• Môn Đệ -Chất Lượng Cao- Lm Giuse Nguyễn Hữu An 2010
  • Nhận diện Đức Kitô- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
  • Ai muốn theo Thầy... Lc 9,18-24-Lm. Đoàn quang
  • Sống vì mọi người-Lm Tạ Duy Tuyền 2010
  • Sống vì mọi người - Lm Inhaxiô Trần Ngà
  • Cần một niềm xác tín-Lm. Vũ Xuân Hạnh
  • Dấu chứng tình yêu-Thiên Phúc (Như Thầy đã yêu)- năm C
  • Vì Tôi là Kitô Hữu-Lm Gioan Vũ Nghi, CMC
  • Chấp nhận Thập Giá-Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng 6/18/2013
  • Bỏ mình để đi theo Chúa Giêsu cách trọn vẹn - Jos.Vinc. Ngọc Biển 6/17/2013
  • Thiên Chúa có một khối tình-Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
  • Dâng Hiến Lễ-Lm Vũ Xuân Hạnh
  • Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa-Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  • Vác thập giá mình – Lm. Nguyễn Thái
  • Dứt khoát và triệt để bước theo Chúa- Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
  • Để nên môn đệ thực sự của Đức Giêsu-Lm Đan Vinh
  • Người Ta Bảo Thầy Là Ai - Và Các Con Bảo Thầy Là Ai?-LM JP Vũ Minh

MÔN ĐỆ -CHẤT  LƯỢNG CAO-

Lm Giuse Nguyễn Hữu An 2010

Chúa Nhật Thứ 12 Mùa Thường Niên, Năm C

Tác giả Trương Quang trong báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật số 40-2003, đã nhận định rằng: gần đây ở Việt Nam rộ lên phong trào”chất lượng cao”, từ sản phẩm và dịch vụ trên thị trường nội địa cho đến các mặt hàng xuất khẩu, lan qua cả các khu vực nhạy cảm là giáo dục và văn hoá. Nào là “xe chất lượng cao”, “lớp anh ngữ chất lượng cao”,”phở chất lượng cao”,”khách sạn chất lượng cao”…Mặc dù có “trương cờ, nổi trống” như vậy, chất lượng của món hàng có thật sự cao hay không thì chẳng ai có thể đảm bảo được. Mà nói cho cùng khi người rao món hàng ”chất lượng cao” kia cũng chẳng mấy tự tin khi phô trương mấy dòng chữ “chất lượng cao” nghe rất hứa hẹn và đầy ấn tượng… Suy cho cùng chất lượng hay giá trị của một sản phẩm hay dịch vụ là kết quả tổng hợp và tích luỹ của nhiều hoạt động, từ khâu thiết kế, chế tạo, quãng cáo, chào bán sản phẩm cho đến các biện pháp hậu mãi… Cuộc sống ngày càng đòi hỏi phải có chất lượng cao. Từ sản phẩm, văn hoá, nghệ thuật, giáo dục… cho đến con người cần đạt chất lượng và có giá trị.

Có thể dùng cụm từ ”chất lượng cao” để suy niệm bài Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ “chất lượng cao” với đòi hỏi hết sức lạ lùng là “từ bỏ và vác thập giá”. Những ai đáp ứng được yêu cầu ấy thì mới “ xứng đáng làm môn đệ Thầy”.

Hôm ấy, Chúa Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người. Chúa tế nhị dẫn dắt và nhắc nhở các môn đệ bằng những câu hỏi để gây ý thức nơi các ông. Trước hết Người hỏi: “Ðám đông nói Thầy là ai?”. Từ từ Chúa dẫn đưa các ông đến câu hỏi quan trọng nhất, xác tín nhất: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? “.

Chúa Giêsu có thể tự giới thiệu về mình, tự nói lên căn tính của mình. Nhưng Người đã không làm thế. Người muốn người môn đệ phải tự khám phá ra Người. Chúa muốn lời tuyên xưng của người môn đệ phải phát xuất từ nỗ lực tìm hiểu và cảm nghiệm chân thực trong cuộc sống sinh hoạt với Người. Phêrô đã trả lời: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng sống”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế Chúa Giêsu đã phải giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người. Con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Nhưng đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Rồi Chúa nói với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Muốn theo chân Chúa, các môn đệ không thể đi con đường nào khác con đường của Chúa. Phải đi vào con đường hẹp để dẫn đến Nước Trời. Đi vào con đường đau khổ để đến vinh quang. Vượt qua cái chết để đến sự sống.

Muốn theo Chúa Giêsu, muốn trở nên môn đệ “chất lượng cao” phải chấp nhận từ bỏ và vác thập giá của mình.

  1. Từ bỏ

Nhiều người hỏi rằng từ bỏ như Chúa Giêsu đòi hỏi làm sao mà sống được ? làm sao tránh được tiếng bất hiếu, vô tình, vô nghĩa ? Vậy thì phải hiểu chữ từ bỏ theo nghĩa nào? Từ bỏ ở đây hiểu theo nghĩa tinh thần nhiều hơn. Người theo Chúa cần có tinh thần từ bỏ, ưu tiên chọn Chúa trên hết mọi sự, xem Chúa và việc của Chúa là quan trọng hơn cả. Mạng sống, cha mẹ, vợ con, nhà cửa, ruộng vườn đều rất quý trọng, nhưng người theo Chúa chọn điều quý hơn là chính Chúa. Họ giống như người “tìm được viên ngọc quý, tìm được kho báu chôn trong ruộng, liền trở về bán tất cả để mua viên ngọc, mua thửa ruộng ấy”. Chúa đòi buộc người theo Chúa phải từ bỏ, nghĩa là đặt tất cả dưới Người, yêu Người trên mọi sự. Đưa ra đòi hỏi này và biết đó là một chọn lựa khó khăn nên Chúa Giêsu căn dặn nên biết tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát. Muốn xây tháp cần tính toán có đủ tiền. Muốn thắng trận cần có lính. Muốn theo Chúa phải từ bỏ. Từ bỏ ý riêng, từ bỏ sự tự do, từ bỏ những điều mình ưa thích khi những điều ấy đi ngược lại với lời dạy của Chúa hay làm cho bản thân xa cách Người. Từ bỏ là quy luật của cuộc sống và sự phát triển.Thai nhi không thể ở mãi trong lòng mẹ cho dẫu nơi đó an toàn, êm ấm nhất. Đưá trẻ phải từ giã lòng mẹ để sinh ra làm người. Đứa trẻ không thể nào trưởng thành nếu nó cứ sống mãi bằng sữa mẹ, nó phải thôi bú, ăn cơm bánh mới lớn lên. Cuộc sống đặt con người trước những sự lựa chọn. Chọn lựa là giới hạn. Chọn điều này phải bỏ điều kia. Sống là chấp nhận từ bỏ. Chọn những điều tốt loại bỏ những điều xấu. Có những điều xấu cần từ bỏ như cờ bạc, say sưa, ma tuý, truỵ lạc, trộm cắp…Cũng có những điều tốt phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn, chẳng hạn khi chọn trường học, chọn nghề nghiệp, chọn nơi ở, chọn bậc sống, chọn bạn bè, chọn vợ chồng. Thanh niên nam nữ khi tìm hiểu nhau thì có nhiều người nhưng khi chọn vợ chồng thì chỉ chọn một mà thôi. Từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh. Mỗi sáng thức dậy đi lễ, bỏ lại chiếc giường êm ấm. Mỗi tối gia đình tắt tivi để cùng quy tụ đọc giờ kinh. Giữ ngày Chúa nhật, bỏ công việc làm ăn có nhiều lợi nhuận. Bỏ đi một tật xấu để tập một nhân đức. Cao cả hơn, bỏ đời sống hôn nhân để sống đời tận hiến cho Chúa… Sự từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Khi yêu người ta cảm thấy nhẹ nhàng. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình. Bằng hy sinh và tình yêu ai cũng sẽ làm được tất cả để cuộc sống ngày càng đạt “chất lượng cao”. Từ bỏ giống như cuộc leo núi. Leo núi là một cuộc mạo hiểm, đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ; nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo, lòng can đảm. Càng lên cao, người leo núi càng hưởng nhiều niềm vui, càng tắm mình trong ánh sáng chan hoà và được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ.

  1. Vác thập giá

Hai yêu cầu được gói gọn trong hai động từ, đó là “từ bỏ” mọi sự và “vác” thập giá. Không chỉ dứt bỏ mọi sự, người môn đệ theo Chúa còn phải vác thập giá theo Chúa mỗi ngày trong đời sống của mình

Theo Chúa giống như đi leo núi. Thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Nó rất cần và rất có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.

Nghe nói đến thập giá phải vác, người ta có thể cho đó là một đòi hỏi quá sức con người. Thật ra, thập giá đi liền với tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng, nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Thập giá phát xuất từ một tình yêu của Đấng Cứu Độ. Thập giá là hy sinh của Chúa. Có tình yêu nào mà không cần đến ngôn ngữ của hy sinh?

Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thánh giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.

Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người.

Tình yêu như là điểm giao thoa giũa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến vời niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn chán. Đức Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại. Cái chết của Chúa là một hiến lễ có giá trị cứu chuộc tội, đền tội và Người “chỉ dâng hiến lễ một lần là đủ”.

Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là nới ấy có dấu chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử nạn, Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là Thánh giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Người đi vào đời sống mới thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên thánh. Sự thánh ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không có tình yêu thì thập giá không là thánh giá.

Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Người môn đệ “chất lượng cao” luôn luôn đặt tất cả dưới Chúa và yêu Chúa trên mọi sự. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành thánh giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.

NHẬN DIỆN ĐỨC KITÔ

 ĐTGM. Ngô Quang KiệtDC Kiet

Chúa nhật 12 TN-năm C

Đức Kitô là ai? Đó là câu hỏi sẽ còn làm nhiều người thuộc nhiều thế hệ băn khoăn thắc mắc. Có rất ít người, kể cả những môn đệ thân tín, dù đã quyết tâm theo Người, thực sự hiểu Người cho đúng.

“Mesiah” trong tiếng Do thái và “Kitô” trong tiếng Hi lạp có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu. Là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Là Đấng dân Do Thái mong đợi. Nhưng Đấng Kitô thực sự như thế nào, sẽ sống như thế nào và sẽ làm gì thì vẫn còn trong vòng mơ hồ. Tuy nhiên đa số người Do Thái ước mơ Đấng Kitô đến để khởi đầu một thời kỳ mới, đưa nước Do Thái lên vị trí bá chủ thế giới. Người sẽ trở thành vị Chúa Tể thống trị khắp địa cầu.

Chính vì thế, hôm nay Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu Người cho đúng. Thọat tiên Chúa hỏi các ông về luồng dư luận. Nhất là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Quả nhiên mọi người đều công nhận Chúa Giêsu là một tiên tri vĩ đại. Nhưng chưa có ai dám quả quyết Người là Đấng Kitô. Chúa hỏi thêm về ý kiến của các môn đệ thân tín. Phêrô đại diện anh em tuyên xưng: “Thày là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế Chúa Giêsu đã phải giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người.

Trước hết, Chúa Giêsu “nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai”. Không được nói cho họ biết Người là Đấng Kitô. Vì họ chưa hiểu Đấng Kitô là gì. Họ có thể tôn vinh Người lên làm vua. Như họ đã muốn làm thế sau khi Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Như thế là sai đường lối của Chúa. Và có thể làm hỏng kế họach của Chúa.

Sau đó Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Nhưng đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực.

Rồi Chúa nói với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Muốn theo chân Chúa, các môn đệ không thể đi con đường nào khác con đường của Chúa. Phải đi vào con đường hẹp để dẫn đến Nước Trời. Đi vào con đường đau khổ để đến vinh quang. Vượt qua cái chết để đến sự sống.

Bây giờ ta đã hiểu Đấng Kitô thực sự là gì. Bây giờ ta đã hiểu con đường của Đấng Kitô phải đi là con đường nào. Và ta cũng đã hiểu muốn theo Chúa ta phải đi vào con đường nào. Nhận diện Đấng Kitô đã khó. Đi vào con đường của Người còn khó hơn. Ta hãy xin Chúa ban cho ta được sức mạnh để đi theo con đường Chúa đã đi. Chính con đường đó dẫn ta đến hạnh phúc đích thực.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1-Tại sao Chúa cấm các môn đệ tiết lộ Người là Đấng Kitô?

2-Con đường Đấng Kitô phải đi là con đường nào?

3-Các môn đệ Chúa phải đi con đường nào?

4-Qua bài Tin Mừng hôm nay, tôi nghĩ thế nào về con đường Hội Thánh phải đi? Phô trương hay khiêm nhường? Quyền lực hay bé nhỏ?

5-Tôi có quyết tâm đi vào con đường Chúa đã chỉ cho tôi không?

AI MUỐN THEO THẦY… Lc 9,18-24

  1. Lm. Đoàn Quang

CHÚA NHẬT 12 thường niên, năm C

9,18 Một hôm, Chúa cầu nguyện một mình, các môn đệ cũng ở đó với Người. Người hỏi các ông : “Đám dân chúng nói Thầy là ai?”

(Chúa Giêsu coi trọng việc cầu nguyện với Cha để tìm ý Cha. Thánh Luca hay tả lại việc Chúa Giêsu cầu nguyện một mình, nhất là khi Chúa sắp làm việc gì quan trọng như: trước khi ra giảng đạo, trước khi chọn 12 tông đồ, trước khi chịu tử nạn…(Người cũng hỏi người ta để biết, dù Người biết mọi sự rồi.

9,19 Các ông thưa: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả, người khác bảo là Êlia, kẻ khác lại nói là một trong các ngôn sứ xưa đã sống lại”.

(Dân chúng không để tâm suy nghĩ sâu xa về Chúa Giêsu. Họ nghĩ Chúa giống ông nọ ông kia vì Chúa cũng giảng, cũng làm phép lạ. Họ không nghĩ Chúa là Đấng Mesia Cứu thế muôn dân đang trông đợi. Họ tưởng Đấng Messia đến oai hùng để giải phóng đát nước khỏi ách Rôma đang cai trị. Nhưng Chúa không đến để làm chuyện chính trị, chuyện đời này.

9,20 Người lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”- Ông Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Cứu thế của Thiên Chúa”.

(Phêrô được ơn mạc khải về Đấng Cứu thế, thay cho anh em, ông đã tuyên xưng đúng lúc.

(Đấng Kitô dịch từ chữ hilạp: Christos nghĩa là người được Thiên Chúa xức dầu, tương đương với chữ Mesia tiếng hipri (Dothái)

9,21 Nhưng Người nghiêm cấm các ông không được nói điều ấy với ai.

(Chúa cấm các ông không được nói với ai điều đó, vì dân chúng hiểu Đấng Cứu thế theo nghĩa Đấng uy quyền do Thiên Chúa sai đến từ trời. Đấng ấy họ đã mong đợi 4 ngàn năm nay, họ hát lên những khúc ca: “Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa đấng chuộc tội…”. Đấng ấy sẽ đến để đánh đuổi người Rôma đang cai trị đất nước họ.

Họ không mong đấng Cứu thế sinh ra trong chuồng bò, quê ở Nagiaret, làm thợ mộc, nghèo hèn, bị loại bỏ, giết chết…

Chúa chưa muốn dân chúng biết rõ về Chúa, vì Chúa là Đấng Messia trong đau khổ theo chương trình bí mật của Cha, cho tới “giờ” tắt thở trên thập giá.

Chúa Giêsu báo trước cuộc Thương khó lần 1

9,22 Chúa phán, “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”.

(Chúa Kitô là thế này mới đúng: CHỊU ĐAU KHỔ NHIỀU.

Ba hạng người này là thành phần của Thượng hội đồng sẽ kết án chết Chúa Giêsu )

Điều kiện phải có để theo Chúa

(Ai muốn theo Chúa thì phải chịu Đau khổ như Chúa mới đúng, nghĩa là Từ bỏ mình, vác thập giá đau khổ hàng ngày chứ không lâu lâu…

Những lời ghi lại trong đoạn này, còn được ghi ở nhiều chỗ khác (Mt 10,33,38-39; Lc 12,9; 14,27; 17,33)

9,23 Rồi Chúa nói với mọi người, “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo.

(theo sau ai: có nghĩa là làm môn đệ người ấy.

(vác thập giá mình: cho thấy cuộc đời của môn đệ chân chính được giống cuộc đời của Chúa Kitô, theo Chúa trong sự từ bỏ mình, hi sinh mạng sống vì Chúa và Tin mừng.

(hàng ngày: Lc thêm 2 chữ “hằng ngày”để nhắc nhớ đây là quy luật hàng ngày của cuộc đời người Kitô.

9,24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.

Suy gẫm: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo.

Truyện: Nhiều người biết Đức Mẹ hiện ra tại Lộ đức với thiếu nữ tên là Bênađeta, vị thánh nhỏ dễ thương:

– Em chỉ là một thiếu nữ thấp bé, quê mùa, gia đình nghèo khó, nhiều bữa ăn đói, em không được đi học, nên nhiều tuổi rồi mà không được xưng tội lần đầu. Em ốm yếu hay ho loặc quặc vì bệnh phổi. Vừa đau khổ, vừa bị khinh thường, tủi nhục.

Nhưng gia đình em là những người Công giáo tốt lành, có thói quen đọc kinh Mân côi cầu nguyện mỗi buổi tối, nên Benadeta biết đọc kinh Tin kính, kinh Lạy Cha, kinh Kính mừng, kinh Sáng Danh (Andre Ravier, SJ, Bernadette and her Rosary, Convent of Saint-Gildard-Nevers, p.7) . Chỉ có thế, nhưng lúc nào trong túi áo Benadeta cũng có tràng hạt, và em đọc Kinh Kính mừng luôn luôn.

-Khi Đức Mẹ hiện ra với em tại hang đá Lộ đức, việc đầu tiên, em thò tay vào túi lấy tràng hạt ra. Em quì xuống, rồi giơ tay làm dấu Thánh giá, và đọc kinh Mân côi với Bà Đẹp. nhưng làm không nổi, em run quá. Tới khi Đức Mẹ làm dấu Thánh giá, em mới làm được, rồi em đọc kinh Lạy Cha, kính mừng…(p. 9) …và Đức Mẹ cùng đọc với em kinh Sáng Danh… Đức Mẹ dạy em đọc Kinh Mân Côi cầu cho kẻ có tội được “thống hối, thống hối” ăn năn cải thiện trở về đường lành. (p. 13).

Em luôn nhớ lời Đức Mẹ dạy cầu cho kẻ có tội, nên em luôn luôn đọc “Cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Lời cầu này giúp em nên khiêm tốn nhớ đến phận nghèo…và sẵn sàng chịu đau khổ. Rất khó thở vì bệnh xuyễn nhiều khi muốn chết cho rồi, để cầu cho tội nhân.

– Khi đã là nữ tu, Benadeta cũng chỉ luôn nắm cỗ tràng hạt ngày đêm để ca ngợi Mẹ, liên kết với Đức Mẹ, cầu xin Đức Mẹ làm cho nên thánh, đem về Thiên đàng, nơi Đức Mẹ đã hứa: ” Mẹ không cho con sung sướng ở đời này, nhưng ở đời sau”.

Sau bao nhiêu ngày tháng bệnh nạn, đau đớn, liệt giường… Giờ chết đến, chị luôn thầm đọc “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con, là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. Và Chị đã tắt thở trong tay Mẹ Maria yêu dấu của chị.

Benadeta trong truyện trên, đã từ bỏ mình, vâng ý Chúa, chịu đau khổ, chịu khinh chê, một lòng tin cậy, phó thác cho Đức Mẹ , tới giây phút cuối cùng cuộc đời. Đức Mẹ đã giữ lời hứa: “Mẹ không cho con sung sướng ở đời này, nhưng ở đời sau”.

Benadeta đã thực hiện bài Tin mừng lời Chúa dạy hôm nay: Ai muốn làm môn đệ Ta, đó là các tông đồ, môn đệ, và chúng ta , phải chịu 2 điều gay go: 1/Từ bỏ mình, 2/ Vác thập giá mình hàng ngày mà theo.

1/ Tại sao phải từ bỏ mình? Mình đây gồm xác và hồn tôi. 2 cái cộng tác với nhau làm lành làm dữ. Ngày phán xét riêng, hồn lên thiên đàng, hoặc vào luyện ngục, hoặc xuống hỏa ngục. Xác còn nằm trong đất lạnh, hay bị cọp nhai tan nát ở trên rừng, bị cá rỉa tan tành ở dưới biển.

Ngày phán xét chung, xác hồn hợp lại để lên thiên đàng đời đời, hoặc xuống hỏa ngục mãi mãi.

Chúa nói: từ bỏ mình là từ bỏ cái xác lười làm lành, cái hồn lười lánh dữ. Bỏ cái thân tội ưa khoe khoang kiêu ngạo, “xấu hay làm tốt, giốt hay nói chữ”. Người Pháp có câu: cái tôi thật đáng ghét.

2/Tại sao vác thập giá? Thập giá đây ý nói là:

2.1/Đau khổ trong ngoài xác, từ đỉnh đầu tới bàn chân: từ nắm tóc gàu, tóc bạc, tóc rụng. Đầu nhức, mắt đau, họng đau, tim đau, phổi đau, gan đau, ruột đau, chân đau, da ngứa ngáy, bán thân bất toại, ung thư nhức nhối v.v.

2.2/Đau khổ trong linh hồn, lo sợ, buồn bã, giận ghét, tức tối từ việc nhỏ tới việc lớn, từ cá nhân tới gia đình, từ cộng đoàn tới xã hội, bị sở làm đè nén, bị quan chức, luật lệ bắt nạt, chiến tranh, chạy giặc.

2.3/Đau khổ trong thiên nhiên mưa nắng, nóng lạnh, gió cắt da, tuyết đầy đầu, vỡ đê, sóng thần, lốc xoáy, nhà tan, người chết. Đau khổ trăm bề!

Tại sao Chúa không thương? Không phải Thiên Chúa không yêu thương, không xót thương, nhưng Chúa miễn cưỡng bắt ta chịu khổ để dứt bỏ lòng yêu mến, mê mẩn với thế gian, mà quên đi hạnh phúc đời đời.

3/Niềm hi vọng lớn lao lẫy lừng, cần nhớ để đừng mất lòng tin cậy là: “ngày thứ ba Thầy sẽ sống lại”.

Và môn đệ cũng sẽ được sống lại vẻ vang như Thầy để mãi mãi ở cùng Thầy.

Vui mừng, tin cậy, phấn khởi lên. Chúa Giêsu trong thân phận con cháu Tổ tông cũng “phải chịu “đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết”. Chúa chịu đau khổ để làm gương cho ta, để lập công cứu chuộc ta. Đức Mẹ cũng phải chịu đau khổ, dù Người được miễn tội tổ tông, để đồng công với Chúa, cứu chuộc ta.

Vị Thánh nào cũng phải khổ đau trăm bề như thánh Benadeta, ta mới nghe chuyện trên.

4-Áp dụng:

1- Tôi sẽ bám chặt lấy Đức Mẹ, nhất là khi đau đớn xác hồn, bằng cách cầu nguyện liên tục, xin Mẹ giúp tôi vượt qua lúc khó khăn, mà không xúc phạm đến Thánh ý Chúa.

2- Xin Mẹ Maria giúp con luôn trông cậy, phó thác nơi Mẹ, vui chịu đau khổ, vác Thánh giá, để làm môn đệ Chúa Giêsu, và đời sau được ở bên Mẹ mãi mãi.

(Ca: Lạy Chúa, con đường nào Chúa đã đi qua của Văn Chi)

Lm. đoàn quang, CMC June 23, 2013

SỐNG VÌ MỌI NGƯỜI

Lm Tạ Duy Tuyền 201000 tuye

Chúa nhật 12 thường niên, năm C

Theo báo tuổi trẻ đã đăng về cái chết đẹp của chị Trương Thị Hồng Phượng. Chị đã tình nguyện hiến tặng giác mạc của mình để đem lại ánh sáng cho ai đó sau khi biết mình mắc bệnh ung thư dạ dày. Chị đã an nghỉ ngày 19.05 và gia đình cùng bác sĩ đã thực hiện theo đúng di nguyện của chị.

Chuyện chị Hồng Phượng hiến giác mạc đã làm rung động trái tim hàng triệu con người. Không phải đổi để lấy điều kiện vật chất cho gia đình, dù gia đình chị thuộc loại nghèo xơ nghèo xác, nghèo đến độ các bác sĩ điều trị không cầm nổi nước mắt… Nếu chị bán có rất nhiều người sẵn sàng bỏ tiền ra mua, thậm chí rất nhiều tiền đủ để gia đình chị xoay xở qua lúc khó khăn. Chị có quyền làm như vậy chứ. Chị hiến giác mạc để làm gì? Lấy tiếng ư?

Không! Đơn giản đối với chị con người khi chết rồi cũng trở về cát bụi, dù nghèo hay giàu, sang hay hèn, dù sáng mắt hay mù lòa. Rồi tất cả sẽ là quá khứ, sẽ chìm vào quên lãng, chỉ biết rằng sẽ có một người mù được nhìn thấy ánh sáng, được sống một cuộc sống tốt đẹp hơn, được tái sinh bằng trái tim của một người phụ nữ nhà quê nghèo mà giàu lòng nhân ái.

Trong truyện Thiên long bát bộ của Kim Dung cũng từng có nhân vật Du Thản Chi vì quá yêu thương nàng A Tử nên đã tự làm mình mù để A Tử được sáng mắt. Đó là cái đẹp của tình yêu, nhưng cũng là cái ngu dốt và nông nổi của tình yêu vì cuối cùng A Tử đã tự móc đôi mắt mình để trả cho Du Thản Chi. Nàng không cảm kích tình yêu vô bờ bến của Du Thản Chi mà ôm xác người yêu Kiều Phong nhảy xuống vực thẳm.

Nếu so sánh với Du Thản Chi, sự hi sinh của chị Phượng có nhiều điều đáng để người đời khâm phục vì chị đâu biết mình sẽ làm cho ai được sáng mắt, đâu cần người sẽ được tái sinh một cuộc đời mới từ trong tăm tối phải cảm kích, trả công… vì chị đã thanh thản về nơi chín suối.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có một cuộc sống đẹp. Một cuộc sống đẹp không phải là cuộc sống có nhiều tiền, nhiều của hay có công danh giữa đời. Một cuộc sống đẹp là cuộc sống biết hy sinh để đóng góp cho đời thêm niềm tươi vui và hy vọng. Một cuộc sống dám hiến dâng mạng sống mình cho lợi ích của tha nhân. Một cuộc sống từ bỏ những niềm vui cá nhân để sống vì hạnh phúc tha nhân. Một cuộc sống không tìm niềm vui cho cá nhân nhưng tìm niềm vui trong công việc phục vụ tha nhân.

Đó là một cung cách sống mà Chúa Giê-su đã sống và mời gọi chúng ta hãy sống theo mẫu gương của Ngài. Ngài hằng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo tôi thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo tôi”. Thập giá chình là những bổn phận phải có để chu toàn vì thiện ích của tha nhân. Thập giá qua những hy sinh, những vất vả vì hạnh phúc của tha nhân. Thập giá qua những từ bỏ những đam mê bất chính, những niềm vui tội lỗi để làm gương sáng cho anh em, cho bạn bè. Chính Chúa Giê-su Ngài đã sống chu toàn thánh ý Chúa Cha đã cứu độ nhân loại. Chính Ngài đã từ bỏ mọi sự kể cả vinh dự Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi vì hạnh phúc của chúng sinh. Chính Ngài đã hiến dâng mạng sống mình vì bạn hữu, và để cứu độ nhân gian. Đó là một tình yêu cao vời đến nỗi “không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám chết cho bạn hữu của mình”. Đó là một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu không toan tính thiệt hơn chỉ mong sao mang lại hạnh phúc cho những ai đang ngụp lặn trong đêm tối thất vọng, trong bóng đêm khổ đau.

Có lẽ mỗi người chúng ta đều thán phục cách cho đi của chị Hồng Phượng. Chị đã cho đi mà không so đo tính toán. Chị đã can đảm làm chứng cho một tình yêu vô vị lợi giữa một xã hội mà tình người đang giảm giá để cho vật chất lên ngôi. Con người hôm nay cần tiền chứ không cần tình. Người ta sẵn sàng chà đạp lên công lý, lên tình nhân loại nếu vật chất của họ bị đe doạ. Người ta không còn tình người vì tưởng rằng đồng tiền có thể giải quyết tất cả. Thế nhưng, giữa sa mạc khô cằn tình người vẫn còn đó những con người không để danh lợi thú làm mất đi tấm lòng cao thượng. Họ thà sống nghèo nhưng tấm lòng họ thật thanh cao. Họ sẵn sàng cống hiến cho đời đến hơi thở cuối cùng. Đó phải là cuộc sống của những người môn đệ Chúa. Một cuộc sống trao ban mà không so đo tính toán. Một cuộc sống hiến dâng đầy quảng đại và vô vị lợi. Một cuộc sống dám chấp nhận như hạt lúa chịu mục nát để mang lại màu xanh cho cuộc đời.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết từ bỏ chính mình để sống một cuộc sống có ích cho tha nhân. Ước gì mỗi người chúng ta biết khôn ngoan chọn lựa những giá trị vĩnh cửu thay cho những phù phiếm mau qua, như cha ông ta từng nói:

“Người trồng cây hạnh người chơi

Ta trồng cây phúc để đời về sau”.

Nguyện xin Chúa là Đấng dám chết cho người mình yêu giúp chúng ta biết sống cao đẹp trong hy sinh từ bỏ, trong bác ái dấn thân vì lợi ích tha nhân. Amen

SỐNG VÌ MỌI NGƯỜI

Lm Inhaxiô Trần Ngà

Chúa Nhật 12 thường niên năm C

Luca 9,18-24

Bận tâm hàng đầu của Chúa Giê-su khi xuống thế là sống vì mọi người, trao ban tất cả cho mọi người, và cuối cùng hy sinh chịu chết cho muôn người được sống. Có thể tóm tắt sự nghiệp của Chúa Giê-su vào một cụm từ ngắn: “sống-hết-mình-vì-mọi-người.” Và đó cũng chính là sứ mạng chính yếu của Chúa Giê-su, trong tư cách là Đấng Ki-tô. Thế nên, sau khi môn đệ đã nhận biết chân tướng của mình là Đấng Ki-tô, Chúa Giê-su cho họ biết đã đến lúc Người phải lên Giê-ru-sa-lem để hiến thân chịu chết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.” Qua lời nầy, Chúa Giê-su tỏ cho biết Người phải chết đi cho muôn người được sống và sẽ sống lại để đưa muôn người vào cõi trường sinh.

Hiến thân cứu đời, hy sinh quyền lợi bản thân để phục vụ cộng đồng, từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống vị tha là lý tưởng cao đẹp mà Chúa Giê-su quan tâm thực hiện và đó cũng là quy luật sinh tồn và phát triển cộng đồng nhân loại. Thế nên, Chúa Giê-su kêu mời mỗi người chúng ta hãy bước theo Người, từ bỏ lợi ích bản thân (=từ bỏ mình) để thực hiện sứ mạng đó: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.”

Tự cứu mạng mình thì mất, liều mất mạng sống vì tha nhân thì sẽ được sống.

Lời nầy xem ra cực kỳ phi lý và khó chấp nhận, nhưng đó là một chân lý cao đẹp đáng được trân trọng và đem ra thực hành. Câu chuyện sau đây minh chứng điều đó.

Một lão phù thủy rất tinh ma quỷ quái đã dùng pháp thuật của mình gom toàn bộ dân cư của một ngôi làng nhỏ gồm hai trăm người và đem nhốt toàn bộ vào tòa lâu đài bí mật của y trong khu rừng vắng. Hai trăm người nầy được chia thành hai nhóm, mỗi nhóm một trăm. Nhóm Một bị nhốt ở tầng trệt, nhóm Hai bị nhốt ở tầng trên.

Sau một đêm bị nhốt trong tòa lâu đài bí hiểm, sáng hôm sau, khi thức dậy, mọi người đều thét lên kinh hoàng khi phát hiện ra những biến đổi lạ lùng trên cơ thể mình. Trong đêm qua, tên Phù Thủy độc ác đã dùng tà thuật của y để gắn chặt vào hai bàn tay mỗi người hai chiếc muỗng dài đến hai mét trông thật kỳ quái. Thế là hai chiếc muỗng dài ngoằng kia trở thành một thành phần của cơ thể của từng nạn nhân và không cách nào tháo gỡ ra được.

Đến giờ ăn, mỗi nhóm đều được dẫn vào phòng ăn dành riêng cho nhóm mình. Ai nấy vô cùng ngạc nhiên khi thấy những dãy bàn ăn đầy dẫy những thức ăn hết sức ngon lành và bổ dưỡng được dọn ra cho mọi người thưởng thức, những món đặc sản tuyệt vời nằm mơ không thấy.

Thế nhưng, tại phòng trệt, tấn thảm kịch bắt đầu: sau mấy ngày nhịn đói và từ lâu chưa hề được thưởng thức những món ăn ngon, cả trăm con người bị nhốt ở đây, vốn có chủ trương là phải lo cho mình trước hết, đã lao vào bàn ăn như những con hổ đói. Họ dùng hai chiếc muỗng dài hai mét xúc thức ăn tới tấp đổ vào miệng mình, nhưng than ôi, vì hai chiếc muỗng quá dài nên bao nhiêu thức ăn đều bị rớt ra bên ngoài và rơi xuống bùn đất lầy lội dưới chân. Rốt cuộc, khi thức ăn trên bàn cạn dần, bọn người nầy tranh giành nhau xúc lấy xúc để những phần ăn còn lại để cho vào miệng, nhưng cũng chẳng được chút nào, nên đâm ra tức tối điên cuồng, dùng hai chiếc muỗng dài đập đầu nhau, thọc mù mắt nhau, đánh gảy răng nhau… gây nên một thảm kịch quá đỗi kinh hoàng. Và trong những bữa ăn tiếp theo, sự việc cũng xảy ra cách đau lòng như thế.

Đang khi nhóm người ở tầng trệt kiệt quệ vì đói và đánh giết nhau bằng những chiếc muỗng dài thì ở tầng trên, mọi người tỏ ra hạnh phúc hoan lạc chưa từng thấy. Chủ trương của nhóm người nầy là trong mọi hoàn cảnh, phải ưu tiên phục vụ tha nhân trước. Bởi thế, khi đến giờ ăn, thay vì tự phục vụ cho bản thân mình, ai nấy tranh thủ dùng hai chiếc muỗng dài của mình để múc thức ăn đút cho những người chung quanh. Ai nấy đều vui vẻ chí tình phục vụ người khác nên mọi người đều no nê và hạnh phúc. Thế là không những được no đầy thức ăn bổ dưỡng, họ còn được no đầy tình yêu thương nhau.

Quả đúng như Lời Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai muốn cứu mạng sống mình (như những người ở tầng trệt), thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi (tức là vì Chúa Giê-su và vì tha nhân, mà tha nhân cũng là Thân Mình Chúa Giê-su, là hiện thân của Chúa Giê-su), thì sẽ cứu được mạng sống ấy.”

Nói khác đi, khi người ta ích kỷ chỉ biết lo cho mình mà không biết sống vì người khác, người ta tự làm hại mình cũng như làm điêu đứng luôn cả xã hội mình đang sống. Trái lại, khi biết sống vị tha, hy sinh quyền lợi riêng tư để phục vụ người khác, người ta thăng tiến đời mình và làm cho xã hội phát triển tốt đẹp.

CẦN MỘT XÁC TÍN

Lm. Vũ Xuân Hạnh

Chúa nhật 12 TN-năm C – Lm. Vũ Xuân Hạnh

Khởi đi từ ý thức của thánh Phêrô, cũng là đại diện cho tông đồ đoàn: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” dành cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các con bảo Thầy là ai?”, Chúa Giêsu dẫn dắt các ông đến một mạc khải hay cũng là một thử thách quan trọng, đòi các ông phải dấn thân nhiều hơn cho đức tin. Vì “Đấng Kitô của Thiên Chúa” ấy, không phải là Đấng “ăn trên, ngồi trước”, nhưng sẽ là Đấng hạ mình chết cho anh em, vì anh em. Đấng “phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”.

Nhưng Chúa không dừng lại ở mạc khải về mình mà thôi. Người càng đẩy xa hơn, tới mút cùng của mạc khải: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình”. “Hãy theo Ta”; “Hãy bỏ mình”; “hãy vác thập giá” là gì, nếu không là mời gọi ta hãy tháp nhập thập giá đời ta vào Thánh Giá của Người, để thập giá đời ta cũng sẽ trở thành thánh giá cứu chuộc chính mình. Vì khi tháp nhập vào thập giá của Chúa Kitô, thập giá của Người sẽ là Thánh Giá thánh hóa chúng ta. Tháp nhập như thế chính là chấp nhận thập giá như Chúa Kitô đã chấp nhận. Tháp nhập như thế, không là một dấn thân cho đức tin mà Chúa đòi các môn đệ phải sống hay sao! Và đó cũng chính là thử thách mà các môn đệ của Chúa Kitô, một khi chấp nhận theo Thầy, phải vượt qua!

Với xác tín của thánh Phêrô, sau đó là lời mạc khải về thập giá của Chúa và bổn phận vác thập giá đời mình theo Người, bạn hãy cùng tôi, ít là một lần, ý thức hơn một nền tảng: Trọn một niềm xác tín nơi Chúa Kitô.

Tôi còn nhớ một câu chuyện vui, ai đó kể rằng: Có một ông vua luôn luôn gặp phải những điều phiền muộn. Nghe biết có một anh hề ngây ngô, nhưng do sự ngây ngô ấy, anh ta có thể gây cười cho nhều người. Một ngày nọ, nhà vua gọi anh hề vào cung và ban cho anh phủ việt, biểu tượng của vương quyền, để anh có thể tự do ra vào cung, làm trò giúp nhà vua giải khuây. Nhà vua nói:

-Ngươi hãy giữ lấy phủ việt này cho đến khi ngươi tìm được một người nào ngây ngô và khờ dại hơn ngươi, thì trao lại cho họ.

Từ đó, mỗi khi có những buổi đại triều, anh hề đến với phủ việt trong tay, dáng điệu kỳ hoặc, cốt chọc cười mua vui cho nhà vua.

Một thời gian, nhà vua lâm bệnh nặng. Biết mình sắp chết, nhà vua cho gọi anh hề lại, buồn bã nói:

– Ta sắp đi du lịch xa lắm.

– Hoàng thượng đi tận đâu ạ? Anh hề hỏi.

– Ta chẳng biết nữa.

– Nhà vua dã chuẩn bị hành trang chưa?

– Vẫn chưa.

Anh hề liền cười hóm hỉnh và lễ phép tâu:

Vậy xin hoàng thượng cầm lấy phủ việt này. Thần xin trao lại cho hoàng thượng, vì nay thần đã tìm được một người ngây ngô và khờ dại hơn thần rồi.

Và hôm nay, khi chuẩn bị bài suy niệm này, tôi lại nhận được một thiệp báo tin ngày khấn trọn đời của một nữ tu. Dĩ nhiên, đây không phải là lần đầu tiên tôi nhận thiệp báo tin vui mừng như thế này. Nhưng khác với bao nhiêu lần, bỗng dưng có một cái gì đó khiến tôi miên mang suy nghĩ và cảm nhận một cách lớn lao lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy bỏ mình mà theo Ta”. Bước vào đời tu, chắc chắn người nữ tu ấy đã xác tín niềm tin của mình nơi Chúa Kitô. Rồi mai đây chị tuyên khấn trọn đời, tiến lên một nấc thang cao hơn, một lần nữa niềm xác tín ấy sẽ được chị quyết sống cho cả đời tu của mình.

Tôi ngỡ ngàng khi nhận ra con người ta có chung nhiều lắm: cả vũ trụ này, cả một bầu khí quyển… Ngay cả chung nhau trong một mái gia đình, cùng do một người cha, người mẹ sinh ra đi nữa, thì mỗi cuộc đời của mỗi người vẫn vô cùng khác nhau. Chọn lựa cách sống và lẽ sống càng khó giống nhau.

Vì giữa một xã hội, người người lấn nhau để sống, tranh giành nhau từng miếng cơm, gian lận nhau từng gram rau quả…, thì lại cũng có biết bao nhiêu anh chị em cả một đời dám dấn thân cho ơn gọi tu trì, không màng vinh hoa, có khi còn từ bỏ cả lối sống tiện nghi của gia đình để bước vào đời tu. Đi theo Chúa Kitô, những anh chị em ấy họa lại khuôn mặt tình yêu của Người dâng tặng cho đời. Bởi vậy, với tôi, một khi nhận được thiệp báo tin chịu chức hay khấn dòng, tôi lại không coi đó là niềm vui dành cho chính đương sự hay của hội dòng, của giáo phận mà thôi. Nhưng đó là niềm vui lớn, niềm vui ơn Trời tặng ban cho người trần những món quà sống động là chính anh chị em sống đời tu.

Còn nữa, bao nhiêu anh chị em đêm ngày dấn thân để phục vụ người câm điếc, trẻ bất hạnh, người mắc phong cùi… một cách vô vị lợi, không mảy may nghĩ đến quyền lợi của bản thân…

Nhưng mặt khác, cùng là người lại có những con người, dẫu lắm quyền cao, chức trọng, và giàu sang, đến lúc sắp lìa đời lại trở nên nghèo xơ xác, nghèo đến nỗi chẳng biết mình có cái gì để mang theo về bên kia thế giới. Còn một kẻ nghèo tận cùng, nghèo đến nỗi chỉ có tiếng cười làm vui cho mọi người, thế mà khi đối diện với cái chết của đồng loại, lại vẫn nắm trong tay cái phủ việt, nắm trong tay cả một vương quyền, để trở nên giàu có, có thể cho một kẻ đã từng giàu có hơn mình. Câu chuyện anh hề và nhà vua bên trên là một ví dụ.

Bởi thế, đối diện với cái chết, chưa biết ai khôn ngoan, ai ngu đần. Một người suốt đời chỉ sở hữu cái ngu đần. Còn người kia đã từng là kẻ hưởng thụ trên sự ngu đần của người khác, lại thiếu khôn ngoan. Hóa ra, đứng trước lương tâm con người, đứng trước giờ chết, và hơn thế, đối diện với đức tin, mọi trật tự sẽ bị đảo lộn: Cái tầm thường, đáng khinh dể trước mặt nguời đời, lại trở thành cái có giá trị ngàn đời. Còn những gì con người ưa chuộng, tìm kiếm, bất chấp mọi thủ đoạn, miễn là sở hữu…, lại chỉ là một con số không to lớn!

Cuộc sống xung quanh bạn và tôi, ngay cả chính chúng ta, hoặc có nhiều anh chị em vẫn bị cho là thiếu khôn ngoan. Vì những anh chị em ấy quá thật thà, quá hiền lành, nghe theo lời dạy của Chúa Giêsu mà tha thứ quá dễ dàng… Hoặc họ dám lội ngược dòng, khi biết từ chối một lối sống buông thả giữa bao nhiêu cám dỗ, từ chối mối lợi nào đó mà bên trong nó chứa đựng không biết bao nhiêu gian dối… Nhưng chính trong niềm xác tín nơi Chúa Kitô và bước theo Người, họ vẫn bình an, vì đó là chọn lựa mà họ đã dấn thân để làm lẽ sống cho mình.

Dù đã xác quyết “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”, thánh Phêrô vẫn có những va vấp trong cuộc đời theo Chúa của mình. Tuy nhiên, sau khi biết mình yếu đuối, thánh nhân đã vùng đứng lên và đứng trên những va vấp ấy. Từ đó thánh Phêrô không chỉ xác quyết bằng lời, mà còn xác quyết bằng cả một đời còn lại của mình một cách kiên trung, sống chết cho một niềm tin lớn lao về “Đấng Kitô của Thiên Chúa” ấy. Nếu Thầy đã từng chấp nhận thập giá, thánh nhân cũng đã nghe theo lời mời gọi của Thầy, trung thành vác thập giá đời mình. Vì thế, Thánh nhân trở thành chứng nhân xuất sắc, một chứng nhân tuyệt vời của Chúa Kitô.

DẤU CHỨNG TÌNH YÊU

Thiên Phúc (Như Thầy đã yêu)- năm C

CN 12 thường niên, năm C

Cô Ann Thomas kể lại câu chuyện sau đây: Hôm đó, cô và Betty ghé vào một sạp bán đồ cũ. Ann vừa lôi ra một khay đồ linh tinh, Betty bước tới hỏi: – Có đồ gì đáng giá không? Ann trả lời: – Không, toàn là đồ năm vố thôi.

Đoạn cô bước sang bên cạnh nhường cho Betty vào xem. Betty chăm chú nhìn vào đống lặt vặt, nhặt lên một cây thập giá cũ han gỉ và nói: – Thật khó mà tin được. Tôi đã tìm được đồ quý: cây thánh giá này làm bằng chất bạc xưa.

Cô bạn của Ann đem về nhà lau chùi và đánh bóng cây thập giá. Đây quả là một vật quý.

Về sau, đứa con trai bảy tuổi của Betty tên Bobby cầm cây thập giá lên ngắm nghía hồi lâu. Bỗng nhiên cậu bé òa lên khóc. Betty liền hỏi: – Con sao vậy? Bobby nói: – Con không cầm lòng được khi thấy Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.

Ba người nhìn vào cây thập giá, có ba thái độ khác nhau: một người dửng dưng cho là đồ ve chai, người khác thích thú vì khám phá ra vật quý, còn người khác nữa lại xúc động rơi lệ vì nhận ra Đức Giêsu chịu đau đớn trên thập giá.

***

Tin Mừng hôm nay kể, Đức Giêsu bất thần hỏi các môn đệ: “Đám đông nói Thầy là ai?” Các ông thưa: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”. Nhưng Chúa lại muốn biết suy nghĩ của chính họ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Và chỉ một mình Phêrô mau mắn, đầy xác tín thưa: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9,18-20)

Phêrô trả lời quá chính xác, các môn đệ khác thở phào nhẹ nhõm vì các ông còn mơ hồ không biết Thầy là ai. Và Đức Giêsu mừng thầm vì công phu dạy dỗ mấy năm trời cũng không đến nỗi đổ sông đổ biển.

Nhưng Đức Giêsu phải xác định ngay rằng Đấng Kitô đây không phải là vị vua chiến thắng muôn nước, bá chủ muôn dân, khôi phục nước Israel, giải phóng nô lệ Rôma, như họ vẫn nghĩ. “Đấng Kitô của Thiên Chúa” sẽ là vị vua chiến thắng tử thần, chinh phục các tâm hồn, khôi phục quyền làm con Chúa, và giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, quỷ ma.

Tuy nhiên, con đường đi đến chiến thắng lại là con đường đau khổ, con đường thập giá: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sống lại” (Lc 9,22). Tất cả những ai muốn làm môn đệ Người, không thể đi con đường nào khác: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23)

Thập giá tuy là một khí cụ độc ác và ô nhục mà con người đã nghĩ ra để hành hạ kẻ khác, nhưng Đức Giêsu lại biến nó thành dấu chứng của tình yêu: Tình yêu vâng phục thánh ý Cha và tình yêu dâng hiến cho nhân loại. Khi nhìn lên thập giá, chúng ta không ngừng nghe vang vọng lời yêu thương ấy. Chính tình yêu đã biến thập giá trở nên nhẹ nhàng, và khổ đau thành nỗi hân hoan.

Chúa đã chết thay cho chúng ta, mặc dầu chúng ta không xứng đáng ơn cao cả ấy, tại sao chúng ta lại không dám chết cho chính mình, từ bỏ tội lỗi để bước theo chân Người?

Chúa đã sẵn lòng chịu mọi đau khổ cực hình thay cho chúng ta, mặc dầu chúng ta ngàn lần bất xứng, tại sao chúng ta lại từ chối hy sinh cho anh em, đang cần sự nâng đỡ ủi an?

***

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phán: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”, xin ban cho chúng con ơn can đảm, để chúng con luôn sẵn lòng bỏ mình cho tình yêu.

Xin cho chúng con tìm được niềm vui khi đón nhận mọi gian lao thử thách Chúa gởi đến trên đường đời. Amen.

VÌ TÔI LÀ KITÔ HỮU

Lm Gioan Vũ Nghi, CMC

Trước thập niên 1960, kỳ thị chủng tộc là một vấn đề nhức nhối trong xã hội Hoa Kỳ. Người da đen phải sống trong cảnh đau khổ triền miên. Họ không được tham gia các sinh hoạt chung với người da trắng; nhiều nơi họ không được bước chân vào; đi xe bus, họ phải ngồi phía sau. Tại tiểu bang Georgia, trong một gia đình ngoan đạo có hai anh em. Người anh vì muốn làm một cái gì để thay đổi tình trạng bất công đó, nên đã thành lập một hội đoàn với sự tham dự của mọi lớp người, không kể mầu da. Khi hội đoàn đang được thành hình, thì áp lực đến từ nhiều phía, và còn bị đe dọa sẽ bị đưa ra tòa. Người anh đã xin sự giúp đỡ của người em, lúc đó đang làm luật sư trong một tổ luật sư lớn, nhưng người em đã từ chối, lấy lẽ là sợ mất việc. Thấy không còn lý gì để thuyết phục em, người anh đã lấy lẽ là vì mình là Kitô hữu. Người em lúc đó đã trả lời, “Em sẽ theo Chúa Giêsu đến chân thánh giá; nhưng em không muốn cùng bị đóng đinh với Ngài.”

Anh luật sư này biết rằng, nhận mình là Kitô hữu, là môn đệ của Chúa Kitô, là phải bước theo chân Chúa. Vấn đề là anh đã không đủ can đảm để theo Chúa cho đến cùng đường, vì anh thấy sẽ phải trả một giá quá đắt. Đó là phản ứng chung của con người khi được kêu gọi để làm chứng cho Chúa Kitô.

Nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế tuy là khó; nhận mình là môn đệ Chúa đôi khi cũng khó; nhưng để sống đúng là môn đệ của Chúa Kitô, cả những lúc gặp chống đối, đó mới thực sự là khó, vì điều này đòi chúng ta phải nên giống Chúa Kitô, Đấng là dấu chỉ của sự chống đối.

“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta.” Đó là điều kiện của những người muốn theo Chúa, vì những ai muốn theo Chúa chắc chắn sẽ bị thiệt thòi trước con mắt thế gian: “Nếu các con thuộc về thế gian, thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng các con không thuộc về thế gian … nên thế gian ghét các con” (Jn 15:19). Và quả thật, nhiều người Công Giáo vì sợ bị ghen ghét cười chê, nên không còn dám nhận mình là người Công Giáo, hay khi có nhận, thì đôi khi lại thêm câu: “nhưng mà tôi không tin những chuyện đó.” Nhiều người cảm thấy là nếu nói mình tin mọi điều Chúa và Giáo Hội dậy, thì mình sẽ bị coi là người ngu dại, mê tín.

Ngày 19 tháng Giêng vừa qua, cảnh sát tìm thấy xác cô Ashley Wilson trong một apartment tại Houston. Sau cuộc khám nghiệm, người ta kết luận là cô đã tự tử, và cuộc điều tra đã kết thúc. Nhưng đầu tháng 3 vừa qua, sau khi Dan Leach xem cuốn phim “The Passion of the Christ”, anh đã nhận ra là để được ơn cứu rỗi và tìm lại sự bình an cho tâm hồn, anh phải tự thú là đã giết cô Ashley Wilson và sẵn sàng lãnh chịu hình phạt. Nếu bị kết án, có thể anh sẽ phải lãnh án tù chung thân. Có thể có những người coi anh là dại khờ, nhưng anh Dan Leach lại coi đó là điều đáng làm.

Bỏ mình! Vác thập giá! Tự nhiên không ai thích, nhưng đó lại là con đường Chúa Giêsu đã đi qua để đem lại ơn cứu chuộc cho chúng ta, và vì thế, đó cũng là con đường chúng ta cần đi qua để giải thoát lòng chúng ta khỏi những đam mê thế gian, thắng dẹp tội lỗi, và cùng được phục sinh và hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa. Đó là lý do cho lời Chúa phán: “Kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó; còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình.”

CHẤP NHẬN THẬP GIÁ

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng 6/18/2013

Chúa Nhật XII THƯỜNG NIÊN NĂM C

Khởi đi từ ý thức của thánh Phêrô, cũng là đại diện cho tông đồ đoàn: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” dành cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các con bảo Thầy là ai?”, Chúa Giêsu dẫn dắt các ông đến một mạc khải hay cũng là một thử thách quan trọng, đòi các ông phải dấn thân nhiều hơn cho đức tin. Vì “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, không phải là Đấng “ăn trên, ngồi trước”, nhưng sẽ là Đấng hạ mình chết cho anh em, vì anh em. Đấng “phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”.

Và sau khi mạc khải về thập giá của Chúa, Chúa lại mời gọi chúng ta vác thập giá của chính chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình”.

Dù đã mạnh mẽ xác quyết “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”, tông đồ Phêrô vẫn có những va vấp trong cuộc đời theo Chúa của mình. Nhất là khi trực diện với thập giá, thánh Phêrô đã không thể đón nhận ngay, nhưng đã tìm cách thoái thác, tìm cách chạy trốn, dù cuộc chạy trốn ấy có phải chối Thầy đi nữa. Bởi đó, chúng ta càng nhận ra, không dễ gì một sớm một chiều, ta có thể dễ dàng chấp nhận thập giá.

Tuy nhiên, sau khi biết mình yếu đuối, thánh Phêrô đã vùng đứng lên và đứng trên những va vấp ấy. Từ sau khi Chúa về trời, thánh Phêrô không chỉ xác quyết bằng lời, mà còn bằng cả một đời còn lại của mình cách kiên trung, sống chết cho niềm tin lớn lao về “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Nếu Thầy đã từng chấp nhận thập giá, thánh nhân cũng đã nghe theo lời mời gọi của Thầy, trung thành vác thập giá đời mình. Vì thế, Thánh nhân trở thành chứng nhân xuất sắc, một chứng nhân tuyệt vời của Chúa.

Chúng ta là môn đệ mới của Chúa Kitô, được Chúa mời gọi làm chứng về Tin Mừng Thập Giá của Chúa trong thời đại mới. Người cũng lặp lại với chúng ta chính lời hỏi mà Người đã hỏi các tông đồ xưa: Các con bảo Thầy là ai?”. Dù không tuyên bố thành lời, bạn và tôi chắc đã từng xác quyết như thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”, để với cùng một niềm xác tín ấy của tông đồ Phêrô, chúng ta chấp nhận thập giá trong đời mình, và kiên trung bước theo Chúa.

Mang phận người hèn yếu, chắc chắn những người bước theo Chúa vẫn có những lần vấp ngã. Nhưng chúng ta hãy học nơi tấm gương tông đồ Phêrô, nơi tấm gương của biết bao nhiêu vị thánh trong lịch sử Hội Thánh, và nhiều tấm gương sáng chói của nhiều anh chị em đang sống quanh ta, nhờ đó, ta vững vàng hơn trong chọn lựa theo Chúa của mình.

Hãy nhớ: Khi đối diện với thử thách, đừng quên xác tín vào Chúa Kitô. Nhờ xác tín từng giây phút trong đời mình, bạn và tôi bắt gặp nơi khuôn mặt “Đấng Kitô của Thiên Chúa” không phải là khuôn mặt của một người vô cảm, chỉ tính toán ích kỷ cho bản thân, vụ lợi cho phe nhóm mình, nhưng là khuôn mặt của một Thiên Chúa hóa thân làm người, luôn luôn yêu thương, thông cảm, tha thứ và chấp nhận thập giá vì con người và cho con người. Nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô như thế, chúng ta sẽ mạnh mẽ, bền bỉ và bình an, chấp nhận thập giá đời mình, bước theo Chúa. Bởi chỉ có con đường theo Chúa qua thập giá, mới có con đường cùng Chúa tiến vào vinh quang phục sinh.

Sau này, tông đồ Phaolô cũng đã từng dạy Giám mục Timôtê: “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài” (2Tm 2, 11). Người môn đệ của Chúa Kitô phải là người hoàn thành xuất sắc thập giá đời mình. Bởi thân phận người Kitô hữu gắn liền với Thầy, vì thế, không thể nào tách khỏi con đường Thầy đã đi, mà lại có thể trở nên giống Thầy, cùng sống trong sự sống của Thầy!

Vì thế, mỗi người chúng ta hãy tự nguyện bước theo Chúa, hãy vui lòng vác thập giá đời mình, hãy tín thác vào sự cứu độ quyền năng của Chúa. Nhờ đó, Chúng ta hoàn thành tốt nhất sứ mạng người môn đệ đã biết bỏ mình, đã biết vác thập giá đời mình theo Chúa.

BỎ MÌNH ĐỂ ĐI THEO CHÚA GIÊSU CÁCH TRỌN VẸN

Jos.Vinc. Ngọc Biển 6/17/2013

Chúa Nhật XII Thường Niên, năm C

Trong đời sống thường ngày, có nhiều tiếng gọi. Có những tiếng gọi xuất phát từ người khác, cũng có những tiếng gọi khởi đi từ chính ta. Khi nghe và gọi người khác như thế, hẳn giữa người lên tiếng và người lắng nghe đều muốn đi vào sự hiện hữu của nhau qua tiếng gọi và lời đáp trả.

Hôm nay, Đức Giêsu cũng cất tiếng gọi các môn đệ. Ngài gọi các ông không phải để nhờ các ông làm một việc gì đó cho mình, cũng không phải để thông tri với các ông một sự kiện, biến cố nào đó. Nhưng Ngài gọi các ông đi theo Ngài trên chính con đường mà Ngài đang đi; đồng thời trao phó cho các ông sứ vụ đến với muôn dân để đem ơn cứu độ đến tận cùng trái đất. Con đường đó là “hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”. Đáp lại lời mời gọi và đi theo Đức Giêsu là đi vào mối tương quan của sự hiện hữu với Ngài trong nhiệm cục cứu độ.

Lời mời gọi đi theo và từ bỏ mình là hai yếu tố đặc trưng của Đức Giêsu khi gọi bất cứ ai đi theo Ngài.

1-Căn tính của Đức Giêsu

Khi đọc Tin Mừng, chúng ta thường thấy những câu hỏi về danh tính của Đức Giêsu. Những câu hỏi ấy khởi đi từ Gioan Tẩy Giả (x. Lc 7,19); những người Pharisêu; dân chúng (x. Lc 7,49); và ngay cả với các môn đệ (x. Lc 8,25); cuối cùng là chính vua Hêrôđê: ông cũng muốn gặp Đức Giêsu để thoả tính hiếu tri của mình khi nghe người ta nói về Con Người lạ lùng này. Những câu hỏi của mọi người về Đức Giêsu đôi khi đã được gián tiếp trả lời.

Tuy nhiên, hôm nay, Đức Giêsu đã đích thân hỏi các môn đệ về những lời bàn tán của dân chúng về Ngài: “Dân chúng bảo Thầy là ai?” Khi các ông nói cho Ngài biết những nhận định của dân chúng về Ngài, nào là: một vị tiên tri vĩ đại; là Gioan Tẩy Giả; Tiên tri Êlia hoặc một tiên tri ngày xưa sống lại!

Khi nghe các môn đệ thuật lại như thế, Đức Giêsu đi đến một bước tiếp theo và trực tiếp nhắm vào các môn đệ, Ngài hỏi: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?”, Phêrô đã nhanh nhảu thay mặt cho anh em trả lời: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.” Như vậy, căn tính của Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Một hiện thân của Thiên Chúa giữa dân của Người. Khi các môn đệ đã xác định căn tính của Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, lúc đó Ngài bắt đầu lên tiếng mời gọi các ông đi theo Ngài.

2-Đức Giêsu gọi các môn đệ để làm gì và đi đâu?

Ngài gọi họ để Ngài huấn luyện họ thành những người thừa kế và trao cho họ sứ vụ là quy tụ muôn dân trở thành môn đệ. Nhưng có lẽ, trước mắt các ông và trong tâm tưởng, các ông vẫn nghĩ Đức Giêsu sẽ là vua, một vị vua đánh đông dẹp bắc, một vị vua đem lại hoà bình cho dân tộc, đánh đổ chế độ đô hộ của đế quốc Rôma. Khi đã thành công, các ông chắc chắn sẽ nắm được những vị thế cao trọng trong triều đình. Nhưng chớ trêu thay, Đức Giêsu lại là một vị vua quá đỗi lạ lùng. Quả thật, hôm nay Ngài làm cho các ông ngỡ ngàng khi loan báo về một cuộc thương khó mà chính Ngài sẽ trải qua: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại.” Khi mạc khải cho các ông như thế, Đức Giêsu âm thầm nhắc cho các môn đệ của mình biết được rằng: con đường giải thoát của Ngài là con đường tình yêu chứ không phải con đường bạo lực; con đường của tha thứ chứ không phải con đường của hận thù; con đường của từ bỏ chứ không phải con đường theo ý riêng; con đường của thương khó, tử nạn và phục sinh; con đường của bất bạo động chứ không phải con đường của quyền lực hay bạo tàn.

Tắt một lời, con đường đó chính là con đường của mầu nhiệm tự huỷ, chết cho người khác được sống và sống dồi dào. Khi Đức Giêsu đã mạc khải cho các môn đệ biết con đường mà Ngài sẽ đi như thế, Ngài cũng mời gọi họ bước theo Ngài trên chính con đường mà Ngài đã, đang và sẽ đi. Tuy nhiên, muốn bước đi theo Đức Giêsu trên hành trình đó, đòi hỏi người môn đệ phải có những điều kiện căn bản phù hợp với đặc tính của lời mời gọi này.

3-Điều kiện cần để đi theo Đức Giêsu

Khi mặt giáp mặt, lòng hiểu lòng, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Ai muốn theo Ta?” Khi hỏi các môn đệ như thế, Đức Giêsu muốn các ông bước đi trong tinh thần thanh thoát nhẹ nhàng chứ không phải vì nặng nề; tự do chứ không phải ép buộc. Một lời mời gọi rất thân tình, làm cho người được mời gọi cảm thấy an vui, bình an và hạnh phúc khi tự mình quyết định lựa chọn lối sống theo tinh thần Tin Mừng. Thật thế, con đường mà Đức Giêsu muốn cho môn sinh của mình đi không phải là con đường nhung lụa, thênh thang, cũng không phải con đường dễ dãi, bằng phẳng, mà là con đường hẹp, gồ ghề và chông gai. Con đường đó là con đường của từ bỏ: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình.” (Lc 16,24). Từ bỏ chính mình là một điều khó. Khó vì nhiều lý do. Ai sinh ra trên trần gian này đều là một cá thể riêng biệt, độc đáo, không ai giống ai. Ai cũng muốn khẳng định tôi là tôi chứ không phải ai khác. Khi khẳng định như thế, chủ thể tôi cũng muốn xác định lập trường của mình rằng: không ai có quyền lấy đi hay bắt buộc tôi phải từ bỏ những ý định riêng tư mang tính cá biệt của chính tôi. Xét theo tâm lý học hay triết học thì đây phải chăng là một đòi hỏi vô lý và một lựa chọn tiêu cực. Nhưng với người môn đệ của Đức Giêsu thì khác! Theo Chúa và từ bỏ ý riêng không có nghĩa là đánh mất mình; nhưng còn được tất cả. Hay nói cách khác, từ bỏ mình để kết hợp hay tháp nhập vào với Chúa là trở về với chính mình cách trọn vẹn nhất. Bởi vì ngay từ đầu, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, nay ta tháp nhập với Ngài, thì ta trở về với chính nguồn cội nơi ta phát xuất ta. Được như thế là ta trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.

Từ bỏ chính mình cũng là thể hiện một sự dấn thân cách trọn vẹn. Nếu theo Đức Giêsu, từ bỏ nhiều thứ mà chưa từ bỏ chính mình thì kể như chưa bỏ gì cả. Từ bỏ chính mình là thể hiện sự quyết tâm, sự hy sinh để sống triệt để cho đức vâng lời.

Tuy nhiên, nếu chỉ có từ bỏ mình thôi thì chưa đủ. Nếu một người chỉ lo việc Chúa mà không lo chu toàn bổn phận hằng ngày của mình thì theo Chúa cách chưa trọn vẹn. Theo Chúa cách trung thành và trọn vẹn là phải bỏ ý riêng, phải chu toàn bổn phận, phải vác thập giá của mình hằng ngày mà theo nữa. Chính Đức Giêsu đã nói: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” (x. Lc 9,22-23).

4-Người Kitô hữu là người được gọi và bước theo Đức Giêsu

Mỗi người Kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên giống Đức Giêsu và được mời gọi đi theo Ngài trên con đường mà chính Ngài đã đi. Muốn đi theo Chúa, chúng ta cũng không thể nào mang trên mình và trong tâm trí nhưng thứ cồng kềnh được. Những thứ đó là: quyền lực; tiền bạc; danh lợi; ý riêng; tự kiêu; bảo thủ… Bao lâu ta còn luyến tiếc những thứ đó, thì bấy lâu ta đặt ý ta hơn ý Thiên Chúa, và ta không thể nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa để thi hành. Cũng thế, khi chúng ta trở thành những kẻ kiêu ngạo, chúng ta dễ rơi vào sự ngộ nhận mình là “cái rốn của vũ trụ”, khi ấy Lời Chúa sẽ bị chết nghẹt vì không thể bén rễ sâu trong tâm hồn ta được.

Vì thế, khi mặc lấy Đức Giêsu tức là ta trở nên giống Ngài. Nên giống Ngài là gì nếu không phải là từ bỏ ý riêng của mình để thay vào đó là ý Chúa như Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa Cha đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Mặc lấy Đức Giêsu cũng là lúc phải ra khỏi những định kiến riêng tư để biết cảm thông và có tinh thần phục vụ như Đức Giêsu khi xưa bằng một tình yêu hy hiến trong tình huynh đệ.

Nếu từ bỏ chính mình là thể hiện một sự quyết tâm, sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, thì vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa chính là đón nhận mọi thử thách, chết cho thế gian, để chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. Vác thập giá hằng ngày chính là chu toàn chính bổn phận của mình cách trung thành và hợp lý.

Trong thực tế, có rất nhiều người làm nhiều việc cho công ích xã hội và Giáo Hội. Ở đâu cần là họ sẵn sàng xả thân giúp đỡ người anh em, bất luận trời nắng hay mưa. Thế nhưng, trớ trêu thay, cũng chính những người đó, khi lo cho mọi người thì rất tốt và chu đáo, nhưng việc gia đình, bổn phận của mình thì lại là một người cẩu thả, bê bối. Có những người chỉ thích vác thánh giá cho cả làng, còn thánh giá của mình thì đặt lên vai lên cổ người khác và bắt họ vác thay. Thiết nghĩ, những người như thế, Chúa sẽ không vui, và những ai phải ở với những người đó thì thật là một khổ hình.

Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, mỗi chúng ta xác định thật rõ căn tính của mình là thuộc về Đức Giêsu, một Đức Giêsu đã từ bỏ ý riêng, để sống cho Thiên Chúa và yêu thương con người cách trọn vẹn qua cái chết và phục sinh của Ngài. Con đường của Đức Giêsu đã đi là con đường hẹp; con đường của hy sinh; con đường của khổ giá. Nhưng con đường đó đã đem lại cho Đức Giêsu một vinh dự lớn lao, để “khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: ‘Đức Giêsu Kitô là Chúa’” (Pl 2,5-11).

Đến lượt chúng ta là những người mang trong mình hình ảnh, tâm tư của Đức Giêsu, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường từ bỏ, tự huỷ để đón nhận thập giá hằng ngày và chu toàn bổn phận cách trung thành để chỉ sống cho Thiên Chúa cách trọn vẹn và yêu thương anh chị em đồng loại bằng một tình yêu của Chúa. Như thế, chúng ta chính là quà tặng dâng cho Thiên Chúa và trao cho mọi người.

Thiết tưởng lời nói của Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu khi xưa cũng chính là tâm tình của mỗi chúng ta: “Trong Giáo Hội, con sẽ là tình yêu.”

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết tìm thánh ý Chúa, và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Biết đi theo Chúa trên con đường mà chính Chúa đã đi, biết chu toàn bổn phận theo đấng bậc và vai trò của mình. Biết làm mọi việc tầm thường cách phi thường bằng con đường “tình yêu”. Amen.

THIÊN CHÚA CÓ MỘT KHỐI TÌNH

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng 6/22/2013

Tin Mừng theo thánh Gioan đã từng ghi nhận hình ảnh lưỡi đòng đâm thấu Trái Tim Chúa Giêsu: “Một người lính lấy giáo ĐÂM CẠNH SƯỜN NGƯỜI. Tức thì, MÁU CÙNG NƯỚC CHẢY RA. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19, 34-35).

Thiên Chúa có một Trái Tim. Nơi Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu, Trái Tim Thiên Chúa đã thổn thức, đã bị xâu xé, đã tổn thương, đã đớn đau vì tội lỗi trần thế. Nơi Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu, một Trái Tim thể lý bằng thịt mềm, đã lột tả đến cao độ, đến vô cùng, khối tình và sự hiến dâng chính mình của Thiên Chúa vì cả trần thế và từng con người nơi trần thế.

Thiên Chúa đã để Con của Người chết cho loài người sống. Thiên Chúa đã tự nguyện hiến dâng mình cho loài người bằng chính sự đau đớn của Người nơi Trái Tim đã thương tích của Chúa Giêsu.

I-TRÁI TIM Thiên Chúa:

1.Một trái tim yêu lạ thường.

Đó là một trái tim bốc lửa yêu thương. Yêu đến vô cùng. Yêu đến quên mình. Yêu đến cạn kiệt tấm thân. Yêu đến hiến tế chính mình. Chúa Giêsu diễn tả tình yêu cao độ ấy, một tình yêu ngút ngàn, một tình yêu vô biên vô cương bằng một câu đơn sơ nhưng thấm thía: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

“Yêu đến nỗi…” “đã ban”, là một tình yêu hết mức. Chẳng hạn, một lần nào, ta chạm phải nỗi đau. Để diễn tả sự đau đớn trong ta là vô cùng, ta thốt lên, “tôi đau đến nỗi…”. Cũng vậy, động từ “yêu đến nỗi…” nơi Thiên Chúa, là động từ mạnh mẽ, khắc ghi sâu thẳm, cưu mang và trao ban đến không còn gì giữ lại cho mình.

Thiên Chúa yêu chúng ta bằng một tình yêu mà muôn đời chúng ta không thể hiểu nỗi. Người yêu đến nỗi hiến mình nơi Con của Người vì ta. Người thổn thức vì Trái Tim người ắp đầy hình bóng từng người chúng ta. Một Trái Tim chất chứa một tình yêu lớn lao đến mức, không bao giờ loại trừ bất cứ cá nhân nào, mà chỉ luôn luôn đón nhận, chỉ một lòng mong muốn được loài người đón nhận, dù loài người đầy bội phản, đầy tội lỗi và tội ác, không ngừng xúc phạm đến Người, đến Trái Tim của Người. Đó cũng là một tình yêu lạ lùng đến mức Thiên Chúa tự nguyện đi bước trước để yêu ta, để dâng tặng chính mình Người cho ta, một tình yêu lạ lùng đã khiến thánh Gioan tông đồ reo lên: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4, 10). Thánh Phaolô cũng ca ngợi tình yêu vô điều kiện của Chúa, một tình yêu hiến mình cho kẻ nghịch với mình: “Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ Máu Đức Kitô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa” (Rm 5, 5-9).

Một trong những lần hiện ra với thánh nữ Maria Margarita Alacoque (1647-1690), Chúa Giêsu đã mở Trái Tim Người để thánh nữ chứng kiến. Người thốt lên những lời thổn thức: “Hãy nhìn xem Trái Tim này, Trái Tim yêu thương con người qúa sức đến không tiếc sự gì cho đến tiêu hao kiệt quệ. Phải đền tạ Trái Tim Thánh vì những xúc phạm của loài người. Cha hứa với con rằng Trái Tim sẽ rộng mở để tràn đổ muôn vàn ơn phúc trên những kẻ tôn kính Trái Tim Cha”.

2-Một Trái Tim ấp ủ tâm tư hiến tế.

Thánh Phaolô đã từng mời gọi: “Anh em hãy có nơi anh em tâm tư như đã có trong Đức Kitô Giêsu” (Phil 2,5). Nhưng tâm tư của Chúa là tâm tư nào? Ngay sau lời mời gọi này, thánh nhân lập tức cho thấy “tâm tư như đã có trong Đức Kitô Giêsu” là TÂM TƯ HIẾN TẾ: “Ðức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Phil 2, 6-8). Sự tự hy sinh của Chúa Giêsu là sự tự hiến tế. Nhưng sự tự hiến tế ấy là chính tình yêu cao cả của Thiên Chúa, đã chấp nhận hiến tế mình nơi chính cuộc hiến tế đớn đau của Chúa Giêsu.

Tin Mừng nhiều lần cho thấy Chúa nhắc đến hiến tế của Người. Qua đó, ta thấy được hình ảnh luôn mang trong tâm tư của Chúa là hình ảnh hiến tế để cứu chuộc:

– Khi hiến mình thành tấm bánh cho ta, Chúa Giêsu khẳng định: “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì các con” (Lc 22, 20).

– Khi diễn tả cái chết hy sinh để mang ơn cứu độ, Chúa Giêsu khẳng định: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24).

– Trong bữa tiệc ly, khi từ giả các môn đệ để vào tử nạn, Chúa Giêsu khẳng định: “Đã đến giờ Con Người được vinh quang” (Ga 12, 23).

– Cũng trong giờ ly biệt, Chúa Giêsu khẳng định cái chết trên thập giá là cái chết đưa loài người quy về một mối của ơn cứu độ: “Khi Thầy chịu treo lên khỏi mặt đất, Thầy sẽ kéo mọi người lên với Thầy” (Ga 12, 32).

– Ngay trong cơn hấp hối để đón nhận quyết định hiến dâng trọn vẹn đời mình, Chúa Giêsu đã thổn thức cầu nguyện: “Lạy Cha, xin cho Con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mc 14, 36).

Còn nhiều những lời diễn tả sự hiến dâng của Chúa Giêsu cho trần gian. Tâm tư của Chúa là tâm tư chứa đầy ý thức hiến tế mà Chúa vẫn và sẽ thực hiện suốt đời trần thế. Bởi nếu một đời làm người, Chúa Giêsu luôn ấp ủ và ý thức mình là Đấng cứu độ trần gian theo ý Thiên Chúa, thì một đời ấy, là một đời Chúa hiến tế. Nếu sự tự hiến tế của Chúa chỉ đột nhiên xảy ra, nghĩa là không hề có trước trong tâm tư của Người, thì sự tự hiến tế ấy đã là giá trị, đã là quý báu, đã là tình yêu lớn. Nhưng nếu sự tự hiến tế ấy chất chứa đầy trong tâm tư của Chúa, mà Chúa ấp ủ hết mọi ngày trong đời sống, thì cuộc hiến tế của Chúa quả thật lớn lao, và lớn đến vô cùng không thể kể xiết. Bởi tâm tư hiến tế ngày qua ngày cũng chính là Chúa chấp nhận chết từng ngày cho ta. Thánh giá của Chúa, thánh giá mà Người chấp nhận tự hiến mình, là thánh giá một đời của Chúa. Vì thế, thánh giá trên đồi tử nạn chỉ là chặn cuối, là cao trào của cuộc hiến tế mà Chúa ấp ủ trong tâm tư Người. Như thế, tâm tư ấy, phải là tâm tư mà Chúa quyết đi đến cùng để tự hiến mình cho trần gian.

Và nếu Thiên Chúa hiến tế chính mình nơi Chúa Giêsu, thì trong Chúa Giêsu, một khi chất chứa đầy tâm tư tự hiến tế qua hết mọi thời gian, cũng có nghĩa là Thiên Chúa tự hiến tế chính mình cho trần gian, không phải một lúc nào, nhưng là sự tự hiến tế qua hết mọi thời gian.

Thiên Chúa đã ôm lấy tâm tư hiến tế ấy từ đời đời, khi Người quyết định cứu chuộc trần gian. Người đã thật sự tự hiến tế mình, khi Chúa Giêsu nhập thể, bước vào trần gian, sống giữa trần gian, chấp nhận khổ đau và chết cho trần gian.

Nói cách khác, Trái Tim đầy yêu thương của Thiên Chúa, là một Trái Tim ấp ủ cuộc hiến tế chính mình từ muôn đời đến muôn đời. Tâm tư hiến tế ấy của Thiên Chúa đã thành hiện thực, hay Thiên Chúa đã thực sự hiến tế, một khi Thiên Chúa chấp nhận hiến tế Chúa Giêsu, Con Một duy nhất của Người. Hiến tế trong Con là một hiến tế dữ dội, là một sự tự hiến trọn vẹn, cao cả không còn điều gì lớn lao hơn, mạnh mẽ hơn. Chúng ta có kinh nghiệm này: Thà hy sinh chính mình. Nếu phải chứng kiến người mình yêu quý đớn đau trong hy sinh, lòng ta chắc chắn se thắt lại, đau đớn trong ta chắc chắn sẽ ghê gớm hơn.

Hiểu nỗi lòng của Thiên Chúa cách nhân hóa như thế, ta mới thấy Trái Tim hiến tế của Thiên Chúa không đơn giản chút nào. Nhờ đó, ta hiểu được sự đớn đau quằng quại của Thiên Chúa lớn đến mức độ nào khi chứng kiến Người Con của mình hy sinh trong hiến tế ấy. Người đau trong nỗi đau của Chúa Giêsu. Người khốn cùng trong sự khốn cùng của Chúa Giêsu. Người tan thương trong nỗi tan thương của Chúa Giêsu. Người chết lặng trong cái chết câm nín của Chúa Giêsu.

II-TRÁI TIM THIÊN CHÚA VỚI ĐỜI THÁNH HIẾN.

Nếu Trái Tim Thiên Chúa là một Trái Tim yêu đến lạ thường và là Trái Tim hằng ấp ủ tâm tư hiến tế, thì chúng ta cũng phải bắt chước Người mà yêu thương, mà chấp nhận hiến tế cho nhau, vì Chúa. Trong yêu thương đã là sự hiến tế vì nhau. Và trong sự tự hiến tế vì anh chị em mình hằng ngày, ta đã chứng tỏ tình yêu của ta đối với Chúa, như Chúa dạy:

“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34).

“Anh em hãy có nơi anh em tâm tư như đã có trong Đức Kitô Giêsu” (Phil 2,5).

Mang lấy tâm tư hiến tế của Chúa, chúng ta không còn biết sợ gì, chỉ một lòng tiến đến cùng trong lý tưởng dấn thân cho Chúa và cho nhau. Đó chính là tình yêu mà chúng ta có để thể hiện hiến tế đời mình, và trao ban chính mình cho anh chị em của ta.

Trái Tim Chúa vẫn hiện diện giữa chúng ta. Hãy nhìn vào Trái Tim yêu thương vô cùng của Chúa, để chúng ta học lấy bài học yêu thương từng ngày trong đời sống thánh hiến của mình. Yêu thương như Chúa, ta sẽ thực sự sống hiến tế như Chúa: Hiến tế một đời trong tâm tư và trong sự dâng hiến đời mình.

Hãy yêu như Chúa. Vì có yêu thương nhau như Chúa yêu, ta mới có thể cùng nhau vượt qua thử thách. Nhất là đời sống cộng đoàn, tình yêu càng không thể vắng bóng. Phải có tình yêu, cộng đoàn mới vững mạnh. Tình yêu là sức mạnh nền tảng của đời sống cộng đoàn. Không có tình yêu, đời sống cộng đoàn trở thành nhà tù giam nhau, vì ở đó chỉ toàn đố kỵ, ganh, ghét, oán, hận, giận, thù, xoi mói, nóng nảy, xích mích, thiếu tế nhị, thiếu quan tâm, thiếu tin tưởng, thiếu kính trọng, chia phe, lập đồng minh…

Có yêu thương nhau thì mới đón nhận nhau. Mối phúc thứ bảy, là mối phúc mà những ai sống đời sống cộng đoàn phải học thật kỹ: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5, 9). Đón nhận nhau cũng là cách ta thể hiện hiến tế đời ta để yêu bằng tình yêu cao thượng cho những người sống cùng ta. Nhất là đón nhận cả những anh chị em trái tính, trái nết, những người mà lời nói của họ sao cứ mặn, hành động của họ sao cứ cay, những tương quan mà họ biểu lộ ra ngoài sao cứ đắng… Đón nhận như thế là một phần đấu, nhưng đầy rát buốt. Đó thực là việc “xây dựng hòa bình”, nhất là “xây dựng hòa bình” trong chính cộng đoàn mình đang sống cách cao đẹp. Nhưng cũng thực là hiến tế trong tình yêu.

Có yêu nhau cuộc sống mới không nhạt nhẽo. Chính tình yêu là cách tốt nhất để thêm một chút mặn mà, một chút ngọt ngào cho đời dâng hiến của từng anh chị em chúng ta. Cứ suy nghĩ cho kỹ mà xem, tất cả chúng ta đây, đã bỏ tất cả: Cả quê nhà, cả những kỷ niệm đẹp của một thời đã qua nơi khung trời bình yên nào đó, cả bạn bè, cả cha mẹ, và mọi người thân yêu nhất… Đối với bản thân, ta cũng từ bỏ cả giây phút hiện tại để từng thời gian trôi qua, ta chỉ biết có đời sống dâng hiến. Ta cũng từ khước bao nhiêu ước mơ, từ khước cả tương lai đời mình, để chỉ sống có một ước mơ duy nhất: sống cho trọn vẹn ơn gọi hiến dâng. Có thể nói mà không sợ sai rằng, tất cả chúng ta đây đã từ bỏ chính mình, để chỉ còn vỏn vẹn một hy vọng: đêm ngày thuộc về Chúa. Vậy thì tại sao chúng ta không yêu nhau, hay không yêu nhau cho đủ. Chúng ta có còn gì, có còn ai ngoài những anh chị em đang sống với ta, đang từng ngày sớt chia với ta lý tưởng ơn gọi tận hiến? Anh chị em đang cùng chung sống với ta hôm nay là chính cha mẹ, là chính anh em ruột thịt, là chính quê hương, là chính ước mơ, là chính ngôi nhà đầy ắp tiếng cười thơ dại của tuổi thơ trong ký ức đời ta… Hôm nay, chính giây phút này, những con người này hiểu ta hơn cha mẹ ta hiểu ta. Khi ta vui, khi ta cất lên tiếng hát, hay khi ta mất bình an, khi ta đau ốm, khi ta không còn biết dựa vào ai…, họ biết, họ thấy, họ cảm thông, họ cùng khóc, họ cùng cười với ta trước khi mọi người thân yêu ruột thịt của ta có thể nghe, có thể biết… Vậy thì vì lý do gì, ta còn đố kỵ, còn chưa thể thân thiện, chưa thể hòa vào vòng tay của người đang sống bên ta, đang hiện diện và làm việc với ta trong chính nơi đây, trong chính cộng đoàn này? Cuộc sống chung mà không có yêu thương là cuộc sống địa ngục. Nó sẽ gây nên không biết bao nhiêu nhạt nhẽo, bạc bẽo và đổ vỡ.

Có yêu thương nhau, mới có thể đi đến cùng trong đời tu. Cá nhân hay tập thể đều cần đến tình yêu. Thiếu tình yêu của từng cá nhân, cộng đoàn tu trì tan rã. Thiếu tình yêu làm nền tảng trong một cộng đoàn tu trì, từng cá nhân sẽ thấy mình như bị bách hại, bị ngược đãi. Tình yêu cũng là phương thế hữu hiệu nâng đỡ đời tu. Vì thế, từng cá nhân trong cộng đoàn tu trì hãy yêu, và hãy chân thành đón nhận tình yêu để ơn gọi của mình được triển nở, được lớn lên và bền vững. Không biết yêu, và cũng không đón nhận tình yêu, sẽ là một tổn thương lớn đến chính ơn gọi của mình, nếu không muốn nói là tự triệt tiêu ơn gọi đời mình.

Có yêu thương nhau, mọi công việc đạo đức mới không giả tạo, không vô hồn. Hằng ngày, từ khi trời còn chưa sáng cho tới khi tối mịt, chúng ta hiện diện bên nhau bao nhiêu lần để cầu nguyện, để chầu Mình Thánh Chúa, để dâng thánh lễ, để chiêm ngắm Chúa, để suy niệm, để nói và nghe về tình yêu của Chúa… Ngay cả khi làm việc, học tập, nghỉ ngơi, ăn uống… ta đều đặt mình sống trong Chúa. Vậy mà cõi lòng mình vẫn còn đó những ý nghĩ chưa phù hợp với tình yêu, chưa xứng đáng với lòng mong mỏi của Chúa là hãy yêu như Chúa? Chúa không ưa lối sống giả tạo. Trong Tin Mừng, nhiều lần Chúa lên án thói đạo đức giả. Người đòi phải trả lại thế gian những gì là thói của thế gian, và phải“trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” (Mt 22, 21). Chúa căn dặn các môn đệ: “Các con hãy coi chừng men biệt phái, tức là thói đạo đức giả” (Lc 12, 1). Chúa thẳng thừng lên án thói đạo đức giả: “Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong là giả hình và gian ác”(Mt 23, 27-28; Lc 11, 44). Hãy cố gắng yêu. Yêu để sự giả tạo không thể len lỏi vào đời tu của cá nhân và vào đời sống chung của cộng đoàn. Nếu chưa thể yêu như Chúa, thì hãy yêu vì Chúa dạy yêu, để các việc đạo đức của từng người bớt giả tạo, nhưng thánh thiện hơn, có hồn hơn.

Có yêu thương nhau thì mới có thể cùng nhau loan truyền tình yêu của Chúa hiệu quả, và làm chứng cho tình yêu ấy cách đúng nghĩa nhất, chân thành nhất, cao đẹp nhất và thực tế nhất. Nếu không biết yêu thương, chúng ta lại đi nói về Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, thì có khác gì chiếc loa phóng thanh: to tiếng nhưng trống rỗng. Có yêu, mới có thể cảm nghiệm tình yêu. Khi đã cảm nghiệm tình yêu, mới có thể nói chính xác về tình yêu.

Có yêu mới có thể giữ được tình hiệp nhất trong cộng đoàn. Chúng ta hãy lắng nghe lới thánh Phaolô dạy: “Tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại ; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4, 1-6). Tình hiệp nhất là quý giá, vì nó là thành tố chứng minh chúng ta hoàn toàn thuộc về Chúa Kitô. Bởi Chúa Kitô không có mong muốn nào khác ngoài mong muốn con người hãy yêu nhau, sống hiệp nhất với nhau. Mong muốn của Chúa muôn đời vẫn là: “Tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con. Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con”(Ga 17, 21-23). Tình hiệp nhất còn cho thấy cộng đoàn mà mình đang hiện diện, là cộng đoàn thể hiện giá trị chân chính của đời tu. Nó là cơ sở mà nhiều người nhìn vào để phê phán hay khen ngợi, để học tập hay hay giễu cợt chúng ta. Thậm chí người ta sẽ nhìn vào tình hiệp nhất của một cộng đoàn tu trì để lượng giá, cả đến bôi nhọ Hội Thánh. Vì thế, hiểu được tầm quang trọng của tình yêu hiệp nhất, bằng mọi giá, mỗi cá nhân phải thực hiện cho bằng được tình yêu hiệp nhất giữa cộng đoàn của mình, cho dù có phải hy sinh bản thân, hy sinh tất cả những gì tư riêng của bản thân. Đó chính là sống hiến tế để mưu cầu tình yêu.

Có yêu thương nhau thì mới đến được với người nghèo, người khổ đau, người bệnh tật, người thiếu thốn bình an. Không yêu thương, sẽ là một phản chứng cho việc chúng ta sống bác ái. Người ta không thể hiểu nổi, một người ra sức làm việc bác ái mà lại không thể tìm thấy tình yêu nội tại nơi chính bản thân người ấy. Hơn nữa, nếu không yêu thương, làm sao có thể cúi xuống, làm sao có thể cảm thông với tất cả mọi anh chị em cơ nhở. Yêu phải là điều kiện tiên quyết cho việc chúng ta dấn thân cho anh chị em đau khổ quanh mình.

Có yêu nhau mới dám cùng nhau chấp nhận cái chết để minh chứng cho mọi người biết mình đã tin vào Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng ta không ước ao chết, không đi tìm cái chết. Nhưng khi cần để vinh danh Thiên Chúa, vinh danh Hội Thánh, vinh danh lý tưởng ơn gọi đời mình, và vì anh chị em, chúng ta can đảm đón nhận cái chết như Chúa Giêsu chết vì chúng ta. Bởi yêu nhau và dám chết cho nhau, mới là người đáng tin. Khi đó, mọi người càng nhận ra chúng ta tin và nên giống Đấng Cứu Chuộc mình.

Tình yêu là cốt lõi của Tin Mừng, là sự thúc đẩy Thiên Chúa hiến thân vì con người, thì tình yêu cũng là điểm quan trọng nhất của đời sống chung. Khi yêu nhau, ta làm toát lên vẻ đẹp của mình, khơi gợi cho con người niềm hy vọng và xác tín mạnh mẽ vào Đấng đã yêu thương chúng ta trước. Và như thế, “mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Khi yêu như thế, ta cũng được ở lại trong Chúa và Chúa ở trong ta. Bởi vì, “Thiên Chúa là Tình Yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16).

Tình yêu mà chúng ta dành cho nhau là sự hiến tế mỗi ngày chúng ta sống vì Chúa. Và sống hiến tế mỗi ngày trong cộng đoàn, nơi từng anh chị em, hay bất cứ con người nào Chúa ban cho mình, cũng đều là chính tình yêu chúng ta trao dâng về Chúa.

Hãy yêu như Chúa. Hãy hiến tế vì Chúa. Có như thế, chúng ta mới đích thực là người mang tình yêu trao dâng cho nhau và hiến tế vì nhau.

Trái Tim Thiên Chúa đẹp lạ thường, đẹp đến nỗi, bút không thể ghi, đá không thể tạc, vì Trái Tim ấy có một sức mạnh thu hút diệu kỳ nhờ tình yêu lạ thường và sự tự hiến tế mãnh liệt. Trái Tim yêu thúc đẩy Trái Tim tự hiến tế. Trái Tim hiến tế thực là bằng chứng về một Trái Tim yêu vượt mọi thời gian, vượt trên tội lỗi, vươn đến tận cùng và mạnh mẽ công phá mọi rào cản của bóng tối hận thù, tàn ác, giết chóc… Sức mạnh và vẻ đẹp diệu kỳ của Trái Tim mãi muôn đời chiếu rọi trên từng người chúng ta và mời gọi chúng ta tiếp tục phân phát sức mạnh và vẻ đẹp ấy bằng chính tình yêu chấp nhận mọi hiến tế của từng người chúng ta.

Ngày 19.6.2013, tròn 25 năm ngày phong hiển thánh 117 vị tử đạo Việt Nam

DÂNG HIẾN LỄ

Lm Vũ Xuân Hạnh

Có lần trong một nhóm, gồm toàn những người trẻ, tôi đã đặt câu hỏi cho các bạn: “Trong thánh lễ, lúc nào là lúc cộng đoàn được nghỉ ngơi thoải mái?”. Hầu hết các bạn đều tròn xoe mắt ngạc nhiên nhìn tôi: Dự thánh lễ mà có chuyện nghỉ ngơi thoải mái à?

Nhưng rồi các bạn như hiểu ra trong lời hỏi của tôi có chứa ẩn ý, vài người đứng lên trả lời: “Thưa cha, đó chính là lúc linh mục giảng lễ”. Thói thường, ai cũng nghĩ như thế: Nếu không thích nghe giảng, thì bài giảng là lúc được nghỉ ngơi. Tệ hơn, rất nhiều người còn dám bỏ ra khỏi nhà thờ khi linh mục giảng.

Nhưng có một bạn trả lời: “Đó chính là lúc dâng lễ vật. Lúc đó linh mục nâng dĩa, nâng chén, đọc lâm râm như đọc thần chú, ca đoàn thì hát, chỉ có cộng đoàn là rãnh rỗi nhất, có muốn tham gia cũng không biết tham gia cách nào”. Rồi bạn bông đùa: “Nhưng tiếc là thời gian dâng lễ vật ngắn quá!”.

Tôi hơi bất ngờ với câu trả lời của bạn. Nhưng nghiệm lại, hình như… không sai?

Quả thật, lúc dâng lễ vật là lúc giáo dân nghỉ ngơi thoải mái nhất? Là lúc mà chỉ có ca đoàn và linh mục chủ tế cử hành?

Tôi không nghĩ thế. Tất cả những ai hiểu biết, chắc cũng sẽ đồng ý với tôi.

Vậy, vì sao khi dâng lễ vật, ngồi làm thinh mà lại không phải nghỉ ngơi?

Nhớ lại hành động và lời đọc của linh mục chủ tế trong phần phụng vụ này, ta sẽ tìm thấy câu trả lời. Cùng với việc nâng dĩa trên đó có bánh, nâng chén trong đó có rượu trên tay mình, linh mục đọc: “Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa màu ruộng đất (rượu này là sản phẩm từ cây nho) và công lao của con người. Xin dâng lên Chúa để bánh (rượu) này trở nên bánh trường sinh nuôi dưỡng chúng con (của uống thiêng liêng cho chúng con)”.

Hành động nâng dĩa và chén cùng lúc với lời nguyện ấy có nghĩa là gì, nếu không là hành động dâng hiến bánh rượu! Nhưng nếu dừng lại ở chỗ chỉ dâng hiến bánh rượu thôi, chưa là điều đáng nói. Bởi xét cho cùng, đó chỉ là một hành vi dâng lễ vật không đáng dâng: một chút rượu trong chén, một tấm bánh mỏng manh trên dĩa: quá tầm thường, quá nhỏ nhoi.

Nhưng đâu phải bất cứ cái gì nhỏ nhoi đều tầm thường! Hành động dâng hiến bánh rượu là để xin ơn thánh hiến. Dâng lên Chúa bánh rượu nhưng không chỉ là bánh rượu, mà là tất cả sức lao động, là sự oằn nặng, là nỗi nhọc nhằn của một đời người vất vả. Đâu phải nhỏ nhoi, đâu phải tầm thường.

Lời chúc tụng Chúa “đã ban cho chúng con bánh này là hoa màu ruộng đất, rượu này là sản phẩm từ cây nho” phải luôn luôn đi liền với cụm từ: “Và công lao của con người”. Sức mạnh của lời chúc tụng, của ơn thánh hiến là ở chỗ đó. Hoa màu ruộng đất không phải tự mình sản sinh kết quả. Nó chỉ có thể được sản sinh ra từ công lao của con người.

Cho nên trong sự dâng hiến lễ vật, tưởng chừng nhỏ nhoi, tầm thường, ta lại thấy những giọt mồ hôi của bác nông dân, óc sáng tạo của anh kỹ sư, sự miệt mài chế biến thành phẩm của cô công nhân…

Ta cũng thấy cả đôi tay chai sần của chính bản thân mình để có của ăn, của mặc. Ta cũng thấy nỗi vất vả của mẹ cha ngày nào tạo cho ta nên vóc, nên hình. Và ta thấy sự sống của cả nhân gian trong lễ vật hiến dâng…

Dâng lên Chúa lễ vật phàm trần, dẫu trước mắt mọi người, chỉ là một chút bánh, một chút rượu, nhẹ tênh trên đôi tay linh mục, lại chất chứa cả một khối đời của từng người trong nhân loại.

Bởi đó, dâng lên Chúa lễ vật để xin ơn thánh hiến, không chỉ là thánh hiến bánh rượu, nhưng trong sự thánh hiến bánh rượu, để trở nên Mình Máu Chúa Kitô, là tất cả cuộc đời của mỗi người, là sự sống của muôn người quanh ta cộng góp vào đó.

Vì thế, hành động và lời chúc tụng của linh mục, vô cùng ý nghĩa, rất gần gũi. Nó trở thành một lời cầu nguyện đáng yêu, đáng mến của từng người chúng ta: Chúc tụng Chúa đã ban kết quả của ruộng vườn và công lao của con người, để giờ đây hiến dâng lên Chúa, xin ơn thánh hiến trở thành Thánh Thể Chúa Kitô, lương thực trường sinh cho ta sự sống của chính Thiên Chúa.

Quí giá biết bao nhiêu khi bánh rượu, bé nhỏ vô cùng, lại trở nên Thịt Máu Chúa chúng ta.

Quí giá biết bao nhiêu khi hiến tế đời ta, lại được Chúa Kitô chấp nhận trong hiến tế cứu chuộc của Người.

Quí giá biết bao nhiêu vì lễ vật phàm trần lại có sức lôi kéo ơn thiêng từ trời và mang lại ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tin mà kết hợp với Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể.

Quí giá biết bao nhiêu vật chất trở nên linh thánh tuyệt vời.

Hiểu được như thế, mỗi lần dâng thánh lễ, bạn và tôi hãy dâng cả cuộc đời của mình, cả niềm đau và nỗi hạnh phúc, cả cái xấu và cái tốt, cả quá khứ đã qua, cả giây phút này, và tương lai phía trước… Dâng tất cả để hy tế cuộc đời ta nên trọn vẹn trong hiến tế cuộc đời Chúa Kitô.

Hiểu như thế, bạn và tôi sẽ không ai còn nói rằng: “lúc dâng lễ vật là lúc nghỉ ngơi thoải mái”.

Hiểu như thế, bạn và tôi sẽ nhận ra rằng, dẫu cho linh mục có đọc thầm lời cầu nguyện, dẫu cho ca đoàn cất cao tiếng hát, thì thái độ im lặng của chúng ta lại là một lời cầu nguyện chìm đắm trong sốt mến.

Sự thinh lặng của ta là sự thinh lặng thánh: Sự thinh lặng hòa cùng lời cầu nguyện của linh mục, sự thinh lặng hiệp cùng ca đoàn cất cao tiếng hát dâng hy tế của Chúa Kitô và và hy tế của chính cuộc đời mình.

Cha Francois Varillon từng kể rằng: Mỗi một lần chuẩn bị dâng thánh lễ, nếu có giờ, cha thường cầm trong tay một tấm bánh chưa truyền phép để chiêm ngắm tấm bánh ấy và suy gẫm cầu nguyện.

Mỗi lần như thế, cha đều thấy có hình ảnh của những con người trong đó. Trong thinh lặng của cõi lòng, cha cũng ước mơ đừng có ai vì miếng cơm manh áo, vì tấm bánh vật chất, mà trở thành kẻ bị tha hóa, bất chấp lương tri con người, để chỉ lo làm giàu bất chính mà quên vận mạng siêu nhiên của mình.

Không phải ai cũng có thể làm được như cha Francois Varillon. Không phải ai cũng có sẵn bánh trên tay để mà chiêm ngắm. Dẫu có, nhưng không phải ai cũng có thời gian đủ để mà thinh lặng. Nếu làm được điều đó là tốt. Chắc chắn thánh lễ ta dâng sẽ sốt sắng lắm.

Nhưng điều mà mọi người có thể thực hiện là: Hãy phó thác cuộc đời mình cho Chúa.  Hãy dâng thánh lễ nghiêm túc. Hãy siêng năng rước lấy Mình Thánh Chúa để làm tăng trưởng sự sống thần linh của mình.

Một lần nữa, để kết thúc những gì đã suy nghĩ, chúng ta cùng lặp lại lời nguyện của chính mình: Chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh và rượu là sảm phẩm từ ruộng đất và công lao của con người. Xin dâng lên Chúa để trở thành của ăn, của uống thiêng liêng cho chúng con.

THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn ĐộAntonius-Do300

Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật XII Năm – C

(Lc 9, 18-24)

Thầy là ai ? ” là câu hỏi do Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ về nguồn gốc của chính mình. Trong số người đương thời, có người cho là Giêsu thành Nagiaret sinh tại Bêlem, con bà Maria. Nhưng trong câu hỏi của Chúa Giêsu, hàm chứa lý lịch về mình thể hiện qua lời nói, dấu chỉ Người thực hiện. Qua đời sống công khải và sứ mạng của Chúa Giêsu, câu hỏi được đặt ra xoay quanh vấn đề Đức Kitô với vụ án: “Ông có phải là Đấng Kitô không ?

Câu chuyện trong bữa tiệc tại nhà ông Simon người Biệt phái, chúng ta nghe tuần trước. Simon cho rằng : “Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai… là một người tội lỗi” (Lc 7, 39). Nhận định của Simon cho thấy Chúa Giêsu có vấn đề tình cảm.

Còn hội thoại hôm nay, quen gọi là tuyên xưng đức tin miền Xêsarê, Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho các môn đệ  về chính mình : “Những đám đông dân chúng bảo Thầy là ai ? Các ông thưa rằng : Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa, đã sống lại” (Lc 9, 18-19). Giờ đây, chúng ta có thể đặt một câu hỏi tương tự và làm cuộc điều tra về Chúa Giêsu với mọi người. Mỗi người một ý kiến: kẻ này cho rằng Chúa Giêsu là một nhà khôn ngoan, người khác cho là một nhân vật hư cấu, v.v.

Chúa Giêsu không ngại khi hỏi các môn đệ về chính bản thân mình : “Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? ” (Lc 9, 20). Chúa yêu cầu họ tự xem, Người có vị trí nào trong đời sống của họ. Nhân danh cả nhóm, Phêrô trả lời : “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.”

Đấng Kitô của Thiên Chúa nghĩa là Đấng được xức dầu làm ngôn sứ và vương đế để trở thành mục tử chăn dắt Israel. Trên miệng của Phêrô, tước hiệu Đấng Kitô chứa đựng ý tưởng toàn năng. Các môn đệ nghĩ rằng Chúa Giêsu đến để tái lập Vương Quốc Israel, Người sẽ dùng quyền năng đánh đuổi quân Rôma, đưa Do thái lên thống trị. Vì thế, khi Phêrô thưa : “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9, 20), là ông nghĩ tới một vị Kitô vinh quang, thống trị toàn năng, chiến thắng mọi kẻ thù. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu lại bảo họ im lặng.

Những trang tiếp theo của Tin Mừng thuật lại, Chúa Giêsu ba lần loan báo cuộc thương khó rằng Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết. Nhưng các môn đệ không hiểu, không tin vào những gì sắp xảy đến. Đối với họ, Đấng Kitô chịu khổ nạn là không thể, hình ảnh Đấng Kitô vinh quang khác với hành động của Người. Họ không thể đón nhận Đấng Kitô đau khổ thay vì vinh quang.

Tại sao vậy ? Vì sau phép lạ hóa bánh ra nhiều theo Tin Mừng Gioan, đám đông chạy theo Chúa Giêsu để tôn Người lên làm vua. Chúa Giêsu thử lòng họ, giải thích cho họ ý nghĩa về sứ mạng của mình : “Các ngươi muốn Ta làm vua, vì Ta đã cho các ngươi ăn bánh no nê…” (Ga, 6, 26). Nhưng họ không hiểu lời Người nói, không phải vì trí hiểu kém, nhưng vì ý tưởng về Đấng Kitô chịu đau khổ đối với họ là hoàn toàn xa lạ.

Tuy nhiên, hình ảnh này đã được các tiên tri loan báo, cụ thể như tiên tri Dacaria mà chúng ta đã nghe “Họ sẽ ngước mắt nhìn Ta, Đấng họ đã đâm thâu qua ” (Dcr 12, 11), hoặc bài ca về người tôi tớ đau khổ trong sách tiên tri Isaia. Các môn đệ có thể biết rằng con đường của Đấng Kitô không đơn giản là đường vinh quang. Nhưng nếu họ biết, họ không thể chấp nhận! Hãy sống nhờ Người và kết hợp với Người để Người biến đổi chúng ta. Vì thế, trong khi dùng bữa tại nhà ông Simon, người đàn bà tội lỗi, với thái độ khiêm nhường và yêu thương, đã chỉ ra rằng Chúa Giêsu là Đấng giầu lòng thương xót. Còn Simon, ông không thể nhận biết Đấng đến nhà mình, vì sự cứng lòng của ông.

Chúa Giêsu nói : “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 23). Để khám phá ra căn tính của Chúa Giêsu để bước theo, cùng với Phêrô chúng ta nói : “Thấy là Đấng Kitô của Thiên Chúa“, và sẵn sàng nói : tôi chấp nhận bước theo trên con đường của Chúa, và vác thập giá tôi hằng ngày. Nếu không, chúng ta khó lòng có thể biết Người cách đích thực.

Câu hỏi về căn tính của Chúa Giêsu không đơn giản là câu hỏi điều tra, tín điều hay là chú giải Kinh Thánh, cũng không phải là câu trả lời cho những người đến hỏi Chúa Giêsu hoặc tìm xem Kinh Thánh nói gì về Chúa. Đây là một câu hỏi về đời sống ! Toàn bộ lịch sử, Kinh Thánh hoặc tín điều chúng ta nói về con người Chúa Giêsu, chúng ta chỉ là mình khi biết chấp nhận đi trên đường Chúa đã chỉ cho.

Vậy là, từ tuần này qua tuần khác, Tin Mừng mạc khải dần dần cho chúng ta về căn tính đích thực của Đấng Kitô để dẫn chúng ta tiến về Giêrusalem cách khải hoàn, cùng lúc soi sáng tâm hồn chúng ta và dạy cho chúng ta biết rằng, ta chỉ có thể nhận biết Chúa Giêsu nếu chúng ta để Chúa biến đổi đời ta.

Chúng ta thường đặt ra những khó khăn về sứ vụ loan báo Tin Mừng. Điều kiện tiên quyết của sứ vụ là Tin Mừng biến đổi lòng chúng ta. Trở ngại của Tin Mừng trước hết không phải là người mà chúng ta loan báo. Tin Mừng đến từ chúng ta. Vấn đề Tân Phúc Âm hóa không phải là khả năng chiến thắng trên những người tin hay không tin Chúa Giêsu. Hãy để cho Tin Mừng biến chúng ta thành những vị thánh, để những ai thực sự không biết đến Đấng Kitô có thể hỏi chúng ta như tên lính đứng dưới chân thập giá : “Người này có phải là con Thiên Chúa hay không ?

Chúng ta đón nhận lời mời gọi hoán cải và hồng ân sự sống với niềm tin : ” Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, và ai liều mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ giữ được mạng sống mình” (Lc 9, 24). Vậy hãy mở lòng mình ra đón lấy Đức Kitô để lời Người đổi mới cách sống của chúng ta, và sự hiện hữu của chúng ta trở nên lời đáp trả cho những người chung quanh. Amen.

VÁC THẬP GIÁ MÌNH

Lm. Nguyễn Thái

Chúa nhật 12 Thường Niên, Lc 9:18-24

“Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.”

1-THẦY LÀ AI?

Thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9:20). Kế đó là viên đại đội trưởng khi thấy những sự việc xảy ra lúc chúa chết: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27:54).  Thật vậy, chân lý này chỉ được mạc khải rõ ràng sau khi Ngài đã chết và sống lại.

Sự sống lại của Chúa Giêsu đã đưa Ngài vượt ra khoi mọi giới hạn. Ngài đã trở nên Chúa của vũ trụ. Trời là ngai của Ngài và đất là bệ dướic hân Ngài (Mt 5:34-35). Ngài ở trong tất cả mọi sự hiện hữu trên trời và dưới đất.

Một linh mục dòng tên, sau khi truyền chức sang Ấn Độ truyền giáo. Có một cặp vợ chồng vừa dọn đến giáo xứ mời ngài đến làm phép nhà.  Sau khi làm phép nhà, vị linh mục chào từ biệt đôi vợ chồng và bé trai hơn một tuổi, ra xe về.  Khi ngài sắp rời nhà thì bà mẹ bồng em bé lên, chỉ vào bức hình Thánh Tâm Chúa Giêsu đang treo trên tường, vẫy tay và nói: “Bye-bye Jesus”.

Phải, cha mẹ em đã dạy em làm như vậy. Em đã biết Chúa Giêsu là ai đâu.  Hôm nay Chúa Giêsu cũng lại hỏi chúng ta: “Các con bảo Thầy là ai?” (Lc 9:20). Câu trả lời có thể là: Ngài là trái đất phát sinhhoa trái,là bầu trời xanh trên đầu, là đại dương bao la sâu thẳm, là hương sắc của muôn hoa bướm, là bài ca của chim trời, là cơn gió mát nhẹ ban mai, là thanh âm và hơi thở của mọi loài sinh vật, là sự rực rỡ của mùa xuân, là nắng hè ấp áp, là những cơn mưa ngâu, là vẻ đẹp lúc sang thu, là cánh tuyết long lanh mùa đông, là ánh bình minh và hoàng hôn…

Ngài là ánh mắt và nụ cười của trẻ thơ, là bàn tay êm ái của mẹ hiền, là cánh tay che chở của người cha, là tình huynh đệ của các anh chị em, là sự âu yếm của ông bà nội ngoại, là sự ồn ào tươi vui của bạn bè, là những lời thì thầm yêu đương, là sự ngây thơ của nụ hôn đầu tiên…

Ngài là tiếng cầu cứu của trẻ thơ và người già bị bỏ rơi, là con đâu sầu khổ của người bệnh, là sự chữa lành qua y tá và bác sĩ, là niềm hy vọng trong cơn tuyệt vọng, là người khách không được mời, là kẻ xa lạ trên đường phố…

Ngài là người bạn, là người yêu, là lối đi, là ánh sáng, là cuộc đời, là lời chúc lành, là bóng hình từ ái của người tu sĩ, là sự dịu ngọt linh thiêng trong bí tích Thánh Thể, là Đấng Cứu Độ của tôi… Và còn bao nhiêu câu trả lời khác nữa…

II-TÔI LÀ AI?

Cảm nghiệm về “Chúa Giêsu là ai” trong cuộc đời của mỗi người rất khác nhau. Cũng giống như câu hỏi “bạn là ai” (Rm 2:1), câu trả lời tùy theo quan điểm của mỗi người. Qua một cuộc thử nghiệm của một lớp xã hội học, mỗi học sinh phải đi vào những khu siêu thị để phỏng vấn những khác qua lại câu hỏi: “Bạn là ai?” Làm thế nào bạn nhận ra chính bạn?” Câu trả lời rất khác nhau tùy theo người trả lời.

Một số người nhận diện ra họ theo vai trò trong gia đình: “Tôi là vợ”, “là mẹ”, “là ông nội…” Những người khác lại nghĩ đến nghề nghiệp: “Tôi là thư ký”, “Là thầy giáo dạy học”, “Là ý tá…”.  Một số khác trả lời theo chủng tộc: “Tôi là người Mỹ gố Phi Châu”, “Người Mỹ Á châu…”.  Vài người căn xứ theo tuổi và phái tính: “Tôi là người đàn ông 57 tuổi!”  Một số người nhận xét theo tính tình: “Tôi rất ngay thật”, “Tôi siêng năng làm việc…”.  Có người trả lời theo điều kiện cảm giác thể lý: “Tôi vui vẻ”, “Tôi kiệt sức”, “tôi là Dân chủ”, “Tôi là Cộng Hòa”.  Lại có người căn cứ trên gốc gác quê quán: “Tôi là người New York.” “Tôi từ Texas”. Rất ít người xác định họ là ai tùy theo tôn giáo: “Tôi là người Kitô hữu”, “là người công giáo”…

Hôm nay trong bài Phúc Âm, Lc 9:18-24, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ nhận diện “Thầy là ai” (Lc. 9:20), để giúp họ biết “họ là ai?” trong tương quan giữa họ với Chúa Giêsu.  Khi tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9:20).  Phêrô cũng khẳng định ông là môn đệ của Ngài.  Vì thế Chúa mới nói cho các môn đệ biết họ cũng phải đi theo con đường đau khổ giống như Ngài: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9:22-23).  Đó là con đường biến đổi đau khổ của thập giá trở thành Thánh Giá.

Trong bài đọc thứ hai thánh Phao lô nhắc nhở dân Galat rằng: “Anh em đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, nên anh em đã mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3:27).  Mặc lấy Đức Kitô, hay mặc lấy chiếc áo trắng rửa tội là mang lấy Thánh Giá giống như Ngài.  Đau khổ của thập giá tự bản chất là hình phạt của tội (St 3:16-19).  Nhưng qua Đức Kitô, đau khổ đã trở nên giá cứu chuộc nhân loại, thập giá trở thành Thánh Giá.  Do đó trong bí tích Rửa tội, linh mục làm dấu thánh giá trên trán người được rửa tội.  Đây là một sự thực hành mà giáo hội mượn từ quân đội Roma.  Khi một người đã trở nên một người lính Roma, anh bị đóng ấn bởi dấu hiệu của hoàng đế trên trán để chứng tỏ từ bây giờ anh phải phục tùng hoàng đế.  Dấu hiệu thánh giá là dấu hiệu bề ngoài của một người thuộc về Đức Kitô, mang lấy Thánh Giá như Chúa Kitô.

Sự đau khổ vì phần rỗi linh hồn là một phần quan trọng có liên hệ đến toàn thể đời sống Kitô hữu.  Những người không Công giáo thường hay thắc mắc rằng: “Tại sao những người Công giáo mang ảnh Thánh Giá với tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh, còn các giáo hội Kitô giáo khác thì không?”, “Có phải người công giáo không tin vào sự sống lại chăng? Vậy tại sao còn giữ hình tượng Chúa Giêsu chịu chết mãi như vậy?”

Thánh giá với tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh là một hình ảnh giúp chúng ta ý thức về ý nghĩa của sự đau khổ.  Chúng ta giữ thân xác khổ đau của chúa Giêsu trên thập giá để nhắc nhớ chúng ta đừng quên rằng nhờ sự đau khổ của Chúa Giêsu mà chúng ta được ơn cứu rỗi và cùng chia sẻ sự Sống Lại với Ngài (Gl 1:4; 1Ga 1:7).  Vì tội lỗi của chúng ta, Chúa Giêsu phải chịu đau khổ và phải chết (Rm 5:6-10; 6:10; Ep. 1:7).

Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên cây thập giá còn là một nhắc nhớ về lời Ngài dạy bảo chúng ta hôm nay: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Lc 9:23).

Vào chiều ngày thứ Sáu Tuần Thánh, cha sở kêu gọi giáo dân: khi quý vị đến nhà thờ đi chặng đàng Thánh giá tưởng niệm sự chết và đau khổ của Chúa Giêsu, mỗi người nên làm một cây thập giá bằng bất cứ vật liệu nào trượng trưng cho sự đau khổ của mình trong cuộc đời đang phải chịu.  Sau chặng đàng Thánh Giá yêu cầu quý vị mang lên bàn thờ cho tôi làm phép.  Mọi người đều mang lên đủ loại thập giá.  Ông trùm bước lên tay không, cùng với bà vợ.  Khi cha sở hỏi, thập giá của ông đâu, ông chỉ ngay vào bà vợ và nói: “Thưa cha đây là thập giá của con!”  Cha sở cũng làm phép, nhưng sau đó liền bảo ông rằng: “Bây giờ ông hãy ôm lấy cây thập giá này và hôn lên cây thập giá của ông đi!”

Đó là một câu chuyện vui cười!  Nhưng thập giá Chúa Giêsu đề cập đến không phải chỉ là bà vợ hay ông chồng.  Nó không đơn thuần chỉ là một đám cưới không hạnh phúc, hay những trở ngại khó khăn đến với chúng ta ngoài ý muốn, cũng không chỉ là những điều xui xẻo, không may xảy đến như thi rới, bệnh tật, mất việc… Thập giá Chúa Giêsu đề cập chính là sự chọn lựa từ bỏ mình để dâng hiến hoàn toàn cho thánh ý Thiên Chúa (Rm 6:13; 12:1).  Từ bỏ những ý kiến, suy nghĩ riêng tư, cả cái tôi kiêu căng, tự ái, ích kỷ, và lòng ham hố danh lợi (Pl 2:21).  Đó là tự làm trống rỗng mình đi – empty yourself – cho Thần Khí của thiên chúa ngự trị, để làm theo thánh ý của Thiên Chúa (Mt 6:10; 11:26; 26:42; Gl 1:10).  Đó là với Đức Tin Cậy Mến chúng ta biến đổi thập giá thành Thánh Giá, đau khổ trở nên giá cứu chuộc linh hồn cho mình và cho nhân loại (GLCG #421, 440).

Giăng tay chịu chết đau khổ trên thập giá (Ga 3:14), Chúa Giêsu đã làm trống rỗng mình để hoàn toàn vân phục ý muốn của Đức Chúa Cha (Mt 7:21; 12:50; Ga 4:34; Rm 5:19; Dt 5:8; Pl 2:8-9) mang lại ơn cứu rỗi cho nhân loại.

“Hãy từ bỏ mình” là con đường tu đức biến đổi đau khổ của thập giá trở thành ơn cứu độ của Thánh Giá mà Chúa Giêsu đã dạy và chết vì yêu thương chúng ta.

“Hãy từ bỏ mình” là con đường dài cho đến hơi thở cuối cùng.  Con đường đó xem ra có vẻ dễ dàng, nhưng diễn tiến và kết thúc lại vô cùng khó khăn.

Vũ Trọng Phụng có bài văn ngắn tựa đề “Tâm sự Cái Giường hư”.  Trong bài chia sẻ “Mệt Mỏi Chán Chường” trên báo Thời Điểm Công Giáo số 23, nhà văn Quên Di đã tóm lược bài văn đó và gợi ý suy niệm như sau:

“nhà văn họ Vũ đã cho cái giường kể chuyện đời nó.  Khi nó còn mới, còn đẹp, người ta chăm sóc nó, lau chùi đánh bóng nó, đặt nó một cách cẩn thận và trang trọng trong phòng ngủ, mặc cho nó nhừn thứ khăn thứ áo thơm tho.  Cái giường đã đón nhận, nâng đỡ những tấm lòng mệt mỏi.  Khi đặt lưng trên cái giường sau một ngày vất vả, người ta được nghỉ ngơi thoải mái.  Nhưng rồi năm này qua năm khác, cái giường cũ đi, xấu đi, mặt giường không còn êm, chân giường không còn vững, người ta không còn thích nằm lên nó nữa nên khiêng nó vất vào kho chứa đồ phế thải.  Ở trong ngục tối “khóc lóc nghiến răng” ấy.  Cái giường than thở: “Khi mệt mỏi, người ta có cái giường để nằm nghỉ.  Còn khi cái giường mệt mỏi, nó biết nằm lên đâu?”

Đến một lúc nào đó, chúng ta cũng dễ dàng mang tâm trạng cái giường hư của Vũ Trọng Phụng.  Nhiều khi tôi thầm nghĩ, tôi đã tự nguyện hy sinh, cả cuộc đời tận hiến làm môn đệ Chúa Kitô, đóng vai trò cái giường cho nhiều người ngả lưng, nghỉ mệt.  Khi tha nhân mệt mỏi, họ tìm đến tôi nghỉ ngơi.  Nhưng đến khi chính tôi mệt mỏi, già yếu, bệnh tật về cuối đời như cái giường đã hư, tôi than thở: “Khi cái giường mệt mỏi, nó biết nằm lên đâu?”

Dù tôi là ai và đã làm những gì cho Giáo Hội, cộng đoàn, gia đình và tha nhân, đôi khi tôi vẫn còn giữ lại một chút gì đó cho tôi, nghĩ về tôi, chưa hoàn toàn từ bỏ như Đức Kitô đã kêu gọi: “Hãy từ bỏ mình”.  Bài học tôi phải học là: Hãy nhìn lên Thánh  Giá với tượng Chúa Giêsu nằm chịu nạn an bình.  Hẳn là Ngài đã pải vặn mình trong những đớn đau quằn quại khi bị đóng đinh chân tay vào thập giá, phải chịu đựng sự cô đơn đến nỗi đã kêu lớn tiếng: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mc 15:34).  Nhưng sau cùng, ngài đã nằm yên bình thản.  Sự thanh thản của một người sau khi đã chu toàn sứ mệnh cao cả của mình một cách trọn vẹn. Sứ mệnh mang lấy tất cả thương đau, thống khổ của cả nhân loại để người được cứu rỗi và sống an vui.  Sứ mệnh biến đổi thập giá trở nên Thánh giá.

Để hoàn toàn từ bỏ chính mình như Đức Kitô đã từ bỏ, chúng ta phải học biết cách yêu thương như Ngài đã yêu (Ga 15:12; 3:1; 3:16; 4:9-10; Rm 5:8; ep 2:4-6).  “…Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng” (Lc 17:10).  Có yêu được như Đức Kitô đã yêu, mới sống được như Ngài đã sống và nằm thanh thản trên Thánh Giá như Ngài đã nằm.

DỨT KHOÁT VÀ TRIỆT ĐỂ BƯỚC THEO CHÚA

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.

[CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN NĂM C (26/06/2016)]

[1 V 19,16b.19-21; Gl 5,1. 13-18; Lc 9, 51-62]

  1. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Nếu chúng ta nhìn vào quanh cảnh các thánh đường ở Việt Nam đầy nhóc người

dự lễ ngày chủ nhật thì chúng không khỏi vui mừng.

Nhưng nếu chúng ta nhìn vào con số người trưởng thành nhập đạo Công giáo

mỗi năm và so sánh con số người Ki-tô hữu với số dân Việt Nam thì chúng ta

phải đau lòng vì thấy việc truyền giáo của chúng ta chưa đạt nhiều kết quả.

Lý do chính là vì đại đa số giáo dân theo Đạo một cách hời hợt, hình thức bên

ngoài, chứ chưa theo Đạo một cách dứt khoát và triệt để như Chúa mong muốn.

  1. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (1 V 19,16b.19-21): Ông Ê-li-sa đứng dậy, đi theo ông Ê-li-a. 16b Khi ấy Đức Chúa phán với ngôn sứ Ê-li-a: “Ngươi sẽ xức dầu tấn phong Ê-li-sa con Sa-phát, làm ngôn sứ thay cho ngươi.

19Ông Ê-li-a bỏ đó ra đi và gặp ông Ê-li-sa là con ông Sa-phát đang cày ruộng; trước mặt ông Ê-li-sa có mười hai cặp bò; chính ông thì đi theo cặp thứ mười hai. Ông Ê-li-a đi ngang qua, ném tấm áo choàng của mình lên người ông Ê-li-sa. 20Ông này liền để bò lại, chạy theo ông Ê-li-a và nói: “Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông.” Ông Ê-li-a trả lời: “Cứ về đi! Thầy có làm gì anh đâu? ” 21Ông Ê-li-sa bỏ ông Ê-li-a mà về, bắt cặp bò giết làm lễ tế, lấy cày làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy, đi theo ông Ê-li-a và phục vụ ông.

2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (Gl  5,1.13-18): Anh em đã được gọi để hưởng tự do. 1Thưa anh em, chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa.

13Quả thế, thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. 14Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 15Nhưng nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau đấy!  16Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thỏa mãn đam mê của tính xác thịt nữa. 17Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn. 18Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa.

2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Lc 9,51-62): Đức Giê-su nhất quyết đi Giê-ru-sa-lem. Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.  51Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. 52Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. 53Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. 54Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không? ” 55Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. 56Rồi Thầy trò đi sang làng khác.

 57Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” 58Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”

59 Đức Giê-su nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi!” Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” 60Đức Giê-su bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.”

 61Một người khác nữa lại nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” 62Đức Giê-su bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân dung Thiên Chúa trong 3 bài Thánh Kinh

3.1.1 Bài đọc 1 (1 V 49,16b.19-21) là bài tường thuật về ơn gọi của ngôn sứ Ê-li-sa. Trước khi được chọn và được gọi, Ê-li-sa chỉ là một người dân cày, tối ngày đi theo đàn bò trên các thửa ruộng. Khi nhận được tiếng gọi của Thiên Chúa qua ngôn sứ Ê-li-a, Ê-li-sa liền mau mắn và dứt khoát từ giã người thân và công việc đồng áng để đi theo Chúa và thực thi sứ mạng nói Lời Thiên Chúa.

Qua đoạn Sách 1 V 49,16b.19-21 chúng ta thấy cách Thiên Chúa gọi và chọn ngôn sứ Ê-li-sa và cách ngôn sứ ấy đáp lại Chúa như thế nào. Thiên Chúa quan tâm đến việc chỉ định người kế thừa cho Ê-li-a và đã chọn cho ông một môn đệ xứng đáng. Còn Ê-li-sa, người được chọn, cũng hành xử một cách rất đáng kính phục và noi theo: dứt khoát (liền để bò lại), biết ơn (bắt cặp bò giết làm lễ tế), hiếu thảo và chu đáo với bà con ruột thịt (xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã; nấu thịt đãi người nhà).

3.1.2 Bài đọc 2 (Gl  5,1.13-18) là những lời giáo huấn của Thánh Phao-lô về tình trạng tự do của những người đã nhận Phép Rửa nhân danh Chúa Ki-tô và về trách nhiệm của những người ấy là phải sống như những người tự do tức phải sống theo Thần Khí, chứ không được sống theo xác thịt là lối sống của những kẻ nô lệ.

Trong đoạn thư gửi tín hữu Gl 5,1.13-18 chúng ta khám phá ra Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng giải thoát chúng ta khỏi tình trạng nô lệ (đam mê xác thịt, ham hố tiền tài, danh vọng và chia rẽ nhau) và đưa chúng ta vào cảnh sống tự do (thờ phượng Thiên Chúa, sống theo Thần Khí và yêu thương, phục vụ lẫn nhau).

3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 9,51-62) là bài tường thuật của Lu-ca về một số sự kiện đã xẩy ra khi Chúa Giê-su đi lên Giê-ru-sa-lem lần sau cùng để chịu cuộc Thương Khó trước khi về Trời. Cuộc hành trình ngang qua một làng Sa-ma-ri nên xẩy ra chuyện người ta không đón tiếp và thái độ muốn “trả thù” hay “trừng phạt” của hai môn đệ thân tín của Chúa Giê-su. Cuộc hành trình kéo dài và là chuyến đi cuối cùng của Chúa Giê-su nên có ba hạng môn đệ tỏ thái độ theo Chúa. Và nhân đó Chúa Giê-su giảng dậy về cách thức của những ai muốn đi theo Người.

Qua Bài Phúc Âm Lc 9,51-62 chúng ta học biết ý muốn và giáo huấn của Chúa Giê-su về người môn đệ. Muốn đi theo Chúa thì chúng ta phải chấp nhận (a) một cuộc sống hy sinh, thiếu thốn và vất vả: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”, (b) một thái độ dứt khoát và triệt để: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” và   (c) một dấn thân trọn vẹn cho công cuộc rao giảng Tin Mừng: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.”

3.2 Sứ điệp của Lời Chúa

Là sống ơn gọi làm môn đệ của Chúa Giê-su tức chấp nhận hy sinh, thiếu thốn, vất vả, dứt khoát và triệt để theo Chúa và dấn thân cho công cuộc rao giảng Tin Mừng!

  1. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng đã sai các ngôn sứ và Con Một Người là Chúa Giê-su Ki-tô để mời gọi chúng ta sống theo đường lối của Thiên Chúa và trở thành môn đệ của Con Thiên Chúa.

4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa

Là chấp nhận hy sinh, thiếu thốn, vất vả, thiệt thòi mà dứt khoát và triệt để theo Chúa và dấn thân cho công cuộc rao giảng Tin Mừng!

  1. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

5.1 «Nhưng nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau đấy! » Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho nhân loại ngày hôm nay để mọi người biết tôn trọng, yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau theo ước muốn của Thiên Chúa là Cha yêu thương.

Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.2 «Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thỏa mãn đam mê của tính xác thịt nữa.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế và cho hết mọi Ki-tô hữu để mọi thành phần Dân Chúa sống theo Thần Khí của Thiên Chúa!

Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.3 «Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người theo Chúa mà còn chạy theo thế gian, để ai nấy dứt khoát bước theo Chúa Giê-su Ki-tô.

Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.4 «Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những người được sai đi loan báo Nước Thiên Chúa cho các vùng sâu, vùng xa, vùng cao và vùng thù nghịch để họ hăng say với sứ mạng được giao!

Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

ĐỂ NÊN MÔN ĐỆ THỰC SỰ CỦA ĐỨC GIÊSU

-Lm Đan Vinh

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN C

Dcr 12,10-11;13,1 ; Gl 3,26-29 ; Lc 9,18-24

  1. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG : Lc 9,18-24

(18) Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng : “Đám đông nói Thầy là ai ? (19) Các ông thưa : “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả. Nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, Kẻ khác lại cho là một trong các Ngôn sứ thời xưa đã sống lại”. (20) Người lại hỏi : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Ông Phêrô thưa : “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. (21) Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai. (22) Người bảo rằng : “Con Người phải chịu đau khổ nhiều. Bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ. Bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (23) Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. (24) Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

2.Ý CHÍNH :

Trong khi dân chúng tiếp tục quan niệm sai lầm về sứ mạng Cứu Thế và nhiều ngừơi đã bỏ Đức Giêsu, thì các môn đệ mà Phêrô là đại diện, lần đầu tiên đã công khai nhận Người là Đấng Kitô. Từ đây, Người sẽ thanh luyện lòng tin của Nhóm Mười Hai này. Sau đó, Đức Giêsu liền tiên báo về cuộc thương khó mà Người sắp phải trải qua. Người đòi những ai muốn đi theo Người phải chấp nhận đi con đường thập giá chật hẹp và leo dốc mà Người sắp phải trải qua.

3.CHÚ THÍCH :

-C 18-20 : +Đức Giêsu cầu nguyện: Tin mừng Luca đã ghi nhận nhiều lần Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Chẳng hạn: Sau khi chịu phép rửa (3,21); sau khi đám đông lũ lượt tuôn đến nghe giảng và xin chữa bệnh (5,16); trước khi chọn mười hai Tông đồ (6,12); trước khi yêu cầu họ tuyên xưng đức tin (9,18); trước lúc biến hình (9,28); trước khi dạy kinh Lạy Cha (11,1), Đức Giêsu còn dạy cách thức cầu nguyện (18,1; 11,2.9); Người cầu cho Phêrô (22,32); Người cầu nguyện tại núi Ôliu (22,41-46) và trên thập giá (23,34-46). +Đám đông nói Thầy là ai? : Đức Giêsu thăm dò dư luận quần chúng về Người. Các ông lần lượt thuật lại những điều dân chúng phát biểu: Là Gioan tẩy giả tái sinh, là Êlia, là một Tiên tri thời xưa sống lại (x.Lc 4,18; 7,16; 24,19). +“Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”: Ba tác giả Tin mừng thuật lại lời tuyên xưng của Tông đồ Phêrô khác nhau. chẳng hạn: “Thầy là Đấng Kitô con Thiên Chúa hằng sống” (Mátthêu 16,16); “Thầy là Đấng Kitô” (Máccô 8,29); “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Luca 8,20). Riêng Luca vì viết Tin mừng cho tín hữu gốc Hy lạp, nên thấy cần phải xác định rõ từ ngữ Do thái Mêsia bằng từ Hy ngữ là Kitô (Christos), nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu”.

-C 21-22 : +Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai : Môn đệ không được nói Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai (Mêsia), vì sợ dân chúng hiểu sai vai trò của Người theo nghĩa là một Vua trần thế có sứ vụ chính trị là đánh đuổi đế quốc Rôma để giành độc lập cho đất nước. Phải đợi tới khi Đức Giêsu từ trong cõi chết sống lại, các môn đệ mới được công bố Người chính là Đấng Kitô (x Cv 2,36).+“Con Người phải chịu đau khổ nhiều…” : Đây là lần thứ nhất Đức Giêsu tiên báo về cuộc thương khó của Người. Người sẽ bị kỳ mục, thượng tế và kinh sư là ba thành phần của Thượng Hội Đồng Do thái tại Giêrusalem xét xử (x Lc 22,66-71), rồi giải Người sang tòa Tổng trấn Philatô để yêu cầu ông này kết án tử hình thập giá cho Người (x. Lc 23,1-513-24).

-C 23-24 : +“Ai muốn theo tôi” : Theo sau Đức Giêsu nghĩa là trở thành môn đệ của Người. +“phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” : Cuộc đời của người môn đệ chân chính là phải noi gương Đức Giêsu để từ bỏ mình nghĩa là biết hy sinh quên mình. Rồi vác thập giá mình hằng ngày là đón nhận những đau khổ vất vả do cuộc sống đem lại, sẵn sàng vác thập giá là liều mất mạng sống mình vì Đức Kitô và vì Tin mừng. +Muốn cứu mạng sống thì sẽ mất. còn liều mất mạng sống thì sẽ cứu được mạng sống mình : Đây là một điều nghịch lý! Những ai sống theo đam mê của xác thịt thì sẽ mất sự sống đời sau. Còn những ai muốn theo Chúa đến cùng, sẵn sàng chịu mọi thử thách, sẵn sàng chịu thiệt thòi mất mát, kể cả mất mạng sống mình ở đời này, thì sẽ được Chúa ban sự sống vĩnh cửu ở đời sau.

4.CÂU HỎI : 1) Tin mừng ghi nhận Đức Giêsu đã cầu nguyện khi nào ? 2) Các Tông đồ cho biết dư luận dân chúng nghĩ gì về Đức Giêsu ? 3) Tin mừng ghi lại lời tuyên xưng đức tin của Tông đồ Phêrô như thế nào ? 4) Tại sao Đức Giêsu cấm môn đệ nói cho dân chúng biết Người chính là Đức Kitô ? 5) Bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày để theo Đức Giêsu cụ thể là gì ?

II.SỐNG LỜI CHÚA:

1.LỜI CHÚA : Người lại hỏi : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Ông Phêrô thưa: Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (lc 9,20).

2.CÂU CHUYỆN :

1) VỀ KHUÔN MẶT BÍ ẨN CỦA ĐỨC GIÊSU :

Một họa sĩ nổi tiếng ngày nọ muốn vẽ chân dung của Đức Giêsu mà ông rất ngưỡng mộ. Tuy nhiên, ông không biết làm cách nào để diễn tả những nét đẹp của Người mà ông rất thích. Ông liền đi lang thang đó đây để tìm hình mẫu. Thoạt đầu, ông gặp một đứa bé đang tươi cười với dáng vẻ trong sạch ngây thơ. Ông đưa nét trong sạch ấy vào gương mặt của Chúa. Gặp một vị ẩn sĩ đang đăm chiêu cầu nguyện, ông cũng đưa nét thanh thoát vào trong gương mặt của Chúa. Thoáng thấy một bà mẹ trẻ đang âu yếm đứa con, ông cũng họa lại nét dịu dàng vào bức tranh… Nói chung, bất cứ vẻ đẹp nào trong cuộc sống mà ông nhìn thấy, ông đều cố gắng diễn đạt vào bức tranh, để phác lại chân dung thánh thiện tuyệt hảo của Đức Giêsu. Hoàn thành xong tác phẩm, ông vẫn cảm thấy như còn thiếu một điều gì đó. Cuối cùng, khi đang lang thang ngoài bìa rừng, ông gặp một con người bệnh cùi bị xã hội bỏ rơi. Ông này phải lấy khăn che mặt và lầm lũi lê bước giống như một bóng ma. Chàng họa sĩ chợt nghĩ, đây chính là nét độc đáo nơi khuôn mặt của Đức Giêsu, bởi vì Người luôn là một mầu nhiệm được ẩn dấu mà con người không thể hiểu thấu được. Chàng họa sĩ trở về nhà và vẽ phủ lên khuôn mặt Đức Giêsu một tấm khăn mỏng, giống như tấm khăn che mặt của người cùi mà ông đã gặp ven rừng. Gương mặt của Chúa Giêsu trông mờ mờ, lúc ẩn lúc hiện, để nói cho chúng ta biết rằng, Người vẫn luôn là một mầu nhiệm bí ẩn đối với con người trong thế giới hôm nay.

2) THẾ NÀO LÀ TỪ BỎ ? :

Một vị linh sư Ấn độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến gần bên và đặt dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quý như một lễ vật nhập môn. Vị linh sư mở mắt, thấy hai viên ngọc long lanh dưới chân mình, chẳng nói một lời, cầm lấy một viên ném thẳng xuống sông.

Hết sức ngỡ ngàng và tiếc nuối, chàng thanh niên vội nhảy xuống sông và lặn xuống tận đáy cố tìm cho bằng được viên ngọc quý giá. Thế nhưng, dù chàng phải hì hụp suốt ngày ngoi lên lặn xuống để tìm kiếm, viên ngọc vẫn biệt tăm. Chiều đến, với vẻ mặt thất vọng, chàng đến gặp vị linh sư để xin ngài chỉ đích xác chỗ ngọc rơi xuống nước để tìm cho nhanh. Bấy giờ vị linh sư cầm lấy viên ngọc thứ hai, ném nó xuống sông và nói : “Ta đã ném nó vào chỗ nầy đây. Anh hãy lặn xuống mà tìm.”

Bấy giờ chàng thanh niên bỗng giác ngộ. Anh chợt hiểu ra rằng bài học vỡ lòng mà vị linh sư muốn dạy là nếu anh muốn trở thành môn đệ của ngài thì điều kiện tiên quyết phải có là anh hãy sẵn sàng từ bỏ mọi của cải vật chất của mình. (Phỏng theo Cha Anthony de Mello).

3) THẬP GIÁ PHẢI VÁC HẰNG NGÀY CÓ THỂ CHÍNH LÀ NGƯỜI THÂN :

Vào chiều ngày thứ Sáu Tuần Thánh, theo thông lệ của giáo xứ, cha sở kêu gọi giáo dân: khi quí vị đến nhà thờ đi chặng đường thánh giá tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, mỗi người nên làm một cây thập giá  bằng bất cứ vật liệu nào  tượng trưng cho sự đau khổ trong cuộc đời mình đang phải chịu. Sau chặng đàng Thánh giá yêu cầu quí vị mang lên bàn thờ để tôi làm phép các cây thập giá đó. Bấy giờ mọi người dự lễ đều mang lên đủ loại thập giá to bé, dài ngắn làm bằng các vật liệu khác nhau. Một cụ ông cõng bà vợ bị liệt bước lên gần bàn thờ. Nghe cha sở hỏi: Thập giá của ông đâu? Ông liền chỉ ngay vào bà vợ bị liệt và nói : ”Thưa cha, đây chính là thập giá của con”. Cha sở cũng làm phép cho bà, rồi bảo ông : ”Bây giờ ông hãy ôm lấy cây thập giá này và hôn lên cây thập giá của ông đi”…

4) VỀ LÒNG YÊU MẾN CHÚA GIÊSU CỦA MỘT PHI HÀNH GIA NGƯỜI MỸ :

Vào ngày 20 tháng 07 năm 1969, NÊU AMTRONG (Neil Armstrong) trở thành phi hành gia người Mỹ đầu tiên đổ bộ lên mặt trăng. Tuy nhiên, lý do quan trọng giúp cho Amtrong thành công trong việc là người đầu tiên đổ bộ lên mặt trăng lại chính là Chúa Giêsu, Đấng đã ban sức mạnh và hướng dẫn Amtrong có quyết định sáng suốt ngay khi còn trong lứa tuổi thiếu niên.

Vào năm 15 tuổi, một hôm Amtrong cùng cha đi xe hơi ngang qua một phi trường nhỏ thuộc vùng Ôhaiô (ohio), thì đột nhiên cậu trông thấy một chiếc phi cơ trên cao đang chúi mũi lao xuống mặt đất. Cậu vội hét lên cho cha dừng xe lại và hai cha con lập tức chạy đến lôi chàng phi công trẻ ra khỏi máy bay có nguy cơ sắp nổ tung. Viên phi công là một sinh viên mới 20 tuổi đang trong thời kỳ tập lái máy bay. Trện đường đến bệnh viện, viên phi công đã chết trên tay của Amtrong. Đêm hôm ấy Amtrong không sao chợp mắt được. Đầu óc cậu vẫn còn bị khủng hoảng do cái chết đau thương của viên phi công. Chính Amtrong cũng đang đăng ký theo học lớp tập lái máy bay, nên không biết bây giờ cậu có còn đủ tinh thần để tiếp tục theo học nữa không. Hôm sau, mẹ của Amtrong vào phòng thăm tình hình của con trai. Thấy sổ nhật ký của cậu đang mở sẵn để trên bàn viết. Bà mẹ tò mò đọc và thấy trên trang đầu có mấy dòng chữ hoa: “Những đức tính của Chúa Giêsu”. Ở phía bên dưới, Amtrong đã liệt kê ra một số những đức tính của Chúa mà cậu cần phải học tập như sau : “Giêsu không phạm tội. Luôn sống khiêm nhường và có lòng thương xót những kẻ nghèo hèn. Người không ích kỷ và luôn kết hiệp với Chúa Cha”.

Thấy Amtrong có lòng đạo như vậy, hôm sau bà mẹ hỏi Amtrong : “Vậy con quyết định có học lái máy bay nữa thôi ? Cậu ta nhìn vào mắt mẹ và trả lời : “Thưa mẹ, con hy vọng nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ tiếp tục học bay”.

3.THẢO LUẬN : 1) Nếu Đức Giêsu thực là Đấng Cứu Thế quyền năng, thì tại sao hiện nay trên thế giới vẫn còn nhiều người đang chịu đau khổ, bệnh tật và bất công ? 2) Mỗi người chúng ta phải làm gì để góp phần kiến tạo một Trời Mới Đất Mới, nơi không còn đau khổ bệnh tật chết chóc, ngay từ hôm nay ?

4.SUY NIỆM :

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giêsu sau một thời gian giảng đạo, đã muốn biết dư luận quần chúng về vai trò và sứ vụ của Người, khi hỏi các môn đệ : “Người ta bảo Con Người là ai ?” Các ông đã lần lượt kể ra các điều dân chúng nghĩ về Người như: Êlia, Giêrêmia… hay là một ngôn sứ nào đó. Sau đó Đức Giêsu muốn biết các môn đệ nghĩ gì về vai trò và sứ vụ của Người ? Ông Phêrô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin như sau: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.” Đức Giêsu đã khen đức tin của ông, nhưng ngay sau đó Người đã sửa lại quan niệm sai lạc của các môn đệ về một Đấng Thiên Sai trần tục bằng quan niệm về một Đấng Kitô cứu thế về tinh thần là “Qua đau khổ thập giá để vào vinh quang phục sinh” theo thánh ý Thiên Chúa. Người cũng yêu cầu những ai muốn làm môn đệ của Người phải “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Người” (x. Lc 9,18-24).

1) Người Do thái luôn mong đợi một Đấng “Mêsia” hay “Thiên Sai” trần thế :

Thời Đức Giêsu người Do Thái đang mong đợi một Đấng Thiên Sai (Mêsia) oai hùng đến để “chấn hưng mọi sự” (Dn 9,25-26), thiết lập một nước Do Thái cường thịnh, “thoát mọi áp bức của kẻ thù”. Do đó, dù đã nghe Gioan Tẩy Giả khẳng định Đức Giêsu Nadarét chính là Đấng Thiên Sai (x. Ga 1,29-34), đã nghe Đức Giêsu sau khi đọc lời sấm ngôn Isaia về sứ vụ của Đấng Thiên Sai tại hội đường Nadarét và khẳng định : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21)… Nhưng do thành kiến về gia thế tầm thường của Đức Giêsu và đang ước mong một Đấng Thiên Sai trần tục… nên người Do thái đã không tin Người thực là Đấng “Thiên  Sai”. Họ chỉ coi Ngài “là Gioan Tẩy Giả, hoặc Êlia, hay cùng lắm là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại!” như Tin Mừng hôm nay đã thuật lại dư luận dân chúng về Người (x. Lc 9,18-19). Về sau các đầu mục dân Do thái cho rằng Đức Giêsu chỉ là một kẻ lộng ngôn phạm thượng, phá bỏ Luật Môsê, đe sẽ phá hủy Đền Thờ Giêrusalem… Tóm lại chỉ là một Đấng Thiên Sai giả có nguy cơ dấy loạn, làm cớ cho quân Rôma kéo đến tiêu diệt… nên họ kết án Người phải chết tại tòa án tôn giáo của thượng tế Caipha: “Thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11,50b). Rồi để thi hành án tử hình này, họ đã điệu Người sang tòa án của tổng trấn Philatô và xách động dân chúng làm áp lực đòi ông này phải kết án tử hình thập giá cho Người (x. Ga 19,6-7). Riêng các môn đệ của Đức Giêsu: Dù tin “Thầy là Đấng Kitô”, và ước mong Thầy sẽ thiết lập một “Vương Quốc Ítraen”, nên các ông đã không thể chấp nhận lời tiên báo Người sẽ đi lên Giêrusalem trải qua cuộc khổ nạn, chịu chết rồi mới sống lại trong vinh quang (x. Mt 20,18-19); Ông Phêrô đã “kéo Ngài riêng ra và ngăn cản…” (Mt 16,22). Rồi hai anh em Giacôbê và Gioan cũng xin Thầy cho “một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả trong Nước Người sắp lập (Mc 10,35-37). Thậm chí đến khi Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại, mà có ông còn hỏi “Có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương Quốc Ítrael chăng?” (Cv 1,6).

2) Đức Giêsu thực là Đấng Kitô như ý Thiên Chúa muốn :

Đức Kitô mà Thiên Chúa sai đến không phải là một vị vua cầm quân đánh đuổi quân Rôma, làm một cuộc cách mạng giải phóng Dân Do Thái khỏi ách thống trị của Đế Quốc, rồi ngồi trên ngựa chiến khải hoàn vào thành Giêrusalem, nhưng Người ngồi trên một con lừa hiền hòa, sẵn sàng “chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế và các kinh sư chối bỏ và giết chết; nhưng đến ngày thứ ba thì sẽ sống lại” (Mt 17,22-23). Người sẵn sàng đi con đường hẹp yêu thương phục vụ và hiến thân chịu chết, rồi phục sinh và lên trời mở đường lên trời cho nhân loại chúng ta. Như vậy, khi đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng không thể tìm kiếm vinh quang, sự giàu sang, sung sướng thuộc về đời tạm này, nhưng chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ chính mình, vác thập giá là các sự đau khổ trái ý gặp phải, sẵn sàng sống vị tha, khiêm nhường phục vụ… chấp nhận cùng chết với Chúa Giêsu để cùng được sống lại với Người.

3) Ngày nay đối với bạn: Đức Giêsu là ai ? :

Mỗi người chúng ta hãy nhìn vào lòng mình để nói lên cảm nghiệm của mình về Đức Giêsu. Có lẽ đối với đa số người giữ đạo truyền thống thì Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế quyền năng, biết rõ nhu cầu của chúng ta và sẵn sàng trợ giúp khi chúng ta kêu cầu. Đối với nhiều người khác: Đức Giêsu là con đường duy nhất dẫn đưa chúng ta lên trời. Người cũng là Thầy dạy sự thật về Thiên Chúa để chúng ta tôn thờ kính tin. Người còn là sự sống lại và là sự sống, để ai tin vào Người và năng kết hiệp với Người qua việc rước lễ sẽ được tham phần vào sự sống đời đời với Người.

4) Con đường chúng ta đi theo Chúa hôm nay là gì ? :

Chúa phán dạy : “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo”:

a- Ai muốn theo tôi : Đức Giêsu đưa ra lời mời gọi tất cả mọi người. Người muốn mời gọi mọi người theo làm môn đệ của Người và tôn trọng sự tự do theo hay không theo của họ.

b- Phải từ bỏ mình : Những ai chọn theo làm môn đệ Đức Giêsu thì điều kiện thứ nhất là phải từ bỏ mình, nghĩa là không nghĩ đến mình, không nhằm tìm lợi ích cho riêng mình, mà chỉ nghĩ đến Đấng mình chọn theo, để nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu và hy sinh tự do để theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu trong Tin Mừng.

c- Vác thập giá mình mà theo : Đau khổ thập giá lúc đầu chính là hình phạt do tội (x. St 3,16-19), nhưng nay nhờ Đức Giêsu đã chịu khổ nạn vác cây thập giá để đền tội loài người chúng ta, nên thập giá đã trở nên thánh giá mang lại ơn cứu độ cho chúng ta.

5) Cụ thể mỗi người chúng ta phải làm gì để nên môn đệ đích thực của Chúa ? :

Dấu hiệu môn đệ thực sự của Đức Giêsu là sống yêu thương nhau, cụ thể là yêu thương những người bên cạnh mình như lời Chúa dạy : “Ở điểm này , mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

Mỗi ngày chúng ta cần xét mình trước khi đi nghỉ đêm : “Hôm nay tôi đã chứng tỏ mình là môn đệ thực sự của Chúa Giêsu như thế nào ? Tôi có sẵn sàng vác thập giá là chu tòan việc bổn phận hằng ngày để đi theo Người hay không ? Tôi có quyết tâm từ bỏ “cái tôi ích kỷ” để tập lối “sống vị tha bác ái” theo lời Chúa dạy không ? Tôi có nhìn thấy Chúa đang hiện thân nơi những người bệnh tật đau khổ để quảng đại chia sẻ cơm áo và khiêm tốn phục vụ họ như phục vụ chính Chúa hay không ? Tôi có sẵn sàng hy sinh thời giờ tiền bạc để chu toàn sứ vụ loan báo Tin mừng Nước Trời, và sống bác ái yêu thương để làm chứng cho tình yêu vô biên của Chúa Giêsu trước mặt người đời hay không ?

5.LỜI NGUYỆN:

– LẠY CHÚA GIÊSU. Hôm nay, Chúa cũng hỏi chúng con về lòng tin đối với Chúa và về tình liên đới đối với tha nhân. Chúa đòi chúng con phải xác tín đức tin của mình. Chúa mời chúng con phải đi con đường hẹp, leo dốc, là luôn quên mình, chấp nhận vượt qua mọi đau khổ và thua thiệt gặp phải trong cuộc sống để bước đi theo Chúa như ông Simon Kyrênê trên đường thánh giá khi xưa.

– LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết tin yêu phó thác cậy trông vào tình thương và quyền năng của Chúa. Xin cho chúng con luôn biết từ bỏ ý riêng để tìm kiếm thánh ý Chúa trong Thánh Kinh, qua các bậc bề trên trong đạo ngòai đời, qua các biến cố may rủi xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của chúng con… Xin giúp chúng con vui lòng đón nhận tất cả, vì biết rằng đó chính là thánh ý Chúa muốn chúng con trải qua để nên giống Chúa và được hưởng hạnh phúc đời sau.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.-Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*