. Tội lỗi khép kín tâm hồn và dẫn đến bế tắc trong tương quan với tha nhân. Bởi đó, không thể chấp nhận nổi thái độ của người anh cả.

Phẩm giá người anh cả trở thành một vấn đề, vì tương quan xã hội đã tan biến sau thái độ cứng cỏi của anh. Quả thực, “tất cả mọi giá trị xã hội vốn gắn liền với nhân phẩm và làm cho nhân phẩm phát triển đích thực. Chủ yếu những giá trị này là: chân lý, tự do, công lý, tình yêu. Ðem ra thực hành những giá trị ấy là con đường chắc chắn và cần thiết để làm cho con người hoàn hảo và ngày càng hiện hữu như một con người có tính xã hội hơn.”[3] Người anh cả đã không thấy được tất cả giá trị lớn lao đó nơi em mình, nên đã không thể hành động như thân phụ. Anh tưởng khi không trả lại phẩm giá cho em, mình sẽ được hưởng trọn vẹn gia tài và tăng thêm phẩm giá của mình. Ai dè, chính phẩm giá anh cũng bị sút giảm hẳn trước mặt thân phụ.

Sự thật người anh cả theo đuổi chính là lề luật và truyền thống gia đình. Nhưng anh quên mất một sự thật vô cùng to lớn đó là tình yêu. “Sống trong sự thật có một ý nghĩa đặc biệt trong tương quan xã hội. Thực vậy, khi con người sống chung với nhau trong một cộng đồng, xây dựng trên sự thật, thì cộng đồng sẽ có trật tự và hiệu quả, và tương xứng với phẩm giá con người.”[4] Nếu người anh cả chỉ muốn xử lý với người em, chắc chắn sẽ có một khoảng cách rất lớn trong gia đình. Anh em không thể nhìn mặt nhau, dù sống trong cùng một hoàn cảnh. Tự bản chất, gia đình là một cộng đồng tình yêu. Nếu không có sự tha thứ, làm sao tình yêu có thể hiện hữu như một nền tảng và lẽ sống cho gia đình?

Nếu người anh cả đã tha thứ cho người em, chắc chắn cảnh gia đình sẽ vui tươi đầm ấm. Ai cũng tự do đi lại và sinh hoạt trong gia đình mà không một chút mặc cảm. Công cuộc xây dựng gia đình sẽ đạt hiệu quả tối đa. Một khi tìm lại phẩm giá, người em sẽ thấy mình được mọi người tôn trọng, vì “tự do là là dấu chỉ phẩm vị tối cao của mỗi người.”[5] Phản ứng của người anh đã là một trở ngại lớn nhất cho người em trên đường tìm về phẩm vị tối cao đó. Ngược lại, người cha đã làm tất cả những gì cần thiết cho con thứ trở lại địa vị ban đầu.

Giả sử người cha cũng không tha thứ cho người con hoang đàng, người con cả cũng không vì thế mà hưởng được tự do đích thực. Tuy lúc đó, một mình một cõi, nhưng anh cũng không thể được thân phụ và mọi người kính trọng. Thực vậy, “giá trị của tự do được quý trọng khi mỗi phần tử xã hội được phép chu toàn ơn gọi riêng của mình. Ðàng khác, tự do cũng là khả năng tự tránh xa tất cả những gì có thể làm cản trở sự phát triển cá nhân, gia đình hay xã hội. Tự do trọn vẹn là khả năng tự chiếm hữu điều lợi ích đích thực, trong khung cảnh công ích của mọi người.”[6] Như thế, rõ ràng càng cố gắng ngăn cản người em chung hưởng gia sản thân phụ, người anh cả càng tỏ ra ích kỷ và làm cho gia đình, nhất là thân phụ, mất đi niềm vui lớn giữa cảnh gia đình phát triển và mọi người thăng tiến trong ơn gọi cá nhân.

Khi chối bỏ nhân cách của người em, người anh cả đã vượt quá quyền hạn của mình và đối xử bất công với em. Thực vậy, “công lý là hành vi dựa trên ý muốn công nhận tha nhân như một nhân vị.”[7] Khi không còn công lý, làm sao gia đình trên thuận dưới hòa? Bởi đó, khi không chấp nhận người em, không những người anh cả không có tấm lòng bao dung như thân phụ, nhưng còn thiếu hẳn ý chí để sống theo công lý. Sống trong tình trạng bất công, tất nhiên con người sẽ không tránh được cuộc tranh đấu để giành giựt quyền lợi.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn ý thức mình đang đóng vai trò người anh cả hay em thứ trong đại gia đình dân tộc Việt nam. Xin cho chúng con biết bao dung và tha thứ để tình yêu ngày càng trở thành sức mạnh giải thoát và nền tảng xây dựng dân tộc Việt nam chúng con. Amen.

đỗ lực 16.09.2007

[1] ibid.

[2] ÐGH Bênêđictô XVI, Ðức Giêsu Nadarét 2007:204.

[3] Tóm lược Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 197.

[4] Ibid., số 198.

[5] Ibid., số 199.

[6] Ibid, số 200.

[7] Ibid., số 202.

THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ

Lm Giuse Đinh lập Liễm

CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN C

+++

  1. DẪN NHẬP.

Chủ đề của ba bài đọc hôm nay là Thiên Chúa thương xót những người tội lỗi. Trong bài đọc 1, chúng ta thấy ngay sau khi dân Do thái ký Giao ước với Thiên Chúa đã quay ra phản bội, họ đã bỏ Chúa mà đi tìm một thần tượng khác làm hộ mạng, tức là thờ lạy con bê vàng. Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ định tiêu diệt dân này để lậïp một dân lớn hơn, trung thành hơn, nhưng nhờ lời cầu xin của ông Maisen, Thiên Chúa đã nguôi giận và tha tội cho dân. Thực ra, sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gửi đến cho chúng ta qua bài đọc 1 này là Thiên Chúa rộng lòng thương xót sẵn lòng tha thứ cho những kẻ tội lỗi.

Lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa được thể hiện một cách cụ thể trong Đức Giêsu Kitô. Sự kiện Đức Giêsu đã đón tiếp và cùng ăn với những người tội lỗi làm cho những người biệt phái phẫn nộ. Họ là những người “biệt phái” tránh né mọi tiếp xúc với những người tội lỗi. Họ cho rằng những kẻ tội lỗi là những đồ bỏ đi. Phản ứng lại những lời chỉ trích của nhóm họ, Đức Giêsu đã chỉ ra cho họ một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung, Ngài sẵn sàng tha thứ cho mọi lỗi lầm của con người, bằng cách đưa ra ba dụ ngôn : con chiên đi lạc, đồng tiền bị mất và đứa con hoang đàng. Cả ba dụ ngôn đều nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa quan tâm đến một người hư mất và niềm vui của Ngài khi tìm lại được một người hư mất.

Theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải thay đổi cách nhìn của chúng ta đối với người tội lỗi. Họ không phải là những hạng người bỏ đi như người biệt phái vẫn nghĩ thế; trái lại, họ là một con người, một con người cao qúi trước mặt Chúa không thể để hư mất. Nếu họ hư đi thì phải nỗ lực đi tìm kiếm như người chăn chiên bỏ 99 con mà đi tìm con chiên lạc, đem về cùng chung vui vì một người  tội lỗi đã trở lại.

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+  Bài đọc 1 : Xh 32,7-11.13-14.

Ngay sau khi Thiên Chúa ký Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước. Vì ông Maisen ở lâu trên núi, nên dân đâm ra sợ hãi và tự tạo cho mình một thần tượng để hộ mạng. Đó là dân đã đúc con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Sự bất tín này làm Thiên Chúa nổi giận và muốn tiêu diệt dân, đồng thời Ngài lại hứa với Maisen như xưa đã hứa với Abraham là sẽ làm cho ông nên tổ phụ của một dân tộc lớn. Nhưng ông Maisen đã khẩn khoản xin Chúa  tha tội cho dân, và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt Israel nữa.

Mặc dầu Thiên Chúa hứa tạo cho ông một dân tộc mới, ông đã không lìa bỏ dân tộc mình, vẫn liên đới gắn bó với dân như trước. Chính ông van xin Thiên Chúa tha thứ và được Ngài nhận lời vì Thiên Chúa kiên nhẫn và trung tín.

+  Bài đọc 2 : 1Tm 1,12-17.

Trước khi nói cùng ông Timôthê yêu dấu, thánh Phaolô muốn nhắc lại cách Thiên Chúa đối xử với loài người. Nếu không có điều ấy, ơn gọi của chính ngài khó mà giải thích được : Thiên Chúa tha thứ.  Ngài tạ ơn Chúa vì lòng nhân từ  thương xót của Chúa.

Trước kia, ngài là người bắt đạo và ngạo ngược nhưng đã được Chúa xót thương. Sự trở lại của ngài là một thí dụ điển hình về ơn tha thứ Thiên Chúa dành cho mọi người.

+  Bài Tin mừng : Lc 15,1-32.

Thấy Đức Giêsu hay gần gũi với những người tội lỗi, nhóm biệt phái và luật sĩ tỏ ra rất khó chịu, lẩm bẩm với Ngài. Nhân dịp này Đức Giêsu đưa ra ba dụ ngôn nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa đối với tội nhân : con chiên bị lạc, đồng tiền bị mất và đứa con hoang đàng. Tất cả đều nói lên Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.

Để ý nhận xét, đồng tiền là một vật nhỏ nhất mà cũng mất công tìm tòi kỹ lưỡng, điều này nói lên sự quan tâm rất mực của Thiên Chúa đối với tội nhân. Dụ ngôn đứa con hoang đàng trở về càng làm nổi bật lòng nhân hậu, thứ tha của Thiên Chúa, Ngài là người Cha không bao giờ bỏ rơi con cái bạc bẽo. Chi tiết này càng làm cho người tội lỗi vững tâm trở về cùng Chúa.

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Tấm lòng nhân hậu của người Cha.
  2. THIÊN CHÚA KÊU GỌI NGƯỜI TỘI LỖI
  3. Hòan cảnh đưa đến dụ ngôn.

Đối với Đức Giêsu, người ta có hai thái  độ trái ngược nhau : đối với những người biệt phái và luật sĩ, họ cho mình là người công chính nên khinh thường và tẩy chay Ngài. Còn những người tội lỗi thì lại đến gần Ngài, nghe Ngài giảng và sửa đổi con người của mình. Người Do thái rất khó chịu khi thấy Đức Giêsu giao du với những người tội lỗi và lại còn đồng bàn với họ nữa. Người ta khó chịu với Đức Giêsu vì họ thấy Ngài cư xử ngược với quan niệm của họ.

Đạo sĩ Do thái đã xếp tất cả những ai không tuân giữ lưật pháp vào chung một hạng, họ gọi những người đó là “Dân của đất”. Có một hàng rào ngăn cách  dứt khoát giữa những đạo sĩ Do thái và người “Dân của đất”. Gả con gái cho một người dân của đất thì chẳng khác gì trói cô gái ấy nộp cho sư tử. Luật của đạo sĩ Do thái dạy rằng : Khi có một người là dân của đất, thì đừng trao tiền cho nó, đừng lấy chứng của nó, đừng nói điều bí mật cho nó, đừng đặït nó coi kẻ mồ côi, đừng để nó giữ của bố thí, đừng đi đường với nó”.

Có luật cấm đạo sĩ Do thái không được mời một người dân của đất đến dùng bữa, cũng không được nhận lời mời của ai trong hạng người đó. Luật cấm đạo sĩ Do thái không được giao dịch thông thường với họ, không được mua gì của họ hoặc bán gì cho họ. Các đạo sĩ Do thái quyết tâm tránh hẳn mọi liên hệ với đám dân của đất, tức là những người không giữ đủ các chi tiết tỉ mỉ trong luật pháp.

Trước thái độ kỳ thị ra mặt của các đạo sĩ Do thái đối với người bị coi là tội lỗi,  Đức Giêsu mới kể cho họ ba dụ ngôn để nói về lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, Ngài muốn tìm kiếm và cứu vớt những gì đã lạc mất.

  1. Ba dụ ngôn của Đức Giêsu.
  2. a) Dụ ngôn con chiên đi lạc.

Trước tiên ta cần lưu ý là hình ảnh người chăn chiên và bầy chiên là chủ đề cổ điển trong Cựu ước nói lên tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài (St 48,15 : Lc 12.32). Dụ ngôn này cũng có trong Tin mừng Matthêu, nhưng trong lúc Matthêu áp dụng vào trách nhiệm những vị lãnh đạo Giáo hội, còn Luca nói lên việc Thiên Chúa tìm kiếm người tội lỗi.

Trong dụ ngôn này, người mục tử đã bỏ 99 con kia, dĩ nhiên là được canh giữ cẩn thận, để đi tìm con chiên lạc. Con chiên lạc này mất vì lý do nào đó không được nêu ra trong dụ ngôn. Nhưng có một đều chắc chắn là nó đang sống  những giây phút khốn cực, cần sự giúp đỡ của chủ chăn. Chủ chăn đã phải bỏ 99 con trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc. Một con sánh với 99 còn lại thì chỉ như số không, không đáng gì, đâu có làm cho ông nghèo đi chút nào. Việc làm của ông chứng tỏ hùng hồn rằng : bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một con. Một con đây cho giá trị như  99 con. Ý nghĩa này nói lên tầm mức quan trọng và tự do sự trở về của tội nhân : Quan trọng đến nỗi bất cứù giá nào, người tội lỗi đó cũng phải được trở về, điều đó chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.

Còn một chi tiết làm cho chúng ta cảm động :”vác con chiên trên đôi vai”, vì khi con chiên đi lang thang nhiều giờ hay nhiều ngày xa đàn chiên, nó kiệt sức và nằm xuống. Thật ra phải vác nó lên thôi. Và một con chiên nặng đấy ! Nhất là khi người chăn chiên cũng đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi đầy sỏi đá dưới ánh nắng mặt trời… Chính người chăn chiên cũng rất mệt nhọc ! Nhưng, Đức Giêsu nói hoàn toàn vui mừng, người đó quên đi sự mệt nhọc của mình, bế nó lên tay và vác nó.

Chính Thiên Chúa giới thiệu với chúng ta như thế ! Vả lại hình ảnh ấy không mới mẻ. Toàn thể Thánh Kinh đã thể hiện Thiên Chúa dưới những đường nét của “người chăn chiên” (Is 40,11-49, 10 …(Quesson).

  1. b) Dụ ngôn đồng tiền bị mất.

Đức Giêsu lại tiếp nối tư tưởng bằng một dụ ngôn khác. Đồng tiền nói ở đây là một đồng tiền nhỏ, dễ bị mất trong nhà dân quê xứ Palestina, và có khi phải mất rất nhiều thì giờ mới tìm lại được. Nhà của người Do thái thường tối om, vì chỉ có một cửa sổ tròn đường kính khỏang 45 phân. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây khô. Tìm kiếm một đồng bạc trên một nền nhà như thế khác nào tìm một cây kim trong đống rác. Nhưng người đàn bà quét đi quét lại, tìm cho bằng được.

Một đồng bạc ở đây có giá trị tương đương với một ngày làm công (Mt 20,2). Ở đây muốn nói lên sự mất mát dù chỉ có một đồng cũng là điều quan trọng khiến cho chủ cũng phải tốn công tìm kiếm.  Điều này cũng muốn ám chỉ lòng thương yêu của Thiên Chúa không muốn để ai bị hư đi, nhưng muốn cứu vớt mọi người. Ngoài lý do vì nhu cầu cần tìm đồng tiền bị mất, lại còn có một lý do khác thơ mộng hơn. Tại Palestina, dấu hiệu của người đàn bà có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng 10 đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu lại với nhau bằng một sợ dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng và để dành cho đủ 10 đồng tiền nhỏ đó. Bởi vì cái chuỗi trên đầu của nàng cũng đáng giá gần bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó thì trở nên của riêng nàng, đặc biệt đến nỗi người khác không thể đoạt lấy của nàng món nữ trang đó để trừ nợ. Có thể người đàn bà trong dụ ngôn  đánh mất một đồng bạc thuộc loại đó, và bà ta đã tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm như thế khi đánh mất cái nhẫn cưới vậy.

Vì thế, chúng ta dễ hiểu nỗi vui mừng của người đàn bà khi tìm lại được đồng bạc bị mất. Đức Giêsu cho biết : cũng thế, Thiên Chúa và các thiên sứ  vui mừng khi một người ăn năn trở về, như khi một gia đình vui mừng tìm lại được đồng bạc quyết định cái no hay cái đói của họ, hay cũng giống người đàn bà đánh mất một tài sản có giá trị hơn tiền bạc rồi lại tìm lại được.

  1. c) Dụ ngôn đứa con hoang đàng.

Niềm vui lạ lùng này được sáng tỏ hơn trong dụ ngôân đứa con hoang đàng. Ông chủ chỉ có hai người con trai, tưởng rằng được sống bình yên trong tuổi già với hai con. Nhưng người con thứ tính phóng khoáng, thích tụ tập, muốn xin cha chia gia tài cho anh.

Theo luật Do thái, người cha không được chia gia tài tùy ý mình thích, đứa con cả đương nhiên được hưởng 2/3, đứa con thứ được 1/3 gia tài (x. Đnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi bận tâm buôn bán làm ăn.  Nhưng có một sự trơ tráo nơi đứa con thứ khi chính nó đề xuất việc chia gia tài. Khi nó nói với cha nó :”Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài  mà trước sau gì tôi cũng lãnh được sau khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nhà này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần một bài học thì nó sẽ có một bài học đắt giá, và ông đã chia gia tài cho nó. Tức khắc đứa con lấy phần dành cho nó và bỏ nhà ra đi.

Tuy nhiên, việc xin chia gia tài này có hợp lý không, thì không rõ, chỉ biết rằng sau này chính người con thứ đã hối hận vì hành động trên.

Đi xa nhà một thời gian, nó đã nhanh chóng xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc đáng nguyền rủa của người Do thái… Trong cảnh khốn cùng, nó hồi tâm suy nghĩ lại và quyết định ra đi về với cha nó mà chỉ xin được coi như kột đứa đầy tớ thôi, chứ không dám nhận là con nữa. Nó trở về, cha nó chạy ra ôm chằm lấy mà hôn. Cha nó không để nó kịp mở miệng xin làm đầy tớ, ông đã lên tiếng trước.  Ông đã phục hồi địa vị làm con cho nó bằng những cử chỉ đầy ý nghĩa :

. Xỏ giầy vào chân cậu : . Xỏ giầy vào chân chứng tỏ ông đã tha thứ hoàn toàn cho cậu. Vào thời Kinh Thánh thuở xưa, mang giầy là dấu chỉ của một người tự do, còn đám nô lệ thì đi chân trần. Xỏ giầy vào đôi chân trần của cậu  con tức là xóa đi dấu hiệu thằng con ấy từng là nô lệ của một người nào đó, và đồng thời trả lại cho cậu ta  dấu chỉ cậu là đứa con trai trong gia đình.

. Trao nhẫn cho cậu.  Gắn nhẫn vào ngón tay cậu chứng tỏ ông bố phục hồi trọn vẹn cho cậu tình trạng trước khi cậu bỏ nhà ra đi. Đeo nó vào đồng nghĩa với được quyền hành xử như một thành viên trong gia đình. Và như thế, khi choàng tay ôm, xỏ giầy, đeo nhẫn cho đứa con trai, người bố đã cho thấy ông hoàn toàn nồng nhiệt tiếp đón cậu ta, tha thứ hoàn toàn và phục hồi cho cậu ta trọn vẹn tình trạng trước khi cậu bỏ nhà ra đi.

Truyện : Vải trắng trên cây táo.

Richard Pindell có viết một chuyện ngắn nhan đề “Đứa con trai của một người nào đó” (somebody’s  son). Câu chuyện mở đầu với một cậu bé tên là David bỏ nhà ra đi sống bụi đời. Vì khó quá, không chịu nổi, cậu bèn viết một lá thư gửi về nhà cho mẹ bày tỏ niềm hy vọng được ông bố cổ hủ tha thứ cho cậu và chấp nhận cậu làm con trở lại.  Lá thư như sau :”Mẹ kính mến, trong một vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại, thì mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà chúng ta.

Vài ngày sau, David lên xe lửa đi về. Trong lúc tầu hỏa lao nhanh đến nhà thì hai hình ảnh  cứ chớp lòe liên tục hiện ra trong trí cậu ta. Khi thì trên cây có cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng có một miếng vải trắng nào. Xe lửa càng tiến gần nhà, trái tim David càng đập nhanh hơn. Không bao lâu nữa cây táo sẽ hiện ra nơi khúc quẹo, nhưng David không dám tự mình nhìn tới vì sợ nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang người đàn ông bên cạnh ấp úng nói :”Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không? Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cái cây. Ông làm ơn cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng không nhé”.

Khi chiếc xe lửa rầm rầm lướt qua cây táo, David nhìn chăm chăm về phía trước. Đoạn run run  giọng cậu hỏi người đàn ông :”Thưa ông, có một miếng vải trắng treo ở một cây nào đó không”? Ông ta sửng sốt trả lời :”Ồ, này cậu bé, cành cây nào ta cũng thấy  có cột một miếng vải trắng cả”(Mark Link).

  1. THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ.
  2. Tấm lòng của người Cha.

Người cha trong dụ ngôn phải là một ông chủ giầu sang, đầy quyền lực và oai nghi đúng với đặc điểm của một phú ông miền Đông phương. Đứng trước sự ngông cuồng của người con thứ, người cha đã chia gia tài cho các con không phải vì ông nhu nhược mà vì ông tôn trọng quyền tự do của con. Ngày người con thứ ra đi cũng chính là ngày ông bắt đầu ngóng chờ với niềm tin sẽ có ngày con ông trở về. Quả đúng như vậy. Mặc dù tuổi già sức yếu, người cha vẫn nhìn ra người con từ rất xa. Có thể nói chính ông đã phá tan dáng vẻ oai nghi đường bệ của một phú ông Đông phương để hồ  hởi chạy ra với người con tựa như trẻ thơ mong mẹ về.

Nỗi mừng vui cũng như hàng loạt mệnh lệnh dồn dập của người cha làm cho chúng ta có cảm nghĩ hẳn ông đang chuẩn bị tiếp đón một nhân vật quan trọng. Mà không quan trọng sao được khi ý nghĩa của những mệnh lệnh trên hàm chứa một tình yêu vô bờ bến ông dành cho người con “phá gia” trở về mà không một ngôn từ nào có thể diễn tả hết được.

Chiếc áo mới nhất mà ông mặc cho người con hẳn phải là chiếc áo dành cho ngày Đại lễ. Bởi chỉ có ngày Đại lễ, dịp lễ hội, người ta mới mặc áo mới, mới có dịp để chưng diện mà thôi. Chưa dừng lại ở đó. Chúng ta biết rằng đối với người Do thái, chiếc nhẫn không chỉ là kỷ vật, là món đồ trang sức, không chỉ là biểàu trưng của tình yêu mà nó còn là cái ấn đóng dấu nhằm xác nhận tư cách của một người con và đồng thời cũng xác nhận tư cách của một người được thừa hưởng quyền kế thừa tài sản. Như thế, bằng việc xỏ nhẫn và xỏ dép vào tay chân của người con, người cha trong Tin mừng đã xác nhập mối tương quan cha-con, đồng thời cũng xác nhập quyền thừa kế và trả lại quyền tự do cho nó – điều mà người con thứ không bao giờ nghĩ tới. Chưa hết, người cha còn ra lệnh giết bê đã vỗ béo để ăn mừng cho sự trở về này. Như thế đã rõ, bê chỉ vỗ béo để chờ dịp Đại lễ. Ngày người con trở về và người cha đã hạ bê béo để ăn mừng chẳng phải là dịp Đại lễ mà từ lâu ông hằng ôm ấp mong chờ để có được ngày hôm nay sao ?

Truyện : Thiền sư Sengai.

Có rất nhiều đệ tử đang tu luyện thiền học dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Trong số đó có một đệ tử thường hay thức dậy ban đêm, lẻn trốn một mình trèo tường ra phố rong chơi dạo mát cho thỏa thích. Và một đêm kia, thiền sư Sengai đi kiểm tra phòng ngủ các đệ tử, thấy vắng mặt một người và cũng khám phá ra chiếc ghế đẩu mà anh ta thường dùng để leo qua tường ra ngoài. Sau khi suy nghĩ, thiền sư Sengai liền dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Một lát sau, anh chàng ham rong chơi trở về không biết rằng  thầy mình là chiếc ghế, cứ thản nhiên đặt chân vào đầu thầy mình để nhảy xuống đất. Đúng lúc đó mới khám ra sự thể động trời của mình, anh ta hoảng hốt sợ đến ngất xỉu. Nhưng thiền sư Sengai nhỏ nhẹ bảo anh :”Sáng sớm trời lạnh lắm, con hãy cẩn thận kẻ bị cảm đấy”. Và từ đó, người đệ tử hoang đàng ấy không bao giờ dám ra ngoài chơi ban đêm nữa.

  1. Tình thương tha thứ của Thiên Chúa.

Thiên Chúa được Đức Giêsu mạc khải là một người Cha. Cha nào mà chẳng thương yêu con bằng một tình thương tự nhiên, vô điều kiện, nghĩa là bất chấp con cái tốt xấu, hay dở, có lợi hay gây hại cho mình, bất chấp cả việc  chúng đối xử với mình tệ bạc đến đâu. Tình thương đích thực luôn luôn tự động biểu lộ thành hành động. Bản chất của tình thương là như thế, nếu không như thế thì không phải là tình thương đích thực. Tình thương không biểu lộ bằng hành động chỉ là tình thương ngoài môi miệng (x. Gc 2,16.26). Và hai cách biểu lộ rõ rệt nhất của tình thương là sự tha thứ vô điều kiện và sẵn sàng chấp nhận sự đau khổ hoặc chết cho người mình yêu thương. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người đã được biểu lộ qua hai cách ấy nơi con người Đức Kitô :”Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta”.

Trở lại dụ ngôn đứa con hoang đàng, ta hỏi động lực nào đã làm cho đứa con quay trở về nhà mình ? Chắc chắn không phải vì thương cha mình, mà vì sự khốn khổ nó đang phải chịu do sự ngu xuẩn và bất hiếu của nó. Tóm lại, nó về là vì nó thương bản thân nó hơn là thương cha. Chắc chắn khi thấy nó trở về với “thân tàn ma dại”, cha nó biết nó về với động lực gì. Nhưng đối với ông, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là nó đã trở về, vì nó tưởng như “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Động lực khiến người cha tha thứ và vui mừng đón nhận nó trở về hoàn toàn vì yêu thương con, vì muốn cho nó hạnh phúc, bất chấp quá khứ lầm lỗi của nó. Đó cũng chính là tâm tình của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Chỉ cần người tội lỗi quay trở về với Chúa  trong sự hối hậân về đời sống quá khứ của mình.

Truyện : Tình mẹ tha thứ.

Ở Batna, có một gia đình nằêm vào địa điểm hẻo lánh, gồm bà mẹ với các con, mà thằng con lớn phản bội vô số kể, tên là Sidi Melkassen, ưa a tùng với côn đồ du đãng, bị mẹ khiển trách hằng ngày. Mất tự do, thằng đó bực tức, nhất định hai mẹ con không đội trời chung. Liền bắt mẹ đem giam cầm vào một nhà cô tịch tăm tối. Lấy sợi xiềng xích lớn mà xiềng hai chân mẹ nó lại, đoạn đục vách tường gắn móc khóa lại và giữ chìa khóa trong túi. Đành lòng đóng cửa lại trước những tiếng kêu la, khóc lóc, van nài của mẹ. Trên ba năm trời tồi túng, nóng nực, lạnh lẽo. Không mền, không chiếu, bữa đói bữa no, người mẹ than khóc đã khô nước mắt, kêu không ai nghe, buồn không một lời an ủi. Chiều nọ, một nàng dâu thảo giật được chìa khóa và mở cửa, tháo xiềng giải thoát cho người mẹ vô phúc. Bà đi ra giữa thanh thiên bạch nhật, không còn hình tượng người nữa, ai nấy đều thương hại. Việc này thấu đến tai nhà chức trách, thằng con bất hiếu bị bắt và kêu án sáu tháng tù ở. Ai nấy đều vỗ tay ca tụng công lý. Chỉ có bà mẹ quên tội của con, cất tiếng lên vừa than khóc vừa xin tòa đừng tống giam con mình tội nghiệp. Ôâi, tình mẹ bao la !

  1. Có sự nghịch lý trong ba dụ ngôn chăng ?

Bài Tin mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý : ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc ? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có tính thuyết phục bao nhiêu : một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó ? Nhưng rồi tất cả đều trở nên hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba : Ý của Chúa Giêsu không nhằm tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài. Tuy nhiên có mấy ai chia sẻ tâm ý của Chúa ? Những người biệt phái và luật sĩ thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu qúi giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quí giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.

Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao ? Vì con chiên ấy cần được săn sóc hơn 99 con kia : nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên mà chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Đức Giêsu đã làm như người mục tử ấy : Ngài không chờ đợi kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người biệt phái và luật sĩ, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cái đối xứ này đã hoán cải được một người biệt phái nổi tiếng là thánh Phaolô (Trích Carôlô, Sợi chỉ đỏ A, tr 710-711).

III. CHÚNG TA CŨNG PHẢI CƯ XỬ NHƯ VẬY.

  1. Phải thay đổi cách cư xử.

Giáo hội là Mẹ của chúng ta đã từng có cách cư xử như Đức Giêsu, tạo điều kiện để lôi kéo những con chiên lạc đàn trở về với Chúa. Chẳng hạn , Augustinô, một thanh niên đã từng sống trụy lạc, ăn chơi, và có những đứa con rơi rớt không kém gì đứa con hoang đàng trong Tin mừng. Thế mà khi trở về với Giáo hội, Giáo hội đã mở rộng vòng tay  đón nhận. Sự đón nhận trở nên hoàn toàn khi Giáo hội chấp nhận chàng vào tu viện, và khi thấy chàng xứng đáng, đã phong chức Giám mục cho chàng. Nhờ sự tha thứ quảnng đại ấy của Giáo hội, Augustinô đã trở nên một vị thánh. Chúng ta cũng phải bắt chước Giáo hội mà phải thay đổi cách nhận định và thái độ cư xử đối với tội nhân. Nghĩa là đừng quá quan trọng hóa nết xấu, lỗi lầm của anh em, đừng nuôi lòng thích thú khi thấy anh em sa ngã, lỡ lầm, đừng giả đò thương hại khi đưa lỗi lầm của anh em ra bàn tán và đừng bao giờ tỏ vẻ khinh khi, ruồng bỏ anh em bằng lời ăn tiếng nói, bằng cử chỉ ánh mắt, nhưng hãy bắt chước Chúa biết thông cảm với nỗi khổ tâm của anh em, biết thao thức lo lắng giúp anh em sửa mình, biết tôn trọng, bênh vực anh em, biết cầu nguyện cho anh em.

  1. Ý thức mình cũng là tội nhân được tha thứ.

Có những con chiên xa đàn lạc lối, nhưng cũng có những con đang sống trong đàn mà chẳng phải là chiên. Có đứa con bỏ nhà xa cha, nhưng cũng có đứa con tuy sống gần cha mà lòng dường như đi hoang từ lâu. Nó coi cha không khác gì ông chủ hà khắc keo kiệt, chẳng hề bố thí cho một con bê để vui vầy với chúng bạn. Như vậy, có thứ lạc đàn thể lý và cũng có thứ lạc đàn tâm linh. Có những người không đi nhà thờ vì lòng họ xa Chúa, song cũng có những người không bỏ nhà thờ nhưng lòng họ chẳng gần Chúa hơn được bao nhiêu. Có lẽ vì tâm trí họ đang đi lạc trong khu rừng có nhiều tiếng ca của danh vọng, hương sắc của đồng tiền, hung khí của hận thù, giọng ríu tít đầy lôi cuốn của xác thịt.

Vậy chúng ta có phải là con chiên đích thực không hay chỉ là hữu danh vô thực ? Chắc chắên không ai trong chúng ta dám xưng mình là người công chính như luật sĩ và biệt phái, chúng ta vẫn xưng mình là kẻ có tộâi, và nếu đã biết mình có tội thì phải có lối cư xử với người khác bằng tình thương yêu.

Nếu Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Ngài muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lỗi lầm.

Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ. Đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết :”Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì mọi người trở nên mù lòa”.

“HÃY CHIA VUI VỚI TÔI”

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Nhật Thứ 24 Mùa Thường Niên – Năm C

Trong ba dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đều kết thúc bằng những lời nói đến niềm vui. Người chăn chiên tìm được chiên lạc và vác chiên lên vai rồi về nhà mời bạn hữu láng giềng đến chia vui; người đàn bà tìm thấy đồng bạc mất cũng mời lối xóm đến chia vui; người cha có đưa con đi hoang trở về liền mở tiệc ăn mừng.

Ba dụ ngôn đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.

Chúa Giêsu bày tỏ niềm vui của Thiên Chúa khi người tội lỗi hối cải. Ở dụ ngôn thứ nhất, “trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải“; ở dụ ngôn thứ hai “các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải“; và ở dụ ngôn thứ ba “phải ăn mừng, vì em con đây đã chết, mà nay lại sống, đã thất lạc mà nay lại tìm thấy“.

Tội nhân hối cải, không những được tha thứ, nhưng còn được chờ đợi, được đón tiếp. Niềm vui của Thiên Chúa thật lớn lao khi người tội lỗi biết từ bỏ con đường xấu xa, trở về sống trong tình thương của Thiên Chúa.

Hôm nay xin suy niệm về dụ ngôn thứ ba. “Dụ ngôn đứa con hoang đàng” được gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu” thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của câu chuyện chính là người cha.

Đại văn hào người Anh, Charles Dickens, xem dụ ngôn “Người cha nhân hậu” là câu chuyện hay nhất, là hạt ngọc đẹp nhất của Tin mừng.

Tình thương của cha đối với hai con, nổi bật nơi người con thứ.

  1. Người con thứ

Người con thứ đòi Cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình, rời khỏi ngôi nhà, nơi mình sinh ra, nơi mình được nuôi dưỡng và lớn lên. Trẩy đi miền xa, người trai trẻ mang nổi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là gần gũi quê nhà. Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo, quyết sống riêng khỏi gia đình và cộng đoàn. Anh ta ra đi không phải để học hành, tìm việc làm mà là ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản, sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Anh ta trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Heo là con vật người Do thái ghê tởm.

Khi trở về chẳng còn gì: tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị tiêu xài hoang phí. Anh ta chỉ còn lại một điều duy nhất là  “đứa con nhỏ của cha nó”.

Động lực nào đã khiến nó trở về ? Thánh Luca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây ! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng Cha tôi”. Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với Cha là nó trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công.

Đó phải chăng là một cuộc trở về trọn vẹn ? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao ? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi. Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình Cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin, nó không đủ liều mạng để đi trộm cướp, nó không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này, nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho Cha để có cơm ăn áo mặc. Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi… con không đáng gọi là con Cha nữa”.

Đọc câu chuyện, tôi nhận thấy sự trở về của người con thứ chẳng phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thực tế cuộc sống, khi ngồi giải tội có nhiều hối nhân sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa; mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát… đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa, nguồn mạch của bình an nội tâm, của niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ nhiều người như thế, tôi cảm thông với người con thứ.

  1. Người con cả

Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Anh là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh.Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có. Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Hoá ra cả hai người con vừa khác lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẽ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu sự tha thứ cho em. Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người biệt phái, luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo “ không như thằng con của cha” Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.

Lúc sự giận dữ bùng nổ đến cực điểm, anh cả gặp lại tình cha. Cha đi ra năn nỉ, anh chẳng chịu nghe. Cha bộc bạch tâm tình với anh: “con ơi, mọi sự của cha đều là của con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.

Hình ảnh người con cả thật gần với chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương. Không chia sẽ nổi buồn, nổi khổ tâm, nổi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức.

Cả hai người con cần phải trở về. Sám hối chính là trở về với tình cha, trở lại với tình yêu, tìm lại niềm vui và sự sống.

  1. Người cha

Khi chia gia tài cho con lòng cha đau đớn. Vì tôn trọng tự do của con chứ không phải cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải, muộn phiền vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con làng xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!

Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái, người ta mắc cở không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha. Cha đã tha thứ cho con trước khi con tự thú. Cha vui vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy.

Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.

Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc, cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.

Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt mà nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức mà lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương.

Để có được niềm vui trong Chúa, điều căn bản là phải tin tưởng gắn bó cuộc đời với Chúa, phải thực lòng yêu mến Ngài. Chính niềm tin và tình yêu dành cho Thiên Chúa thúc đẩy con người hoán cải khi lầm lỗi. Cuộc sống sẽ vui tươi hạnh phúc khi chúng ta có Chúa trong cuộc đời của mình. Niềm vui đức tin là niềm vui trong Chúa và có Chúa ở giữa chúng ta.

Hãy chia vui với tôi”, Thiên Chúa vui mừng khi con người sống thân mật với Ngài trong tình cha con.

Hãy chia vui với tôi”, đó cũng là lời mời gọi mỗi kitô hữu chia sẻ niềm vui đức tin với anh em mình trong cuộc sống hàng ngày.

TUYỆT ĐỈNH TÌNH CHA

Am Trần Bình An

Chia sẻ Tin Mừng CN 24 TN NC 2016  (Lc 15, 1-32)

TUYỆT ĐỈNH TÌNH CHA

Nhà thơ Allan Peterson kể câu chuyện: “Tôi đọc câu chuyện một bé trai ngày nào cũng đi học về trễ. Một ngày nọ, cha mẹ em cảnh cáo, em phải đi học về đúng giờ. Vậy mà ngày hôm đó em lại về trễ hơn mọi hôm. Mẹ em đứng đợi ngoài cửa và không nói gì. Tối hôm đó, em nhìn vào đĩa cơm của mình. Chỉ có một lát bánh mì và một ly nước. Em nhìn qua đĩa cơm của bố, một đĩa đầy đồ ăn, rồi em nhìn bố, bố em im lặng. Em quá buồn.

Người cha chờ em nhận ra trong chính sâu thẳm lòng mình, hệ quả nào cho lỗi của mình, rồi ông lẳng lặng lấy đĩa cơm của em để trước mặt ông, còn đĩa cơm đầy đồ ăn của ông để trước mặt em và cười với em. Đứa bé lớn lên để trở thành một người đàn ông. Ngày hôm nay, ông nói: “Suốt đời tôi, tôi hiểu thế nào là Chúa qua những gì cha tôi làm tối hôm đó.”

Cũng vậy, vì tội bất tuân của chúng ta lặp đi lặp lại, Chúa Giêsu trả giá bằng từ bỏ vinh quang của mình, Ngài cho chúng ta bằng cách mang lấy sự khốn cùng và tội lỗi của chúng ta. (Marta An Nguyễn dịch, “Điều kỳ diệu qua tình yêu của Chúa!”)

Lòng Thương Xót quảng đại

Các con số trong ba dụ ngôn giảm dần rất ý nghĩa, từ số 100, đến 10, cuối cùng chỉ còn số 1. Chủ chăn bỏ lại 99 con chiên đi tìm 1 con chiên lạc đàn, người phụ nữ để lại 9 đồng bạc, đi tìm 1 đồng mất, người cha nhân hậu trông ngóng 1 đứa con đi hoang trở về. Thiên Chúa chẳng hề bỏ mất một ai. Ngài không loá mắt trước số lượng ấn tượng, mà bỏ quên đơn vị nhỏ bé, tầm thường.

“Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”(Mt 18, 14) Mỗi cá nhân, mỗi phận người đều được Đức Giêsu tận tình quan tâm, chăm sóc và cứu giúp, vì Đức Chúa Cha đã trao phó cho Người. Hơn nữa, Người còn ra sức chiến đấu, bảo vệ từng người thoát khỏi vòng kiểm toả của sự dữ: “Cha tôi, Ðấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.” (Ga, 10, 29)

Lòng Thương Xót tìm kiếm

Người không dửng dưng, hờ hững, thụ động, ngồi chờ những thân phận yếu đuối, lạc đường, lấm lem tội lỗi, đầy mặc cảm tự ti, muốn trở về với Chúa. Nhưng Người tích cực hy sinh, vất vả, lặn lội, tìm kiếm.“Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao?” Vượt qua gian lao, hiểm nguy, gai góc, sói dữ, Người chẳng nề hà tìm cho bằng được. Người cũng cần kiệm như bà cụ nghèo chắt chiu từng đồng bạc:  “Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao?”

Đó chính là sứ vụ Cứu Thế cao cả của Người đến thế gian: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất.” (Lc 19, 10) Người ân cần tìm kiếm những người tự cảm nhận, khiêm tốn thấy mình hèn mọn, bệnh tật, yếu đuối, tội lỗi, chứ Người không đến với những kẻ kiêu căng, tự phụ, cao ngạo. Bởi chưng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”. (Lc 5, 31-32)

Lòng Thương Xót tha thứ

Chiều nào, Người Cha Nhân Từ cũng lóng ngóng ra đầu ngõ, mòn mỏi ngóng chờ đứa con đi hoang trở về. “Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó hồi lâu.” Người đã hoàn toàn tha thứ, khi vừa nhác thấy bóng dáng tiều tuỵ, thất thểu của chàng trai.

Thiệt khó tin, vì xem ra Người Cha kém trí nhớ, chẳng hề nghĩ đến những tội tày trời của đứa con hoang đàng. Chúng ta thấy ở đây trí nhớ của Chúa Giêsu dường như không còn làm việc nữa! Ngài quên vô điều kiện, quên tức khắc tất cả quá khứ không hay không tốt của ta, mỗi khi chúng ta quay trở về. Ngài chỉ nhớ mỗi người là con Cha Ngài, là em Ngài, nên khi ta quay lại gặp Ngài, thì tức khắc ta lại được mặc áo vinh hiển sự sống của Thiên Chúa.” (ĐTGM Fx Nguyễn Văn Thuận, 10 Khuyết điểm của Chúa Giêsu)

Hân hoan trùng phùng

Cả ba dụ ngôn đều kết thúc có hậu. Nhờ Lòng Thương Xót, con chiên lạc lối được tìm thấy, đồng bạc nhân phẩm được tái hiện, nhất là người con hoang đàng trở về với Người Cha Nhân Từ. “Cả thiên đàng vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” (Lc 15, 7) Làm sao diễn tả cho đủ niềm hân hoan trùng phùng, giữa Người Cha và đứa con sám hối trở về nhà Cha.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã dạy chúng con phải thương xót như Cha trên trời, và cho chúng con biết: Ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha. Xin tỏ cho chúng con thấy nhan thánh Chúa và chúng con sẽ được cứu thoát…(Kinh Năm Thánh LTX)

Khấn xin Mẹ Maria, cầu bầu cho chúng con mãi cảm nhận sâu sắc Lòng Thương Xót vô bến bờ của Thiên Chúa, để sau những lầm lỡ, vấp phạm, chúng con có thể tỉnh ngộ, sám hối trở về Nhà Cha Nhân Từ. Amen.

TRONG THIÊN CHÚA KHÔNG LOẠI TRỪ AI

bài giảng của ĐTC Phanxicô4-6-16

Chúa nhật 24 thường niên, năm c

Xh 32:7-11,13-14; 1Tm 1:12-17; Lc 15:1-7

Câu chuyện trong Tin Mừng mở đầu bằng một sự đối nghịch, một đàng các người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người , đàng khác các là các luật sĩ và các kinh sư nghi ngờ tránh xa Chúa vì thái độ hành xử của Người.  Họ tránh xa bởi vì Chúa Giêsu tới gần những người tội lỗi. Những người này kiêu căng, họ tin mình là những người công chính, những người tuân giữ luật Môse một cách nhiệm nhặt.

Dụ ngôn trong Tin Mừng xoay quanh ba nhân vật: mục tử, con chiên lạc và số còn lại của đàng chiên.  Nhưng chỉ có mục tử là người hành động, chứ không phải các con chiên.  Như vậy, mục tử là nhân vật chính và điểm nhấn là những hành động nơi người mục tử này. Dụ ngôn được dẫn nhập bằng một câu hỏi: “Ai trong các ngươi, nếu có một trăm con chiên và mất một con, lại không bỏ chín mươi chín con trong sa mạc và đi tìm con chiên lạc, cho tới khi tìm ra nó?”  Đây là một mâu thuẫn dẫn đưa tới chỗ nghi ngờ hành động của người mục tử: có khôn ngoan không khi bỏ chín mươi chín con chiên để đi tìm một con chiên lạc như vậy?  Còn hơn nữa bỏ chúng không phải trong một chuồng chiên mà trong sa mạc?  Theo truyền thống Kinh thánh, sa mạc là nơi của chết chóc, khó mà tìm ra nước và thực phẩm, không có chỗ trú ngụ và bị bỏ rôi cho thú dữ và tôm cướp.  chín mươi chín con chiên để lại sẽ không được bảo vệ? Tuy nhiên, sự mâu thuẫn tiếp tục khi nói rằng người mục tử, sau khi tìm thấy con chiên, vác nó lên vai, về nhà, gọi bạn bè và hàng xóm láng giềng tới chung vui.  Dường như người mục tử không trở vào trong  sa mạc để dẫn chín mươi chín con chiên trở về đàng!  Duy chỉ hướng đến con chiên đi lạc, xem ra người mục tử quên chín mươi chín con chiên kia.  Nhưng thật ra không phải vậy!

Giáo huấn của Chua Giêsu muốn dạy cho chúng ta, đó là không có con chiên nào bị hư mất.  Chúa không chịu để một ai phải hư mất dù chỉ một người nhỏ bé nhất.  Hoạt động của Thiên Chúa là hoạt động của người đi tìm các con cái bị mất để rồi vui mừng với tất cả vì tìm  lại được họ.  Đây là một ước muốn không thể nào kìm hãm được: chín mươi chín con chiên có thể kéo chân người mục tử lại, và giữ ông trong chồng chiên.  Ông có thể lý luận như sau: tôi có chín mươi chín con chiên mất một con thì chẳng có gì là quá đáng! Nhưng không!  Người mục tử đi tìm con chiên lạc ấy vì mỗi một con chiên đều rất quan trọng đối với ông, và con chiên đó là con chiên cần được giúp đỡ nhất, con chiên bị bỏ rơi nhất, bị gạt bỏ nhất và ông đi tìm nó.

Tất cả chúng ta đều cảm nhận lòng xót thương của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi là cách thức hành động của Thiên Chúa và Ngài tuyệt đối trung thành với lòng xót thương ấy.  Không có gì và không có ai lấy đi khỏi Chúa ý muốn  cưú rỗi của Ngài.  Thiên Chúa không biết tới nền văn hóa lại bỏ của chúng ta ngày nay.  Trong Thiên Chúa không có điều đó.  Thiên Chúa không loại bỏ một người nào.  Ngài yêu thương tất cả mọi người.  Ngài tìm kiếm tất cả mọi người.  Tất cả!  Từng người một.  Ngài không biết từ “loại bỏ người ta,” bởi vì Ngài là tất cả tình yêu và tất cả lòng thương xót.

Đàn chiên của Chúa luôn luôn tiến bước.  Nó không chiếm hữu Chúa.  Nó không thể nuôi ảo tưởng nhốt Ngài trong các lược đồ và chiến thuật của con người.  Người mục tử ra đi để tìm thất con chiên bị lạc ở bất cứ nơi dâu.  Như vậy người mục tử là chủ thể của hành động.  Ngài muốn đến gặp gỡ chúng ta, chứ không phải chúng ta yêu sách muốn tìm thất Ngài.  Không có cách nào khác có thể quy tụ đàn chiên nếu không theo con đường do lòng thương xót của người mục tử vạch ra.

Trong khi người mục tử tìm con chiên lạc, người mục tử mời gọi chín mươi chín con khác đến tham dự vào viẹc tái hiệp nhất đàn chiên.  Khi đó không chỉ con chiên lạc được mang trên vai, mà tất cả sẽ theo mục tử trở về nhà để chung vui với các bạn bè và hàng xóm láng giềng.

Chúng ta phải năng suy tư dụ ngôn này, bởi vì trong cộng đoàn Kitô luôn luôn có ai đó thiếu và đã ra đi bỏ chỗ mình trống.  Đôi khi điều này khiến nản lòng, và khiến cho chúng ta tin rằng một sự mất mát là điều không thể tránh được, một tật bệnh không có thuốc chữa.  Và khi đó chúng ta có nguy cơ khép kín mình trong chuồng chiên, nơi sẽ không có mùi của chiên, nhưng mùi hôi của việc đóng kín.  Và người kitô hữu không được phép đóng kín, vì chúng ta sẽ có mùi hôi của những gì đón kín.  Không bao giờ!  Chúng ta phải ra khỏi việc đóng kín nơi chính mình, trong các cộng đoàn nhỏ, trong giáo xứ.

Chúng ta đón kín mình khi thiếu lòng hăng say truyền giáo.  Đóng kín mình khiến chúng ta không còn muốn đến gặp gỡ người khác.  Trong nhãn quan của Chúa Giêsu, không có con chiên nào bị mất vĩnh viễn, nhưng chỉ có các con chiên cần tìm về.  Chúng ta phải hiểu rõ điều này, đối với Thiên Chúa không có ai bị hư mất vĩnh viễn.  Không bao giờ!  Cho tới phút cuối cùng, Thiên Chúa vẫn tìm kiếm và cứu vớt.  Chúng ta hãy nghĩ tới anh trộm lành.  Trong Thiên Chúa không có ai bị hư mất vĩnh viễn, mà chỉ có các con chiên được tìm thấy.

Vì thế viễn tượng hoàn toàn năng động, rộng mở, khuyến khích và sáng tạo.  Nó thúc đẩy chúng ta tìm bước đi trên một con đường của tình huynh đệ.  Không có khoảng cách nào có thể giữ người mục tử ở xa và không có đàng chiên nào có thể khước từ một người anh em.  Tìm ra người anh em đã mất là một niềm vui của chúng ta trong tư cách tham dự vào sứ mạng của Vị Mục Tử Nhân Lành Giêsu.  Và đó cũng là niềm vui của cả đàn chiên là cộng đoàn dân Thiên Chúa!  Chúng ta tất cả đều là các con chiên được tìm lại và được quy tụ do lòng xót thương của Chúa, được mời gọi cùng Ngài thu thập thành đàn chiên. Amen.

(Bài giảng của ĐTC Phanxicô ngày 3 tháng 5 n ăm 2016)

SỐNG CHỮ NHẪN

Lm Tạ Duy Tuyền

Chúa nhật 24 thường niên, năm C-2016

Cha ông ta nói rằng:

Chữ nhẫn là chữ tương vàng

Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu

Sự nhẫn nại sẽ giúp chúng ta sống bao dung hơn với anh em. Sự nhẫn nại sẽ giúp chúng ta kìm chế tính nóng giận hay nổi nóng với anh em. Sự nhẫn nại sẽ giúp chúng ta “sống dĩ hòa vi quý” để gìn giữ sự hòa thuận với nhau.

Có một thầy giáo vừa mở cửa bước ra thì đụng ngay một người đàn ông có bộ râu quay nón, cú va chạm mạnh và bất ngờ khiến cặp kính của thầy rơi vỡ vụn và mắt bị bầm tím. Ông ta đã không xin lỗi mà còn lớn tiếng quát: Ai bảo ông đeo kính làm gì? Ông thầy đồ vẫn đáp lại sự vô lý của người đàn ông bằng nụ cười rất hiền hòa khiến hắn kinh ngạc hỏi:

– Này, sao ông không tức giận?

Thầy đồ mới nói:

– Tức giận vừa không gắn được cặp kính đã vỡ, vừa không xoá được vết bầm trên mắt ta. Vả lại nếu ta tức giận mắng chửi anh hoặc động đến chân tay, ắt gây ra cãi vã lớn hơn thậm chí hại đến thân mà vẫn không hoá giải được sự việc. Chi bằng cứ vui vẻ chấp nhận cho xong!

Ông ta nghe xong rất cảm động về bài học đầy tình người này và rồi tiếp tục lên đường. Bẵng đi một thời gian , một hôm thầy đồ nhận một bức thư như sau: “Rất cảm ơn thầy đã khai sáng cho con, hôm đó nhờ đụng phải thầy mà sau nầy con đã cứu được 3 sinh mạng. Sự thể là thế nầy:  một hôm đi làm con quên cặp tài liệu nên quay về nhà lấy,  không ngờ bắt gặp vợ con đang hú hí với ngươi đàn ông khác. Con rất tức giận, chạy vào bếp cầm dao định giết họ sau đó tự sát để chấm dứt mọi chuyện. Không ngờ người đàn ông đó kinh hoàng quay đầu lại, cặp kính đeo mắt rơi xuống đất vỡ toang… con bỗng nhớ đến thầy và câu nói của thầy “Tức giận không giải quyết được vấn đề”  giúp con bình tĩnh lại và thấy rằng oán báo oán , oán lại chập chùng… Con đã tha thứ tất cả. Hiện nay cả nhà chúng con sống hạnh phúc hòa thuận, công việc làm ăn thuận lợi. Gương sáng của thầy đã thay đổi nhận thức của con. Ngàn lần tri ân thầy.

Vâng, đã là con người thì bất cứ ai cũng sẽ mắc sai lầm trong cuộc đời. Vì thế hãy khoan dung với những ai biết hối hận, biết sửa chữa. Hãy cho nhau cơ hội được tha thứ. Vì chắc chắn cuộc đời ta cũng cần những cơ hội như thế. Có tha thứ thì tâm mới bình yên và lòng mới thanh thản. Tha thứ cũng chính là liệu pháp chữa lành tâm hồn chúng ta khỏi nỗi đau của vô ơn, của phản bội . . .

Thiên Chúa vẫn nhẫn nại với lỗi lầm của con người. Ngài còn ân cần với từng người chúng ta. Ngài ví cuộc đời chúng ta như con chiên đi lạc, như đồng tiền đã mất. Ngài đã tức tốc đi tìm mà không màng đến những con chiên còn lại và cũng không tiếc sót mở tiệc ăn mừng khi tìm thấy đồng tiền đã mất. Ngài còn ví tình yêu của Ngài như người cha nhân ái bao dung. Một người cha đã chia gia tài cho con, thế nhưng nó lại dùng của cải để ăn chơi, để vượt ra khỏi mái nhà của cha. Nó đàn điếm đến nỗi thân tàn ma dại. Thế mà, chỉ cần thấy nó trở về, Cha đã quên hết quá khứ tội lỗi của con, và còn ban lại quyền làm con mà nó đã tự đánh mất.

Cuộc sống nơi các gia đình sẽ đẹp biết bao  nếu chúng ta biết sống chữ nhẫn này.

+ Cha con biết nhẫn nhịn , gia đạo mới an vui.

+ Vợ chồng biết nhẫn nhịn, gia đình mới không bị đổ vỡ.

+ Anh em biết nhẫn nhịn, gia đình êm ấm bình yên.

+ Bạn bè biết nhẫn nhịn, tình nghĩa mãi không phai mờ.

+ Tự mình biết nhẫn nhịn, được mọi người yêu mến.

Ước mong  năm thánh Lòng Thương Xót là dịp chúng ta theo gương Chúa mà nhẫn nhịn nhau. Xin đừng ăn thua đủ với nhau. Xin hãy đối xử khoan dung với nhau. Ước gì chúng ta biết làm sáng danh Chúa khi họa lại chân dung Lòng Thương Xót Chúa trong thế giới hôm nay. Amen

THI CA PHÚC ÂM

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN. C

(Lc 15: 1-32)

 

HỐI CẢI

Cùng ngồi ăn uống đồng bàn,

Với người tội lỗi, dối gian ở đời.

Nhóm người biệt phái được mời,

Muộn phiền lẩm bẩm, đôi lời trách than.

Dụ ngôn Chúa dậy đừng van,

Một con chiên lạc, miên man trong rừng.

Chủ chiên tìm được vui mừng,

Trên vai vác nó, tưng bừng hát ca.

Quét nhà tìm bạc văng ra,

Tới khi tìm thấy, cả nhà chung vui.

Một người tội lỗi chôn vùi,

Tìm đường hối cải, ngậm ngùi ăn năn.

Thứ tha xóa hết tội căn,

Thiên thần đón tiếp, ghi danh Nước Trời.

Đứa con phung phá một thời,

Ăn chơi xa xỉ, một đời bê tha.

Cô đơn đói khát nhớ nhà,

Trở về sám hối, thứ tha tội đời.

Cha già rộng lượng cao vời,

Yêu thương con cái, rạng ngời tình cha.

Sự hối cải trở về luôn là mẫu gương đẹp. Trở về mang niềm vui đến cho nhiều người. Trở lại là dứt bỏ con đường cũ và bỏ lại sau lưng quá khứ lỗi lầm. Câu truyện người con phung phá trở về là câu truyện rất dễ thương. Hình ảnh người cha nhân hiền chạy ra ôm con làm ai cũng cảm động. Cha sẵn sàng tha thứ lỗi lầm, không phải bảy lần mà tha tất cả. Lời lẽ sám hối của người con: Lạy cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa. Như thế là đủ, con không cần nói thêm, cha đã hiểu và đã thứ tha cho con.

Người cha đối xử cách rất nhân từ và yêu thương đối với người em trở về. Trong khi người anh lớn lại hơi khó chịu vì sự so sánh và ghen tương. Anh cả ở nhà chu toàn bổn phận và không hề trái lệnh cha. Anh giống như những người Biệt phái giữ trọn lề luật, nhưng thiếu sự yêu thương tha thứ. Lề luật và bổn phận làm anh ra khô cằn, tính toán, rồi sinh ra khó chịu và ghen tức với em mình.

Mỗi người chúng ta chia xẻ tâm sự với người anh cả. Chúng ta vẫn tự hào, chúng ta chu toàn mọi bổn phận người con Chúa như thường tham dự thánh lễ Chúa Nhật, lãnh nhận các Bí tích hằng năm, giữ các giới răn và giữ đạo cả đời. Chúng ta đã thực hành tất cả các giới luật, nhưng lại thiếu đi cốt cõi là sự yêu thương tha thứ. Đôi khi chúng ta so đo và ghen tị với những ân huệ của người khác. Người cha yêu thương cả hai anh em, mặc dầu thái độ không đẹp của con cả. Người cha đã ra năn nỉ người con cả và xin anh vào nhà. Cha sợ con bị mất lòng.

Chúa đến để kêu gọi người tội lỗi, chứ không phải người công chính. Chúng ta là những người tội lỗi. Chúng ta cần trở về với tình yêu của Chúa. Truyện kể: Một bà mẹ có đứa con trai đi theo bạn bè xấu và bỏ bê việc thờ lễ. Bà mẹ lo lắng nhiều cho con. Bà tìm mọi cách để cảm hóa cậu nhưng vô hiệu. Vào một Chúa Nhật, thay vì dục con đi lễ, bà nhờ con chuyển gói quà cho một gia đình ở phố bên cạnh. Bà hứa sẽ không rầy rà con nữa. Để khỏi phải nghe mẹ giảng dạy, cậu nhận lời mẹ. Cậu đến nhà theo địa chỉ và bước vào nhà, cậu bỡ ngỡ nhìn một bà già đau ốm còn da bọc xương, cùng với ba cháu nhỏ rách rưới đang khóc lóc vì đói. Cậu vội đưa quà và bước ra. Bà cụ thều thào nói: Cậu ơi, cậu chưa thể đi ngay được. Cậu là ơn Chúa quan phòng và là tình thương của Chúa gởi đến gia đình tôi. Xin Chúa trả ơn cho cậu. Người thanh niên bị cảm xúc mạnh. Ngày hôm sau, không ai nhắc, cậu đã trở lại với gói quà giúp đỡ do chính tiền của mình. Sau đó, anh đã thay đổi cuộc đời. Lòng nhân hậu của hai bà mẹ đã cảm hóa anh.

Lạy Chúa, Chúa luôn giang rộng cánh tay đón chờ chúng con trở về. Về với lòng nhân hậu của Chúa, chúng con sẽ tìm thấy nguồn an vui đích thực.

THỨ HAI, TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN

(Lc 7, 1-10).

CỨU CHỮA

Vài người kỳ lão van xin,

Thầy ơi cứu chữa, đoái nhìn bệnh nhân.

Sĩ quan cầu cứu người thân,

Nguy cơ sắp chết, rất cần Thầy thương.

Chúa đi theo bước lên đường,

Báo người thân cận, đón đường nài van.

Chúng tôi không dám phiền than,

Nhà tôi không xứng, chuyển van lời mời,

Lạy Thầy, xin phán một lời,

Bệnh tình đầy tớ, sẽ rời mau thôi.

Có nhiều quân lính của tôi,

Sẵn sàng tuân lệnh, lên đồi xuống non.

Niềm tin mạnh mẽ vuông tròn,

Chúa khen viên chức, sắt son tấm lòng.

Xin ơn lành mạnh cầu mong,

Về nhà đầy tớ, cận vong phục hồi.

THỨ BA, TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN

(Lc 7, 11-17).

CHỖI DẬY

Con trai quí nhất qua đời,

Cảm thương mẹ góa, một thời đơn côi.

Đám đông chia xẻ khúc nhôi,

Mẹ con xa cách, hỡi ôi thảm sầu.

Cuộc đời muôn nỗi bể dâu

Động lòng thương xót, cầu bầu thi ân.

Người khiêng đứng lại dừng chân,

Quan tài, Chúa chạm, người thân sống còn.

Thương đau khóc lóc mỏi mòn

Chúa truyền chỗi dậy, trao con mẹ hiền.

Bà con lối xóm mọi miền,

Ngợi khen Con Chúa, ngạc nhiên vô cùng.

Tiên tri xuất hiện trong vùng,

Viếng thăm dân tộc, bao dung tấm lòng.

Loài người chờ đợi khát mong,

Chứng nhân phép lạ, dõi dòng loan tin.

THỨ TƯ, TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN

(Lc 7, 31-35).

SO SÁNH

Người đời lắm chuyện ai ơi,

Ở sao cho khéo, thói đời dèm pha.

Ngồi xem so sánh gần xa,

Đua đòi bắt bẻ, gây ra lỗi lầm.

Trẻ em đường phố thành tâm,

Đùa vui thối sáo, âm thầm chẳng theo.

Bi ai ngâm giọng phường chèo,

Chẳng ai than khóc, sầu gieo trong lòng.

Gio-an Tẩy Giả tinh trong,

Không ăn không uống, theo dòng tà ma.

Con Người ăn uống vui ca,

Mê ăn tham uống, xấu xa tội đời.

Bạn bè tội lỗi đầy vơi,

Ghen tương xét đoán, gây lời dối gian.

Thành tâm suy gẫm nài van,

Nhận ra dấu chỉ, ơn ban bởi trời.

THỨ NĂM, TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN

(Lc 7, 36-50).

YÊU MẾN

Ngỏ lời mời Chúa vào nhà,

Một người Biệt Phái, mặn mà đón đưa.

Lạ thay phụ nữ vô bừa,

Mang bình bạch ngọc, đổ thừa xức chân.

Bà ta nức nở tới gần,

Quì bên cạnh Chúa, hôn chân khóc ròng.

Gia đình Biệt Phái bên trong,

Vấn vương tự hỏi, trong lòng nghĩ sao.

Tiên tri thấu tỏ trên cao,

Người này phạm tội, biết bao lỗi lầm.

Đôi lời gợi ý thâm tâm,

Nợ nhiều, nợ ít, tha cầm sạch trơn.

Ai thương ông chủ nhiều hơn,

Tha nhiều món nợ, mang ơn bội phần.

Chúa thương tha tội gian trần,

Yêu nhiều tha hết, hồng ân diệu vời.

THỨ SÁU, TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN

(Lc 8, 1-3).

NHÂN CHỨNG

Ra đi rao giảng Tin mừng,

Cùng đoàn môn đệ, vào từng làng quê.

Chúa thương giảng dậy chẳng nề,

Đơn sơ nghèo khó, cận kề yêu thương.

Nhiều người theo Chúa trên đường,

Tin Mừng Nước Chúa, muôn phương đón chào.

Người giầu, kẻ khó, khát khao,

Tông đồ môn đệ, truyền rao chí tình.

Đàn ông, phụ nữ, hết mình,

Đi làm nhân chứng, tâm linh rạng ngời.

Hân hoan sánh bước vào đời,

Chia phần của cải, cho người khó khăn.

Dù bao gian khó cản ngăn,

Hăng say nhiệt huyết, xả lăn rao truyền.

Nguồn thiêng ân phúc tinh tuyền,

Yêu thương liên kết, thề nguyền tin yêu.

THỨ BẢY, TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN

(Lc 8, 4-15).

GIEO GIỐNG

Dụ ngôn gieo giống đức tin,

Người gieo hạt giống, mắt nhìn khắp nơi.

Tay vung gieo hạt vào đời,

Vệ đường rơi rớt, chim trời mổ nhanh.

Hạt rơi đá sỏi bộ hành,

Héo đi nhanh chóng, không thành chồi non.

Bụi gai rơi hạt bé con,

Um tùm bóp nghẹt, héo hon nắng ngày.

Hạt rơi đất tốt mọc ngay,

Sinh hoa kết trái, mong thay ơn trời.

Đức tin hạt giống mọi thời,

Gieo lòng nhân thế, mỗi người lắng nghe.

Nghe rồi quên lãng hội hè,

Vui lòng đón nhận, nào dè tháo lui.

Tâm hồn thiện hảo mài dùi,

Lắng nghe Lời Chúa, an vui tâm hồn.

 

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York


[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]

 

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*