• Hai suy tư – Mai Tá
  • Lòng Thương Xót của Chúa đi bước trước - Lm. Luy Hữu Độ, CMC
  • Sự sống - Trầm Thiên Thu
  • Tấm lòng để yêu - Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
  • Thiên Chúa giầu lòng thương xót - Lm. Carolô Hồ Bạc Xái
  • Sự sống hay nỗi chết - Thiên Phúc
  • Thương cảm - Lm. Mark Link
  • Đừng Có Vô Cảm - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  • Tin Sự Sống Đời Sau - Lm. Huệ Minh
  • Lòng Thương Xót cứu độ - AM. Trần Bình An
  • Cảm thông để xót thương - Jos.Vinc. Ngọc Biển
  • Yêu Không Tính Toán - Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
  • Chúa Giêsu làm cho thanh niên sống lại-Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
  • Phép lạ tại thành Na-im - Lm Giuse Đinh lập Liễm
  • Sự thương xót của Chúa sự sống - Charles E. Miller
  • Này người thanh niên, Ta bảo anh: hãy trỗi dậy-Lm Đan Vinh
  • Đừng khóc nữa-Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
  • Thiên Chúa là Chúa của sự sống-Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang
  • Thi ca cầu nguyện-Lm. Giuse Trần Việt Hùng-Bronx, New York
  • Chúa Cho Kẻ Chết Sống Lại-Lm. John Nguyễn

HAI SUY TƯ

Mai Tá

Sau khi đã nói hết những lời ấy cho dân chúng nghe, Đức Giêsu vào thành Ca-phácnaum. Một viên đại đội trưởng kia có người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý người ấy lắm.3 Khi nghe đồn về Đức Giêsu, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông.

Họ đến gặp Đức Giê-su và khẩn khoản nài xin Người rằng: “Thưa Ngài, ông ấy đáng được Ngài làm ơn cho. Vì ông quý mến dân ta. Vả lại chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta.” Đức Giê-su liền đi với họ. Khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này cho bạn hữu ra nói với Người: “Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. Cũng vì thế, tôi không nghĩ mình xứng đáng đến gặp Ngài. Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi được khỏi bệnh. Vì chính tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: “Đi! là nó đi; bảo người kia: “Đến! là nó đến; và bảo người nô lệ của tôi: “Làm cái này! là nó làm.” Nghe vậy, Đức Giê-su thán phục ông ta, Người quay lại nói với đám đông đang theo Người rằng: “Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Ít-ra-en, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế.” Về đến nhà, những người đã được sai đi thấy người nô lệ đã khỏi hẳn.

Sau đó, Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa! ” Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ.16 Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.

“Sóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ,”

Dâng cao lên, cao tột tới trên trời!”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Lc 7: 11-17

Sóng lòng ta, vẫn dâng trào như biển cả, ngoài xứ lạ. Dâng lên mãi, hầu trỗi dậy với Thánh Thần. Trình thuật thánh Luca, nay cũng diễn tả một trỗi dậy từ cõi chết để dâng cao với Thần Khí Chúa sống trong đời. Người trai trẻ thành Na-im nay đã cùng Chúa trỗi dậy, dâng cao mãi chốn miền có Chúa, có ta, có cả mọi người.

Chết rồi trỗi dậy, là đề tài được viết nhiều trong Kinh thánh, cả 4 Tin Mừng. Tin Mừng thánh Máccô đặc biệt chương 5 nói về con của Yai-rô; và, chương 9 lại cũng có nói đến trẻ bé bị ma quỷ hãm hại đến “kinh phong”. Nhiều người lại biện luận: trường hợp như thế, không hẳn đã chết thật, mà chỉ là ngủ như xác chết, thôi. Chuyện hôm nay, về người trai đã thực sự chết gọn trong quan tài đem đi chôn.

Nay, cũng nên suy thêm về từ-vựng “chết” hoặc “nằm chết gọn” nói ở trình thuật. Sự việc Chúa nói hoặc vực dậy người chết cho trỗi dậy, nghe cũng lạ. Đôi lúc, chỉ có nghĩa: “hãy ở sạch”, hoặc: “hãy đứng dậy đi”, là từ-vựng mang tính ảo thuật bên tiếng Aram tương đương với từ “Ephata” tiếng Hy Lạp khi Chúa chữa lành cho người điếc nặng. Từ-vựng này đi kèm dấu chỉ, lời thầm thì, rên rỉ hay sao đó, có người gọi đó là lời cầu không công thức. Là, âm thanh có đính kèm một sờ chạm, đụng vào người. Với người điếc nặng, Chúa dùng nước miếng để sờ chạm và Ngài đưa ngón tay vào tai người điếc là tác- động cụ thể để nên việc. Tất cả, chỉ để gợi lên cung cách hành nghề của pháp-sư và phù thủy thời trước khi các vị này cũng có “quyền-năng cái-thế” hay sao đó với thần hồn người chết.

Phần đông dân thường thời trước, vẫn tin là: người có “quyền-năng cái-thế” vẫn mang trong mình thần-linh nào đó và nhờ thần linh này, họ có uy có quyền vực dậy thần hồn của người khác, đặc biệt là người chết. Chính vì thế, họ có khả năng vực người chết trỗi dậy để đưa về lại với cuộc sống bằng cách ra lệnh cho thần-hồn người ấy ra khỏi cõi chết, tạo sinh khí cho xác-thể trở về y như cũ. Và, dân thường thời ấy định danh cho sự kiện này là “gọi hồn” hoặc “thần-thiêng-hoá” xác chết.

Thông thường, thần linh thần hồn như thế, có thể làm được chuyện sống lại. Có ảo-thuật-gia còn sử dụng người chết cho mục đích đó. Văn chương thời cổ ngoài kinh thánh, đặc biệt là nghệ thuật Đạo Chúa thời tiên khởi, cũng diễn tả việc Chúa làm phép lạ cho người chết trỗi dậy bằng cây gậy mà ảo-thuật-gia khi xưa vẫn làm. Chuyện này, có ý bảo: người chết yểu hoặc chết tức tưởi vẫn muốn hoạt động ở thế trần, như khi trước.

Người “quyền-năng cái-thế”, hay dùng gậy để sờ-chạm vào bệnh-nhân hoặc kẻ chết khiến họ lành lặn mà trỗi dậy. Nghệ thuật Đạo vào thế kỷ thứ 3 và 4, cứ vẽ lên ảnh-hình Chúa dùng gậy để chữa lành cho người bệnh hoặc khiến người chết sống lại. Các hình trên mộ-cổ La-Mã cho thấy: gậy đây, không là gậy để đi, hoặc hộ mạng khi bị công kích. Gậy đây, không là khí-cụ mạnh mà chỉ là cành nhỏ bẻ gập. Có hình còn cho thấy Chúa đã khiến cho ông Lazarô sống lại cũng bằng cây gậy thần-kỳ này. Sách Công vụ kể thánh Phêrô là ảo-thuật-gia vĩ-đại cũng từng dùng “cây gậy” đập cho đá văng khỏi vách, hệt như Môsê khiến cho biển cả tách làm hai cột nước. Tóm lại, nhiều đoạn-văn tả việc sờ-chạm vào người bệnh cũng hệt thế.

Thời Chúa sống, khi Hêrôđê giết chết Gioan Tiền-Hô, nghe nói thánh-nhân đã trỗi dậy nhưng thay vì sống như người thường, thánh-nhân lại “nằm gọn” trong Đức Giêsu, tức ở với Chúa và trong Chúa. Nói thế, không có ý bảo: Chúa bị thần-tính của thánh Gioan Tẩy Giả ám ảnh, mà là: Chúa sử dụng thần-hồn của thánh-nhân ‘phụ lực’ Ngài khi có yêu cầu, cả vào khi Ngài làm phép lạ, nữa. Sức mạnh bên ngoài đã vực thánh-nhân trỗi dậy ra khỏi sự chết và trao thần-tính của thánh-nhân cho Chúa sở-hữu vẫn mời gọi thánh-nhân làm phụ tá cho Ngài. Chúa có thể vận-dụng thánh Gioan Tẩy Giả sau khi ông chết để có tác-dụng như một phép lạ, thôi. Có vị lại nghĩ về giả thuyết bảo rằng: Chúa có làm thế cũng để kết-nối tác-tạo với thần-khí Êlya.

Thành thử, vấn đề đặt ra, là: Chúa có là ảo-thuật-gia hay nhà phù-thủy không?

Trường hợp của Chúa, có vấn-nạn bảo rằng: quyền-uy Ngài xua đuổi tà-thần, chữa lành người bệnh và vực dậy người đã chết. Không quyền-uy nào như thế được trình bày như thể độc-quyền chỉ mình Chúa mới có. Quyền đó không là kết quả thần linh “bắt quyết” Ngài theo cách sao đó. Nhưng thật sự, Chúa có thể sử dụng quyền năng như Ngài muốn, chứ không vâng nghe theo lệnh của bất cứ thần-linh nào hết. Chính Ngài tự định-đoạt sự việc lúc nào thì sử dụng và sử dụng ra sao quyền-bính của Ngài, chỉ mỗi thế.

Là Chúa, Ngài trao đổi lời thề-nguyền, rời bỏ quyền-uy khuynh-loát, chỉ sử dụng nó với mục đích nào do Ngài định đoạt. Ngài trao ban quyền-bính cho nhóm người được Ngài tuyển chọn. Ngài còn thổi Thần Khí vào con người họ, lúc còn sống. Theo tư duy Do thái, thần-hồn và hơi thở cũng giống nhau. Người xứ Địa-Trung-Hải thời đó, cũng nghĩ rằng: “thổi hơi” là việc của ảo-thuật-gia vẫn từng làm. Thông thường, Chúa trông giống ảo-thuật-gia tối cao vẫn trao quyền cho người vừa mới gia nhập cộng đoàn.

Còn, pháp sư là người có được quyền bính từ những quan-hệ trao-đổi với thế giới thần-bí. Ông ta làm việc này, bằng các động-tác linh-thiêng đặc biệt trong đó có chuyện gọi mời, lên đồng hoặc đối tác với thần linh bí-ẩn. Gọi mời, có thể là việc chân-truyền nhưng thường thì không thế. Việc đó, thường do quyền-năng ở cấp độ cao hơn đã tuyển chọn mình và người được chọn tuy cũng có quyền-uy như thế, lại không được phép khống-chế quyền-bính ở cấp độ cao hơn mình.

Việc “lên cơn nhập hồn” bao gồm chuyện cách ly, để thực thi một số động tác tự hủy như: ăn chay, sống độc thân thanh khiết, liên-lỉ cầu nguyện và tôi-luyện thần-trí. Trao đổi với thần khí, thường ngang qua động tác co giựt, hôn mê, nhập-hồn lúc hồn tạm thời rời khỏi xác trong chốc lát. Vào trường hợp tương-tự như trường hợp độc đáo của pháp sư. Bởi, pháp sư là người duy trì trí nhớ và xui khiến thần tính thâm nhập xác thể một cách linh động, mà người ấy không sợ bị thần-bí kềm-chế. Pháp sư đầy kinh nghiệm, còn có thể là người tương-tác trực-tiếp với thần linh độ-lượng nên có thể hành xử như người chữa lành, trừ quỷ và hành nghề đồng bóng.

Vậy hỏi rằng: Đức Giêsu có là pháp sư như thế không?

Thật ra thì, việc pháp sư “gọi hồn” và “lên đồng” với việc Chúa lĩnh chịu thanh tẩy cũng như chấp nhận để ma quỷ cám dỗ có nét song hành, na ná. Thế nhưng, Tin Mừng không thấy nói đến chuyện Chúa bị “nhập hồn” mê mẩn và cũng chẳng thấy Chúa có hành vi nào dựa vào uy-lực ngoại-vi làm đặc điểm con người của Ngài. Và, Chúa thực-hành việc tự-huỷ để trở thành hư không/trống rỗng mà không muốn có lợi cho Ngài. Đằng khác, Ngài luôn cương quyết san sẻ quyền năng của Ngài cho người khác.

Vả lại, nơi Ngài luôn có sự hiện-diện của “Thần Khí Thánh Ái” ở với Ngài. Thần Khí Ngài làm được tất cả, từ thổi hơi sống động cho mọi người được sống linh-hoạt, lẫn vực dậy người chết trở về với lối sống thân thương, đổi mới, thành con người mới không tồi tệ.  Như Tin Mừng nhấn mạnh, việc Chúa làm đã khiến mọi người kinh-hãi và tôn-vinh Thiên Chúa bằng những câu: “Một ngôn sứ cao cả đã trỗi dậy giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài.” (Lc 7: 16)

Chắc chắn một điều, là: hành-tung của pháp-sư chỉ để đối-đầu với thần-linh khuynh-loát, để rồi tự đặt mình dưới uy lực tà-thần luôn đè-bẹp mình vào cõi chết. Còn, Đức Chúa của ta chỉ vực dậy kẻ đã chết về tâm hồn lẫn xác thể, để họ biết mà sống sao cho Thiên-Chúa-là-Cha được tôn-vinh, cao cả. Đấng Cao Cả ở trên cao, nay bằng lòng giáng-hạ để sống chung và cùng sống với kẻ nghèo hèn đến nỗi chết, ngõ hầu cho họ được trỗi dậy mà sống cuộc đời cao cả làm dân con Chúa, với muôn người.

Cảm nghiệm tôn vinh Chúa là Đấng luôn vực dậy kẻ yếu hèn, ta hãy hát lên lời thơ vang rằng:

“Máu tim ta tuôn ra làm bể cả,

Mà sóng lòng rồn rập như mây trôi.

Sóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ,

Dâng cao lên, cao tột tới trên trời.”  (Hàn Mặc Tử – Biển Hồn Ta)

Biển hồn ta, nay có Chúa vực lên chốn cao cả có sóng lòng rồn rập, mây trôi. Sóng lòng ấy, nay vẫn dâng cao, dâng cao tột để người người quyết tôn-vinh Chúa, Đấng Cao Cả đã hạ giáng viếng thăm dân con Người mãi không thôi, chẳng chấm dứt.

 

Lm Kevin O’Shea CSsRm – Mai Tá lược dịch.

Chuyện phiếm đọc trong tuần 10 mùa thường niên năm C 05/6/2016

“Hãy lắng tiếng nói”

vang trong tâm hồn mình người ơi” Con tim chân chính không bao giờ biết đến nói dối. Tôi đi chinh chiến bao năm trường miệt mài, Và hồn tôi mang vết thương vết thương trần ai.” (Lê Minh Bằng – Đêm Nguyện Cầu)

(Mt 6: 5-8)

“Lắng tiếng nói” ư, dễ chừng được bao lâu? Kéo dài bao nhiêu lần trong ngày? Chắc là, ta không thể lắng thế mãi suốt mọi ngày trong tuần, được phải không? Bởi, có làm thế thì thế-gian này rồi cũng sẽ phong cho người ấy/vị ấy là thánh-nhân, mất thôi.

Ấy kìa, người nghệ-sị lại hát thêm câu ca da-diết, những là: “Con tim chân chính không bao giờ biết đến nói dối”…Ôi thôi! Một sự thật ở trong đời. Nhưng, vấn-đề là hỏi rằng: hôm nay, bạn và tôi, ta có tìm ra con tim hay “chim” nào được như thế, không. Đó, mới là chuyện khó. Khó thấy và khó làm.

À thì ra, nghệ sĩ mình có viết như thế, cũng chỉ để vinh-danh các thân-hào/nhân-sĩ hoặc chiến-hữu từng thấy những là: “hồn tôi mang vết thương, vết thương trần-ai!”… Thế mới biết, chiến-hữu hôm ấy và dân con nhà Đạo bây giờ, đã biết “chắp tay nguyện-cầu” cho đất nước, cho người khác và cả cho mình, như sau:

“Thượng Đế hỡi!

có thấu cho Việt Nam này,

Nhiều sóng gió trôi dạt lâu dài.

Từng chiến đấu tiêu diệt quân thù bạo tàn.

Thượng Đế hỡi!

hãy lắng nghe người dân hiền.

Vì đất nước đang còn ưu phiền.

Còn tiếng khóc đi vào đêm tường triền miên.”

(Lê Minh Bằng – bđd)

Vâng. Thoạt khi “rưng rưng tôi chắp tay nghe hồn khóc đến rướm máu”, là lúc mà: người chiến-hữu và/hoặc dân con nhà Đạo bắt đầu nguyện-cầu Thuợng-Đế cho dân mình và mọi người được hạnh-phúc sống chức-năng con người mình, thật rất đúng.

Vâng. Đó chính là ý-nghĩa và mục-đích của động-thái nguyện-cầu nơi dân con Đạo Chúa, xưa và nay, như đấng bậc nhà Đạo chuyên-trách mục hỏi/đáp giáo-luật/phụng-vụ trên báo Đạo “The Catholic Weekly” từng đáp-trả về sự/việc tín-hữu trong Đạo xưa/nay, hằng ngày vẫn có thời-giờ nguyện-cầu, rất như sau:    “Sách Công-vụ Tông-đồ ở đoạn 3 câu 1, vẫn từng bảo: “Một hôm, ông Phêrô và ông Gioan lên Đền Thờ, vào buổi cầu giờ thứ chín.” Và sau đó, cũng ở sách này, lại thấy qui-chiếu đoạn 10 câu 9, những quả-quyết: “Hôm sau, đang khi họ đi đường và đến gần Gia-phô, thì ông Phêrô lên sân thượng cầu nguyện; lúc đó, vào khoảng giờ thứ sáu.”

Xem thế thì, giờ thứ sáu là đúng vào giờ ngọ, tức: 12 giờ trưa, còn giờ thứ chín là đúng ba giờ chiều. Còn giờ thứ ba, là 9 giờ sáng. Như thế, ta có thể mường-tượng ra rằng: giờ cầu-nguyện được tính như thế là rút từ thời-khoá-biểu nguyện cầu của Do-thái-giáo, ở thời trước.

 

Truyền-thống Do-thái-giáo từng chép rằng: Tổ-phụ Abraham, Isaác và Giacóp đã dẫn-nhập thói-tục nguyện cầu những ba lần trong một ngày, vào giờ giấc nói rõ như trên. Và, tổ-phụ Abraham lại đề-nghị thêm một buổi cầu-nguyện vào ban sáng. Trong khi đó, ông Isaác lại đề-nghị con dân trong Đạo hãy nguyện cầu vào buổi xế; và ông Giacóp đề-nghị bà con ta cầu-nguyện vào ban đêm.

 

Thêm vào đó, mỗi đấng tổ-phụ lại có tính đặc-thù hoặc phẩm-chất tư-riêng khiến người Do-thái-giáo quyết phải sống đích-thực đời mình trong nguyện-cầu. Tổ-phụ Abraham phụng-sự Thượng Đế với lòng thương-yêu, tử-tế, rất trìu-mến. Ông Isaác lại chủ-trương sống đời công-chính, kính-trọng. Còn ông Giacóp lại thực-thi cuộc sống bằng tất cả sự thật và lòng từ-bi. Thế nên, người Do-thái-giáo dạy con khuyên cháu hãy phụng-sự Thiên-Chúa và cầu-nguyện lên Ngài bằng tất cả tình yêu thương, kính-trọng và lòng nhân-hậu.

 

Vào thế-kỷ thứ nhất sau Công nguyên, sau khi chấp-nhận luật Torah qua ông Môsê, cá-nhân người theo Đạo Do-thái-giáo đều nguyện-cầu vào bất cứ thời-gian nào trong ngày, ngay tại đền thờ Giêrusalem. Đền thờ này, vẫn định giờ giấc để dân con mọi người có thể thực-hiện việc cúng-tế và nguyện-cầu. Cúng-tế, được tổ-chức vào buổi sáng và xế chiều có khi kéo dài vào ban đêm, nữa. Và, vào những ngày đặc-biệt, lại có thêm nhiều buổi cúng-tế dâng tiến Chúa. Nhiều người Do-thái-giáo còn cầu-nguyện ba lần trong ngày, vào giờ trên.

 

Vua Đavít có ghi trong thánh-vịnh 53 câu 17-18 và dạy rằng: “Phần tôi, tôi kêu khấn Chúa Trời, Chúa sẽ thương cứu độ. Sớm trưa chiều, tôi than sầu rên rỉ, Người sẽ nghe tiếng tôi.”

Và, vào thời lưu-lạc ở Babylon vào thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên, tiên-tri Đaniên cũng từng viết: “Phần tôi, tôi kêu khấn Chúa Trời, Chúa sẽ thương cứu độ. Sớm trưa chiều, tôi than sầu rên rỉ, Người sẽ nghe tiếng tôi.” (Đn 6-11-12)…

 

Ở Giáo-hội thời đầu, các thánh tông-đồ cũng tiếp-tục nguyện-cầu vào giờ giấc kể ở trên, tức ba lần trong ngày. Đặc-biệt, thánh Phêrô và thánh Gioan cũng làm thế. Sách Điđakê, cũng có kể chuyện này xảy ra vào cuối thế-kỷ thứ nhất, sau Công nguyên.

 

Đến thế-kỷ thứ hai và ba, các tác-giả như thánh Clêmentê ở Alexandria, thánh Origênê và Tertuliô có viết rằng: việc nguyện-cầu được các thánh-thực-hiện sáng/chiều vào giờ thứ ba, thứ sáu và thứ chín.

 

Vào thế-kỷ thứ tư, Hiến-chế Tông-đồ có khuyên: “Hãy dâng lời cầu-nguyện của các người vào buổi sáng, giờ thứ ba, thứ sáu và thứ chín, cả vào buổi chiều và vào lúc gà gáy nữa.” (X. đoạn VIII, câu iv, 34)

 

Những ai có thói quen dự các Giờ Kinh Phụng-vụ hoặc đọc Kinh Thần-vụ sẽ thấy rằng đấy là giờ giấc thích-hợp cho việc hát thánh-vịnh và đọc sách thánh. Theo cách này, Giáo Hội Chúa, ngang qua các thừa-tác-viên và những vị dâng mình vào cuộc sống thánh-hiến, sẽ sống thực điều mà thánh Phaolô từng khuyên-nhủ như thánh-nhân có viết thư gửi cộng-đoàn Thessalônikê, những lời sau đây: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu.” (X. Lm John Flader, Did early Christians have regular times of the day to pray?, The Catholic Weekly, Question Time 24/4/2016, tr.22)

Dân con nhà Đạo thời xa/xưa, nguyện-cầu thì như thế. Nhưng hỏi rằng: có cần cầu-nguyện gồm lời lẽ suy-tư đầy tiếng khóc khóc đến rướm máu, như tiên-tri Đaniên, thánh Clêmentê, Origiênê hoặc như nghệ-sĩ ngoài Đạo từng tâm-sự như sau không?

“Có những lúc tiếng chuông đêm đêm vọng về rừng sâu. Rưng rưng tôi chấp tay nghe hồn khóc đến rướm máu. Bâng khuâng nghe súng vang trong sa mù, Buồn gục đầu nghẹn ngào nghe non nước tôi trăm ngàn ưu sầu.”

Lê Minh Bằng – bđd)

Nói khác đi, thì người cầu-nguyện Thượng-Đế có tiếng khóc đến rướm máu, có sống-thực lời cầu mình dâng lên không?

Nói cách khác, sống đạo là thế nào? Và cầu-nguyện phải ra sao? Sống-Đạo-nguyện-cầu chuyện vãn với Đức Chúa có buộc phải thế không? Hay, ta còn nhiều cách khác chứng-tỏ mình là “con nhà có Đạo” rất đạo-hạnh và tin-tưởng?

Trả lời cho câu hỏi này, xem ra cũng hơi khó. Khó, ở chỗ: mỗi người sống mỗi khác. Mỗi vị đều có nhân-sinh-quan đạo-hạnh, cũng khác nhau.

Nếu cứ hiểu ý-nghĩa và mục-đích đích-thực của việc nguyện-cầu và tin-tưởng vào Đức Chúa, Đấng mà xưa nay mình vẫn tin và thờ, chắc hẳn có người cũng sẽ “khóc thét” lên với nghệ-sĩ sáng-tác bài hát ở trên, mà hát thêm rằng:

Có những lúc tiếng chuông đêm đêm vọng về rừng sâu.

Rưng rưng tôi chấp tay nghe hồn khóc đến rướm máu,

Quê hương non nước tôi ai gây hận thù tội tình,

Nhà Việt Nam yêu dấu ơi bao giờ thanh bình?”

(Lê Minh Bằng – bđd)

Nói cho cùng, chuyện nguyện-cầu và tin tưởng, cũng tùy mình/tùy người và mỗi chư vị trong Đạo. Có lẽ, điều nên làm lúc này là ta cùng nhau đi vào vùng trời Lời của Chúa để nghe lại những lời dặn-dò hôm trước còn vang vọng như sau:

“Khi cầu nguyện,

anh em đừng làm như bọn đạo đức giả:

chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường,

hoặc ngoài các ngã ba ngã tư,

cho người ta thấy.

Thầy bảo thật anh em:

chúng đã được phần thưởng rồi.

Còn anh, khi cầu nguyện,

hãy vào phòng, đóng cửa lại,

và cầu nguyện cùng Cha của anh,

Đấng hiện diện nơi kín đáo.

Và Cha của anh,

Đấng thấu suốt những gì kín đáo,

sẽ trả lại cho anh.”

(Mt 6: 5-7)

 

“Khi cầu nguyện,

anh em đừng lải nhải như dân ngoại;

họ nghĩ rằng:

cứ nói nhiều là được nhận lời.

Đừng bắt chước họ,

vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì,

trước khi anh em cầu xin.”

(Mt 6: 8)

Vâng. Nguyện-cầu trong tin-tưởng, vẫn phải như thế. Và, sống niềm tin có cầu nguyện trong thinh-lặng, cũng như vậy. Như thế và như vậy, càng hiện rõ hơn bằng giòng chảy đầy kể lể những câu truyện hoặc những nhận-định thân thương, nhè nhẹ, đầy tâm-huyết.

Kể, là kể cho nhau những câu truyện ngăn ngắn để thưởng-thức những giây phút vui-tươi, buồn cười cho qua ngày đoạn tháng như một lời cầu cho mình và cho nhau như sau:

Truyện, là thế này:

Thuở xưa có chàng trai nọ con một vị Bà la môn Ấn Độ sống dưới triều vua Pasenadi (Ba Tư), kinh thành Xá Vệ, thuộc vương quốc Kosala. Tên của chàng là Ahimsaka (người thất bại). Chàng được gởi đến thành phố Taxila để học hành. Ahimsaka rất thông minh và biết vâng lời thầy, nên chàng được cả thầy lẫn bà vợ thầy yêu mến. Điều này đã khiến cho các học viên khác ganh tỵ với chàng. Vì thế họ tìm đến thầy giáo và vu cáo Ahimsaka có mối quan hệ bất chính, trái đạo lý với bà vợ của thầy. Thoạt tiên, vị Thầy không tin họ; nhưng sau khi nghe điều đó lập đi lập lại nhiều lần, ông nghĩ rằng đó là sự thật và thề sẽ trả thù Ahimsaka.

 

Ông thầy nghĩ rằng việc giết người học trò sẽ gây tai tiếng, sẽ ảnh hưởng xấu đến bản thân ông. Cơn giận dữ thúc giục ông đã đưa ra mệnh lệnh giết người, một việc không thể tưởng tượng nổi đối với chàng thanh niên Ahimsaka trẻ tuổi và ngây thơ kia.

 

Ông ta bảo cậu học trò phải giết một ngàn người và mang về ngón tay cái của từng người để trả học phí.

 

Cố nhiên chàng thanh niên không muốn nghĩ đến một việc kinh khủng như vậy và từ chối không theo mệnh lệnh kia. Vì thế chàng đã bị tống cổ ra khỏi nhà thầy và trở về với gia đình cha mẹ.

Khi cha chàng biết được tại sao Ahimsaka đã bị đuổi, người cha vô cùng tức giận về đứa con của mình và không chịu nghe lời giải thích của con.

 

Cũng chính trong ngày ấy, lúc trời đang đổ mưa như trút nước, người cha xua đuổi Ahimsaka ra khỏi nhà. Ahimsaka chạy đến mẹ chàng và xin lời khuyên. Nhưng bà cũng không thể chống lại quyết định của chồng.Sau đó Ahimsaka tìm đến nhà vị hôn thê của chàng theo cổ tục hứa hôn từ lâu trước khi đi đến hôn nhân thực sự ở Ấn Độ. Nhưng khi gia đình này biết lý do Ahimsaka bị đuổi ra khỏi trường, họ cũng xua đuổi chàng.

 

Nỗi ô nhục, giận dữ, sợ hãi và tuyệt vọng của Ahimsaka đã làm cho chàng điên tiết. Trong nỗi đau đớn cùng cực đó, đầu óc của chàng chỉ nhớ lại mệnh lệnh khắc nghiệt của người thầy, góp nhặt một ngàn ngón tay người. Và vì thế mà chàng bắt đầu lao vào cuộc chém giết như vậy, những ngón tay góp nhặt được chàng treo chúng lên cành cây. Nhưng chúng bị bầy quạ và diều hâu phá hoại, sau đó chàng đã mang vào người vòng ngón tay để giữ gìn và theo dõi số lượng.

 

Cũng vì điều này mà Ahimsaka dần dần được biết qua cái tên Angulimala -người đeo vòng ngón tay và đã trở thành nổi hãi hùng cho vùng nông thôn thành Xá Vệ này. Chính đức vua đã nghe được việc giết hại của Angulimala và ra lệnh bắt tên sát nhân.

 

Khi bà Mantani, mẹ của Ahimsaka, biết được lệnh truy nã của vua, bà vào rừng để tìm con, với những nỗ lực tuyệt vọng để cứu đứa con của mình. Lúc ấy, vòng đeo cổ của Angulimala chỉ còn một ngón nữa là đủ túc số một ngàn. Đức Phật biết được tình thương và nỗ lực ngăn cản của người mẹ đối với con và nghĩ rằng nếu Ngài không can thiệp thì chắc chắn Angulimala, đang tìm người cuối cùng để làm cho đủ số một ngàn, sẽ gặp chính mẹ của mình và y có thể giết bà.

 

Trong trường hợp đó, y sẽ chịu đau khổ còn lâu dài hơn nữa vì nghiệp ác của mình. Do lòng bi mẫn, Đức Phật đã quyết định đi đến khu rừng kia. Sau nhiều ngày đêm mất ngủ, Angulimala rất mệt và gần như kiệt sức, y rất nôn nóng tìm cách giết người cuối cùng để đủ số lượng một ngàn và hoàn tất phận sự của mình, y quyết định giết người đầu tiên mà mình gặp. Khi nhìn xuống từ nơi ẩn mình trên núi, y thấy một người đàn bà trên con đường phía dưới. Y muốn làm trọn lời thề của mình để có đủ một ngàn ngón tay, nhưng khi đến gần, y nhìn thấy người đó chíng là mẹ mình.

 

Cùng lúc ấy, Đức Phật cũng đang đi tới, và Angulimala liền định thần quyết giết chết người tu sĩ kia để thay thế cho mẹ mình. Y liền vung gươm bắt đầu đi theo Đức thế Tôn. Nhưng Đức Phật vẫn di chuyển trước mặt y. Angulimala không thể đuổi kịp được Ngài. Cuối cùng, y quát lên:

-Này, tên khất sĩ kia, hãy đứng lại ! Đứng lại !”, Đấng Giác Ngộ trả lời:

-Ta đã đứng lại từ lâu rồi, chỉ có ngươi mới là người chưa dừng lại thôi !” Angulimala không thể hiểu được ý nghĩa của những lời này.

Vì thế y lại hỏi:

-Tên khất sĩ, tại sao ông nói rằng ông đã dừng lại, còn tôi vẫn chưa dừng, nghĩa là sao?” 

Đức Phật đáp:

-Ta nói rằng ta đã dừng lại vì ta từ bỏ việc giết hại chúng sanh. Ta đã từ bỏ thói bạo hành, tàn sát mọi loài và ta đã an trú vào lòng từ đối với muôn loài, lòng kham nhẫn và trí tuệ do tư duy quán sát. Song ngươi vẫn chưa từ bỏ việc giết hại và đối xử tàn bạo với người khác cũng như chưa an trú vào lòng từ bi và kham nhẫn đối với mọi loài hữu tình. Do đó, người vẫn là người chưa dừng lại.

 

Nghe qua những lời này, Angulimala như được nhắc nhở thực tại và suy nghĩ, đây là những lời của một bậc hiền nhân. Vị khất sĩ này hiền thiện và rất mực dũng cảm như thế chắc hẳn vị này là một nhà lãnh đạo các khất sĩ .

 

Quả thực, chính Ngài hẳn là đấng Giác Ngộ rồi đây. Hẳn ngài đến đây chỉ vì mục đích làm cho mình thấy được ánh sáng. Suy nghĩ như vậy, y ném vũ khí và thỉnh cầu Đức Thế tôn tiếp nhận y vào giáo đoàn khất sĩ, Đức Phật đã chấp thuận việc ấy.

 

Angulimala đảnh lễ dưới chân Đức Thế TônKhi đức vua và quân lính đến bắt Angulimala, họ thấy người ấy đang ở trong Tịnh xá Kỳ Hoàn của Đức Phật. Biết rằng Angulimala đã từ bỏ ác đạo của mình và trở thành một vị tỳ kheo, vua và quần thần đều đồng ý để yên vị này. Suốt thời gian ấy, Angulimala nhiệt tâm thực hành thiền định.

 

Vị khất sĩ Angulimala vẫn không được định tâm vì ngay cả trong lúc thiền định tĩnh lặng, Angulimala thường nhớ lại quá khứ cùng với những tiếng gào thét thê thảm của những nạn nhân bất hạnh.

 

Cũng vì ác nghiệp kia, mà một ngày nọ trong lúc đi khất thực trên đường phố, Tôn giả đã trở thành mục tiêu trả thù của đủ thứ gậy gộc, đá ném vào và thường trở về Tịnh xá vỡ đầu chảy máu, đầy vết thương bầm tím, rồi lại được Đức Phật nhắc nhở:

 

-“Này pháp tử Angulimala, con đã từ bỏ việc ác, hãy kham nhẫn lên. Đây là hậu quả của ác nghiệp mà con đã gây tạo. Đáng lẽ ác nghiệp sẽ còn làm cho con khổ đau qua vô lượng kiếp, nếu như con không có duyên gặp được ta.

 

Anguliama nhiệt tâm tinh cần tu tập thiền định, không lâu sau đó, ngài đã đắc quả A-la-hán. Rồi một buổi sáng nọ, trong lúc đang trên đường đi khất thực ở thành Savatthi, Tôn giả Angulimala nghe tiếng ai đang kêu khóc đau đớn. Khi Tôn giả biết đó là một thai phụ đang đau vì chuyển dạ và gặp khó khăn lúc sanh con. Tôn giả suy nghĩ tất cả chúng sanh trên thế gian này đều phải chịu đau khổ. Động lòng từ, Tôn giả về kể lại với Đức Phật nỗi khổ đau của người phụ nữ đáng thương kia.

 

Đức Phật dạy Tôn giả hãy nói lên những lời chân thật để giúp cho người thiếu phụ, lời khai thị đó về sau này có tên là Anggulimala Paritta, thần chú hộ mệnh. Sau đó, ngài Angulimala liền đi đến trước mặt người sản phụ đang chịu đau đớn kia, Tôn giả ngồi xuống cách bà ấy một tấm màn che và phát nguyện những lời sau:

-Này thưa chị, từ ngày tôi đắc quả A la hán đến nay, Tôi chưa từng cố ý sát hại mạng sống của sinh linh nào.

 

Nhờ sự thật này, cầu nguyện cho chị được an lành và đứa bé sắp sanh của chị cũng được an lành”.

Ngay lập tức người sản phụ liền sanh con một cách dễ dàng. Cả mẹ lẫn con đều được khỏe mạnh bình an. Cho đến nay nhiều người vẫn dùng đến thần chú hộ mệnh này.

 

Tôn giả Angulimala thích sống độc cư và biệt lập. Sau đó Tôn giả viên tịch một cách yên bình. Là một vị A la hán, Tôn giả chứng đắc Niết bàn. Các Tỳ kheo thỉnh cầu Đức Phật cho biết về nơi tôn giả Angulimala tái sanh, và khi Đức Thế Tôn đáp rằng Tôn gia Angulimala đã chứng đắc Vô dư Niết bàn, thì đại chúng không thể tin điều đó.

 

Vì thế chư vị lại hỏi rằng, liệu một người đã giết hại quá nhiều người như vậy, có thể chứng đắc Niết bàn Vô dư y chăng. Trước câu hỏi này, Đức Phật đáp: “Này các Tỳ kheo, Angulimala đã tạo quá nhiều ác nghiệp, vì vị ấy không có thiện hữu tri thức giúp đỡ cũng như có những lời khuyên tốt, nhưng một khi Angulimala đã hội ngộ được với Chánh Pháp, vị ấy đã trở nên kiên định và chuyên tâm thực hành giáo pháp và thiền định.

 

Như vậy, nghiệp ác của vị ấy đã được thiện nghiệp lấn át che phủ, giải trừ và tâm của vị ấy đã hoàn toàn đoạn trừ cả lậu hoặc. Đức Phật lại nói bài kệ về tôn giả Angulimala:

 

“Ai dùng các hạnh lành

Xoá mờ bao nghiệp ác

Chiếu sáng cõi đời này

Như trăng thoát khỏi mây”

 

Vì thế, sức mạnh của lòng từ bi bao giờ cũng mạnh hơn bất cứ ác nghiệp nào. Và đó cũng là điều kiện tuyệt đối để đạt đến giác ngộ.

 

Niềm tin nơi Đức Chúa hoặc Đức Phật, vẫn là quà-tặng đặc-biệt, gửi đến hết mọi người. Không chỉ mỗi người đi Đạo của Chúa hay của Phật. Quà được tặng, vẫn đòi người nhận quà một trách-nhiệm không nhỏ. Trách-nhiệm ấy, là biến lời khuyên thành hiện-thực, trong vui sống. Sống phù-hợp với tinh-thần được diễn-tả nơi lời khuyên, câu răn dạy.

Trách-nhiệm của người nhận quà, còn là và phải là một cam-kết sống xứng-hợp với lời khuyên ấy. Trách-nhiệm thực-hiện lời khuyên bằng cuộc sống còn được thấy nơi sự tương-giao có quan-hệ nồng-thắm mà người đời thường hay dùng ngôn-từ của chính mình, để gọi là: nguyện-cầu.

Nguyện và cầu, hay cầu và nguyện không phải và không bao giờ là sự xin xỏ. Bởi, đã là quà tặng cho không/biếu không, thì đâu cần chuyện xin cho được, hoặc cầu cho bằng được. Bởi, quà tặng từ Trên được ban-phát trước cả khi cho người có nhu-cầu cần đến, không cần người ấy/kẻ ấy phải nói lên tiếng “cầu” hoặc “xin”. Cũng chẳng cần gì phải khẩn-khoản, van nài chi cho rách việc.

Nguyện và cầu, như người ngoài Đạo, dù Đạo Chúa hay Đạo của Trời/của Phật, vẫn là tâm-tình hát lên lời biết ơn, cả vào lúc trước khi xin.

Nguyện và cầu, nhiều lúc và nhiều nơi vẫn mang dáng dấp của một lời khẩn-thiết mong mọi sự tốt đẹp cho người trong nước, hoặc người cận lân hoặc cận thân như câu hát ở trên được lặp đi lặp lại rất nhiều lần, như sau:

“Thượng Đế hỡi!

có thấu cho Việt Nam này,

Nhiều sóng gió trôi dạt lâu dài.

Từng chiến đấu tiêu diệt quân thù bạo tàn.

Thượng Đế hỡi!

hãy lắng nghe người dân hiền.

Vì đất nước đang còn ưu phiền.

Còn tiếng khóc đi vào đêm tường triền miên.”

(Lê Minh Bằng – bđd)

Xem thế thì, hôm nay hoặc mai ngày, bạn và tôi, ta có nguyện-cầu hoặc cầu xin sao đó, cũng đừng xin xỏ cho chính mình. Nhưng, hãy cầu mong hoặc cầu chúc cho người khác, những người cận thân hay cận lân, đang ở trong nước hay ngoài nước, đang “ưu-phiền”, “triền miên” được vui tươi, sống thoải mái, để rồi họ và ta, sẽ hát câu ca nghẹn ngào một tình-thương, rằng:

“Hãy lắng tiếng nói”

vang trong tâm hồn mình người ơi. Con tim chân chính không bao giờ biết đến nói dối.

Tôi đi chinh chiến bao năm trường miệt mài, Và hồn tôi mang vết thương vết thương trần ai.” (Lê Minh Bằng – bđd)

 

Trần Ngọc Mười Hai

Quyết từ nay

Có nguyện cầu nhiều

Cũng đừng bao giờ xin xỏ

Mà chỉ cầu mong, cầu chúc

Cho mọi người mọi nơi

Được thanh-bình, ấm êm.

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA ĐI BƯỚC TRƯỚC

Lm. Luy Hữu Độ, CMC

WwW.ThanhCaVietNam.OrG/

WwW.ThanhCaVietNam.OrG/

Trong Phúc Âm, có 3 trường hợp các Thánh Ký ghi lại Chúa Giêsu cho người chết sống lại: con gái 12 tuổi của ông trưởng Hội Đường Giarô. Em của bà Matta và Maria, tức Lagiarô đã chết 4 ngày, Chúa tới tận mộ truyền cho sống lại. Trường hợp thứ ba là con trai của bà goá thành Nain. Hai trường hợp trước thì đều có người lên tiếng kêu xin, còn riêng con trai bà goá thành Nain thì Chúa chạnh lòng thương và Ngài tự động tiến tới, nói bà đừng khóc nữa, rồi tay Chúa chạm quan tài và truyền cho thanh niên chỗi dậy, anh ta chỗi dậy và nói được ngay.

Trong Năm Thánh “Lòng Thương Xót” này, câu chuyện trên gợi lại cho chúng ta bản tính của Chúa là “Xót Thương.” Lòng Thương Xót đó đi bước trước, tiên phong và bất ngờ, khiến chúng ta ngỡ ngàng. Câu chuyện bà goá thành Nain chứng minh điều đó. Bà chỉ biết khóc vì mất đi người con trai duy nhất là nguồn hy vọng và nương tựa của bà. Nên biết rằng phụ nữ Do Thái thời Chúa Giêsu là loại người bị coi thường, vì đàn ông mới có tiếng nói trước pháp luật, bà goá lại càng kém giá và bị khinh khi hơn vì mất chồng, chỗ nương tựa và bảo vệ. Chúa biết hoàn cảnh đáng thương của bà, nên dù bà không lên tiếng kêu xin, thì “tiếng khóc” bi thảm của bà đã đủ chạm tới trái tim hay thương xót của Chúa rồi. Sau khi thanh niên sống lại thì Chúa trao anh ta cho bà mẹ. Bây giờ sự đau khổ của bà goá đã trở thành niềm vui mừng lớn lao vì con trai đã trở về bên mình. Đứng trước hoàn cảnh của bà, Chúa nghĩ đến chính mình. Một ngày không xa, mình sẽ chết và người đàn bà hôm nay là hình ảnh của Mẹ mình, một người Mẹ đau khổ. Chúa muốn dùng biến cố này như tiên trưng cho việc Mẹ mình sẽ được an ủi qua việc chính Chúa sống lại.

Thiên Chúa có toàn quyền trên sự chết và sự sống lại. Sự chết của thân xác chúng ta sớm muộn gì cũng tới vì nó là hậu quả của tội lỗi. Nhưng cái chết thân xác đó chỉ tạm thời vì đến ngày tận thế mọi thân xác của người ta sẽ sống lại. Cái chúng ta quan tâm là sự sống vĩnh cửu sau này. Sự sống vinh hiển này được Thiên Chúa chuộc lại bằng cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, Đấng cứu độ  duy nhất của nhân loại. Tất cà là do Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, đúng như Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Thiên Chúa có tên là Xót Thương.” Chúng ta hãy “lợi dụng” Lòng Xót Thương của Thiên Chúa để kín múc những ơn lành, để cầu cho bản thân mình biết thương xót tha nhân cả hồn lẫn xác, cho con cháu mình đừng vô cảm truớc sự bất hạnh của kẻ khác, cho các tội nhận ơn trở về với Thiên Chúa, Đấng không bao giờ mỏi mệt thứ tha. Được như thế niềm vui của chúng ta sẽ lớn lao như niềm vui bà goá Nain khi nhận lại con trai của bà, như niềm vui của Đức Mẹ khi Chúa sống lại.

(ns Trái Tim Đức Mẹ US).

SỰ SỐNG

Trầm Thiên Thu

ows_145226988453553

Thiên Chúa là Đấng hằng sống – hằng sinh, trường sinh hoặc vĩnh sinh (Đnl 5:26; Gs 3:10; Tl 8:19; R 3:13; 1 Sm 14:39 & 45; 1 Sm 17:26 & 36; 1 Sm 19:6; 1 Sm 20:3 & 21; 1 Sm 25:26 & 34; 1 Sm 26:10 & 16; 1 Sm 28:10; 1 Sm 29:6; 2 Sm 2:27; 2 Sm 4:9; 2 Sm 12:5; Tv 42:3; Tv 84:3; Mt 16:6; Mt 26:63; Ga 6:57; Cv 14:15; 2 Cr 3:3; 2 Cr 6:16; 1 Tx 1:9; 1 Tm 3:15; 1 Tm 4:10; Dt 7:24-25), vì chính Ngài là Sự Sống (Ga 14:6).

Cuộc sống tưởng dài mà ngắn ngủi. Cuộc sống bình thường mà kỳ lạ. Cuộc sống luôn đầy bí ẩn. Katrina Mayer nói: “Cuộc sống không phải lúc nào cũng như bạn muốn, nhưng nó luôn diễn ra theo cách của nó”. Với các Kitô hữu, đó là Thánh Ý của Thiên Chúa.

Sự sống rất quý giá. Người ta có thể làm giả mọi thứ, nhưng không thể làm ra sự sống. Đơn giản như cái trứng, người ta làm trứng giả y như thật, nhưng nó không thể nở ra một sinh vật. Cái cây đến lúc chết, đố ai làm nó sống lại được. Con người cũng tương tự. Người ta tìm mọi cách để kéo dài tuổi thọ, nhưng cũng chỉ được một khoảng thời gian nào đó mà thôi, rồi cũng phải chết theo quy luật của Thiên Chúa: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27).

Chắc chắn phải có một Đấng có quyền trên sự sống, và chỉ có Đấng đó mới làm cho sống và làm cho chết, đó chính là Thiên Chúa: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên” (Tv 104:29-30). Là phàm nhân, không ai có quyền trên sinh mạng của người khác. Bất cứ ai ngăn cản sự sống đều là kẻ đối nghịch với Thiên Chúa, là phạm trọng tội, dù đó là một thai nhi chưa chào đời.

Bị cảm cúm nhẹ mà còn chưa xử lý được thì tại sao lại dám làm hại sự sống của người khác – như áp dụng an tử hoặc phá thai? Đụng chạm đến sự sống là đụng chạm đến chính Thiên Chúa – vì Ngài là Sự Sống, là Nguồn Sống, là Đấng có quyền trên sự sống của muôn loài, muôn vật.

Trình thuật 1 V 17:17-24 cho biết việc ông Êlia cứu chữa một đứa con của một bà góa ở Xa-rép-ta, thuộc Xi-đôn. Chữa bệnh là một dạng bảo vệ sự sống, là cứu sống người khác.

Đứa con trai của bà góa bị bệnh nặng đến nỗi nó tắt thở. Với bản tính con người, bà trách ông Êlia: “Hỡi người của Thiên Chúa, việc gì đến ông mà ông tới nhà tôi để nhắc lại tội tôi, và làm cho con tôi phải chết?”. Ông Êlia bảo bà đưa đứa con cho ông. Ông bồng đứa trẻ và đem lên phòng, chỗ ông ở, và đặt nó nằm lên giường. Rồi ông cầu xin: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con. Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho con bà ấy phải chết sao?”. Ba lần ông nằm lên trên đứa trẻ, và kêu cầu Chúa cho hồn vía đứa trẻ lại trở về với nó. Đức Chúa nghe tiếng ông Êlia kêu cầu, và nó sống lại. Ông Êlia bồng đứa trẻ trao cho mẹ nó. Bà nói với ông Êlia: “Vâng, bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa, và lời Đức Chúa do miệng ông nói ra là đúng”.

Tin chứ đừng tưởng. Ai tin thì sẽ được. Nhưng đức tin đó phải được chứng tỏ bằng việc cầu nguyện không ngừng: “Hai tay cầu Chúa giơ lên, hồn con khát Chúa như miền đất khô. Ngay từ buổi sớm mai, xin cho con nghiệm thấy tình thương của Chúa, vì con vẫn tin cậy nơi Ngài” (Tv 143:6 & 8). Chắc chắn Ngài không nỡ bỏ mặc những ai thành tín. Tuy nhiên, khi được cứu thoát rồi, đừng quên dâng lời cảm tạ: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 30:2).

Tác giả Thánh Vịnh đã có kinh nghiệm “sinh – tử” và muốn chia sẻ với chúng ta qua lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống. Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30:4-6).

Cầu xin, cầu xin nữa, cầu xin mãi. Nhất định không bán đồ nhi phế, quyết tâm không nản chí sờn lòng. Đó phải là “khẩu lệnh” của mỗi chúng ta. Không phải trong một thời gian theo phong trào, theo chiến dịch, mà phải là mọi ngày trong suốt cuộc đời. Hãy noi gương tác giả Thánh Vịnh: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” (Tv 30:11-13).

Trình thuật Gl 1:11-19 nói về ơn gọi của Thánh Phaolô. Ông bộc bạch và can đảm thú nhận sai trái của mình: “Thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết: Tin Mừng tôi loan báo không phải là do loài người. Vì không có ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giêsu Kitô đã mặc khải. Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do-thái: tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa. Trong việc giữ đạo Do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông”. Nhiệt tình cộng với phá hoại thì thật là nguy hiểm!

Thiên Chúa không thể làm ngơ trước tình cảnh đau khổ của những người tin Ngài, và Ngài đã ra tay. Phaolô đành thúc thủ sau cú ngã ngựa chí tử. Ông không thể cưỡng lại Thiên Chúa, và ông đã thấm nhuần đức tin sâu xa.

Ông cho biết chi tiết: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên, cũng chẳng lên Giêrusalem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Ả-rập, rồi lại trở về Đa-mát. Ba năm sau tôi mới lên Giêrusalem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày. Tôi đã không gặp một vị Tông Đồ nào khác ngoài ông Giacôbê, người anh em của Chúa”. Những lời trần tình của Thánh Phaolô không dài, nhưng vẫn đầy đủ chi tiết cần thiết. Lời ngắn, tình dài là thế!

Tin Mừng hôm nay là trình thuật của Thánh Luca (Lc 7:11-17), tiếp tục nói về việc cứu nhân độ thế của Chúa Đức Giêsu: Làm cho con trai bà goá thành Nain sống lại.

Hôm đó, Chúa Giêsu đi đến thành Nain, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi theo. Khi Ngài đến gần cửa thành, đang lúc người ta đưa đám tang người con trai duy nhất của một bà goá. Trông thấy bà khóc lóc thảm não, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!”. Rồi Ngài đến sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại.

Chúa Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Ngài trao anh ta cho người mẹ. Đúng là chuyện lạ chưa hề thấy bao giờ!

Do đó, mọi người đều kinh sợ. Nhưng họ lại tôn vinh Thiên Chúa: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. Thế là chuyện này được loan truyền khắp cả miền Giuđê và vùng lân cận. Hữu xạ tự nhiên hương. Vả lại, dù chuyện tốt hay xấu, chẳng ai có thể bịt miệng dân chúng được!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết bảo vệ sự sống. Xin giúp con can đảm bảo vệ môi trường, vì bảo vệ môi trường cũng là bảo vệ sự sống, bảo vệ đại công trình của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TẤM LÒNG ĐỂ YÊU

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói: “Sống trên đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì em có biết không? Để gió cuốn đi…”,  và cũng chính ông đã ngụ ý rằng, chỉ với một tấm lòng nhỏ nhoi ấy thôi, mà con người vượt rất xa những loài vật khác. Tấm lòng mà Họ Trịnh muốn nói đến chính là sự thương yêu, sự quan tâm, sự chia sẻ để cho gió mang đến cho mọi người. Con người sống, cần có tấm lòng không phải chỉ để đó cho bản thân, hay cất kỹ cho riêng mình nhưng để trở thành làn gió mang lại sự dịu mát cho tha nhân. Chính trong làn gió mà tấm lòng con người được đến với muôn người, được ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình để sống có ích cho đời và cho tha nhân.

Thế nhưng, tấm lòng đó hôm nay đang chôn chặt trong sự ích kỷ của lòng người khiến thế giới thiếu đi tình người, tình liên đới, tình hiệp nhất sẻ chia. Tấm lòng của con người hôm nay không để cho gió cuốn đi mà đang khư khư giữ lại riêng cho mình, đang cất dấu cho bản thân.

Mấy ngày qua, tấm ảnh một tên trộm xe ở gần trường Đại học Hải Phòng bị trói ngược hai tay vô một gốc cây, người đầy máu, . .  Một đám đông dừng xe, vây quanh kẻ trộm với những đôi mắt tò mò, và có cả những người đi đường chưa rõ đầu đuôi câu chuyện cũng xúm vô hùa đánh kẻ trộm nhưng tuyệt nhiên không có một ai can ngăn . . . Đành rằng trộm cắp là điều xấu nhưng hùa nhau để đánh một người vẫn là điều không đáng có trong xã hội chúng ta.

Cũng trong mấy ngày gần đây, dư luận lại xôn xao về clip đánh ghen ở Bình Dương. Hình ảnh một phụ nữ và đứa con trai lột quần áo tình địch giữa đường được tung lên mạng. Bên cạnh chuyện ai nợ tình ai và mối tình tay ba của gia đình này, còn một vấn đề khiến nhiều người đặt câu hỏi: “Đám đông ở đâu?”.

Trong clip này, hiện diện rất rõ đám đông vây quanh. Khi người phụ nữ đang ra lệnh cho cậu con trai “Lột quần nó! Lột quần nó!” thì một người trong số đám đông đứng đó quay lại sự việc bằng điện thoại di động. Vài người đứng xem. “Thôi đừng đánh nó nữa!” – đó là một trong những lời can ngăn nhẹ nhàng nhưng cũng hiếm hoi.

Có ai đó nói rằng: tình cảm như những hạt mưa, hạt mưa càng to, càng nặng thì càng giập tắt được những ngọn lửa của lòng thù hận, ghen ghét, bi ai và nó cũng làm dịu mát những mảnh đời bất hạnh lầm than khi được cảm thông, nâng đỡ, sẻ chia . . .

Thiên Chúa tạo dựng con người có một tấm lòng. Một tấm lòng biết yêu thương như Chúa. Một tấm lòng yêu thương là họa ảnh của tình yêu Thiên Chúa giữa nhân trần. Con người phải biết yêu thương là một định luật tất yếu của đời người. Yêu thương là căn tính của con người. Thế nên, khi con người không yêu thương thì con người đang đánh mất căn tính của mình và làm mất đi vẻ đẹp cao quý nơi phẩm giá loài người của minh.

Chúa Giê-su trong thân phận con người, Ngài luôn bày tỏ cảm xúc của mình trước những bất hạnh của tha nhân. Ngài chạnh lòng thương đám đông bơ vơ đang đói lả. Ngài nhìn thương hại người thanh niên giầu có. Ngài khóc thương cho bạn mình là Lagiaro đã chết. Hôm nay, Ngài không khỏi bùi ngùi trước sự đau đớn của người mẹ mất con. Ôi, còn cái đau đớn nào hơn cái đau đớn mà cha ông ta nói rằng: “Lá vàng còn ở trên cây – Lá xanh rụng xuống trời chăng hỡi trời?” Chúa đã đồng cảm nỗi đau của người mẹ. Chúa đứng lại an ủi người mẹ. Nhưng xem ra lời an ủi chẳng nghĩa lý gì trước cảnh tang thương. Người mẹ vẫn đau khổ vì mất con. Chúa đã làm một phép lạ không chỉ là bày tỏ quyền năng mà hơn hết chính là bày tỏ một tấm lòng thương xót người góa phụ. Ngài đã gọi người thanh niên trỗi dậy trước sự ngỡ ngàng của mọi người và trong niềm vui khôn tả của người mẹ nhận lại con.

Con người là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người cũng có một trái tim vốn giầu tình thương. Nhưng xem ra, vì nhiều lý do, trái tim có thể bị chai lì đi, không còn cảm xúc trước những khổ đau của tha nhân.

– Có thể vì thấy người nghèo thường quá, chúng ta không còn cảm xúc trước cái khổ của người nghèo.

– Có thể vi thấy người bệnh thường quá, chúng ta không còn cảm được nỗi đau của họ.

– Và có thể vì thấy người tội lỗi quen quá, chúng ta dửng dưng nhìn người ta ngày càng chìm sâu trong tội…

Ước gì chúng ta luôn có cái nhìn đầy càm xúc của Chúa để mở rộng lòng trước những bất hạnh của tha nhân. Xin cho chúng ta luôn biết mở toang tấm lòng của mình để gió cuốn ta đi đến với mọi hoàn cảnh khổ đau, với những mảnh đời bất hạnh hầu xoa dịu những thương đau cho anh em như Chúa đã sống vì yêu thương nhân trần chúng ta. Amen

THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT

Lm. Carolô Hồ Bạc Xái

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Cuộc đời thật lắm đau thương, và đau thương nhất chính là chứng kiến cái chết của những người thân.

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện một người mẹ khóc thương đứa con duy nhất của mình vừa chết. Nhưng đáng để ý hơn là chính Chúa Giêsu đã cùng rơi lệ với bà bà đã cứu sống con bà.

Qua Chúa Giêsu, chúng ta được biết Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy đến gần Ngài và xin Ngài thương xót chúng ta.

 II. GỢI Ý SÁM HỐI

  • Xin Chúa thương xót chúng con vì chúng con rất tội lỗi.
  • Xin Chúa thương xót chúng con vì cuộc đời chúng con gặp rất nhiều gian truân.
  • Xin Chúa thương xót chúng con vì chúng con chưa có được một tấm lòng xó thương bao la như Chúa.

III. LỜI CHÚA

1. Bài đọc I (1 V 17,17-24)

Câu chuyện này có nhiều nét giống với câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay :

  • Một đứa con trai độc nhất bị chết
  • Bà mẹ là một góa phụ và là một người ngoại
  • Đứa con ấy được ngôn sứ Êlia và Chúa Giêsu làm cho sống lại

Khi Thánh Luca viết đoạn Tin Mừng hôm nay, ngài muốn cho thấy Chúa Giêsu là một Êlia mới.

2. Đáp ca (Tv 29)

Tv này ca tụng lòng thương xót của Thiên Chúa :

  • “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài vì đã thương cứu vớt”
  • “Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời”.
  • “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con”.

3. Tin Mừng (Lc 7,11-17)

Chúa Giêsu cứu sống con trai bà góa thành Naim :

  • Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin Chúa giúp. Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì Ngài động lòng thương.
  • Chúa chạnh lòng trước cảnh mẹ góa con côi, tre già khóc măng non.
  • Cứu sống đưa con trai xong, Chúa còn tế nhị trao nó lại cho mẹ nó.

4. Bài đọc II (Gl 1,11-19) (Chủ đề phụ)

Trong trích đoạn tuần trước, Phaolô trách tín hữu Galát đã theo “một Tin Mừng khác”, tức là chưa đủ an tâm khi sống theo Tin Mừng mà Phaolô rao giảng, lại còn giữ thêm một số luật lệ do thái giáo. Khi làm như thế, họ chứng tỏ chưa hiểu rằng người ta được cứu độ nhờ đức tin chứ không phải nhờ tuân giữ lề luật.

Trong trích đoạn hôm nay, để thuyết phục tín hữu Galát vững tin vào Tin Mừng của mình rao giảng, Phaolô chứng minh cho họ biết Tin Mừng ấy Ngài đã lãnh nhận trực tiếp từ Thiên Chúa.

 IV. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Khi một người thân chết đi

Đám tang là một cảnh buồn. Đám tang mà Chúa Giêsu chứng kiến còn đặc biệt buồn vì đó là đám tang của đứa con trai duy nhất của một bà góa. Mất con hẳn là thánh giá nặng nhất mà cha mẹ phải gánh chịu.

Người ta nói rằng khi một người già chết đi thì người ấy mang đi quá khứ của chúng ta ; còn khi một người trẻ chết thì người ấy mang đi chính tương lai của chúng ta. Sự mất mát này to lớn đến nỗi có thể khiến cho người ở lại không còn tha thiết sống nữa.

Thánh Kinh đã kể một câu chuyện cảm động về nỗi đau của Đavít khi đứa con nhỏ của ông bệnh nặng (2 Sm 12,16-25) : Đavít rất buồn rầu và thiết tha cầu xin Chúa cho đứa nhỏ ấy khỏi bệnh. Ông còn ăn chay và đêm thì nằm ngủ dưới sàn nhà, mặc áo nhậm. Các cận thần nài nỉ ông lên giường nhưng ông không chịu. Đến ngày thứ bảy thì đứa bé chết. Các cận thần rất lo lắng, nói với nhau “Lúc đứa bé còn sống, ngài còn không nghe chúng ta. Huống chi bây giờ nó đã chết rồi”. Đavít nghe người ta xì xầm thì đoán được sự việc. Ông hỏi “Có phải con ta đã chết rồi chăng ?”. Họ đáp “Thưa vâng”. Đavít liền chổi dậy, tắm rửa, mặc quần áo bình thường, vào đền thờ phủ phục trước nhan Chúa, rồi trở ra ăn uống như thường. Mọi người ngạc nhiên hỏi : “Tại sao khi đứa nhỏ chưa chết thì Ngài khóc than và nằm dưới sàn, còn khi nó chết rồi thì Ngài chổi dậy và ăn uống ?” Đavít trả lời : “Khi đứa bé còn sống, ta làm tất cả để cứu mạng sống nó. Nay nó chết rồi, nó không thể trở về với Ta nữa. Nhưng Ta có thể đến với nó”.

Đavít đã nêu gương biết chấp nhận một tình huống không thể nào thay đổi được. Tuy chúng ta không thể nào quên người đã chết, nhưng cuộc sống là quý giá nên chúng ta phải tiếp tục sống. Chúng ta khóc vì một sự sống đã mất đi, nhưng nếu chúng ta cứ than khóc mãi thì sẽ có đến hai sự sống phải mất.

Đứng trước một người thân chết đi, chúng ta có thể cảm thấy như Thiên Chúa vắng mặt. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể cảm nhận điều ngược lại : sự chết có thể kéo ta đến gần Chúa hơn. Tại sao ? Vì chúng ta nhận thức rằng con người hoàn toàn bất lực trước cái chết, chỉ có Chúa mới giúp chúng ta được thôi. Từ đó chúng ta phó mình trong lòng thương xót Chúa. Cũng như Chúa đã viếng thăm bà góa thành Naim, Ngài cũng đến viếng thăm chúng ta cùng với những ơn ban nâng đỡ, hy vọng và bình an.

Thực ra người chết không chết mà chỉ đổi thế giới sống. Người thân quá cố của chúng ta không xa cách chúng ta. Họ vẫn yêu thương chúng ta và còn có thể giúp đỡ chúng ta nữa. Tuy người quá cố không trở lại với chúng ta, nhưng chúng ta có thể đến với họ. Họ đang chờ chúng ta. Chúng ta và họ sẽ gặp lại nhau trong tình thương của Chúa. (FM)

* 2. Sự sống hay nỗi chết

Một vị ẩn sĩ nọ, ngày kia lạc vào một hang động. Tại đây ông đã khám phá ra một kho tàng với không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu. Nhưng ông đã vội vã ra khỏi hang, vừa chạy vừa la thất thanh : “Tôi đã thấy thần chết”.

Tình cờ ba tên cướp đi ngang qua đó, nghe tiếng kêu của vị ẩn sĩ, họ dừng lại hỏi chuyện.

Muốn chứng tỏ mình là những người không biết sợ là gì, ba tên cướp yêu cầu đưa họ đến gặp thần chết. Vị ẩn sĩ dẫn họ vào hang động và chỉ vào kho tàng. Mắt họ sáng lên và lập tức ba tên cướp tống cổ vị tu hành ra khỏi hang.

Nhưng kho tàng quá lớn, họ không thể mang ra tất cả trong một ngày. Sau một hồi bàn cãi ba tên cướp đồng ý để một người ra phố mua sắm lương thực. Hai người còn lại ngồi đó canh giữ kho báu.

Người được sai đi chợ nghĩ thầm trong bụng : “Ta sẽ ăn uống no nê, sau đó bỏ thuốc độc vào thức ăn. Hai tên khốn nạn sẽ chết và tạ sẽ chiếm trọn kho tàng”.

Hai tên ngồi canh giữ kho báu cũng bàn với nhau : “Chúng ta sẽ giết hắn. Và như thế phần của mỗi người chúng ta sẽ nhiều hơn”.

Khi kẻ mang lương thực về đến hang động : họ liền giết hắn và nuốt trọn thức ăn có thuốc độc. Thế là cả ba đã cùng nhau đi gặp thần chết như lời vị ẩn sĩ tiên báo.

***

Vì tham lam của cải mà ba sinh mạng đã bị thần chết cướp đi trong nháy mắt. Vì chạnh lòng thương xót người quả phụ cô độc, hôm nay Chúa Giêsu đã giật lại khỏi tay thần chết con trai duy nhất của bà goá thành Naim.

Chúa Giêsu đã can thiệp mau lẹ, xử lý nhanh gọn, ra tay tức thời, không chờ đợi người ta cầu xin, nài nỉ. Người nhìn rõ nỗi buồn mất con, Người hiểu thấu nỗi cô đơn của bà goá không nơi nương tựa, Người liền an ủi : “Bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Rồi Người sờ vào quan tài và nói : “Này người thanh niên, tôi bảo anh. Hãy chỗi dậy !” (Lc 7,14).

Thiên Chúa yêu thương con người vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Vì bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, nên Người muốn giải thoát con người khỏi nỗi cô đơn buồn phiền, khỏi thất vọng đắng cay, khỏi đau thương tuyệt vọng. Và nỗi đau thương tuyệt vọng lớn nhất của con người là sự chết, thì Người cũng sẵn lòng giải thoát con người khỏi chết.

Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại ở đó : Người còn muốn đi xa hơn nữa trong tình yêu : Người muốn giải thoát con người khỏi cái chết muôn đời. Con trai bà goá thành Naim sống lại để rồi lại phải chết, nhưng những ai được Người yêu thương giải thoát thì sẽ vĩnh viễn sống lại miên trường. Đó mới là sứ mạng của Người khi xuống trần gian.

Sự kiện con trai bà goá thành Naim được Người cho sống lại chính là hình bóng báo trước biến cố vô cùng lớn lao hơn. Biến cố đó là cốt lõi của đạo, là trung tâm điểm của Kitô giáo : Đó chính là nhờ sự chết và sống lại của Chúa Giêsu mà tất cả chúng ta được giải thoát khỏi cái chết muôn đời.

Thiên Chúa yêu thương con người, Người muốn giải thoát con người khỏi lưỡi hái của tử thần, nhưng con người vẫn có tự do để chọn sự sống hay nỗi chết. Ba tên cướp vì tham lam của cải đã chọn cho mình hai cái chết, cái chết của thể xác và cái chết của linh hồn. Trong cái hang tử thần ấy không chỉ có những con người tham của mà còn vô số những kẻ tham danh vọng, địa vị, chức quyền ; không chỉ có những người mê của mà còn hằng hà những kẻ mê hút sách, rượu chè, cờ bạc, trai gái.

Cái chết phần xác thì ai cũng sẽ trải qua một lần trong đời, nhưng cái chết phần hồn thì chỉ có những con người can đảm, bền chí và trung thành với Đức Kitô và giới luật của Người mới có thể vượt qua để sống miên viễn với Người trên nơi vĩnh phúc.

***

Lạy Chúa, chúng con ước mong được chết để cùng sống lại vinh quang với Người. Nhưng trước khi chết xin cho chúng con biết dứt lòng từ bỏ những gì là xấu xa của ma quỉ, thế gian và xác thịt để chúng con được tự do thong đong về với Chúa là Cha đầy yêu thương. Amen.(TP)

 * 3. Chuyện minh họa

Một Rabbi do thái tên là Nahman vừa có đứa con trai bị chết. Các rabbi bạn ông đến an ủi nhưng chẳng thể nào làm cho ông hết đau lòng. Cuối cùng Rabbi Moses kể cho ông nghe câu chuyện sau đây :

Một ông vua kia giao cho một người đầy tớ giữ một báu vật. Anh này ngày nào cũng than : “Khốn thân tôi ! Biết tới chừng nào nhà vua mới lấy lại báu vật này để tôi không còn phải gánh vác trách nhiệm to lớn này nữa”.

Rồi Rabbi Moses áp dụng : Bạn cũng đã được giao trách nhiệm gìn giữ một báu vật là đứa con rất tốt lành của bạn. Nay nó đã được cất khỏi thế gian này mà không bị sự dữ nào làm hoen ố. Vậy bạn phải vui mừng vì đã chu toàn trách nhiệm mà Vua các vua đã giao cho ông chứ !

Câu chuyện và lời khuyên của Rabbi Moses đã làm vơi đi nỗi buồn ủa Rabbi Nahman. (FM)

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến, khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu chia sẻ mọi đau khổ, bất hạnh với nhân loại. Người đã lấy lòng từ bi nhân hậu mà lau sạch nước mắt những ai sầu khổ. Chúng ta cùng cảm tạ Người và tha thiết nguyện xin :

  1. Hội thánh luôn quan tâm đến những người nghèo khổ / những ai đang gặp hoạn nạn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn bênh vực những người cô thế cô thân / và rộng rãi giúp đỡ những ai đói rách bần cùng.
  2. Cái chết không loại trừ bất cứ một ai / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người biết chuẩn bị cho cuộc sống mai sau / bằng cách làm thật nhiều việc lành phúc đức trong cuộc sống hôm nay.
  3. Những người bất hạnh vẫn còn đầy dẫy trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn biết an ủi và trợ giúp những ai đang lâm cảnh gian truân khốn khó.
  4. Vui với người vui / khóc cùng người khóc / là thái độ phải có của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn cố gắng thực hiện lời dạy của thánh Phaolô tông đồ.

Chủ tế : Lạy Chúa, Đức Kitô Con Chúa đã lấy tình thương mà băng bó mọi vết thương tâm hồn cho những ai đang gặp đau khổ. Xin Chúa cho chúng con biết noi gương Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

SỰ SỐNG HAY NỖI CHẾT-

 Thiên Phúc

 Một vị ẩn sĩ nọ, ngày kia lạc vào một hang động. Tại đây ông đã khám phá ra một kho tàng với không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu. Nhưng ông đã vội vã ra khỏi hang, vừa chạy vừa la thất thanh: “Tôi đã thấy thần chết”.

Tình cờ ba tên cướp đi ngang qua đó, nghe tiếng kêu của vị ẩn sĩ, họ dừng lại hỏi chuyện.

Muốn chứng tỏ mình là những người không biết sợ là gì, ba tên cướp yêu cầu đưa họ đến gặp thần chết. Vị ẩn sĩ dẫn họ vào hang động và chỉ vào kho tàng. Mắt họ sáng lên và lập tức ba tên cướp tống cổ vị tu hành ra khỏi hang.

Nhưng kho tàng quá lớn, họ không thể mang ra tất cả trong một ngày. Sau một hồi bàn cãi ba tên cướp đồng ý để một người ra phố mua sắm lương thực. Hai người còn lại ngồi đó canh giữ kho báu.

Người được sai đi chợ nghĩ thầm trong bụng: “Ta sẽ ăn uống no nê, sau đó bỏ thuốc độc vào thức ăn. Hai tên khốn nạn sẽ chết và ta sẽ chiếm trọn kho tàng”.

Hai tên ngồi canh giữ kho báu cũng bàn với nhau: “Chúng ta sẽ giết hắn. Và như thế phần của mỗi người chúng ta sẽ nhiều hơn”.

Khi kẻ mang lương thực về đến hang động. Họ liền giết hắn và nuốt trọn thức ăn có thuốc độc. Thế là cả ba đã cùng nhau đi gặp thần chết như lời vị ẩn sĩ tiên báo.

Vì tham lam của cải mà ba sinh mạng đã bị thần chết cướp đi trong nháy mắt. Vì chạnh lòng thương xót người quả phụ cô độc, hôm nay Đức Giêsu đã giật lại khỏi tay thần chết con trai duy nhất của bà góa thành Naim.

Đức Giêsu đã can thiệp mau lẹ, xử lý nhanh gọn, ra tay tức thời, không chờ đợi người ta cầu xin, nài nỉ. Người nhìn rõ nỗi buồn mất con, Người hiểu thấu nỗi cô đơn của bà góa không nơi nương tựa, Người liền an ủi: “Bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Rồi Người sờ vào quan tài và nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy trỗi dậy” (Lc 7,14)

Thiên Chúa yêu thương con người vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Vì bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, nên Người muốn giải thoát con người khỏi nỗi cô đơn buồn phiền, khỏi thất vọng đắng cay, khỏi đau thương tuyệt vọng. Và nỗi đau thương tuyệt vọng lớn nhất của con người là sự chết, thì Người cũng sẵn lòng giải thoát con người khỏi chết.

Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại ở đó. Người còn muốn đi xa hơn nữa trong tình yêu: Người muốn giải thoát con người khỏi cái chết muôn đời. Con trai bà góa thành Naim sống lại để rồi lại phải chết, nhưng những ai được Người yêu thương giải thoát thì sẽ vĩnh viễn sống lại miên trường. Đó mới là sứ mạng của Người khi xuống trần gian.

Sự kiện con trai bà góa thành Naim được Người cho sống lại chính là hình bóng báo trước biến cố vô cùng lớn lao hơn. Biến cố đó là cốt lõi của đạo, là trung tâm điểm của Kitô giáo: Đó chính là nhờ sự chết và sống lại của Đức Giêsu mà tất cả chúng ta được giải thoát khỏi cái chết muôn đời.

Thiên Chúa yêu thương con người, Người muốn giải thoát con người khỏi lưỡi hái của tử thần, nhưng con người vẫn có tự do để chọn sự sống hay nỗi chết. Ba tên cướp vì tham lam của cải đã chọn cho mình hai cái chết: cái chết của thể xác và cái chết của linh hồn. Trong cái hang tử thần ấy không chỉ có những con người tham của mà còn vô số những kẻ tham danh vọng, địa vị, chức quyền; không chỉ có những người mê của mà còn hằng hà những kẻ mê hút sách, rượu chè, cờ bạc, trai gái.

Cái chết phần xác thì ai cũng sẽ trải qua một lần trong đời, nhưng cái chết phần hồn thì chỉ có những con người can đảm, bền chí và trung thành với Đức Kitô và giới luật của Người mới có thể vượt qua để sống viên miễn với Người trên nơi vĩnh phúc.

Lạy Chúa, chúng con ước mong được chết để cùng sống lại vinh quang với Người. Nhưng trước khi chết xin cho chúng con biết dứt lòng từ bỏ những gì là xấu xa của ma quỷ, thế gian và xác thịt để chúng con được tự do thong dong về với Chúa là Cha đầy yêu thương. Amen…

ĐỪNG VÔ CẢM

Lm. Antôn Nguyễn Văn ĐộAntonius-Do300

Chúa Nhật X Thường Niên – C -( Lc 7, 11-17)

Chúng ta đã đi được nửa chặng đường của Năm Thánh Lòng Thương Xót, Năm mà Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta “xóa bỏ sự thờ ơ, vô cảm, đánh mất cảm xúc …” (x.Misericordiae Vultus số 15).

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót“. Ngài cũng bày tỏ: “Tôi mong muốn biết bao rằng nơi nào Giáo hội hiện diện, đặc biệt là các giáo xứ và các cộng đoàn của chúng ta, nơi ấy sẽ trở thành những hải đảo thương xót giữa lòng đại dương vô cảm!

Nhân loại đang sống trong một thế giới với các phương tiện hiện đại tân kỳ. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, người ta đang cố gắng tạo ra rô-bốt thật giống người hơn để giúp con người trong các việc nặng nhọc, bộn bề của cuộc sống. Chỉ lạ một điều, trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể tạo ra một con chíp “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh.

Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình. Thấy Chân, Thiện, Mỹ mà không ngưỡng mộ. Gặp cảnh bi thương lại thờ ơ, không động lòng thương xót, không rung động tâm can. Giá trị đạo đức bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng, duy vật và cá nhân chủ nghĩa, dẫn đến “bệnh vô cảm“. Bệnh này thể hiện ở chỗ, không động lòng trắc ẩn trước những nỗi đau của người khác, cũng như không hề phẫn nộ trước những tệ nạn xã hội đang xảy ra. Con người hầu như trở nên vô tình trước cuộc sống của người khác. Vậy đó còn là con người không, hay chỉ là xác khô của một cỗ máy?

Lời Chúa hôm nay vang lên như tiếng chuông báo động về lòng thương xót :  “Vừa thấy bà, Chúa liền động lòng thương xót: bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Một Thiên Chúa động lòng thương xót khi thấy đám đông đi theo mình và đã làm phép lạ để nuôi sống nhiều ngàn người ăn. Chúa chạnh lòng thương chữa lành những người mang bệnh hoạn tật nguyền. Chúa động lòng thương khi thấy đứa con trai hoang đàng của mình trở về. Và trong đoạn Tin Mừng hôm, Chúa Giêsu đã cảm động khi thấy bà góa bên cạnh quan tài của con một đã chết. Cảm thông với nỗi đau khổ của người đàn bà góa, Chúa bảo bà: “Bà đừng khóc nữa“(Lc 7,13), làm cho bà đầy hy vọng.

Lòng thương xót vô điều kiện, bằng chứng là không ai xin Chúa và Chúa cũng không đòi hỏi lòng tin nơi người được chữa lành, hay nơi những người liên quan. Chỉ đơn thuần trên đường đi, Chúa Giêsu bà đang đi chôn cậu con trai yêu quí Chúa đã ra tay phục sinh cho con của bà.

Chúa thấy hoàn cảnh của bà thật đáng thương. Đáng thương vì chồng bà mất sớm, khiến bà trở nên mẹ góa con côi. Đáng thương hơn nữa, vì giờ đây đứa con trai duy nhất của bà cũng bỏ bà ra đi vĩnh viễn. Bà lâm vào cảnh “Tre già phải khóc măng non”, và thành người bơ vơ không nơi nương tựa. Tất cả dường như sụp đổ, cuộc sống bà xem ra không còn hy vọng gì cả, bà chỉ có một niềm an ủi, một động lực để sống là đứa con thì nay niềm hy vọng cuối cùng đó cũng không còn nữa.

Sống ở trên đời,  nhiều người trong chúng ta cũng muốn lau những giọt nước mắt của tha nhân và nói với họ rằng: “Đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay, các phương tiện truyền thông cho chúng ta thấy rõ những khổ đau của nhân loại, nhiều vô kể! Nếu có thể được, chúng ta sẽ nói với những người ấy rằng : “Hãy đứng dậy” (Lc 7,14). Nhưng rất tiếc chúng ta không phải là Thiên Chúa nên không thể! Tận đáy lòng, chúng muốn nói với họ:  trong lúc bị đau khổ bủa vây, hãy nhìn lên Chúa Giêsu và xin Chúa giúp!

Động lòng thương” với những người sầu khổ, là thái độ của những người nhận ra hình ảnh của mình nơi người khác thật [mong manh]. Chăm sóc vết thương của tha nhân là điều trị vết thương của chính mình. Lòng trắc ẩn trở thành một sự hiệp thông, cầu nối, thêu dệt tình bằng hữu.

Hãy “tiêu diệt” căn bệnh vô cảm một cách triệt để, hãy trao yêu thương và nhận thật nhiều yêu thương. Một xã hội vô cảm là một xã hội chết! Một cuộc sống vô vị và tẻ nhạt của một cỗ máy vô tri, hẳn không ai muốn. Một nhà văn Nga đã từng nói: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương“. Con người sống mà không có tình thương thì chẳng khác chi con vật, giống cái xác không hồn, tồn tại giữa dòng đời một cách vô nghĩa, và sẽ chết dần mòn trong cô đơn, lạnh lẽo. Thế nên, chúng ta hãy tích cực chống lại “bệnh vô cảm”, phải sống có tình thương, có trách nhiệm với cộng đồng và đặc biệt là phải mở lòng mình ra với cuộc sống.

Xin Chúa cất khỏi chúng ta trái tim chai cứng và ban tặng cho chúng ta trái tim mềm mại của Chúa, trái tim biết yêu thương, để chúng ta luôn biết thổn thức, biết chạnh lòng trước những hoàn cảnh, trước những mảnh đời đau khổ và bất hạnh để ra tay trợ giúp họ. Amen

TIN SỰ SỐNG ĐỜI SAU

Lm. Huệ Minh

Hẳn ta còn nhớ những người Sađốc là những người thuộc về hàng tư tế quí tộc. Về mặt chính kiến, họ theo bọn xâm lược. Về mặt tôn giáo, họ rất bảo thủ. Ðối với họ, lề luật phải tuân theo chỉ có trong năm cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh. Và hẳn nhiên, họ phi bác mọi giáo thuyết xuất hiện sau này do các tiên tri và các bậc trí giả giảng dạy, chẳng hạn việc kẻ chết sống lại. Do đó chẳng có gì ngạc nhiên khi họ tấn công Chúa Giêsu về vấn đề này.

Chính vì họ cho niềm tin của họ cho là đúng đắn, niềm tin của họ là nhất để rồi họ bắt đầu truy vấn Chúa Giêsu về luật Môsê. Họ đặt thẳng vấn đề rằng khi người chồng chết, nếu người vợ anh ta chưa có con, thì người anh chồng phải cưới bà này để nối dõi tông đường.

Đây là một cuộc tranh luận quan trọng giữa Chúa Giêsu và phái Sađốc, một giáo phái phủ nhận đời sống mai hậu, đời sống vĩnh cửu. Họ phủ nhận mọi giáo thuyết của các nhà hiền triết và các ngôn sứ giảng dạy. Điển hình là việc kẻ chết sẽ sống lại trong ngày sau hết.

Nhóm Sađốc trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay là những người không tin có sự sống lại. Họ đến với Chúa Giêsu và đơn cử một trường hợp cụ thể để qua đó, buộc Chúa Giêsu phải giải thích lập trường của Ngài, và cũng để chứng minh với Chúa Giêsu chuyện sống lại là vấn đề vô lý. Họ thí dụ rằng: một người đàn ông lấy vợ nhưng chết đi mà vẫn chưa có con. Người thứ hai, thứ ba… và cả thảy bảy anh em đều lần lượt lấy nàng làm vợ, đều chết và vẫn không có con nối dòng. Vậy trong ngày sống lại, nàng sẽ là vợ của ai trong bảy người từng là chồng của nàng? Thật sự ra mà nói, những người này chỉ đùa giỡn với sự thật mà thôi. Họ hỏi thế, không phải vì thành tâm tìm kiếm để sống theo sự thật.

Thật ra mà nói, Chúa Giêsu biết rõ họ ngoan cố và cố ý thử thách Ngài, nhưng Ngài vẫn điềm tĩnh và chỉ cho họ thấy sự dốt nát lầm lẫn của họ. Giản đơn Chúa Giêsu thấy họ là những người vốn liếng Kinh Thánh chẳng có là bao và họ cũng không hiểu biết quyền năng của Thiên Chúa. Kế đến, ta thấy hoàn cảnh con người sau khi sống lại hoàn toàn thay đổi, không giống như lúc còn sống ở trần gian này.

Với tất cả những điều đó, Chúa Giêsu nói rõ họ không tin là vì họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh vì Kinh Thánh nói đến sự sống lại. Thật vậy, trong sách Môsê, đoạn nói về bụi gai, Thiên Chúa phán: “Ta là Chúa của Abraham, Chúa của Isaac, Chúa của Yacob”, Ngài không là Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống.

Hơn nữa, nếu Thiên Chúa đã phán một lời liền có mọi sự, chẳng lẽ Ngài không thể làm cho kẻ chết sống lại sao? Sự sống và sự chết đều do Thiên Chúa, vì thế sự sống lại cũng thuộc về Thiên Chúa. Lại nữa, khi sống lại từ cõi chết, thân xác con người được biến đổi hoàn toàn, nó sẽ giống như các thiên thần, giống như Chúa Kitô Phục Sinh, nên không còn phải chết và cũng chẳng phải dựng vợ gả chồng nữa.

Nhiều người thời nay vẫn quan niệm dương sao âm vậy, nghĩa là khi sống ăn uống, sinh hoạt làm sao, thì khi chết cũng vẫn như vậy. Những người thuộc nhóm Sađốc xưa cũng nghĩ như thế khi họ đưa ra vấn nạn một người phụ nữ đã cưới bảy đời chồng, khi chết sang thế giới bên kia sẽ là vợ của ai. Họ muốn “đánh đố” Chúa Giêsu để dựa vào đó mà bác bỏ niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời sau. Đây là dịp thuận tiện để Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta giáo lý về sự sống đời sau trên Nước Chúa: Lúc đó, con người không còn ăn uống, không còn lấy vợ lấy chồng nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.

Từ khi Chúa Giêsu mạc khải về sự thật này, biết bao người đã tin vào Thiên Chúa và đã sống trọn vẹn với niềm tin đó; biết bao người đã can đảm sống sự thật được mạc khải, dù phải hy sinh mạng sống, dù phải từ bỏ mọi danh lợi trần gian. Ðó là gương của những vị anh hùng tử đạo qua bao thế hệ nơi các dân tộc.

Tin vào sự sống đời sau, và muốn được sống mãi trong đời sống mới là khát vọng của cả nhân loại. Đức Kitô đã mặc khải cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của cuộc đời mai hậu với một thực tại siêu việt, thần thiêng. Và hơn nữa Ngài còn mời gọi chúng ta đi vào chung hưởng cuộc sống đó trong tình thân với Ngài.

Cuộc sống đời sau vẫn là một thách đố cho niềm tin của con người. Thật sự, ai cũng muốn biết một cách tỏ tường về tình trạng của mình sau cuộc sống ngắn ngủi ở đời này. Và thực tế, nhiều người vẫn không tin có đời sau. Đối với họ, chẳng có gì hay chẳng còn gì sau cái chết.

Xin Chúa thương soi lòng mở trí để ta hiểu biết và mộ mến Lời Chúa dạy trong sách Kinh Thánh, để chúng ta am tường các mầu nhiệm của Chúa và thực thi thánh ý Chúa. Và rồi, ta xin Chúa cho ta biết trân trọng sự sống, trau dồi cuộc sống tại thế tốt đẹp để được sống đời đời với Chúa.

YÊU THƯƠNG LÀ CHU TOÀN LỀ LUẬT

Huệ Minh

Với Gioan, Ngài định nghĩa rất đơn giản : Thiên Chúa là tình yêu. Thật vậy, Ngài đã yêu thương nhân loại đến cùng. Chính Chúa Giêsu đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin theo Chúa.  Vì thế, mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu ở trần gian mà chúng ta lãnh nhận và thực thi.

Yêu thương là một trạng thái tình cảm xưa như trái đất, tức là ngay từ khi có con người trên mặt đất đã có vấn đề yêu thương. Dân tộc nào cũng dậy yêu thương, tôn giáo nào cũng dậy yêu thương. Trong Cựu Ước, lề luật Do Thái cũng đã có luật yêu thương, chẳng hạn luật Môsê dạy: “Phải yêu thương tha nhân như chính mình”.

Sống trên trần gian phải có một tấm lòng. Đó là điều kiện thiết yếu và quan trọng để con người đối xử tốt với nhau. Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa, con người phải tôn kính, yêu mến Ngài hết linh hồn, hết trí khôn và yêu tha nhân như chính mình. Sách Ngũ Thư tóm gọn hai giới răn đứng đầu trong 613 khoản luật.

Chúa Giêsu đến trần gian là vì yêu dạy con người yêu, yêu Thiên Chúa và yêu con người. Nhưng để có thể yêu như Chúa yêu chúng ta phải thực tập yêu, trước tiên là yêu những người trong gia đình, cha mẹ, anh chị em …những người thân thiết liên hệ với chúng ta. Nếu chúng ta không yêu được những người trong gia đình, trong giòng tộc thì chúng ta không thể yêu người khác và cũng không thể yêu mến Thiên Chúa được, vì thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa là tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Thánh Phaolô cho chúng ta thấy rằng ” yêu thì nhân hậu, yêu là phục vụ, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không nóng giận, nhưng hết lòng tha thứ, kính tin, trông cậy và kiên nhẫn”(1Cr 13,4-7) và yêu là trao hiến bản thân như Chúa Giêsu đã trao ban chính mình vì yêu.

Như vậy, luật yêu thương nhau không những là một lời khuyên mà còn là một lệnh truyền, một sứ mệnh của người Kitô hữu.

Chúa Giêsu đã sát nhập cả hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất, mến Chúa thì yêu người và yêu người thì mến Chúa. Tình yêu thương tha nhân phải được thể hiện qua sự quan tâm, yêu thương, qua những hành động cụ thể như cho kẻ đói ăn, khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó những vết thương cho những người không quen biết. Tình thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù nhỏ mọn.

Chúa Giêsu đã long trọng tuyên bố như thế để xác định lại qui luật sống cho những kẻ theo Ngài. Giới luật sống chỉ tóm gọn lại trong hai chữ Yêu Thương. Ngài đã yêu thương bằng hành động cụ thể, yêu thương bằng sự hòa nhập với người mà Ngài yêu thương, yêu thương để liên kết họ lại, để xây nên lâu đài của Tình Yêu. Nếu người nào muốn tách rời khỏi lâu đài tình yêu, chẵng những họ không được Yêu thương mà họ còn tự đi tìm con đường hủy hoại chính mình.

Theo Chúa Giêsu thì còn lớn hơn những nghi lễ, những lễ vật mà người ta muốn dâng lên Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Những cử chỉ của tình yêu thương có thể thay thế mọi nghi lễ. Như thế,

Yêu mến Chúa không hệ tại việc tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực nếu không phát xuất từ tâm tình sâu thẳm bên trong.

Yêu thương con người cũng không phải là cho của dư thừa, cho cái mình có mà là trao ban tình thương mà Thiên Chúa muốn. Vì thế, tình yêu phải là động lực, là điều kiện để chúng ta yêu người. Tình yêu bao giờ cũng phát xuất từ Thiên Chúa và đi đến tha nhân… Tuy nhiên chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, gắn bó với Ngài thì chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân đúng nghĩa nhất.

Giới luật yêu thương mà Chúa muốn các môn đệ và tất cả chúng ta thi hành giúp cải thiện mối tương quan nhân loại và là nền tảng xây dựng mối hoà bình hiệp nhất trong tình yêu Thiên Chúa. Yêu thương người đồng loại không chỉ yêu thương kẻ sống chung quanh với mình, thích hợp với mình nhưng là một bước tiến tới với những người khác, những người có thể ở xa, có thể không phải là thân bằng quyến thuộc của mình. Bác ái vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có sự yêu thương triệt để và tích cực. Một tình yêu chân thật dẫn chúng ta dành hết khả năng của mình để phục vụ tha nhân như Chúa Giêsu.

Vì thế, nghe trang Tin Mừng hôm nay, là dịp, là là cơ hội để mỗi người Kitô hữu chúng ta  rà soát lại lối sống đức tin của mình, can đảm tuyên xưng đức tin bằng đời sống mến Chúa và yêu người chưa?. Chúng ta cần xác tín rằng: yêu thương tha nhân là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan đã nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng hãy yêu thương nhau” (1Ga 3, 16; 4, 11).

Chúng ta được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi để sống yêu thương, để sống như Chúa đã yêu. Chúa Giêsu đã sống để yêu, đã chết vì yêu. Ngài đã sống tận cùng đời sống của Ngài. Do đó, thánh Gioan đã có nhận định rất chí lý: ” Ai nói yêu Chúa mà lại ghét anh chị em mình, họ là kẻ nói dối”.

Xin Chúa cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương họ như Con Chúa là Đức Giê-su. Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy bản thân chúng con để xin Chúa thanh luyện và ban ơn giúp chúng con ngày một nên hòan thiện noi gương Con Chúa là Đức Giê-su Ki-tô.

LÒNG THƯƠNG XÓT CỨU ĐỘ

Trần Bình Anan2

Cha biết rằng, sau khi con bị bắt vì can đủ mọi thứ tội, người ta đưa con vào nhà thương tâm thần, trước khi xét đủ bằng cớ để tống con vào ngục. Trong phòng bệnh con ở, có đủ hạng người, phần đông lớn tuổi, trừ một bạn trẻ cỡ tuổi con. Không hiểu sao chúng con hợp ý nhau ngay từ phút đầu.

Theo lời các người trong phòng thì anh bạn này không thể đi đứng được, cũng không thể tự làm gì được. Thêm vào đó anh thật chướng kỳ, nếu không muốn nói là mất dạy. Anh đạp đuổi và khạc nhổ vào tất cả ai đến gần. Anh nói với con: “Ở đây toàn là bọn vũ phu!”

Vì thế, chỉ mình con có thể giúp anh trong mọi việc. Anh không phải tín hữu Công Giáo. Phần con, con thuộc Kinh Lạy Cha và con thường lẩm nhẩm đọc Kinh Lạy Cha nhiều lần trong ngày. Ngoài ra con có ảnh Thánh Giá và con đeo Thánh Giá ở cổ.

Anh bạn con, ngoài tính chướng kỳ, còn thêm tật khác là thỉnh thoảng lên cơn. Anh vùng vẫy, la hét, mặt mày đỏ gay và mồ hôi toát ra đầm đìa. Người bệnh trong phòng vì quá quen với cảnh này, nên họ bỏ mặc anh, hoặc cười nhạo anh. Nhưng con, con không thể chấp nhận sự việc người ta cười cợt, trước nỗi khổ đau của người khác. Tuy nhiên, con không giúp gì được trong lúc anh lên cơn như thế.

Một ngày, con bỗng nảy ra ý kiến. Đang lúc anh lên cơn la hét ầm ỷ, con đến gần và đặt vào tay anh, ảnh Thánh Giá của con. Mặc cho anh tiếp tục la hét vùng vẫy, con vẫn giữ chặt ảnh Thánh Giá trong tay anh. Và rồi anh ngừng hẳn, cơn điên hạ xuống.

Từ đó mỗi lần anh lên cơn, con liền đặt ảnh Thánh Giá vào tay anh, và cơn điên hạ xuống. Con nói với anh: “Tôi sẽ dạy anh một Kinh tôi vẫn thường đọc.” Anh trả lời: “Được, tôi sẵn sàng, nếu là Kinh anh vẫn đọc!” Con dạy anh đọc Kinh Lạy Cha.

Nơi bệnh viện tâm thần cũng có vị Linh Mục Tuyên Úy Công Giáo. Nhưng không hiểu sao bạn con không bao giờ muốn trông thấy mặt Cha Tuyên Úy. Chỉ cần Cha Tuyên Úy mở cửa bước vào phòng là anh nổi cơn điên! Vì thế Cha Tuyên Úy chỉ đến phòng khi nào anh ngủ.

Khi mẹ con đến thăm, con năn nỉ xin mẹ mua cho bạn con một ảnh Thánh Giá. Mẹ con nhận lời mua và mang đến. Bạn con nắm chặt ảnh Thánh Giá trong tay suốt ngày. Và cũng từ đó anh không còn lên cơn điên nữa. (Sr. JB. Minh Nguyệt, “Les histoires vraies du Frère Lucien”, Éditions S.O.S, Paris 1982, trang 47-52)

Trong câu chuyện trên, người bạn hay lên cơn điên chẳng phải Kitô hữu, nhưng vẫn được Chúa xót thương, cứu thoát khỏi bạo bệnh. Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, thánh sử Luca thuật lại phép lạ cả thể, khiến dân chúng sửng sốt và sợ hãi. Đức Giêsu giàu lòng thương xót, đã cho sống lại chàng thanh niên, con một bà goá trong thành. Người luôn hiện diện trong lúc vui lẫn lúc buồn trong cuộc đời từng người, để kịp thời yêu thương giải cứu.

Lòng Thương Xót

Người mẹ goá theo sau quan tài đứa con trai, cúi đầu khóc lóc thảm thiết, chẳng hề ngước lên nhìn ai. Tâm hồn bà tan nát, vì chỗ dựa cuối cùng đã mất. “Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: “Đừng khóc nữa.” Đức Giêsu nhìn thấy thảm cảnh cũng chẳng thể nào cầm nổi nước mắt. Người cũng đã đau khổ tuôn lệ, trước mộ phần người bạn Lazarô.

Trước những cảnh ngộ bi thương, Đức Giêsu vốn tràn đầy yêu thương, chí nhân, chí ái, thông cảm nỗi trầm luân con người. Không cần đến lời cầu xin, van nài, Người đã chạnh lòng trắc ẩn. “Chúa, Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận, giầu tình yêu và thành tín” (Xh 34, 6)

Trong nhiều phép lạ, Người cũng chạnh lòng thương, giải cứu những kẻ đang chìm đắm trong tuyệt vọng, như trừ quỷ ngay tại hội đường Capharnaum, trong ngày sabat. (Lc 4, 33-37) “Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất.”(Lc 19, 10)

Giải cứu

Lòng Thương Xót trở thành hiện thực, không dừng lại mức đồng cảm, thương tâm, xót xa. “Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy!” Tức khắc lệnh truyền linh nghiệm. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó. Chỉ duy nhất Thiên Chúa mới có quyền hành trên sự sống và sự chết.

Con người sống lầm than trong tội lỗi là đã chết đi phần linh hồn, rất cần đến Lòng Thương Xót cứu thoát khỏi quỷ dữ. Bởi vì, chẳng ai có thể tự giải thoát khỏi cái chết phần hồn, nếu không cậy nhờ đến hồng phúc cứu độ của Đức Giêsu Kitô.

Tuy nhiên, nhờ lời nguyện cầu của người thân, của những tâm hồn đạo hạnh, thánh thiện, có thể cứu vãn những kẻ đang sống trong bùn nhơ trở về với Lòng Thương Xót vô biên. Đức Giêsu cũng tái xác nhận nhiệm vụ cao cả của Người đến thế gian: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5, 32) Người hăng hái tìm về những con chiên lạc bầy. “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” (Lc 19, 10)

Giải thoát con người thoát khỏi kiếp nô lệ tội lỗi, Đức Giêsu muốn con người được tự do trong ân sủng, đừng trở lại kiếp đoạ đầy. “Chính để chúng ta được tự do, mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta. Vậy anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa.” (Gl 5, 1)

Hiện diện

Mặc dầu Đức Giêsu đã chịu chết và phục sinh về Trời, nhưng Người vẫn hiện diện giữa nhân loại qua Kinh Thánh và Thánh Thể. Người còn ban Đức Chúa Thánh Thần xuống khai tâm, soi sáng, hướng dẫn và trợ lực tín hữu trên đường hy vọng.“Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người.”

Hơn  nữa, Người đặc biệt hiện diện nơi những anh chị em đau khổ, bệnh hoạn, khó nghèo, cô nhi quả phụ, đói khát, rách rưới, tù đầy, bị đối xử phân biệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội. “Quả thật, Ta bảo các ngươi: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta.” (Mt 25, 40)

“Biết trần gian là nơi tạm trú, sao con còn bo bo dành cho được sở này, chức kia, tiếc nuối chiếc bàn, chiếc ghế…? Con sẽ mang nó theo vào Thiên Đàng “hưởng phúc đời đời” sao? Phi lý và điên khùng!” (Đường Hy Vọng, số 672)

Lạy Chúa Giêsu, xin thức tỉnh và cứu thoát chúng con khỏi đêm tối tội lỗi, xin giải thoát chúng con khỏi những cám dỗ, cạm bẫy, xin an ủi, che chở và nâng đỡ chúng con qua sự hiện diện của Người trong từng giây phút cuộc đời chúng con.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ từng chịu đựng trải qua biết bao thách đố cuộc đời từ khi thưa hai tiếng “Xin Vâng.” Xin Mẹ cầu bầu cùng Con Mẹ cho chúng con thoát ách tử thần, thoát khỏi sức mạnh ma quỷ, xác thịt và thế gian, hầu chúng con xứng đáng được Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa đoái thương cứu rỗi. Amen.

CẢM THÔNG ĐỂ XÓT THƯƠNG

Jos.Vinc. Ngọc Biển

Ai sinh ra trên đời này cũng đều trải qua 4 cửa ải là: “Sinh, lão, bệnh, tử”. Nói cách khác: chết là một trong 4 khâu của định luật: “Thành, trụ, hoại, diệt”. Hay nói theo tam đoạn luận trong triết học thì: đã sinh ra trong thân phận con người, ai cũng phải chết. Vì thế, tôi là con người, nên tôi cũng phải chết.

Như vậy, không ai tránh khỏi cái chết. Mọi người đều phải kết thúc cuộc hành trình trên trần gian này bằng cái chết. Đã có sinh thì ắt phải có tử.

Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại câu chuyện Đức Giêsu cùng với các môn đệ đi vào thành Caphácnaum và gặp thấy đám tang con trai bà góa thành Naim đang được đem đi chôn. Hình ảnh đám tang của con trai bà góa cho chúng ta thấy: người thanh niên này đã trải qua cuộc sống dương thế. Anh ta đã kết thúc tại cửa ải thứ 4 là “tử”; khâu cuối cùng là “diệt”. Như vậy, tử thần đã chiến thắng. Cái chết đã thống trị.

Thế nhưng, khi gặp được Đức Giêsu, cái chết có phải là đã kết thúc mọi chuyện và là mồ chôn vĩnh viễn thân phận cát bụi của người thanh niên kia không?

1-Điểm giao của lòng thương xót

Không! Đức tin cho chúng ta thấy cái chết không phải là ngõ cụt, nhưng nó là một giai đoạn cần phải trải qua để đi vào sự sống vĩnh hằng. Cái chết như là một cửa khẩu, để qua đó, ta sang được bến bờ bình an và hạnh phúc viên mãn. Niềm tin ấy đã được Đức Giêsu hé mở và củng cố qua cái chết của con trai bà góa thành Naim hôm nay.

Hình ảnh đám tang ở trong thành đi ra, còn Đức Giêsu và các môn đệ thì đi vào. Hai hình ảnh không thuận chiều nhau mà là trái chiều. Nhưng hai nhóm người đó đã gặp nhau tại một điểm giao. Điểm giao đó là “tình yêu”, “lòng thương xót” của Đức Giêsu.

Quả thật, Thiên Chúa là Đấng Giàu Lòng Thương Xót, mà Đức Giêsu là hiện thân của lòng thương xót đó, nên Ngài luôn yêu thương và thông cảm cho nỗi khốn cùng của con người. Vì thế, khi thấy đám tang con của một bà hóa, Ngài đã “chạnh lòng thương”(esplanchnisthè), mà theo tiếng Hy Lạp, có nghĩa chính xác là “xúc động đến ruột gan”.

Vì thế, Ngài đã có lòng thương cảm sâu đậm cho hoàn cảnh éo le của gia tang.

Éo le là bởi vì mẹ của người chết lại là một bà góa. Mọi hy vọng đều đổ dồn vào người con trai duy nhất, nay con bà chết, bà biết trông vào ai? Nỗi cô đơn trở nên tột cùng khi những kỳ thị của dân tộc sẽ đến với bà. Sự bất hạnh lại càng lên đến đỉnh cao khi những truyền thống trong xã hội Dothái thời bấy giờ coi thành phần các bà góa là những người không có tiếng nói, là hạng người thấp cổ bé họng.

Đứng trước tình cảnh như thế, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Đức Giêsu đã động lòng trắc ẩn. Ngài đã đứng lại an ủi bà và truyền cho những người khiêng cáng dừng lại, sau đó Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, ta bảo anh: Hãy trỗi dậy!”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa.

2-Đức Giêsu mặc khải sự sống vĩnh hằng

Hành vi Đức Giêsu bảo những người khiêng cáng dừng lại và Ngài truyền lệnh cho người chết chỗi dậy thể hiện quyền năng của một vị Thiên Chúa uy quyền và làm chủ sự sống lẫn sự chết; đồng thời cũng cho chúng ta thấy bản chất của Thiên Chúa là Tình Yêu (x. 1 Ga 4,16). Một Thiên Chúa luôn yêu thương, chữa lành; một Thiên Chúa đem lại cho con người niềm an ủi và hạnh phúc sau những đắng cay tủi nhục; một Thiên Chúa gieo vào trong tâm hồn con người niềm hy vọng khi mọi chuyện tưởng chừng như đã chấm dứt bằng cái chết.

Tuy nhiên, đấy mới chỉ là những cách giải thoát mang tính hiện sinh mà thôi, bởi lẽ người thanh niên hôm nay được Đức Giêsu cho sống lại, nhưng rồi một ngày nào đó anh ta cũng sẽ phải chết. Nhưng điều mà Đức Giêsu muốn đi xa hơn qua việc cho người thanh niên này sống lại, đó chính là đem lại cho con người sự sống viêm mãn, một sự sống dồi dào đằng sau cái chết. Vì thế, Ngài đã muốn giải thoát con người khỏi cái chết đời đời, để thay vào đó là sự sống trường tồn mai hậu. Đây là trọng tâm của sứ điệp mà hôm nay Đức Giêsu muốn nhắn gửi nơi mỗi người chúng ta.

Qua phép lạ cho con trai bà góa thành Naim chết được sống lại, Đức Giêsu không chỉ cho chúng ta thấy tình thương của Thiên Chúa dành cho những người bé mọn, cũng không chỉ dừng lại ở việc Ngài cảm thông với nỗi cô đơn, mất mát to lớn của bà goá nọ. Nhưng điều quan trọng hơn, đó chính là dấu chỉ tiên báo trước việc Ngài sẽ sống lại và những ai tin vào Ngài thì cũng sẽ được sống lại, được đưa vào nơi tràn đầy hạnh phúc và bình an.

3-Sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:

Trước tiên, cần phải có sự thương cảm với những người kém may mắn. Không ai sống trên đời này như một hòn đảo. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ chúng ta: “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Việt Nam ta cũng có câu: “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”. Vì thế, không thể dửng dưng nhìn xem nỗi bất hạnh của người khác rồi hả hê cười đùa vui vẻ; cũng không phải huênh hoang tự kiêu khi thành công để rồi khinh bỉ người cùng khốn.

Thứ đến, sống theo tinh thần của Đức Giêsu, là: hãy biết ra khỏi chính mình để đi đến với những ai cần tới bàn tay, khối óc, con tim của chúng ta. Cần ra khỏi ốc đảo của tự kiêu, để như Đức Giêsu, đi đến đâu thì thi ân giáng phúc tới đó (x. Cv 10,38).

Cuối cùng, hãy đặt mình vào hoàn cảnh của những người bất hạnh, để thấy được sự cô đơn, đau khổ, mất mát của họ. Từ đó, biết cảm thông, liên đới và ra tay giúp đỡ anh chị em chúng ta cách thiết thực và chân thành.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết rung động trước những nỗi đau của con người, biết nhạy bén trước những nhu cầu của anh chị em đồng loại, để đem lại cho họ niềm vui, bình an và hạnh phúc. Xin cho chúng con biết ra khỏi chính mình, để không bị rơi vào tình trạng co cụm lại nơi bản thân. Bởi vì nếu co cụm lại với chính mình mà thôi, thì đấy là lúc chúng con đang đánh mất chính mình. Amen.

SUY NIỆM CÁC NGÀY TRONG TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN

Jos. Vinc. Ngọc Biển

THỨ HAI

CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN HẠNH PHÚC

(Mt 5, 1-12)

Xem lại CN 4 TN A, CN 6 TN C,

Thứ Sáu tuần 23 TN, lễ Các Thánh 1/11.

Là con người, từ cổ chí kim, từ Đông chí Tây, đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ai ai cũng đều mong muốn mình được hạnh phúc hoặc sờ chạm thấy hạnh phúc dù chỉ một chút. Thánh Tôma Aquinô cũng đã nói: “Theo bản tính tự nhiên, tất cả mọi người đều khát mong hạnh phúc”. Chính vì thế, nhiều người chấp nhận đánh đổi rất nhiều để cầu mong được hạnh phúc. Ngày nay, cũng đã có nhiều người tìm ra cho mình những kỹ năng để nâng niu và nắm giữ được hạnh phúc lâu dài.

Tuy nhiên, điều họ mong muốn và tìm kiếm đó có đúng không hay chỉ là một sự mơ tưởng hoặc bị hiểu sai về hạnh phúc? Vậy, hạnh phúc đích thực là gì và ở đâu?

Hôm nay Đức Giêsu đã vạch ra cho các môn đệ và những người đương thời với Ngài những con đường để đưa đến hạnh phúc. Con đường đó là: tinh thần nghèo khó; hiền lành; chịu đau buồn vì Chúa; khao khát điều công chính và sẵn sàng chấp nhận bị bách hại vì điều công chính đó; hãy thương xót người; có lòng trong sạch; ăn ở thuận hoà. Trung thành với các “mối phúc thật” và gắn vào trong đó lòng mến thì hẳn sẽ đạt được hạnh phúc đích thực là Nước Trời.

Hôm nay, Đức Giêsu cũng đang mời gọi mỗi người chúng ta đi trên con đường Chân Phúc đó để được cứu độ, hạnh phúc và bình an. Tuy nhiên, con đường đó chẳng mấy ai đi! Bởi vì nó là con đường “hẹp”, con đường của từ bỏ, của chông gai. Nhưng để đạt được niềm hạnh phúc thực sự, chúng ta không còn con đường nào khác là đi trên chính con đường mà Đức Giêsu đã đi, bởi lẽ đường rộng và lối thênh thang sẽ dẫn đến đau khổ, bất hạnh và diệt vong.

Lạy Chúa Giêsu, đã biết bao lần chúng con khước từ con đường Chúa vạch ra cho chúng con để được hạnh phúc. Ngược lại, chúng con lại lựa chọn con đường dễ dãi, thênh thang hầu thỏa mã tính xác thịt nơi mình, mà bán rẻ lương tâm, nhân phẩm của chúng con để rồi mất đi hạnh phúc thật.

Xin cho chúng con biết tìm về nguồn cội của hạnh phúc là chính Chúa, biết đi trên con đường “các mối phúc” để dẫn tới hạnh phúc đích thực. Amen.

THỨ BA

MUỐI PHẢI LÀ MUỐI

(Mt 5, 13-16)

Xem lại CN 5 TN A.

Khi nói đến muối, người ta nghĩ ngay đến vai trò quan trọng của chúng trên sức khỏe của con người, bởi vì: muối có thể làm dung hòa, điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể (cân bằng lỏng). Các hoạt động của cơ thể sẽ bị xáo trộn nếu thiếu muối, triệu chứng rối loạn điện giải,  co bắp thịt, đau cơ, uể oải, buồn nôn, hoa mắt, chóng mặt, phù thũng… là do thiếu muối. Muối còn có tác dụng xát trùng cao, bảo quản thức ăn cho khỏi hư thối… Tục ngữ ca dao Việt Nam có câu: “Cá không ăn muối cá ươn”.

Hôm nay, Đức Giêsu phán cùng các môn đệ: “Chính anh em là muối cho đời”. Nhưng liền sau đó, như một sự cảnh báo trước: “Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó?”.

Thật vậy, đời môn đệ chỉ có giá trị khi trong mình có vị mặn của tình yêu Giêsu, để làm toát lên hương vị của khiên nhường, yêu thương, tự hủy, vâng phục, xóa mình ra không để sống và sống cho người khác. Nếu không có vị mặn này, phải chăng đời môn đệ của chúng ta trở nên nhạt nhẽo, bèo bọt và vô tác dụng. Khi ấy, sự hiện diện của chúng ta trở nên dị hợm… thay vì ướp cho đời thì lại làm cho đời trở nên hư thối vì bị lây nhiễm bởi những lề thói xấu xa tục tĩu của chúng ta.

Muốn được như thế, như những hạt muối, chúng phải chịu hòa tan trong nước thì mới có giá trị, người Kitô hữu muốn trở nên chứng nhân, thì cũng phải tan hòa cuộc đời như những hạt muối, chấp nhận từ bỏ cái tôi ích kỷ để trở thành hữu dụng cho tha nhân.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con vẫn mãi là muối mang vị mặn của Chúa, để chính Chúa ướp chúng con và cũng để chúng con cùng Chúa ướp cho đời khỏi bị hư thối bởi những trào lưu tục hóa trong thế gian này. Amen.

THỨ TƯ

GIỮ LUẬT THEO TINH THẦN CỦA CHÚA

(Mt 10, 7-13; hoặc Mt 5, 17-19)

Xem lại CN 6 TN A,

Thứ Tư tuần 3 MC

Chuyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có một vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn thần kỳ và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quý hiếm và gắn đầy kim cương lóng lánh: nó kỳ diệu ở chỗ nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, làm cho ngón tay trở nên đau đớn.

Mỗi người chúng ta cũng có một chiếc nhẫn thần là Lề Luật của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chiếc nhẫn thần đó mang lại cho chúng ta niềm vui, hạnh phúc hay đau khổ là do thái độ của chúng ta với chúng. Thái độ đó là yêu mến hay bị ép buộc?

Hôm nay, khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ trong ngày Sabát, giới lãnh đạo Dothái tỏ vẻ khó chịu và nghi ngờ việc Đức Giêsu bất chấp Lề Luật. Thấy được sự sầm sì của họ, Đức Giêsu lên tiếng dạy các môn đệ và cũng một cách gián tiếp giáo huấn những người Pharisêu: “Các con đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề Luật hay Lời các ngôn sứ; Thầy không đến để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn mặc cho Lề Luật một ý nghĩa mới, đó là Luật vì con người chứ không phải con người vì Luật. Khi Luật vì con người, thì tình yêu sẽ vượt lên trên Lề Luật, còn khi con người vì Luật, thì chính Luật sẽ đè bẹp và giết chết con người trong sự vô nhân đạo.

Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để chúng con tuân giữ Lề Luật của Chúa trong sự ép buộc, nhưng là trong lòng mến, để qua đó, nhờ Lề Luật mà làm cho chúng con được gần Chúa và anh chị em chúng con hơn. Amen.

THỨ NĂM

HÃY TRỞ NÊN CÔNG CHÍNH HƠN

(Mt 5, 20-26)

Xem lại thứ Sáu tuần 1 MC

Cuốn sách: “Những căn bệnh trầm kha trong đời sống đức tin Công Giáo tại Việt Nam”, ở phần dẫn nhập, tác giả kể một câu chuyện đại khái thế này: có một người giàu có, cuộc sống sung túc, và ông ta có rất nhiều vợ. Mỗi người đều có cơ ngơi riêng. Khi gần qua đời, ông ta tin vào Chúa, theo đạo Công Giáo và được Rửa tội…

Khi nghe câu chuyện ấy, một người Công Giáo đã thốt lên ngay: “Ông này hên thật, được cả đời này lẫn đời sau!”

Điều ấy cho thấy khá rõ hiện trạng đời sống đức tin của người Kitô hữu Việt Nam: đạo không phải là một hồng phúc, nhưng là một sự may rủi, đôi khi trở thành gánh nặng!

Hôm nay, Đức Giêsu muốn giúp cho các môn đệ đi một bước xa hơn trong việc giữ Luật. Ngài nói: “Nếu các con không công chính hơn các Luật Sĩ và Kinh Sư, các con sẽ chẳng thể vào được Nước Trời” (Mt 5,20).

Nước Trời không thể có cho những người “bắc nước trực gạo người” hay “há miệng chờ sung rụng”. Nước Trời cũng không dành cho những người vụ Luật và chỉ biết sống cho chính mình mà không cần quan tâm đến anh chị em đồng loại.

Vậy, để như điều kiện cần cho được vào Nước Trời, đó chính là phải sống thật tâm, sống hết mình với Chúa và với nhau. Tức là tất cả phải được xây dựng trên tình yêu. Nếu có tình yêu, thì đâu còn chuyện giết hại lẫn nhau; đâu còn mắng chửi nhau là ngu là ngốc; và làm sao đến dâng lễ vật mà trong lòng còn căm ghét anh chị em mình… Hãy sống với giây phút hiện tại và thánh hóa chúng, vì đối với Thiên Chúa, Người không tính thời gian hay công việc, mà Người nhìn tận sâu thẳm của tâm hồn con người nơi công việc hay suy nghĩ của họ.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã chỉ ra cho chúng con con đường để được cứu độ, đó là con đường yêu thương. Xin cho chúng con biết đi trên con đường đó cho đến hết đời. Amen.

THỨ SÁU

HÃY SỐNG TRONG SẠCH TỪ TƯ TƯỞNG

(Mt 5, 27-32)

Trên các trang mạng xã hội gần đây có đăng tải câu chuyện của một quan tham, ông ta là Phó Chánh Văn phòng UBND tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Ông này có ý đồ dâm đãng với nhiều phụ nữ. Ông ta trở thành điển hình cho thói ăn chơi sa đọa và bệnh hoạn. Giấc mơ mà ông này đeo đuổi chính là được “qua đêm” với 1.500 người phụ nữ. Kết cục ông đã bị bắt (xc. http://www.tienphong.vn/the-gioi/quan-tham-trung-quoc-dat-muc-tieu-ngu-voi-1500-nguoi-phu-nu-711861.tpo).

Hôm nay Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học về sự thanh bạch, khiết tịnh từ bên trong, Ngài nói: “Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi”. Sau đó, Ngài đã nói lên tính cẩn trọng, dứt khoát với tội để có sự toàn vẹn trong cuộc sống mai hậu: “Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục”.

Trong đời sống thực tế, có nhiều người bên ngoài tỏ ra rất đạo đức, thánh thiện, nhưng bên trong luôn đi tìm muốn sự bất khiết.

Lời Chúa hôm nay nhắc cho mỗi chúng ta hãy tránh xa những dịp tội, nhất là tội dâm dục, để được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc trên Thiên Quốc mai sau.

Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con và ban cho có tự do, đồng thời Chúa cho phép chúng con sử dụng sự tự do đó để làm điều thiện hay xấu. Xin Chúa ban ơn trợ lực, để chúng con biết sử dụng ân huệ Chúa ban mà làm việc tốt, hầu sinh ích cho phần hồn chúng con. Amen.

THỨ BẨY

KHÔNG ĐƯỢC THỀ!

(Mt 5, 33-37)

Có những lần chúng ta đã nghe thấy những câu thề thốt đáng sợ như: “Tôi thề có đất trời chứng dám, sự việc xảy ra đúng như vậy, nếu không thì cho tôi bị chết bất đắc kỳ tử”. Như vậy, theo quan niệm của con người, lời thề thông thường là nối liền với sự tự rủa bản thân mình để chứng thực điều quả quyết. Khi đã thề, đòi buộc người thề không được bội ước.

Tuy nhiên, hôm nay, Đức Giêsu lại dạy các môn đệ rằng: “Đừng thề chi cả […]. Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.

Thực ra, thề có độc địa đến đâu, thì lời thề đó cũng khó có thể thành hiện thực. Như một lời nhắc nhở, Đức Giêsu cho biết, những lời thề đó là những điều phạm thánh, nếu cố tình vi phạm, không ăn năn hối cải sẽ bị Chúa phán xét nặng trong ngày diện kiến với Chúa.

Trên thực tế, con người ta có nhiều điều bất hảo. Thử hỏi có ai làm cho tóc hóa đen, hay kéo dài tuổi thọ của mình trên trần gian? Nếu điều đó cũng không làm được, thì nói chi đến những chuyện động địa như trong lời thề!

Hôm nay, Lời Chúa dạy cho chúng ta bài học về sự chân thật. “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.

Chúng ta không được phép thêm bớt để rồi làm cho người khác bất hạnh. Hãy sống thật với lòng mình thì sẽ được Chúa chúc phúc. Đừng sống kiểu: “Khẩu Phật, tâm xà”; hay: “Lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo”.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý đến với mỗi người chúng con, để chúng con biết sống ngay thẳng, công tâm, hầu xứng đáng là con cái Chúa. Amen.

YÊU KHÔNG TÍNH TOÁN

Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

Trong cuộc sống chúng ta nghe rất nhiều những bài ca dao dạy về tình liên đới, sự cảm thông nâng đỡ nhau như:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn “

Tình thương giữa con người với nhau luôn thúc đẩy chúng ta yêu thương đùm bọc để “chia ngọt sẻ bùi” với nhau vì:

“Anh em như thể tay chân

Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần ”

Vượt ra khỏi tình anh em máu mủ là tình quê hương, tình đồng loại cũng phải yêu thương nhau như câu ca dao đã nói:

“Nhiễu điểu phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng”

Lời dạy của tiền nhân là vậy. Thế nhưng có mấy ai thực thi. Xem ra con người từ cổ chí kim vẫn chỉ lo cho mình, đôi khi còn dửng dưng với nỗi bất hạnh của đồng loại và cả người thân. Thế nên cha ông ta cũng đau xót nói rằng:

 “Con cò chết rũ trên cây

Cò con mở lịch định ngày làm ma

Cà cuống uống rượu la đà

Chim ri riu rít bò ru lấy phần ”

Câu ca dao này khiến chúng ta nhớ tới tích chuyện cổ xưa kể rằng: Vua Thạch Sùng có một cuộc sống rất bệnh hoạn, mỗi lần cùng khách dự tiệc thì nhất định phải để cho người đẹp chuốc rượu, nếu người đẹp không thể làm cho khách uống được thì người đẹp bị tội chết.

Một hôm, Thạch Sùng làm tiệc mời thừa tướng Vương Đạo và một vị đại tướng quân. Thường ngày Vương thừa tướng rất ít uống rượu, nhưng ông ta biết Thạch Sùng có thói quen ác độc ấy, bèn miễn cưỡng đến và ăn uống đến say mèm, mà vị đại tướng quân kia lại cố ý không uống, kết quả là Thạch Sùng giết hết ba người đẹp.

Vương thừa tướng khuyên vị đại tướng quân uống, đại tướng quân nói:

– “Hắn ta giết người của gia đình hắn, mắc mớ gì đén tôi chứ ?”

Đôi khi chúng ta cũng cảm thấy mình đâu có trách nhiệm với sự sống tha nhân. Chúng ta theo chủ thuyết “makeno” để sống chết mặc bay. Người ta giết nhau chứ có giết mình đâu mà can thiệp. Đây là lối sống ích kỷ thiếu tình yêu lòng cảm thông với tha nhân.

Thiên Chúa luôn yêu thương con người. Tình yêu của Ngài luôn chạnh lòng thương xót mọi phận người khổ đau. Ngài xót xa khi nhìn thấy đoàn người đói khát mệt mỏi sau một ngày theo Chúa trên đồng hoang mông quạnh. Ngài xót xa khi nhìn thấy nỗi đau thể xác nơi các bệnh nhân. Ngài còn quả quyết Ngài đến để lòng thương xót vô bờ bến dành cho các tội nhân.

Tình thương lòng cảm thông ấy hôm nay Ngài dành cho người mẹ thành Nain đang tiễn đưa con mình. Ngài chạnh lòng thương và gọi cậu dậy để trả lại sự sống cho cậu. Dẫu biết rằng con người rồi cũng chết, nhưng Ngài xót xa cảnh ly biệt của mái đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh. Ngài đã tỏ bày lòng thương xót của một vì Thiên Chúa luôn sẵn lòng thi ân cho con người.

Đức Thánh Cha Phanxico cũng từng nói: Lòng thương xót của Thiên Chúa luôn hoạt động động để cứu giúp. Thiên Chúa của lòng thương xót đáp lời và quan tâm đến người nghèo, quan tâm đến những ai kêu gào trong tuyệt vọng. Thiên Chúa lắng nghe và can thiệp để cứu giúp, bằng cách tạo nên những con người đủ khả năng để lắng nghe tiếng rên rỉ của đau khổ và hỗ trợ những ai bị áp bức”.

Ước gì chúng ta luôn có cái nhìn đầy cảm xúc của Chúa để mở rộng lòng trước những bất hạnh của tha nhân. Xin cho chúng ta luôn biết mở toang tấm lòng của mình để gió cuốn ta đi đến với mọi hoàn cảnh khổ đau, với những mảnh đời bất hạnh hầu xoa dịu những thương đau cho anh em như Chúa đã sống vì yêu thương nhân loại chúng ta. Amen

CHÚA GIÊSU LÀM CHO THANH NIÊN SỐNG LẠI

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Xuyên suốt Tin Mừng của Đức Kitô nhằm nói lên con người nhân hậu, đầy lòng thương xót của Người. Chúa đến với mọi thành phần xã hội : Ngài đến với người nghèo, những người bị xã hội bỏ rơi, những người bị quỷ ám Ngài xua trừ ma quỷ ra khỏi tâm hồn của họ, Ngài chữa bệnh hoạn tật nguyền, Ngài đồng bàn với những người thu thuế, những kẻ tội lỗi, Ngài yêu mến trẻ em, đặc biệt Ngài làm cho người chết sống lại như hôm nay Ngài đã làm cho con bà góa thành Naim, đã chết đang khiêng đi chôn, được sống lại khi mẹ của thanh niên này và mọi người đều đã tuyệt vọng.

Cảnh u buồn, ảm đạm của đám tang đã khiến nhiều người tuyệt vọng. Thật tình mà nói, bà góa thành Naim đã rơi vào tình trạng đau khổ tuyệt đối và hoàn toàn lẻ loi, cô độc. Bởi vì đối với người Do Thái thời đó, góa bụa đã là một sự đáng khinh,vì bị liệt vào hạng đàn bà cằn cỗi, không thể sinh nở. Do đó, tất cả hy vọng của bà đều đổ dồn vào đứa con trai duy nhất, mà giờ này bà đã hoàn toàn tuyệt vọng vì con bà đã chết. Bà theo quan tài đứa con trai yêu duy nhất ra nơi huyệt mộ, lòng của bà hầu như tan nát vì bà không còn hy vọng gì nữa. Chúng ta không thể nào tưởng tượng được sự u buồn, nặng nề của đám tang con trai của bà góa thành Naim. Và rồi Chúa Giêsu trông thấy bà, Ngài cảm động, Ngài thông cảm với nỗi đau của bà. Nhưng nơi Chúa Giêsu, sự cảm thông của Ngài mang đầy hy vọng, Ngài sẽ đem lại cho bà sự an bình, niềm hy vọng thật sự. Chúa bảo bà : “ Đừng khóc nữa “. Lời nói của Ngài không chỉ là lời động viên, an ủi cho qua lệ nhưng đây là lời đem lại cho bà niềm vui, sự hy vọng vì Chúa sẽ làm cho con bà sống lại. Qua lời nói của Chúa Giêsu, Ngài muốn nói với bà góa bà còn hữu ích cho Giáo Hội, cho Xã hội, con của bà sẽ sống lại, Chúa sẽ đem lại niềm hy vọng lớn lao cho bà. Và rồi, Chúa chạnh lòng thương xót, Ngài đã làm cho cậu thanh niên sống lại trước sự kinh ngạc và hết sức thán phục của mọi người. Bà góa, những người thân thương trong họ hàng hai bên, và nhiều người có mặt trong đám tang hôm đó, đã tìm lại được niềm hy vọng : họ hiểu và cảm nghiệm chỉ có tình yêu của Thiên Chúa là mạnh hơn, vượt lên tất cả mọi sự.

Cái chết của con bà góa thành Naim nhắc nhở mọi người, nhắc nhở chúng ta:” Ai cũng phải chết “. Cuộc đời của con người có ba điều quan trọng : sinh, sống và chết.Sinh ra thì con người cũng không biết lúc nào.Chết càng không biết giờ nào. Sống ở trần gian thì gặp muôn vàn đau khổ. Con ngươi khổ đủ điều : khổ vì nghèo, vì túng thiếu, khổ vì bệnh hoạn, tật nguyền, khổ vì già yếu. Chết lại càng khổ hơn. Chúa tạo dựng nên con người, Ngài luôn quan tâm đến những vấn đề của con người như sinh, lão, bệnh, tử. Thực tế, con bà góa thành Naim đã được sinh ra, đã đau ốm và đã chết. Đứng trước vấn đề rất thực tế của con người. Trước sự đau khổ cao độ của con người, của bà góa, Chúa Giêsu đã can thiệp vào những vấn đề hết sức cụ thể của con người để minh chứng Ngài có quyền trên sự sống và cả sự chết của con người.

Chúa Giêsu không phải chỉ là một vị ngôn sứ quyền năng, nhưng Ngài là Đấng cứu độ. Ngài đã toàn thắng sự chết : Ngài đã đẩy xa, xóa tan nọc độc của tội.Ngài đã từ cõi chết sống lại và ban cho chúng ta được sống lại với Người… Lạy Chúa Giêsu, cái chết làm cho con người âu lo, sợ hãi.Tuy nhiên, chính Chúa cũng đã chấp nhận cái chết để cứu rỗi loài người và Chúa đã chiến thắng sự chết khi từ trong sự chết, Chúa đã phục sinh khải hoàn.Chúa đã cho chúng con niềm tin và cho chúng con hy vọng được sống lại với Chúa.Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con xác tín sâu xa vào sự sống lại của Chúa vì tin tưởng chúng con cũng sẽ được sống lại với Chúa.Xin Chúa giúp chúng con đừng bao giờ thất vọng, nhất là đừng bao giờ tuyệt vọng nhưng luôn tin tưởng tuyệt đối và luôn bám chặt vào Chúa. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Đối với người Do Thái son sẻ là gì ?

2.Người Do Thái trọng nam khinh nữ nghĩa là sao ?

3.Bà góa thành Naim có tuyệt vọng khi con trai duy nhất của bà chết không?

4.Chúa đã mang lại cho bà góa điều gì ?

5.Tại sao con người khi gặp gian nan mới cần tới Chúa ?

PHÉP LẠ TẠI THÀNH NA-IM

Lm Giuse Đinh lập Liễm

  1. DẪN NHẬP

Bài đọc 1 và bài Tin mừng hôm nay na ná giống nhau, đều nói về phép lạ cho đứa con trai của bà góa sống lại. Mọi người đều phải chết, đó là một thực tế và cũng là chân lý. Đã chết thì không thể nào sống lại được, trừ ra có một phép maầu. Phép mầu này phải đến bởi Thiên Chúa.  Việc đứa con trai bà góa sống lại có hai nguồn gốc khác nhau :  một đàng tiên tri Êlia phải cầu nguyện xin Thiên Chúa cho đứa bé sống lại; đàng khác Đức Giêsu lấy quyền năng của mình để trực tiếp làm cho đứa bé sống lại khi nói :”Này người thanh niên, Ta bảo anh : hãy chỗi dậy” (Lc 7,14). 

Đức Giêsu làm phép lạ này để nói lên quyền năng siêu việt của Thiên Chúa. Ngài làm chủ sự sống và sự chết. Vì thế, Ngài có thể làm cho kẻ chết sống lại tùy ý Ngài. Ngoài ra, Đức Giêsu còn nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Ngài không thể dửng dưng trước đau khổ của con người, Ngài biết đồng cảm với con người trong cuộc sống hằng ngày. Sau cùng, Ngài cũng hé mở cho chúng ta biết thân xác loài người ngày sau sẽ được sống lại.

Qua phép lạ này, noi gương Đức Giêsu, chúng ta hãy học để biết thông cảm với mọi người , chúng ta không thể dửng dưng trước những đau khổ của con người,  vì qua phép Rửa tội, chúng ta là những chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.  Thánh Phaolô đã thâm hiểu chân lý này khi ngài khuyên nhủ tín hữu Rôma :”Anh em hãy vui củng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc” (Rm 12,15), vì trong một thân thể, bất cứ một chi thể nào cũng có tương quan đến chi thể khác.

 

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1 : 1V 17,17-24 

Bài đọc 1 có vài nét na ná như trong bài Tin mừng hôm nay : nói đến việc làm cho con trai một bà góa sống lại.

Sách Các Vua cho biết tiên tri Êlia đến trọ ở nhà một bà góa ở thành Sarepta. Bà đã đón tiếp ông rất nồng hậu. Không may đứa con trai duy nhất của bà bệnh nặng rồi chết và bà tưởng rằng con bà bị chết vì lời nguyền của vị tiên tri nhằm trừng phạt một lỗi nào đó không rõ.

Nhưng nhà tiên tri đã cầu xin Chúa cứu đứa bé và ông đã được Thiên Chúa nhận lời. Đứa bé sống lại và đã trao đứa bé cho mẹ nó.  Và bà đã thưa với tiên tri :”Bây giờ nhờ việc này, tôi biết rõ ông là người của Thiên Chúa và lời của Chúa nơi miệng ông là lời chân thật” (1V 17,24). 

+ Bài đọc 2  : Gl 1,11-19

Thánh Phaolô xác định với tín hữu Galata rằng : Tin mừng của Ngài rao giảng không phải là của loài người, mà ngài đã lãnh nhận trực tiếp nơi Thiên Chúa.

Ngài khuyên họ đừng theo “một Tin mừng nào khác”, tức là chưa đủ an tâm khi sống theo Tin mừng mà ngài đã rao giảng, lại còn giữ thêm một số luật lệ Do thái giáo nữa.

Ngài xác quyết với họ rằng người ta chỉ được ơn cứu độ nhờ đức tin chứ không phải nhờ tuân giữ Lề luật.

+ Bài Tin mừng : Lc 7,11-17

Chỉ có thánh Luca mới thuật lại chuyện con trai bà góa thành Naim sống lại,  để nói lên sự can thiệp mang tính cách Thiên sai của Đức Giêsu.

Khi vào đến cổng thành Na-im, Đức Giêsu thấy người ta đang đem đi chôn một người thanh niên con một bà góa. Mọi người đều than khóc và chia buồn với mẹ nó.

Tất cả mọi người đi đưa xác, chẳng ai mở lời xin Ngài cứu giúp, nhưng Ngài đã ra tay cứu giúp vì Ngài động lòng thương.

Đối đầu với cái chết và sự đau khổ, Đức Giêsu đã lập tức chứng tỏ tình yêu và quyền năng siêu việt của Ngài.  Dân chúng từ ngỡ ngàng cảm phục đến nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Kitô.

 

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Quyền năng và lòng thương xót của Chúa

 

  1. PHÉP LẠ TẠI THÀNH NA-IM

Chúng ta thấy phép lạ cho người con trai bà góa thành Na-im chỉ có thánh Luca thuật lại để nói lên quyền năng và lòng thương cảm của Đức Giêsu.

Na-im, ngày nay chỉ là một làng nhỏ, cách Capharnaum độ 7 hoặc 8 giờ đi bộ, ở hướng tây nam, về phía núi Taborê, cách Nazareth khoảng 8 cây số về phía đông nam. Gần làng về hướng đông, người ta thấy có những ngôi mộ được đào trong các tảng đá.

Người ta thường đưa đám ma vào lúc gần tối, nên hình như Đức Giêsu đã gặp đám tang này vào ban tối, khi Ngài và các môn đệ vào đến cửa thành.

Đám ma được dẫn đầu bằng một đội khóc mướn với ống sáo và thanh la của họ phát ra tiếng la ó khóc than inh ỏi.

Theo tục lệ Phương Đông người chết được để trong quan tài không đậy nắp và được quấn khăn liệm kỹ lưỡng. Có người cho là quan tài ấy không giống quan tài của chúng ta , mà là một cái rọ đan bằng mây để đem thi hài đến phần mộ.

Đức Giêsu không đi một mình, vì ngoài các môn đệ, còn có đám đông theo Ngài.  Ngoài ra đám đông có đông đảo dân thành đi theo đưa tiễn.  Các chi tiết này rất quan trọng, vì đó là bằng chứng cho thấy  phép lạ được thực hiện cách công khai. Do đó, không phải là một chuyện hoang đường hoặc bịa đặt.

Có những chi tiết chứng minh việc sống lại là có thật :

-Anh đã đứng lên và bắt đầu nói,

-Chúa cầm tay trao lại cho mẹ cậu.

-Thái độ sửng sốt sợ hãi của mọi người  làm chứng một biến cố quan trọng đã thực sự xẩy ra.

 

  1. Ý NGHĨA CỦA PHÉP LẠ ĐÓ 
  2. Quyền năng của Thiên Chúa

Đây là lần đầu tiên trong Tin mừng, Luca gán cho Đức Giêsu tước hiệu “Chúa” (Kurios). Hình như các Kitô hữu đầu tiên tuyên xưng Đức Giêsu (phục sinh) là Chúa, đã ảnh hưởng đến văn thể các bài trình thuật cuộc đời trần thế của Đức Giêsu.  Nếu Đức Giêsu đã mang trong Ngài khả năng phục sinh kẻ chết, thì chính Ngài cách nào đó đã là Chúa Phục Sinh, một ngày kia sẽ chiến thắng cái chết cách khải hoàn.

  1. a) Nói về cái chết 

Theo quan niệm người đời, một cách bình thường mọi người phải đi qua bốn cửa ải là sinh, lão, bệnh, tử.  Mọi người phải kết thúc cuộc hành trình trên trần gian bằng cài chết. Đã có sinh thì ắt phải có tử.

Cái chết là một sự kiện hiển nhiên và ai cũng phải đợi thần chết đến để đưa mình đi. Đối với nhiều người, chết thì phải chết, nhưng không hiểu tại sao mình chết ? Cái chết có ý nghĩa gì ?

Triết gia hiện sinh vô thần, ông Jean Paul Sartre, cho rằng chết là một sự vô nghĩa (La mort est un non-sens).  Xưa nay người ta vẫn không hiểu hoặc không muốn hiểu lý do sự chết, Vì thế, cái chết thật là phi lý.

Trong Cựu ước, dân Chúa vẫn coi sự chết là một sự gở lạ. Làm sao Thiên Chúa nhân từ tạo nên vạn vật  lại để cho sự chết lẻn vào trong con người.

Nhưng dần hồi, Thánh Kinh hé mở cho thấy rằng sự chết không phải là một bức tường thành kiên cố không vượt qua được, mà là một cửa khẩu để đi đến sự sống thật, đến với Thiên Chúa là nguồn sự sống.

Như thế, phải chăng tất cả mọi vấn đề của ta sẽ kết thúc khi đôi tay xuôi xuống và mắt nhắm lại vĩnh viễn ? Nếu làm người mà thân phận chỉ có thế thôi, thì cuộc sống này có hàng tỉ cái vô lý, bất công. Đâu có gì đáng cho ta phải ân cần tận tụy để sống cho ra sống ? Tất nhiên là về phần thân xác. Cái chết không chừa ai.

Nhưng cái chết đâu phải là mồ chôn vĩnh viễn thân phận con người. Trái lại, cái chết chính là cánh cửa mở sang một thế giới kỳ diệu khác. Niềm tin về thế giới bên kia đã và đang tồn tại trong đời sống con người, nhất là đối với Kitô hữu.

  1. b) Đức Giêsu, chủ của sự sống và sự chết 

Đức Giêsu còn là Chúa Cứu Thế đầy quyền năng.  Thầy thuốc Luca còn nêu thêm một chi tiết cá biệt nữa. Chữ “Chúa” ở đây được tác giả dùng đầu tiên trong bản văn Hy Lạp, và theo nguyên ngữ có nghĩa là “Chủ”.  Luca dùng đầu tiên hẳn ông có dụng ý.  Ông muốn nói Chúa Giêsu, vì là chủ của sự sống, nên Ngài có thẩm quyền trên sự chết.

Trong sự kiện này, không có người nào yêu cầu Ngài hành động, nhưng Ngài là Chúa, chủ của sự sống, Chúa hiểu nỗi cô đơn của người mmẹ có đứa con trai, người đàn ông duy nhật để chăm sóc cho bà.  Ngài động lòng trắc ẩn, an ủi bà đừng khóc. Ngài hành động ngay.

Chỉ Thiên Chúa mới có quyền năng vượt qua sự chết. Chính vì Êlia (trong bài đọc 1) đã đi đến với quyền năng của Thiên Chúa mà ông có thể trả lại sự sống cho con trai của bà góa. Nhưng rõ ràng trong phép lạ Na-im, Đức Giêsu tự mình có quyền năng.  Và chúng ta thấy đường lối thương xót trong đó Ngài thực hiện phép lạ ấy.

  1. c) Đức Giêsu đem lại sự sống đời đời 

Thiên Chúa yêu thương con người vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Vì bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, nên Ngài muốn giải thoát con người khỏi nỗi cô đơn buồn phiền, khỏi thất vọng đắng cay, khỏi đau thương tuyệt vọng.  Và nỗi đau thương tuyệt vọng lớn nhât của con người là sự chết, thì Ngài cũng sẵn lòng giải thoát con người khỏi chết.

Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại đó. Ngài còn muốn đi xa hơn nữa trong tình yêu. Ngài muốn giải thoát con người khỏi cái chết muôn đời.  Con trai bà góa Na-im sống lại để rồi lại phải chết, nhưng những ai được Ngài yêu thương giải thoát  thì sẽ vĩnh viễn sống lại miên trường.  Đó mới là sứ mạng của Ngài khi xuống trần gian.

Sự kiện con trai bà góa thành Na-im được Ngài cho sống lại  là hình bóng báo trước biến có vô cùng lớn lao hơn.  Biến cố đó là cốt lõi của đạo, là trung tâm điểm của Kitô giáo. Đó là nhờ sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu mà tất cả cúng ta được giải thoát khỏi cái chết muôn đời.

  1. Lòng thương cảm của Chúa

Bà góa trong Tin mừng hôm nay đau khổ biết bao : một đàng chồng đã chết rồi, đàng khác con trai duy nhất cũng chết theo.  Xã hội thời đó lại càng chất thêm nỗi khổ cho phụ nữ neo đơn như bà.  Không có chồng, không có con trai, pháp luật không cho bà bảo lãnh bản thân và tài sản, bà sống như kẻ bị bỏ rơi ngoài lề xã hội.

Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, đến nỗi rất đông dân thành đã đi tiễn biệt con của bà, thì Đức Giêsu cũng xuất hiện đứng bên quan tài. Với quyền năng của Thiên Chúa đầy lòng thương xót những người cùng khổ như bà góa này, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Đức Giêsu đã mủi lòng thương, khẽ an ủi bà :”Bà đừng khóc nữa”, rồi sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói :”Này người thanh niên, ta bảo anh : Hãy chỗi dậy” ! Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa.

Ngoài mục đích của thánh Luca là trình bầy cho các độc giả thấy tấm lòng ưu ái và hiền dịu của Con Người Giêsu, thì chúng ta dễ hiểu tại sao, trong các tác giả viết Tin Mừng, chỉ một mình vị bác sĩ này kể lại câu chuyện cảm động Chúa cứu sống người con trai của bà góa thành Na-im. Không còn bức tranh nào đầy lòng xót thương trắc ẩn như thể.

Thánh Luca đã dùng chữ “chạnh lòng thương” (esplanchnisthè)thì phải có lý do. Từ Hy Lạp, có nghĩa chính xác là “xúc động đến ruột gan”, hầu như luôn luôn được áp dụng cho tình thương yêu của Thiên Chúa đối với loài người trong Tin mừng.

Trong ngôn ngữ Hy Lạp không còn từ nào mạnh hơn để diễn tả lòng thương xót cảm thông. Và đây là một từ đã được dùng nhiều lần cho Chúa Giêsu trong Tin mừng.

Đối với thế giới ngày xưa thì đây là một việc lạ lùng. Trong thời cổ, đức tin được kể là cao trọng nhất là đức tin của Phái Khắc Kỷ . Các người của trường phái này tin rằng đặc tính thứ nhất của Thượng Đế là không tình cảm, không thể bị xúc cảm hay động lòng. Họ lập luận : nếu kẻ nào có thể làm cho người khác  buồn sầu, lo âu, vui mừng, thỏa thích… có nghĩa là  người đó có thể ảnh hưởng đến kẻ khác, có nghĩa là  anh ta vượt trên hơn kẻ khác.

Nhưng không ai có thể lớn hơn Thượng Đế, không ai ảnh hưởng được Ngài, cho nên lẽ đương nhiên, Thượng Đế phải là Đấng bất khả xúc động. Nhưng ở đây loài người  được đứng trước một tư tưởng kỳ lạ về một nhân vật là Con Thượng Đế mà lại chịu cảm động đến tận đáy lòng Ngài.  Đối với nhiều người, đây là một điều rât quí báu về Thượng Đế, Cha của Chúa Cứu Thế Giêsu.

  1. Dấu hiệu phục sinh kẻ chết 

Giai thoại này chứa đựng một giáo thuyết sâu xa, vì nói lên một dấu chỉ Thiên sai, tức là dấu chỉ phục sinh kẻ chết, dấu chỉ mà Đức Gêsu sau này sẽ dùng để trả lời câu Gioan tẩy Giả hỏi :”Kẻ chết sống lại”…

Đây là sứ điệp Đức Giêsu muốn gửi đến cho chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay. Ngài muốn chúng ta nhìn thấy nơi phép lạ thành Na-im không chỉ là dấu chứng lòng thương của Ngài  đối với bà góa nọ, cũng không chỉ là dấu hiệu minh chứng Ngài là Đấng Messia, mà còn là dấu chỉ báo trước điều Ngài sẽ thực hiện cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Ngài, nghĩa là Ngài sẽ làm cho chúng ta sống lại  không phải chỉ với một thân xác mới mẻ về thể lý và còn với một cuộc sống trường tồn vĩnh cửu nữa.

 

III. BÀI HỌC CHO CHÚNG TA 

Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật. Đứng về phương diện nhân loại, Đức Giêsu cũng có tình cảm như mọi người, nghĩa là Ngài sống như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.

Hôm nay, Đức Giêsu cũng thấy chạnh lòng thương đối với bà góa  có một người con trai mới chết đem đi chôn.  Đức Giêsu hiểu thấu tâm trạng của bà : mất chồng, mất người con nâng đỡ mình trong tuổi già, thiếu người bênh vực, sống cô đơn… Tuy không ai xin Ngài làm phép lạ cứu sống đứa con ấy, nhưng chính Ngài đã ra tay, Ngài khuyên bà đừng khóc nữa, truyền cho người thanh niên chỗi dậy và trao anh ta cho mẹ nó.

Bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta phải biết thông cảm với người khác.  Đừng ai sống trơ trơ như một hòn đảo giữa đại dương (theo Thomas Merton), một mình mình biết, một mình mình hay, nhưng hãy biết tìm đến với nhau, biết chia vui sẻ buồn với nhau như lời thánh Phaolô đã khuyên bảo :”Hãy vui cùng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc” (Rm 12,15).

Con người không thể sống trơ trơ như đá. Con vật còn biết thương nhau, chia sẻ với nhau, huống chi là con người.  Người Việt nam chúng ta đã có kinh nhgiệm về vấn đề này nên đã lưu truyền tinh thần ấy trong câu tục ngữ mà ai cũng biết :

Một con ngựa đau, cả tầu chê cỏ

Có nghĩa là một con ngựa bị đau ốm không ăn được cỏ thì cả tầu ngựa (cái máng để chứa thóc, cỏ cho chuồng ngựa ăn) đều chê cỏ không ăn.  Ý nói loài vật có tình đồng loại, thấy một con ngựa đau thì cả đàn đều thương.

Theo gương Đức Giêsu, chúng ta hãy tập cho mình biết đi ra khỏi mình, đừng bao giờ co cụm lại. Hãy biết đi đến với người khác. Mang lấy cái tâm tình của người khác , nghĩa là hãy học để biết thông cảm .

Bí quyết để hiểu người khác chính là đặt mình vào trong vị trí của họ. Khi Chúa Giêsu đến thế gian, Ngài đã làm như thế vì chúng ta. Ngài trực tiếp trải nghiệm những khó khăn của cuộc sống. Ngài cũng trải qua cảm giác mệt mỏi, đói khát, cô đơn, đau đớn và mọi vấn đề khác. Và khi trải nghiệm như thế, Ngài thật sự cảm thông với chúng ta, Ngài cứu giúp, nâng đỡ và ủi an chúng ta theo cách chúng ta cần nơi Ngài. Đó cũng là bí quyết để chúng ta học biết cảm thông tốt hơn đối với người khác. Lẽ dĩ nhiên chúng ta không thể hoàn toàn thay đổi hoàn cảnh của mình như Chúa Giêsu đã làm. Nhưng chỉ cần chúng ta tưởng tượng mình ở trong hoàn cảnh của họ. Chẳng hạn trước khi nhờ ai đó làm điều gì có vẻ đơn giản và không phiền phức gì đối với chúng ta, trước tiên, chúng ta hãy suy nghĩ kỹ xem người ấy có cảm thấy như vậy không. Hoặc nếu ai đó bực tức, giận dữ, hãy suy nghĩ điều gì khiến họ trở nên như thế. Hành động như thế thận trọng hơn là cho rằng mọi người cũng nhìn và cảm nhận mọi thứ giống như chúng ta. Hãy bước đi một dặm bằng đôi giày của người khác, và chúng ta sẽ dần trở thành người thông hiểu và cảm thông trong những tình huống cần thiết. Sau đó, hãy điều chỉnh kỳ vọng và cách biểu hiện của chúng ta cho phù hợp. Người khác sẽ nhận ra rằng chúng ta biết trước được những khó khăn và những mối bận tâm của họ và quan tâm đến những khó khăn của họ, và điều này sẽ giúp chúng ta sống và làm việc với mọi người tốt hơn. Cảm thông giúp tạo nên sự thống nhất về ý kiến và mục tiêu, và đó chính là một điều tuyệt vời! (Thiên Ân).

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta càng biết cho đi thì lại càng lãnh nhận được nhiều vì đúng như thánh Phanxicô Asssi đã diễn tả trong Kinh Hòa bình :”Chính lúc hiến thân là lúc được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.  Càng co cụm lại nơi mình thì càng nghèo đi và có khi còn đánh mất cả bản thân. Tư tưởng này sẽ được minh họa trong câu truyện sau đây.

 

Truyện : Cái giếng cũ

Ðây là một cái giếng mà nước rất trong sạch và dịu mát làm cho ai uống vào cũng cảm thấy khoan khoái. Một điều đặc biệt nữa là chưa bao giờ giếng này cạn nước cho dù mùa hè có nắng hạn đến đâu đi nữa. Chủ nhân của cái giếng này là một bác nông dân nghèo.

Nhưng đến một lúc mà hệ thống điện nước chuyển đến nông thôn, thì cái giếng của bác xem ra cũng trở thành vô dụng. Căn nhà của bác cũng được sửa chữa lại, hệ thống dẫn nước cũng được thiết lập. Không ai buồn nghĩ đến chuyện phải vất vả để kéo nước từ cái giếng đó nữa. Thế là cái giếng bị đóng lại.

Bẵng đi nhiều năm trời. Một ngày nọ vì tò mò, người nhà của bác nông dân mở cái giếng cũ ra xem, thì lạ thay, giếng nước đã bị khô cạn. Bác nông dân không thể hiểu tại sao cái giếng nước trong lành của mình đã trở thành khô cạn. Mãi về sau, ông mới khám phá ra nguyên do: cái giếng cũ của ông vốn được bao nhiêu mạch nhỏ tiếp tế, càng múc nước thì nước càng tuôn chảy vào giếng. Nay đã nhiều năm qua, nước giếng không còn được múc lên nữa cho nên các mạch nước bị bít kín và phần nước còn sót lại trong đáy giếng cũng dần bị bốc hơi và khô cạn.

Câu chuyện về cái giếng cũ trên đây có thể là một dụ ngôn về suối nước không bao giờ khô cạn mà Thiên Chúa đã mở ra qua cái chết của Chúa Giêsu Kitô. Từ cạnh sườn Người, khi một người lính La Mã đâm thủng thì nước hằng sống đã tuôn trào để xoa dịu nỗi khát khao của con người. Mạch nước có được mở ra để trao ban thì nguồn nước mới tuôn trào. Cái chết của Chúa Giêsu là tuyệt đỉnh của một cuộc đời hướng về tha nhân, tiêu hao vì tha nhân, dốc cạn vì tha nhân. Ðó cũng là chân lý về cuộc đời. Càng trao ban, càng dốc cạn, càng được múc lấy. Càng tiêu hao, càng mất chính mình thì con người càng trở nên phong phú, con người càng trở nên chính mình. Giếng nước càng được múc thì càng trở nên dồi dào. Con người càng trao ban thì cũng càng trở nên phong phú hơn.

Song song với những hy sinh, hãm mình, nhẫn nại, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cũng được mời gọi để sống san sẻ. Ðó không là một việc làm tùy hứng, mà là một đòi hỏi thiết yếu của sự hoán cải. Hoán cải đích thực là trở về với sự thật về con người. Ðó là một con người lấy sự trao ban làm lý tưởng (Internet).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dốc cạn đến giọt máu cuối cùng cho nhân loại và đã trở thành nguồn mạch tuôn trào xoa dịu nỗi khao khát của chúng con. Xin cho chúng con khi suy ngắm về cuộc tử nạn của Chúa cũng luôn biết bước theo con đường của chính Chúa. Ðó là con đường của phục vụ, quảng đại, quên mình. Amen.

SỰ THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA SỰ SỐNG

Charles E. Miller

Thánh Luca, vị tông đồ viết Phúc Âm đã nhấn mạnh đến sự thương xót của Chúa Giêsu. Bài Phúc Âm ngày hôm nay là một gương mẫu mạnh nhất, lớn nhất cho việc nhấn mạnh này.

Việc cho đứa con bà góa sống lại, Chúa Giêsu đã chứng tỏ rằng Ngài là Chúa của sự sống, nhưng trong tâm trí của Thánh Luca câu chuyện này thì không hoàn toàn đặt trọng tâm rõ ràng vào người góa phụ, trong đó nhấn mạnh đến sự thương xót của Chúa Giêsu.

Hầu hết những góa phụ vào thời của Chúa Giêsu thì sống rất khó khăn. Và không có sự giúp đỡ của nhà nước: không có tiền trợ cấp, không có lương hưu, không có bảo hiểm xã hội, nói chung chỉ là những người nghèo, nếu không có việc làm. Khi Chúa Giêsu nhìn vào đoàn người đám tang trong Phúc Âm ngày hôm nay. Chúng ta có thể giả thiết rằng, một người nào đó đã thông báo cho Chúa Giêsu về trường hợp bà góa này đang chôn đứa con độc nhất của bà.

Thánh Luca đã quan sát Chúa Giêsu, thấy Ngài xúc động và động lòng thương khi nhìn thấy bà. Cảm tình của Người đã đi trực tiếp đến người đàn bà không phải là do cái chết của đứa con. Chúa Giêsu hiểu rằng thời gian khó khăn nhất của người góa phụ thì không phải bây giờ nhưng là sau đó, khi chôn cất xong bà sẽ trở về lại một mình trong căn nhà trống rỗng. Chúa Giêsu nhận thấy rằng sự đau thương của bà thì rất sâu thẳm bởi vì sợ về tương lai và bà cũng có thể khó mà sống sót được. Lúc ấy, trong tâm trí Chúa Giêsu có thể nhìn thấy người góa phụ khác trong năm tới, hoặc sau cuộc đóng đinh đi theo thân xác vô hồn của đứa con độc nhất của bà đề tới ngôi mộ. Ngài đã nói với người góa phụ “Đừng khóc nữa”. Từ chúng ta, những lời này sẽ vang lên một cách trống rỗng nhưng từ nơi Người chúng đã đem lại sự an ủi và niềm hy vọng. Chúa Giêsu đã nói những lời thương xót như thế cho người góa phụ như cho chính Mẹ Người.

Chúa Giêsu đã đụng đến cái cáng và chạm đến thân xác của người chết. Người khiêng cáng đã ý thức được Chúa Giêsu muốn cho họ dừng lại, người đàn bà chờ đợi một điều gì đó sắp sửa xảy ra và những gì Chúa Giêsu sẽ làm. Tiếp đó, bà nghe những lời đầy thương xót cũng như quyền năng: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy trỗi dậy”. Mọi đôi mắt đều hướng về người chết. Anh ta ngồi dây và bắt đầu nói. Đó không phải là giả tưởng. Sau cùng lòng thương xót của Chúa Giêsu là cho người góa phụ, Thánh Luca đã cẩn thận thêm: “Chúa Giêsu đã trao anh lại cho mẹ anh”.

Thánh Phaolô ngày hôm nay chú ý đến đặc ân ngài đã được Thiên Chúa mặc khải Con của Người cho ngài để ngài có thể rao truyền Tin Mừng cứu độ. Và đặc ân đó cho cả chúng ta nữa, qua bài Phúc Âm này theo Thánh Luca, chúng ta cũng đã được mặc khải cho Tin Mừng tình yêu của Chúa. Vị Chúa này đã Phục Sinh chúng ta từ cõi chết tội lỗi và giới thiệu chúng ta đến với mẹ thiêng liêng của chúng ta là Giáo Hội, người mẹ đó giờ đây đang nuôi dưỡng chúng ta xuyên qua những lời Thánh Kinh và bí tích Thánh Thể.

Hãy chú ý đến sự khác nhau giữa những gì tiên tri Êlisa đã làm và những gì Chúa Giêsu đã làm. Cả hai đối đầu với sự chết. Êlisa đã kêu cầu Chúa và cầu nguyện rằng: “Xin Ngài phục hồi sự sống cho đứa con của người đàn bà, còn Chúa Giêsu đã nói nhân danh Chúa và bởi quyền lực của chính mình. Ngài đã nói những lời rất quyền năng. Êlisa thật sự là một tiên tri của Thiên Chúa nhưng còn Chúa Giêsu chính Chúa của sự sống”. Chúng ta khâm phục và tôn kính vị tiên tri nhưng đối với Chúa Giêsu chúng ta lại kêu lên như trong lời tuyên xưng trong Thánh Lễ của chúng ta: “Bằng sự chết, Người đã phá hủy sự chết của chúng ta. Bằng việc sống lại Người đã phục hồi sự sống cho chúng ta”.

Tất cả chúng ta một ngày kia sẽ chết. Chúa Giêsu sẽ không đụng đến quan tài của chúng ta hoặc không nói với những người khiêng quan tài dừng lại. Thay vào đó, Ngài sẽ dùng quyền năng của Ngài để nâng chúng ta lên khỏi sự chết, vào ngày Phục Sinh. Và khi đó chúng ta thật sự ngợi khen Thiên Chúa là Chúa của sự sống nhân lành.

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

Lm. Đan Vinh- HHTM

CHÚA NHẬT X MÙA TN C

1 V 17,17-24 ; Gl 1,11-19 ; Lc 7,11-17

“NÀY NGƯỜI THANH NIÊN, TA BẢO ANH: HÃY TRỖI DẬY”

I.HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Lc 7,11-17.

(11) Sau đó, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người.(12) Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà.(13) Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa! “(14) Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy! “(15) Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ.(16) Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”.(17) Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.

2.Ý CHÍNH:

Tin mừng Luca hôm nay cho thấy Nước Thiên Chúa đang đến và Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai mà dân Do thái đang mong chờ, mà phép lạ Người đã tỏ lòng thương xót một bà góa đang khóc đi chôn đứa con trai duy nhất đã chết tại cửa thành Nain là một bằng chứng. Đức Giêsu đã truyền cho đứa con mới chết được sống lại và trao nó lại cho bà mẹ. Qua phép lạ này, Người tiên báo công việc Người sẽ làm là ban cho những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại một cuộc sống vĩnh hằng sau này.

3.CHÚ THÍCH:

-C 11-12: +Sau đó, Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Nain: Ngôi làng này hiện nay vẫn còn, dưới chân núi Tabo, cách Nadarét mười kilômét. Làng này chỉ có một cửa để đi về phía cánh đồng dẫn đến nghĩa trang dùng để chôn cất người chết. Thường thường việc chôn cất được làm vào buổi chiều lúc cuối ngày. Theo thói tục Đông phương, người chết được quấn khăn liệm kỹ lưỡng và được đặt nằm trong cỗ quan tài không đậy nắp. + khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì kìa người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất và mẹ anh ta lại là một bà góa: Chỉ có Luca, thánh sử của lòng Chúa thương xót mới thuật lại phép lạ này với những chi tiết thật cảm động. Bà góa là biểu tượng của người nghèo được Thiên Chúa đặc biệt quan tâm bảo vệ. Người đàn bà nói đây đã từng mất chồng và nay còn bị mất thêm đứa con trai là chỗ dựa duy nhất cho bà. +Có một đám đông trong thành cùng đi với bà: Có hai “đám đông” sắp gặp nhau tại cổng thành Nain. Một đám ma từ trong thành đi ra và một đám đông thứ hai đang từ ngoài tiến vào thành, gồm có các môn đệ và nhiều người khác. Họ vừa đi vừa nghe Đức Giêsu giảng Tin Mừng.

-C 13-14: +Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương: Ở đây Luca cố ý sử dụng từ “Chúa” (“Kurios”) để ám chỉ Đức Giêsu. Đây là danh hiệu của Đức Chúa, ám chỉ Chúa Thượng dân Ítraen (Yahvê) mà Giáo Hội sơ khai sau này sẽ dùng để chỉ Chúa Phục sinh. Tin Mừng Luca đã dùng mười chín lần danh hiệu này, trong khi mỗi Tin Mừng Mátthêu và Máccô chỉ dùng một lần. +“Chạnh lòng thương” : là một từ Hy Lạp có nghĩa là “xúc động đến ruột gan”. Từ này luôn được áp dụng cho tình yêu của Thiên Chúa. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa xuất hiện gần gũi với con cái loài người. Người đã tỏ ra cảm thông và xúc động trước cảnh tang thương của một người đàn bà đau khổ. +Người nói: “Bà đừng khóc nữa!” Rồi Người lại gần sờ vào quan tài: Bằng lời nói và cử chỉ này, Đức Giêsu đã thể hiện thái độ an ủi bà mẹ đang khóc thương đứa con trai duy nhất, nay không còn nữa. +Các người khiêng dừng lại, Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!”: Từ “hãy trỗi dậy!” được dùng để chỉ sự sống lại của Đức Giêsu (x.Lc 9,22; 24,6-34), và cũng ám chỉ sự sống lại của những người sẽ được chọn vào ngày tận thế (x.Lc 20,37). So sánh với câu truyện sống lại kể trong 1V 18, 17-24 và 2V 4,18-36 do hai ngôn sứ Êlia và Êlisê thực hiện, ta thấy có một sự khác biệt căn bản: Hai vị này đã khẩn khoản nài xin Thiên Chúa rất nhiều và làm nhiều cử chỉ biểu tượng. Còn Đức Giêsu chỉ phán có một lời, không cầu, không xin, rồi chỉ ra một lệnh, tức khắc chàng thanh niên sống lại. Sau này thánh Phaolô cũng dùng từ này để diễn tả về mầu nhiệm sống lại trong phép rửa tội của các tín hữu như sau: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người” (Cl 2;12). Phép rửa tội là sự tham dự trước vào đời sống vĩnh cửu ở đời sau: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới như thế” (Rm 6,4).

-C 15-17: +Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kính sợ và tôn vinh Thiên Chúa: Thái độ của dân chúng chứng kiến đã dần dần thay đổi: Từ kính sợ đến chỗ ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa và họ tin Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ vĩ đại của Thiên Chúa, đã làm cho kẻ chết được trỗi dậy như thế. +”Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”: Cuộc “viếng thăm” của Thiên Chúa đã được thực hiện qua Đức Giêsu và là “dấu chỉ của thời kỳ thế mạt”. Một ngày kia, Thiên Chúa sẽ là “tất cả trong tất cả”.- “Bấy giờ sẽ không còn nước mắt, không còn sự chết, tang tóc, kêu than và đau khổ nữa” (Kh 21,4). +Lời này được đồn ra trong khắp cả miền Giuđê và vùng lên cận: Sự sống lại của anh thanh niên ở cổng thành Nain đã được những người chứng kiến vui mừng loan báo đi khắp vùng Giuđê như một tin mừng cho thấy Đức Giêsu chính là vị Đại Ngôn Sứ, là Đấng Mêsia do Thiên Chúa sai đến để thăm viếng dân Người.

4.CÂU HỎI: 1) Nain là thành nào? 2)Số phận các bà góa trong dân Ítraen đáng thương như thế nào? 3)Từ “Chúa” trong Tin Mừng Luca ở đây mang ý nghĩa ra sao? Ý nghĩa của từ “Chạnh lòng thương” thế nào? 4) Đức Giêsu đã bày tỏ sự cảm thông và an ủi người mẹ đau khổ bằng cử chỉ và lời nói nào? 5) Từ “trỗi dậy” được dùng để diễn tả điều gì? Thánh Phaolô cũng dùng từ “trỗi dậy” để diễn tả điều gì? 6) Câu “Một Ngôn Sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta” ở đây ám chỉ ai và là dấu chỉ của thời kỳ nào?

II.SỐNG LỜI CHÚA

1.LỜI CHÚA: Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!” (14) Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy! “(15) Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ.

2.CÂU CHUYỆN:

1) NGÔN SỨ ÊLIA PHỤC SINH ĐỨA CON TRAI BÀ GÓA Ở SARÉPTA (1 V 17,17-24):

Khi ngôn sứ Êlia đang ở trong nhà bà quả phụ thì cậu con trai của bà ngã bệnh, và bệnh tình trầm trọng đến nỗi cậu đã ngã ra chết. Bà quả phụ đau buồn thưa với Êlia rằng: “Hỡi người của Chúa, ngài với tôi có liên quan gì chăng? Ngài đến nhà tôi để nhắc lại những lỗi lầm thầm kín của tôi khiến cho Chúa giết chết con tôi”. Vị ngôn sứ nói với bà rằng: “Đem nó lại đây”. Rồi ông bế lấy đứa nhỏ khỏi tay mẹ nó, đem lên phòng cao nơi ông ở và đặt nó trên giường. Ông kêu cầu với Đức Chúa rằng: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con. Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho con bà ấy phải chết hay sao?” Ba lần ông nằm lên trên đứa trẻ, và kêu cầu Đức Chúa rằng: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn vía đứa trẻ này lại trở về với nó!” Đức Chúa nghe tiếng ông Êlia kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó sống lại. Ông Êlia liền bồng đứa trẻ từ phòng trên xuống nhà dưới, trao cho mẹ nó, và nói: “Bà xem, con bà đang sống đây!” Bà nói với ông Êlia: “Vâng, bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa, và lời Đức Chúa do miệng ông nói ra là đúng.”

2) THÁI ĐỘ CỦA VUA ĐAVÍT TRƯỚC VÀ SAU CÁI CHẾT CỦA CON TRAI (2 Sm 12,16-25):

Thánh Kinh đã kể một câu chuyện cảm động về nỗi đau của Đavít khi đứa con nhỏ của ông bệnh nặng: Đavít rất buồn rầu và thiết tha cầu xin Chúa cho đứa nhỏ ấy khỏi bệnh. Ông còn ăn chay và đêm thì nằm ngủ dưới sàn nhà, mặc áo nhậm. Các cận thần nài nỉ ông lên giường nhưng ông không chịu. Đến ngày thứ bảy thì đứa bé chết. Các cận thần rất lo lắng, nói với nhau “Lúc đứa bé còn sống, ngài còn không nghe chúng ta. Huống chi bây giờ nó đã chết rồi”. Đavít nghe người ta xì xầm thì đoán được sự việc. Ông hỏi “Có phải con ta đã chết rồi chăng ?”. Họ đáp “Thưa vâng”. Đavít liền chổi dậy, tắm rửa, mặc quần áo bình thường, vào đền thờ phủ phục trước nhan Chúa, rồi trở ra ăn uống như thường. Mọi người ngạc nhiên hỏi: “Tại sao khi đứa nhỏ chưa chết thì Ngài khóc than và nằm dưới sàn, còn khi nó chết rồi thì Ngài chổi dậy và ăn uống ?” Đavít trả lời: “Khi đứa bé còn sống, ta làm tất cả để cứu mạng sống nó. Nay nó chết rồi, nó không thể trở về với Ta nữa. Nhưng Ta có thể đến với nó”.

Đavít đã nêu gương biết chấp nhận một tình huống không thể nào thay đổi được. Tuy chúng ta không thể nào quên người đã chết, nhưng cuộc sống là quý giá nên chúng ta phải tiếp tục sống. Chúng ta khóc vì một sự sống đã mất đi, nhưng nếu chúng ta cứ than khóc mãi thì sẽ có đến hai sự sống phải mất đi.

3) VÀNG BẠC LÀ NGUYÊN NHÂN THÙ GHÉT GIẾT HẠI LẪN NHAU:

Một vị ẩn sĩ nọ, ngày kia lạc vào một hang động. Tại đây ông đã khám phá ra một kho tàng với không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu. Nhưng ông đã vội vã ra khỏi hang, vừa chạy vừa la thất thanh: “Tôi đã thấy thần chết”. Tình cờ ba tên cướp đi ngang qua đó, nghe tiếng kêu của vị ẩn sĩ, họ dừng lại hỏi chuyện. Muốn chứng tỏ mình là những người không biết sợ là gì, ba tên cướp yêu cầu đưa họ đến gặp thần chết. Vị ẩn sĩ dẫn họ vào hang động và chỉ vào kho tàng. Mắt họ sáng lên và lập tức ba tên cướp tống cổ vị tu hành ra khỏi hang.

Nhưng kho tàng quá lớn, họ không thể mang đi tất cả trong một ngày. Sau một hồi bàn cãi ba tên cướp đồng ý để một người ra phố mua sắm lương thực. Hai người còn lại ngồi đó canh giữ kho báu. Người được sai đi chợ nghĩ thầm trong bụng: “Ta sẽ ăn uống no nê, sau đó bỏ thuốc độc vào thức ăn. Hai tên khốn nạn sẽ chết và tạ sẽ chiếm trọn kho tàng”. Hai tên ngồi canh giữ kho báu cũng bàn với nhau: “Chúng ta sẽ giết hắn. Và như thế phần của mỗi người chúng ta sẽ nhiều hơn”. Khi kẻ mang lương thực về đến hang động: họ liền giết hắn và ăn hết số thức ăn có thuốc độc. Thế là cả ba đã rủ nhau đi gặp thần chết, như vị ẩn sĩ đã tiên báo.

3.THẢO LUẬN: 1) Tình thương của Đức Giêsu thể hiện qua phép lạ phục sinh đứa con trai bà góa tại cổng thành Nain qua những cử chỉ và lời nói nào? 2) Mỗi tín hữu chúng ta cần thể hiện tình thương của Chúa Giêsu ra sao đối với những người đau khổ bệnh tật chúng ta gặp phải trong cuộc sống? 3) Chúng ta cần làm gì để noi gương thái độ “chạnh lòng thương xót” của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay?

4.SUY NIỆM:

1) Về cái chết của cả nhân loại:

Bình thường mỗi người chúng ta ai cũng phải qua bốn cửa ải là: sinh, lão, bệnh, tử. Đã có sinh ắt phải có tử. Cuối cùng, mọi người sinh ra trên trần gian đều phải kết thúc cuộc hành trình bằng cái chết. Từ thời Cựu ước, dân Ítraen đã coi chết là một điều khó hiểu: Tại sao Thiên Chúa nhân từ đã dựng nên vũ trụ vạn vật mà lại để cho sự chết lọt vào trần gian như vậy. Nhưng rồi Lời Chúa trong Thánh Kinh đã dần dần cho thấy: Chết chính là hậu quả của tội lỗi của loài người, bắt đầu từ tội tổ tông như lời tuyên phán của Thiên Chúa: “Ngày nào ngươi ăn quả cây ấy thì ngày ấy ngươi sẽ phải chết”. Nguyên tổ Ađam Evà đã phạm tội nghe ma quỷ cám dỗ ăn quả cây trái cấm ấy nên đã phải chịu phạt là phải chết: Chết về thể xác cũng như linh hồn. Nhưng Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Thế đến chiến thắng sự chết bằng sự phục sinh vinh quang.

2) Đức Giêsu là Chúa tể của sự sống và sự chết:

Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế quyền năng. Thánh Luca trong Tin Mừng hôm nay đã dùng từ “Chúa” cho Đức Giêsu. Chúa theo tiếng Hy lạp có nghĩa là “Ông Chủ”. Nhận Đức Giêsu là Chúa là nhận Người chính là ông chủ của sự sống và có quyền trên sự chết.

Trong câu chuyện phục sinh con trai bà góa hôm nay, tuy không có người nào đã xin Đức Giêsu phục sinh kẻ chết, nhưng với tư cách là “Chúa”, là “Chủ của sự sống”, Người đã cảm thông và động lòng thương bà góa có con mới chết bằng việc khuyên bà đừng khóc rồi truyền cho đứa con của bà được trỗi dậy và trao nó lại cho bà, làm cho bà không còn buồn sầu than khóc nữa.

3) Đức Giêsu sẽ ban lại sự sống đời đời cho chúng ta:

Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16), nên Ngài muốn giải thoát con người khỏi sự chết. Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại đó. Ngài còn muốn giải thoát con người khỏi phải chết đời đời. Con trai bà góa Nain sau khi sống lại một thời gian rồi sẽ lại phải chết, nhưng những ai được Người yêu thương giải thoát sẽ được sống lại trong cuộc sống mới vĩnh hằng. Biến cố Đức Giêsu làm cho con trai bà góa thành Nain sống lại là dấu hiệu cho thấy Người sẽ cứu chúng ta khỏi chết và ban cho chúng ta sự sống muôn đời. Thánh Luca đã dùng từ “chạnh lòng thương” nghĩa là “xúc động đến tận ruột gan” để diễn tả lòng thương xót vô biên của Đức Giêsu.

4) Chúng ta phải làm gì để noi gương Đức Giêsu Đấng giàu lòng thương xót? :

Đức Giêsu muốn chúng ta thấy phép lạ thành Nain không những là dấu chỉ của lòng thương xót người đàn bà góa, cũng không chỉ là dấu hiệu minh chứng Người là Đấng Thiên Sai, mà đây còn là dấu chỉ báo trước điều Người sẽ thực hiện cho mỗi người chúng ta nếu chúng ta biết đặt trọn niềm tin vào Người, là cho chúng ta được sống lại một cuộc sống mới vĩnh hằng.

Đức Giêsu đã nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26). Các tín hữu chúng ta sẽ nhìn cuộc đời như là một cuộc hành trình về quê trời, và mỗi người đều là khách lữ hành đang đi trong trần thế. Trong cuộc hành trình này, chúng ta phải nỗ lực để vừa chịu đựng gian khổ, lại vừa phải cố gắng vượt qua trở lực để về tới cùng đích. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê đã viết: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng chờ đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Đồng thời, trong thư Côrintô, ngài cho biết thêm về thế giới mai hậu như sau: “Chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cữu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).

Đơi với mỗi người tín hữu hôm nay, cần thực thi bác ái như lời dạy của thánh Têrêsa Avila như sau: “Đức Kitô giờ đây không có thân xác, nhưng Người vẫn có thân xác của chúng ta; Dù không có đôi tay nhưng Người vẫn có đôi tay của chúng ta; Dù không có đôi chân nhưng Người vẫn có đôi chân của chúng ta. Đôi mắt của chúng ta cũng chính là đôi mắt mà qua đó lòng thương cảm của Đức Kitô có thể nhìn ra thế giới. Đôi chân của chúng ta chính là đôi chân mà nhờ đó Người có thể bước đi để thi hành các công việc tốt lành. Đôi tay của chúng ta cũng chính là đôi tay mà qua đó Người có thể tiếp tục thi hành các phép lạ trong thế giới hôm nay.”

5.LỜI NGUYỆN:

LẠY CHÚA GIÊSU. Đôi tay của Chúa xưa đã từng chạm vào mắt những kẻ mù lòa, để làm cho họ được xem thấy. Xin Chúa hãy chạm vào đôi mắt của chúng con, để chúng con có thể nhìn thấy Chúa trong nhà thờ và trong các anh chị em nghèo hèn chung quanh chúng con.

Đôi tay của Chúa xưa đã từng chạm vào lỗ tai của kẻ điếc để phục hồi thính giác cho họ. Xin Chúa cũng hãy chạm vào tai của chúng con để giúp chúng con nghe thấy tiếng Chúa trong Thánh Kinh, qua các vị chủ chăn và qua những anh chị em nghèo khổ đang cầu xin sự trợ giúp.

Đôi tay của Chúa xưa đã từng chạm vào người chàng thanh niên tại cửa thành Nain, và truyền cho anh ta trỗi dậy. Xin Chúa hãy chạm vào người chúng con để làm cho chúng con được trỗi dậy trong ơn nghĩa Chúa, và hăng say loan báo Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

ĐỪNG KHÓC NỮA

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 CN X NĂM C

Mỗi người sinh ra trong đời khởi đầu bằng tiếng khóc. Tiếng khóc chào đời báo hiệu một niềm vui, một sự sống mới đi vào trần thế. Nhưng khi con người giã từ cuộc đời thì không tự mình khóc được, bao nhiêu người khác sẽ khóc thay trong đau buồn thương tiếc. Một người ra đi sẽ không còn hiện hữu trên trần gian này nữa. Vì thế, đây là tiếng khóc da diết, thảm buồn nhất. Sự chết quy tụ người ta lại trong tiếng khóc. Và chính tiếng khóc này là nơi gặp gỡ của tình yêu tha nhân. Chúa Giêsu đem niềm vui đến, tiếng khóc không còn, chỉ còn nụ cười hân hoan và lời ca ngợi khen.

Thánh Luca là một y sĩ cho nên bài tường thuật về phép lạ con trai bà góa sống lại thắm đượm tình người. “Khi Chúa Giêsu tiến vào một thành phố nọ có tên là Naim… đám dân đông đúc chen lấn theo Ngài. Vừa đến gần cổng thành, thì Ngài gặp người ta đang khiêng đi chôn một thanh niên, con trai độc nhất của bà góa nọ”. Naim, nay là một làng nhỏ ở phía nam núi Tabor, gần Djebel Dahin.Naim cũng gần Sunem là nơi tiên tri Êlisê đã làm cho con bà chủ nhà trọ được sống lại.

Thường thường việc chôn cất người chết vào lúc buổi chiều. Đức Giêsu đi vào trong làng thì gặp đám tang đang đi ra.

Một người thanh niên chết và anh là con trai duy nhất của một bà góa.Bà mẹ rất đau khổ vì chồng đã chết nay con trai duy nhất cũng ra đi.

Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, và rất đông dân làng đã đi tiễn biệt con trai vắn số của bà. Thông thường lúc chết, người ta được mọi người quan tâm và yêu thương hơn lúc nào hết.

Có một người đang lặng lẽ tiến lại trước quan tài. Đó là Đức Giêsu. Với lòng thương xót những người cùng khốn, với con tim nhạy bén trước nỗi đau của con người, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa”, rồi Ngài sờ vào quan tài. Các người khiêng đứng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy trỗi dậy!”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa…”. Câu chuyện đã được loan truyền khắp vùng.

Người ta kinh ngạc vì chẳng mấy khi xảy ra một biến cố lạ lùng như vậy. Từ thời Vua Achab (874-853 A.C) có xảy ra hai lần người chết sống lại.Ngôn sứ Êlia cho con của bà góa thành Sarepta sống lại. “Ông đã nằm dài trên đứa trẻ ba lần và kêu cầu Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa của tôi, xin cho hồn đứa trẻ này về lại mình nó.Thiên Chúa đã nghe tiếng của Êlia và cho hồn đứa trẻ về lại nơi mình nó và nó sống lại” (1V 17, 21-22). Lần khác, “Êlisê vào nhà Bà Sunem và này đứa bé đã chết, đặt nằm trên giường của ông. Ông vào và đóng cửa lại…Đoạn ông khẩn nguyện với Thiên Chúa. Rồi ông lên nằm trên đứa trẻ, đặt miệng ông trên miệng nó, mắt ông trên mắt nó, bàn tay ông trên bàn tay nó… thịt mình đứa trẻ nóng lên … đứa bé nhảy mũi bảy lần và mở mắt ra” (2V. 4, 32-35).

Thời các tông đồ, Sách Công vụ kể, thánh Phaolô làm cho một thiếu niên chết sống lại: “Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phaolô thảo luận với các anh em … kéo dài đến mãi nửa đêm… một thiếu niên tên Êutykhô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phaolô vẫn giảng. Vì ngủ say nên nó ngã từ tầng lầu thứ ba xuống. Vực lên thì nó đã chết. Ông Phaolô xuống, cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: “Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!. Người ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít” (Cv 20, 7-12).

So sánh với câu truyện sống lại kể trong 1V 18, 17-24 và 2V 4, 18-36, do tiên tri Êlia và tiên tri Êlisê, ta thấy có một sự khác biệt căn bản. Hai tiên tri Êlia và Êlisê đã khẩn khoản nài xin Thiên Chúa rất nhiều và làm nhiều cử động biểu tượng. Chúa Giêsu chỉ phán một lời, chỉ ra có một lệnh, tức khắc chàng thanh niên liền sống lại. Trong Phúc Âm kể lại câu chuyện Chúa cho con gái ông Giairô đã chết được sống lại (Mc 5, 22-42); Chúa cho Ladarô đã chết bốn ngày sống lại (Ga 11, 43-44)…

Tuy nhiên, những người đã chết được Chúa cho sống lại rồi họ cũng chết lần nữa và thân xác về bụi đất. Sứ điệp chính của Tin mừng là sự sống viên mãn, sự sống dồi dào đằng sau cái chết.

Qua phép lạ cho con trai bà góa thành Naim chết được sống lại, Chúa Giêsu đã tiên báo sự phục sinh của Ngài. Đây chính là niềm tin, là niềm hy của Kitô hữu: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).

Chúa Giêsu đến thế gian để cứu độ con người. Sự hiện diện này đem lại niềm an ủi, khích lệ và còn đưa lại sự sống, khôi phục sự sống và kiến tạo sự hiệp nhất. Những người có đức tin nhìn cuộc đời dưới khía cạnh lạc quan và tích cực. Họ coi cuộc đời chỉ là một cuộc hành trình về quê trời, mỗi người chỉ là khách lữ hành nơi trần thế. Trong cuộc hành trình, họ phải nỗ lực vừa chịu đựng vừa vượt qua khó khăn để đi tới đích. Họ nhớ lời Chúa đã dặn dò: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con… Thầy sẽ trở lại đón các con…”. Họ cũng tin tưởng và lạc quan với lời thánh Phaolô nói với tín hữu Philipphê: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng chờ đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Đồng thời, thánh Phaolô cũng cho tín hữu Côrintô biết thêm về ngôi nhà vĩnh cửu của chúng ta ở trên trời: “Chúng ta biết rằng : nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cữu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).Những người có lòng tin như thế coi đời sống là một cuộc thử thách, đau khổ sẽ qua đi và chính đau khổ sẽ là phương tiện tiến tới vinh quang.

Trên những phần mộ thường có cây Thánh giá. Cây Thánh giá nói lên niềm tin: Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên đó để cứu chuộc con người khỏi vòng liên lụy của tội lỗi. Thánh giá Chúa Giêsu là ơn cứu độ niềm hy vọng cho con người.

Trên phần mộ cũng thường có tấm bia có khắc ghi di ảnh người quá cố với ngày tháng năm cùng nơi sinh ra và ngày tháng qua đời. Cũng trên tấm bia có khắc 3 chữ : R. I. P. Ðây là 3 chữ tắt của câu bằng Latinh : requiescat in pace – Ông, bà, anh, chị, em an giấc ngàn thu ! Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng ximăng cát đá, nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi, vì Ngài là Cha đời tôi. Và tôi biết Ngài hằng yêu mến tôi.

Ðứng trước nấm mồ người quá cố, tâm tình buồn thương tiếc nhớ làm sống lại những hình ảnh kỷ niệm buồn vui năm xưa. Thánh Giá Chúa Giêsu và cây nến cháy sáng trên phần mộ tựa như những lời nhắn nhủ của người quá cố nói với người đang sống: tôi đi về cùng Thiên Chúa Cha, về cùng Ðấng là nguồn sự sống và nguồn tình yêu. Con người không có quyền gì trên sự chết và sự sống. Sống và chết là kỳ công và đều bởi Thiên Chúa. Sự sống là mong manh, thế mà Thiên Chúa lại phải đánh đổi bằng máu của các tiên tri, bằng mạng sống của Con yêu dấu là Chúa Giêsu.

Mọi người, một ngày kia sẽ chết. Chúa Giêsu sẽ không đụng đến quan tài của chúng ta hoặc không nói với những người khiêng quan tài dừng lại. Thay vào đó, Ngài sẽ dùng quyền năng để nâng chúng ta lên khỏi sự chết, vào ngày Phục Sinh. Và khi đó chúng ta thật sự ngợi khen Thiên Chúa nhân lành là Chúa của sự sống viên mạn.

THIÊN CHÚA LÀ CHÚA CỦA SỰ SỐNG

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang

CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN – C

1 V 17,17-24; Gl 1,11-19; Lc 7, 11-17

Lời Chúa : “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy chỗi dậy” (Lc 7,14).

Nhập lễ :

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 10 thường niên hôm nay cho chúng ta thấy, Thiên Chúa không chỉ là Vị thưởng phạt công minh, Người còn là Đấng giàu lòng thương xót và nhân hậu. Người không muốn con người đau khổ. Người đã chia sẻ nỗi đau xót của người mẹ mất con :

Ê – li cứu sống một người,

Nhưng quyền sinh tử tự nơi Chúa Trời.

Giê – su là chính Ngôi Lời,

Dùng quyền Thiên Chúa cho người phục sinh.

Quyền năng đó đủ chứng minh,

Người là Ngôn sứ cứu tinh muôn loài.

Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta xác tín vào Thiên Chúa là Chúa duy nhất của sự sống. Xin cho chúng ta cũng biết bắt chước Chúa chạnh lòng thương xót trước những đau khổ, bất hạnh của tha nhân, biết bảo trọng sức khỏe và tôn trọng sự sống nơi mình cũng như nơi người khác. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.

Sám hối :

  1. Lạy Chúa, Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và nhân hậu. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

  1. Lạy Chúa Kitô, Chúa làm cho kẻ chết sống lại. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

  1. Lạy Chúa, Chúa là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Chúa thì không chết đời đời. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Kết : Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

CĐ : Amen.

THI CA CẦU NGUYỆN

Lm. Giuse Trần Việt Hùng-Bronx, New York

CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN. C

(Luca 7: 11-17)

HOÀN SINH

Con trai bà góa ra đi,

Lòng thương nỗi nhớ, khắc ghi đậm sầu.

Mẹ hiền mắt ướt giọt châu,

Quan tài đưa tiễn, kêu cầu than van.

Dừng chân an ủi hỏi han,

Động lòng thương xót, Chúa ban ơn lành.

Quan tài đóng kín phủ mành,

Giơ tay đụng chạm, bình sanh sống còn.

Mọi người lòng dạ héo hon,

Chúa truyền chỗi dậy, đưa con vào đời.

Trao ban sự sống ơn trời,

Nay con sống lại, kiếp người hoàn sinh.

Vượt qua định mệnh sinh linh,

Trở về cõi sống, quang vinh rạng ngời.

Mỗi người được sống một thời,

Xuôi tay nhắm mắt, hết đời trần gian.

Quyền năng thượng giới trao ban,

Loan truyền danh tiếng, tỏa lan khắp vùng.

Viếng thăm cứu chữa bao dung,

Ngợi khen Thiên Chúa, cửu trùng phúc vinh.

Đối diện với sự chết, ai cũng buồn đau. Sinh ra ở đời là chúng ta đang đi dần tới sự chết. Chúng ta được sinh ra làm người là một ơn trọng. Chúng ta còn được sinh lại làm Con của Chúa. Sống trong gia đình có mẹ cha và anh chị em là một hồng ân tuyệt vời. Bài phúc âm nói về cái chết của người thanh niên duy nhất con của bà góa. Thật là đáng thương! Trông thấy cảnh người ta khiêng xác đi chôn, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: Đừng khóc nữa. Rồi Người chạm đến quan tài và phán: Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy.

Cuộc đời con người như bể dâu. Sinh ra với tiếng khóc chào đời. Mỗi người có một số mệnh riêng và không ai biết được tương lai sẽ ra sao. Có người được sinh ra trên nhung lụa và giầu sang phú qúi. Có kẻ sinh ra trong gia đình đói khổ tả tơi. Có người sinh ra đẹp đẽ mười phân vẹn mười. Có kẻ sinh ra trong tật nguyền thương đau. Đúng là số phận. Chúng ta không thể ngồi đó để so sánh hơn thiệt. Chúng ta không có quyền chọn cho mình một cha mẹ hay quê hương xứ sở. Chúng ta được đưa vào đời trong hồng ân sự sống. Sự sống chúng ta lãnh nhận từ chính Thiên Chúa.

Thật không may, hằng ngày có biết bao thai nhi không được nhìn thấy mặt cha mẹ hay ánh nắng mặt trời. Các em bé đã bị người ta giết ngay từ trong trứng nước. Nhiều cha mẹ nhìn các em như là món nợ hay gánh nặng cuộc đời. Trong hoàn cảnh sống hiện tại có nhiều bà mẹ phá thai. Các bà mẹ có thể lấy lý do bị lầm lỡ, bị hiếp đáp hoặc vấn đề cuộc sống. Số phận thật đau thương, các thai nhi trở thành cái nợ của cha mẹ. Các em vô tội mà. Các em muốn sống, tại sao cha mẹ cắt đứt sự sống của các em.

Người thanh niên con trẻ đã chết, mẹ góa khóc lóc, bà con sụt xùi và người chung quanh thương tiếc. Còn các em bé thai nhi thì sao, các em không xứng được một giọt nước mắt cảm thương hay sao. Sự sống và sự chết là một mầu nhiệm. Một hôm có một bà mẹ đã có một đứa con một tuổi rưỡi và bà đang mang thai. Bà đến xin bác sĩ phá thai cho bà. Bác sĩ đã thuyết phục bà: Tốt hơn bà giết đứa trẻ một tuổi rưỡi kia đi, dễ hơn và an toàn hơn cho sự sống của bà. Bà mẹ nghe thế giận dữ nói rằng: Ông bảo tôi giết con tôi hả, ông thật ác độc.. Bác sĩ nói: Đứa trẻ trong bụng cũng khỏe mạnh và một năm sau, bà sẽ có đứa con cũng kháu khỉnh như con trẻ bây giờ. Bà hiểu được ý nghĩa của sự sống trong bào thai và bà đã không phá thai nữa. Thai nhi có cơ hội chào đời.

Chúa là nguồn của sự sống. Chúa trả lại sự sống cho người thanh niên nhưng chỉ là sự sống đời tạm này. Chúa muốn ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu. Chúng ta hãy đặt niềm tin nơi Chúa vì Chúa chính là sự sống và là sự sống lại.

THỨ HAI, TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN

(2Cor 1, 1-7; Mt 5, 1-12).

CHÚC PHÚC

Xuất hành lên núi loan tin,

Giảng bài Tám Mối, con xin nghe Ngài.

Tám điều phúc thật triển khai,

Tinh thần nghèo khó, bên ngai Nước Trời.

Hiền lành, công chính ở đời,

Thiên đàng no thỏa, cõi trời phúc vinh.

Đau buồn, thương xót hết mình,

Ủi an yêu mến, sinh linh rạng ngời.

Thuận hòa thương cảm giữ lời,

Làm con Thiên Chúa, cao vời cõi thiên.

Chứng nhân bách hại trung kiên,

Dù đời ghen ghét, phúc thiên mong chờ.

Ghét Thầy, vu khống nào ngờ,

Nhiều điều gian ác, xấu dơ ghép thành.

Vui mừng phần thưởng phúc lành,

Nước Trời cao trọng, ghi danh muôn đời.

THỨ BA, TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN

(2Cor 1, 18-22; Mt 5, 13-17).

MUỐI ĐẤT

Các con muối đất ướp đời,

Giữ gìn chất mặn, giúp người trần gian.

Nên gương nhân đức tỏa lan,

Rạng ngời ánh sáng, tràn lan mọi thời.

Sống đời gương mẫu cao vời,

Góp phần hành đạo, gọi mời tin yêu.

Yêu người yêu Chúa thật nhiều,

Bỏ qua tha thứ, mọi điều xấu xa.

Trần đời cám dỗ quỉ ma,

Nguyện cầu tỉnh thức, khỏi sa gian tà.

Giữ lời trung tín thật thà,

Thực hành sống đạo, xây đà đức tin.

Muối men ánh sáng cầu xin,

Hào quang dọi chiếu, ngắm nhìn trời cao.

Bao la tình Chúa dạt dào,

Suối nguồn ân phúc, tuôn trào thánh ân.

THỨ TƯ, TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN

(2Cor 3, 4-11; Mt 5, 17-19).

KIỆN TOÀN

Kiện toàn lề luật Nước Trời,

Giê-su hoàn tất, mọi lời tiên tri.

Chúa không hủy bỏ điều gì,

Tinh thần giữ luật, khắc ghi trong hồn.

Thực hành lẽ đạo ôn tồn,

Nội tâm sâu kín, nên khôn sống đời.

Hoàn thành khoản luật từng lời,

Dù rằng một chấm, gọi mời thực thi.

Ai mà dậy dỗ điều chi,

Dù là nhỏ mọn, tinh vi cao vời.

Người nào hủy bỏ luật Người,

Cho dù luật nhỏ, xa vời cõi thiên.

Yêu thương giới luật trước tiên,

Chu toàn Đức Ái, nối liền tin yêu.

Giới răn Luật Chúa cao siêu,

Dẫn đường đưa bước, thiên triều phúc ân.

THỨ NĂM, TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN

(2Cor 3, 15-4, 1.3-6; Mt 5, 20-26).

HÒA GIẢI

Sống đời công chính nội tâm,

Nước Trời rộng mở, giáng lâm tiến vào.

Luật điều chớ đổ máu đào,

Giết người phạm tội, khơi mào ác nhân.

Chúa rằng nên sống khoan nhân,

Đừng vì phẫn nộ, nợ nần yêu thương.

Con người cuộc sống vô thường,

Không chê khùng ngốc, mở đường khinh khi.

Bất bình gây gỗ làm chi,

Hãy mau hòa giải, từ bi dịu dàng.

Dung hòa tâm trí bình an,

Tránh xa ngục tối, dẫn đàng khổ đau.

Hơn thua thắng thiệt qua mau,

Tâm an hồn lặng, cùng nhau giãi bày.

Cảm thông tha thứ vui lây,

Yêu thương kết nối, dựng xây tình người.

THỨ SÁU, TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN

(2Cor 4, 7-15; Mt 5, 27-32).

TRONG SẠCH

Ngoại tình phạm lỗi thất trung,

Điêu ngoa gian dối, tín trung chẳng còn.

Vợ chồng chung thủy sắt son,

Gia đinh êm ấm, cháu con xum vầy.

Giê-su Chúa dậy điều này,

Ước ao phạm tội, sa lầy trí tâm.

Ai nhìn người nữ tà dâm,

Ngoài tình tâm trí, âm thầm sướng vui.

Mắt con vấp phạm, thà đui.

Chỉ còn một mắt, an vui Nước Trời.

Nếu tay phạm tội cắt rời,

Một phần chi thể, mất đời phúc vinh.

Toàn thân hỏa ngục cực hình,

Hy sinh cắt bỏ, thiên linh vọng chờ.

Tinh yêu Thiên Chúa vô bờ,

Ban nguồn sinh phúc, hưởng nhờ thánh ân.

THỨ BẢY, TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN

(2Cor 5, 14-21; Mt 5, 33-37).

LỜI THỀ

Lời thề đoan hứa tin nhau,

Bội thề phá hết, thương đau mất tình.

Chúa thương chỉ dậy tâm linh,

Đừng thể chi cả, thanh minh sống đời.

Đất trời ngai bệ cao vời,

Trên ngai Thiên Chúa, cõi trời linh thiêng.

Đền thờ Chúa ngự thiêng liêng,

Ngai vàng đất thánh, cõi riêng tôn thờ.

Đầu con quí giá vô bờ,

Thiên tài phú bẩm, ban sơ tạo hình.

Nhớ rằng sự thật hữu tình,

Có thì nói có, ánh minh chan hòa.

Không rằng không có, bỏ qua,

Nói thêm nói bớt, điêu ngoa làm gì.

Nói lời sự thật kiên trì,

An bình cứu độ, khắc ghi lòng người.

CHÚA CHO KẺ CHẾT SỐNG LẠI

Lm. John Nguyễnanton-tuoi

CN 20 TN-C-2016

Khi nghe các bài đọc chủ nhật hôm nay, cảm xúc của chúng ta thấy đau buồn khi chúng ta nghĩ đến người mẹ mất con. Chết là kết thúc cuộc đời, là sự chia ly đau đớn. Chia ly một người thân, một người ta yêu thương là nỗi đau tột cùng. Sự chia ly nào cũng là nuối tiếc và đau buồn. Những ai đã mất cha, mất mẹ hay mất con đều có kinh nghiệm đau thương và mất mác này, khi ta đưa tiễn người thân đến nơi an nghỉ cuối cùng. Cảm xúc đau buồn này được liên kết với câu chuyện Tin Mừng hôm nay, khi Đức Giêsu nhìn thấy đứa con trai một bà góa thành Na-in chết và đưa đi chôn. Chúa đã chạnh lòng thương khi nhìn thấy bà mẹ khóc thương đứa con duy nhất của bà.

Người đời thường nói: “Có sinh ắt có tử”. Đó là quy luật của kiếp người. Nhưng khi đối diện với bệnh tật, ốm đau, và cái chết, người ta thường rơi vào trạng thái sợ hãi, buồn phiền, chán nản, thất vọng, phản kháng, tuyệt vọng, và có khi chúng ta đánh mất niềm tin của chính mình. Cách đây hơn ba năm, khi mẹ tôi bệnh rất nặng, mẹ tôi không thể đi lại, bà phải nằm trên giường bệnh lâu ngày và rất đau đớn. Khi được đưa đến nhiều bệnh viện khám, thì bác sỹ chuẩn đoán và nói rằng: “Bà bị ung thư tủy giai đoạn cuối”. Khi nghe tin dữ này, tôi cảm thấy bị suy sụp, buồn bã, và đau đớn. Lúc ấy, tôi nghĩ đến ngày phải vĩnh biệt người mẹ yêu thương của mình, và hàng nước mắt của tôi từ từ rơi xuống, đó là cảm xúc đau buồn và tang chế. Tôi nghĩ đến một ngày rất gần, tôi không còn gặp mẹ mình, là ngày đau buồn nhất trong cuộc đời. Trong lúc ấy, tôi lại muốn được ôm hôn mẹ và nói lên tâm tư, tình cảm của mình với mẹ. Sự nhớ thương và đau đớn hơn khi tôi không thể về đến bên mẹ, vì khoảng cách địa lý không gian và thời gian giữa tôi và mẹ trong lúc mẹ bị bệnh nặng, tôi thấy lòng đau đớn hơn.

Trong thời gian ấy, tôi chỉ biết cầu nguyện và xin ơn Chúa ban cho tôi sức mạnh để vượt qua. Tôi thầm thì với Ngài trong lời cầu nguyện, và tín thác vào Chúa tất cả, và Ngài đã chạnh lòng thương và cứu sống mẹ tôi đến ngày hôm nay. Tôi coi đây như là một phép lạ đã xẩy ra cho mẹ tôi cách đây hơn 3 năm. Hiện nay, mẹ tôi đã khỏe và đi lễ được. Tôi muốn được chia sẻ niềm vui này cùng với anh chị em về cảm nhận tình yêu thương của Thiên Chúa, thật là tuyệt vời. Ngài luôn đoái nhìn và chạnh lòng thương trước đau khổ của chúng ta với những ai thành tâm đến với Ngài. Chắc chắn, chúng ta sẽ được nâng đỡ và ủi an rất nhiều. Ngài sẽ khóc với chúng ta khi ta đau buồn, và Ngài cùng vui với niềm vui của chúng ta.

Tin Mừng thuật lại khi Chúa Giêsu nhìn thấy đoàn người khiêng chiếc quan tài của người thanh niên, họ mang anh ta đi chôn. Anh ta là con trai duy nhất của một bà góa, Ngài chạnh lòng thương khi nhìn thấy người mẹ khóc thảm thiết, và Ngài nói: ” Bà đừng khóc nữa.!” Chúa Giê-su đã thấy nỗi đau đớn tột cùng của người mẹ khi đưa tiễn con ra nơi an nghỉ cuối cùng. Ngài tiến lại gần, sờ vào quan tài và nói:” Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” Anh ta ngồi lên và bắt đầu nói chuyện. Đức Giê-su trao anh ta cho người mẹ. Phép lạ đã xẩy ra. Đám đông dân chúng đã chứng kiến Chúa làm, và mọi người tôn vinh Thiên Chúa.

Điều này cho thấy, Chúa Giê-su có quyền trên sự chết và chiến thắng tử thần, Ngài đã làm cho anh ta sống lại. Hơn nữa, bà ta lại là người góa chồng. Đối với người Do thái lúc bấy giờ, bà là người đại diện cho những mãnh đời bất hạnh. Với Chúa Giêsu, Ngài không chỉ chạnh lòng thương với những con người bất hạnh và đau khổ, nhưng Ngài còn thấu hiểu nỗi đau của con người đang bị người đời coi thường, khinh chê và ruồng bỏ. Và Ngài cũng thương khóc khi nhìn thấy Lazaro chết. Ngài cảm thông và chia sẻ với kiếp sống con người.

Vậy, đâu là ý nghĩa quan trọng thông điệp Lời Chúa, để chúng ta tìm ra ánh sáng chân lý cho cuộc sống này!. Thứ nhất, trong bài đọc một, ông Ê-li-a cho đứa con trai bà góa ở Xa-rep-ta sống lại. Kế đến, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su làm phép lạ cho đứa con trai bà góa thành Na-in ta sống lại. Tất cả có một điểm chúng đó là cho kẻ chết sống lại, điều này muốn nói lên rằng, sự sống là do Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta. Đồng thời, thông điệp Lời Chúa nói đến chính Chúa Giê-su, Ngài cùng chết với kiếp sống của con người, nhưng Ngài đi ngang qua sự chết, và Ngài đã sống lại để cứu độ chúng ta, và mang chúng ta để đến trong vinh quang trong Nước Chúa.

Đây là chân lý nền tảng cho chúng ta sống ở đời vì không ai có thể sống mãi trên thế gian. Nếu ta biết sống tốt ở đời này, thì đời sau chúng ta sẽ được hạnh phúc trên thiên đàng. Nếu ta biết nghĩ đến ta chết, là lúc ta biết sống sao cho tốt đẹp hơn trong cuộc đời này. Điều đáng sợ nhất cho mỗi người chúng ta là không tìm ra con đường chân lý và định hướng cho cuộc sống của mình.

Tóm lại, món quà sự sống đời đời Chúa ban cho tất cả mọi người, “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn ai không chịu tin người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người đó.”(Ga 3:36). Số phận vĩnh viễn đã được định đoạt ở việc ta chấp nhận hay chối bỏ đức tin vào Chúa. Nếu chúng ta tin rằng, cái chết của Chúa Giêsu là để chuộc tội cho ta, thì chúng ta không chỉ được đảm bảo một cuộc sống ý nghĩa trong cuộc sống này mà còn là cuộc sống vĩnh viễn sau khi chúng ta chết đi trước sự vinh hiển của Chúa. Amen.

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*