• MUỐN THEO CHÚA, CẦN CÓ ĐIỀU KIỆN GÌ? -Jos.Vinc. Ngọc Biển
  • Phiêu lưu theo Chúa-AM. Trần Bình An
  • Sống Thanh Thoát Để Hạnh Phúc-By Lm. Tạ Duy Tuyền
  • SỨ VỤ DỌN ĐƯỜNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC GIÊSU-Lm Đan Vinh
  • Ngài cương quyết lên đường-Lm Nguyễn Thái
  • Thiên Chúa Cất Tiếng Gọi Con Người Đáp Trả -Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  • Hãy Theo Thầy -Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  • Dứt khoát theo Thầy-Lm Richard Leonard sj biên-soạn-Mai Tá lược dịch
  • Thi Ca Suy Niệm-Lm. Giuse Trần Việt Hùng
  • Chiếc Bị-Niềm Vui Chia Sẻ
  • Đường theo Chúa-Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
  • Trung thành theo Chúa-Lm. Anthony Trung Thành
  • Đặc quyền đặc lợi-Lam Thy ĐVD
  • MINH HỌA LỜI CHÚA-Hiếu Nguyễn
  • Lễ Thánh Phêrô và Phaolo-Lm Đan Vinh

MUỐN THEO CHÚA, CẦN CÓ ĐIỀU KIỆN GÌ?

Jos.Vinc. Ngọc Biểnbien1a

Chúa Nhật 13 Thường Niên

(1 V 19,16b.19-21; Gl 4,31b–5,1.13-18; Lc 9,51-62)

Một bài hát ta thường hát hoặc đã nhiều lần nghe, đó là bài: “Chúa là Gia Nghiệp” của nhạc sư Mi Trầm, trong đó có đoạn viết: “Chúa là gia nghiệp đời con. Xin Ngài bảo toàn thân con, vì ngoài Chúa ra con tìm đâu thấy hạnh phúc, và chỉ nơi Chúa con tìm thấy được nguồn vui”. Qua bài hát này, gợi lại cho chúng ta tâm tình xác tín rằng: chỉ có Chúa là chỗ nương thân, chỉ có Chúa là nguồn hạnh phúc, chỉ có Chúa là Đấng cứu độ. Và, ta mong sao cho được thuộc về Chúa và được Ngài đưa ta đến bến bờ hạnh phúc.

Hôm nay thánh Luca kể lại ba mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và những người muốn theo Ngài cũng như những người Ngài muốn gọi họ. Tâm tư của Đức Giêsu cho những người muốn theo và được gọi này là đạt được hạnh phúc đích thực.

Tuy nhiên, muốn có được điều đó, hẳn phải đi trên chính con đường mà Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là con đường từ bỏ, phó thác, dứt khoát, hy sinh và đôi khi phải chấp nhận lội ngược dòng với đầy tình tiết phưu lưu.

1.Đi theo Chúa là phải sống tinh thần phó thác tuyệt đối

Câu chuyện Tin Mừng được khởi đi từ một sự kiện: khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem, bất chợt có một chàng thanh niên tình nguyện đến xin đi theo Ngài, vì thế, anh ta đã thốt lên những lời rất tâm huyết: Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo” (Lc 9, 57). Đứng trước lời đề nghị được đi theo mình, Đức Giêsu đã không nói là thâu nhận hay không, mà chỉ thấy Ngài nói: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu(Lc 9, 58). .

Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn đưa anh vào một lộ trình của niền tin và phó thác hoàn toàn cho sự an bài của Thiên Chúa; mặt khác, Ngài cũng muốn tiên báo cho anh về sự thiếu thốn, bấp bênh trên hành trình sứ vụ. Sự phưu lưu này không có nghĩa là làm cho anh hoang mang về con người và sứ vụ cứu độ của Ngài, mà là giúp cho anh nhận định thật rõ, để anh thấy trước được những khó khăn của sứ vụ. Khi nói cho chàng thanh niên này như vậy, Đức Giêsu muốn báo cho anh ta biết sứ vụ và cuộc sống của Ngài không giống như những vị lãnh đạo khác, mà là một Đấng Mêsia khiêm tốn, từ bỏ sang giàu, quyền lực. Sống nghèo khó và vâng lời Thiên Chúa Cha cách tuyệt đối.

Vì vậy, nếu anh thanh niên này muốn theo, thì cũng phải đón nhận cuộc sống như Ngài đã sống. Một cuộc sống mà theo lối nói của Việt Nam thì: “Tối đâu là nhà, ngã đâu là giường”.

2.Theo Chúa là lo tìm Nước Thiên Chúa trước hết

Khác với trường hợp thứ nhất, lần này Đức Giêsu chủ động lên tiếng gọi một người thanh niên: “Anh hãy theo tôi!” (Lc 9, 59). Ngài muốn anh ta lên đường với Ngài để loan truyền Nước Thiên Chúa, để cùng Ngài sống chứng tá cho Nước Trời. Đứng trước lời mời gọi này, chàng thanh niên đã đặt ra cho Đức Giêsu một điều kiện, đó là: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã” (Lc 9, 59), rồi đi theo Ngài sau. Nhưng Đức Giêsu đã không chấp nhận, Ngài đã phủ nhận thái độ đó và coi là không xứng hợp với tinh thần tông đồ, nên Ngài đã nói: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc 9, 60).

Qua câu trả lời của Đức Giêsu, Ngài cho anh ta thấy rằng: thời điểm này và ngay tức khắc, anh hãy theo tôi để loan báo Triều Đại Thiên Chúa cho những người chưa biết, vì đây là sứ mạng quan trọng nhất, cấp bách, vượt lên trên mọi tình cảm tự nhiên của con người. Ngài không chấp nhận sự lần lữa và kèo nèo của một người môn đệ. Sứ mạng loan báo Tin Mừng là gian nan khốn khổ, đòi buộc phải hy sinh, phải từ bỏ, phải mau mắn… Vì thế, không thể chấp nhận một con người có thái độ trì hoãn.

3.Muốn theo Chúa: phải có thái độ dứt khoát

Đi xa thêm một chút nữa, Đức Giêsu lại cất tiếng gọi một người khác đi theo Ngài. Khi được gọi, người thanh niên này thưa: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã” (Lc 9, 61). Người thanh niên này quả thực cũng muốn theo Chúa, nhưng anh ta muốn xin Đức Giêsu cho lui lại ít thời gian nữa, để anh ta lo giàn xếp chuyện gia đình… Vẫn một điều kiện tiên quyết mang tính quyết định, nên Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 62). Qua câu nói này, Đức Giêsu nói cho người xin theo Ngài biết rằng: thái độ dứt khoát là yếu tố căn bản để trở nên môn đệ của Ngài. Theo Chúa là cần phải bỏ mọi sự, không lưỡng lự, không thể tiến thoái lưỡng nan, không chấp nhận nhập nhằng với những ràng buộc tình cảm. Muốn là người thợ cày tốt thì người cầm cày phải nhìn thẳng về phía trước để đi, nếu không thì đường cày sẽ cong queo, không thẳng hàng được. Cũng vậy, theo Chúa, phải để lại mọi sự, kể cả những gì là thân thuộc, gắn liền với cuộc sống, ngay cả những quyến luyến tình cảm của gia đình… Để đạt được Nước Trời, người môn đệ phải ưu tiên số một cho những đòi hỏi của Nước ấy.  Phải từ bỏ tất cả quá khứ, quên đi dĩ vãng (x. 1 Pr 5,8-9), và nhắm thẳng vào tương lai để ta tiến bước. Điều này quan trọng hơn cả cha mẹ, anh chị em, vợ con và ngay cả mạng sống của mình nữa.

4.Còn chúng ta thì sao?

Khi đọc bài Tin Mừng này, hẳn mỗi người chúng ta đều đặt ra cho mình một câu hỏi: chúng ta có được Thầy Giêsu gọi không? Điều kiện của Ngài đặt ra cho chúng ta thời nay là gì?

Trước tiên, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu, được tháp nhập vào dân của Chúa, được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa Cha. Vì thế, chúng ta được mời gọi từ bỏ ý riêng, chết đi cho con người cũ với những tham sân si, và mặc lấy con người mới để chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng như ngọn nến cháy sáng. Đây là ơn gọi căn bản của mỗi chúng ta.

Thứ đến, vào một thời điểm nhất định, mỗi người đều có một lựa chọn cho bậc sống của mình. Người thì xây dựng gia đình; người thì đi tu. Hai con đường. Hai ơn gọi. Nhưng đều chung một sứ vụ là loan báo Tin Mừng và đi tìm hạnh phúc đích thực.

Thật vậy, nếu là một người chồng mẫu mực; một người vợ thủy chung; một người con hiếu thảo; một đời tu trung thành, thánh thiện… Thì đây, chính là đời môn đệ tuyệt hảo khi chúng ta thuộc về Đức Giêsu và đáp lại lời mời gọi của Ngài để loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống gương mẫu của mình. Khi sống và lựa chọn như thế, ta mới xác định căn tính và mục đích của chúng ta, và Chúa mới là gia nghiệp của ta thực sự.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa. Biết từ bỏ ý riêng để thánh ý Chúa được thể hiện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết nghĩ đến người khác vì phần rỗi của họ như Chúa khi xưa. Amen.

SUY NIỆM CÁC NGÀY TRONG TUẦN 13 THƯỜNG NIÊN

Jos. Vinc. Ngọc Biển

 

THỨ HAI

CHỌN LỰA ƯU TIÊN

(Mt 8, 18-22)

 Xem lại Chúa Nhật 13 Thường Niên, C

Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại chuyện có một môn đệ muốn theo Đức Giêsu, nhưng anh ta xin được về chôn cha trước đã. Đức Giêsu đã không chấp nhận thái độ đó và nói: “Anh hãy theo Ta, và hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”. 

Xét theo góc độ tình cảm tự nhiên, đòi hỏi này của Đức Giêsu xem ra có vẻ ích kỷ, và phi nghĩa quá chăng? Một sự đòi hỏi không hợp tình cũng chẳng hợp lý! Là con cái mà cũng không được thi hành bổn phận sau cùng là lo chôn cất cha mình cho tròn chữ hiếu?

Tuy nhiên, càng khó chấp nhận nghịch lý của Đức Giêsu đưa ra với môn đệ này bao nhiêu thì lại càng sáng tỏ chân lý mà Đức Giêsu muốn nhắm tới bấy nhiêu.

Thật vậy, điều mà Đức Giêsu muốn người môn đệ phải có đối với Ngài và sứ vụ mà Ngài sẽ trao phó trong tương lai là một thái độ tin tưởng, phó thác, can đảm và dứt khoát. Không được chần chừ hay nửa vời, bởi lẽ, nếu lừng khừng, trong tương lai, không sớm thì muộn cũng có những thái độ thỏa hiệp và bỏ cuộc.

Nếu không thanh thoát thì làm sao chấp nhận được sự thiếu thốn trong hành trình theo Chúa và thi hành sứ vụ được! Bởi lẽ, hành trình của người môn đệ luôn phải đối diện với sự thiếu thốn như chính Đức Giêsu đã trải qua: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”. 

Như vậy, Đức Giêsu không có ý nói phải bỏ cha, bỏ mẹ để mà theo Ngài cho bằng Ngài muốn nói lên một sự lựa chọn ưu tiên cho ơn gọi và sứ vụ.

Là Kitô hữu, sống trong thời đại văn minh, kinh tế thị trường, có nhiều điều để chọn lựa. Tốt có, xấu có. Cao cả có, tầm thường cũng có. Tuy nhiên, nhiều người đã không chọn cho mình điều tốt, nhưng lại chọn những điều xấu, bởi vì những cái đó hấp dẫn và dễ thi hành hơn. Hoặc có nhiều người tin và đi theo Chúa, nhưng khi gian nan thử thách đến, họ đã viện nhiều lý do để bỏ cuộc.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức lại ơn gọi và sự trung tín của mình với Chúa? Chúng ta có chọn Chúa và những phẩm tính tốt thuộc về Ngài không? Hay chúng ta đã chọn những thứ tầm thường?

Lạy Chúa Giêsu, theo Chúa là điều khó! Vì thế, xin cho chúng con biết thanh thản từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa, hầu tâm hồn chúng con nhẹ nhàng, thanh thoát khi thi hành sứ vụ Chúa trao cách tốt đẹp. Amen.

 

THỨ BA

“THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ”

(Mt 8, 23-27)

Xem lại CN 12 TN B

Thứ Bảy tuần 3  TN

Trước cảnh bão táp dữ dội, sóng cuồn cuộn dâng, hẳn ai là người không sợ? Nhất là lúc đó, chúng ta lại là người đang ở tâm điểm của thiên tai!

Hôm nay, các môn đệ cũng trải qua cơn cuồng phong, biến động mạnh của biển, khiến sóng lớn và nước ập vào thuyền, vì thế các ông lo sợ, hoảng loạn, nên đã tìm hết cách để chống  trả với thiên tai và hy vọng con thuyền gặp được an toàn.

Hình ảnh con thuyền chuyên chở Đức Giêsu và các môn đệ hôm nay chính là hình ảnh của Giáo Hội và mỗi chúng ta trên hành trình dương thế. Có những lúc Giáo Hội gặp phải những khó khăn, thử thách, hay cuộc đời của chúng ta lắm khi gặp phải sự bất an, thất bại, chán trường …

Thật vậy, những trận cuồng phong thiên hình vạn trạng từ bên ngoài với những cơn thịnh nộ của thiên nhiên, những tai nạn, bệnh tật ập đến, tiền tài tiêu tan theo mây khói, bị ức hiếp tột cùng, bị quá thiệt thòi vì những đổi trắng thay đen của lòng người; hay từ bên trong bản thân do những xung đột giữa thiện và ác, giữa bao dung và kết án, giữa tha thứ và hận thù, tất cả đã làm cho không biết bao người phải lung lay đức tin và hoang mang…

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng vào Ngài, vì: bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc sống, Chúa vẫn còn đó trên chiếc thuyền của Giáo Hội và trong cuộc đời của chúng ta. Vì thế, không gì và không có cách nào, dù quyền lực của thế gian, của sự ác, bất công và ma quỷ cũng không phá đổ nổi Giáo Hội của Chúa. Đi theo và trở thành môn đệ thì phải hiểu được quy luật căn bản, tất yếu của hành trình đức tin là: qua đau khổ rồi mới đến vinh quang; qua cái chết rồi mới được phục sinh.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết cậy trông nơi Chúa. Xin cho chúng con biết can đảm trung thành với ơn gọi và sứ mạng của mình, dù gặp phải bão táp phong ba. Những lúc như thế, xin Chúa soi sáng cho chúng con biết thưa với Chúa như các môn đệ khi xưa: “Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con!”. Amen.            

THỨ TƯ

HÃY SỐNG GIÁ TRỊ TIN MỪNG TRONG CUỘC ĐỜI

(Mt 8,28-34)

Xem lại thứ Hai tuần 4 TN

Trong sứ điệp ngày giới trẻ thế giới lần thứ 26 tại Madrid, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã viết:  “Có một xu hướng duy đời (laïciste) mạnh mẽ muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống con người và xã hội, toan tính kiến tạo một ‘thiên đường’ không có Thiên Chúa. Nhưng kinh nghiệm dạy rằng một thế giới không có Thiên Chúa là ‘một hỏa ngục’ trong đó, trổi vượt những ích kỷ, chia rẽ trong các gia đình, oán thù giữa cá nhân và các dân tộc, thiếu tình thương, niềm vui và hy vọng”. Và trong thông điệp Spe Salvi” Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã quả quyết: “Một nền nhân bản vắng bóng Thiên Chúa sẽ là một nên nhân bản phi nhân” (Thông điệp Spe Salvi, số 78).

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu xua đuổi ma quỷ ra khỏi hai chàng thanh niên ở Giêrasa. Sau đó, ma quỷ đã xin Đức Giêsu cho nhập vào đàn heo và lao xuống biển. Thấy thế, những người chăn heo chạy chốn và báo tin cho những người trong thành về sự kiện vừa mới diễn ra trước mắt họ, vì thế, dân trong thành đã ra đón Ðức Giêsu, nhưng khi gặp Ngài, họ đã xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ.

Những gì xảy ra thời Đức Giêsu khi xưa, thì trong xã hội hôm nay cũng đã, đang và sẽ xảy đến với chúng ta. Thật vậy, vẫn còn đó những cám dỗ về tiền tài, danh vọng và xác thịt do ma quỷ gây nên. Vẫn còn đó những thửa đất và môi trường thuận lợi cho ma quỷ hoành hành. Những thửa đất đó là: ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ, bất nhân nơi nhân tâm của con người.

Bên cạnh đó, hình ảnh chốn chạy của những người chăn heo vẫn còn tái diễn nơi những người thiếu trách nhiệm, sống vô kỷ luật và tán tận lương tâm. Và, vẫn còn đó hình ảnh những người sẵn sàng tin Chúa, nhưng không chấp nhận sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời như dân thành khi xưa đã mời Chúa ra khỏi nơi ở của họ.

Những thứ mà con người hôm nay hay lựa chọn thay cho những giá trị Tin Mừng là: tiền bạc bất chính, danh vọng hư ảo, hận thù ghét ghen, ma men tối ngày, ma đề triền miên, ma xác thịt , quỷ dâm loạn … Mỗi lần chúng ta lựa chọn các điều xấu xa như thế, ấy là lúc hình ảnh những người trong thành ra đón Chúa nhưng lại không thích Chúa ở lại trong thành của họ vì biết bao điều khuất tất họ đang làm lại tái diễn cách sống động nơi chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết chọn Chúa, đi theo Chúa và sống những giá Tin Mừng trong cuộc đời. Xin Chúa cũng giúp chúng con vượt qua được những cơn cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt. Amen.

 

THỨ NĂM

CHÚA LÀ ĐIỂM TỰA ĐỜI CON

(Ga 20, 24-29)

Xem lại thứ Sáu tuần 1 TN,

thứ Sáu tuần 6 TN và thứ Hai tuần 2 MV

Trong một căn phòng hậu phẫu, có nhiều bệnh nhân với những bệnh lý khác nhau. Các bệnh nhân thường hay kêu la đau đớn và tỏ vẻ khó chịu với thân nhân của mình. Tuy nhiên, những người hiện diện ở đó thật ngỡ ngàng khi nhìn thấy và chứng kiến một bệnh nhân trạc tuổi 60, ông không kêu ca, không trách móc, nhưng có lúc lại nở nụ cười tươi. Hỏi thăm, mới biết ông là người Công Giáo và phải mổ để cắt thận vì sỏi quá nhiều.

Trong lúc trò chuyện, có một người hỏi thăm ông: “Tại sao các bệnh nhân khác thì đau đớn và kêu la, còn ông thì không?” Trong tiếng nói nhỏ nhẹ, ông nói: “Mỗi lần cơn đau đến với tôi, tôi nhớ đến Chúa chịu đóng đinh. Ngài còn đau đớn hơn tôi nhiều, vì thế, tôi luôn cầu xin Chúa giúp sức để vượt qua cơn đau và tôi cũng xin Chúa cho mình được thông phần đau khổ với Ngài”. Thật tuyệt vời, Đức Giêsu là điểm tựa của ông, và cuộc thương khó, cái chết của Ngài đã làm cho ông can đảm, vui vẻ đón nhận đau đớn vì lòng yêu mến Chúa.

Tin Mừng hôm nay trình thuật cuộc đối thoại giữa thánh Tôma và các Tông đồ khác, hẳn ai cũng biết ngài là người cứng lòng tin, bởi vì thánh nhân đã từng nói: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin”. Như vậy, với ngài, không thấy là không tin. Thấy thì mới tin. Niềm tin của Tôma chính là: tay phải sờ, mắt phải thấy thì mới có sự thuyết phục. Niềm tin của thánh nhân là niềm tin của lý trí.

Tuy nhiên, Đức Giêsu muốn Tôma, các Tông đồ khác và cả chúng ta ngày hôm nay phải đạt tới mức độ vượt lên trên những gì là khả giác của đời thường, để tiến tới một đức tin trưởng thành, tức là không thấy mà vẫn tin: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.

Mong thay lời tuyên tín của thánh Tôma khi xưa: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” cũng là lời cầu nguyện và xác tín của mỗi chúng ta, và, lời chúc phúc của Đức Giêsu cho Tôma: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin” cũng là lời chúc phúc cho chúng ta hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu, đức tin của chúng con còn non yếu, xin Chúa giúp cho đức tin của chúng con được lớn mạnh và trưởng thành. Xin cho chúng con tin tưởng vào Lời Chúa và những lời dạy của Giáo Hội. Xin cho chúng con biết luôn tìm đến Chúa như là điểm tựa của cuộc đời chúng con. Amen.

 

THỨ SÁU

CẢM NGHIỆM ĐỂ LÀM CHỨNG

(Mt 9, 9-13)

Xem CN 10 TN A,

thứ Bảy tuần 1 TN và thứ Bảy sau lễ Tro.

 

Trong dịp lễ tạ ơn của một tân linh mục, mọi người hiện diện được nghe thấy cha mới chia sẻ lúc đầu lễ rằng: “Cộng đoàn cùng với con tạ ơn hồng ân Thiên Chúa đã ban cho con Thiên Chức linh mục, mặc dù con bất xứng, yếu hèn và vô dụng. Nhưng vì yêu thương, nên Chúa đã gọi và chọn con tiến lên bàn thánh để con trở thành linh mục của Chúa”. Câu nói đó của tân linh mục diễn tả một sự cảm nghiệm sâu xa tình thương mà Chúa dành cho cha.

Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu gọi ông Mátthêu, người thu thuế, hẳn ông cũng cảm thấy mình bất xứng vì công việc bất chính của ông đang làm. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã gọi ông để ông trở thành môn đệ.

Khi nghe thấy tiếng Chúa mời gọi, ông đã cảm nghiệm được tình yêu của Đức Giêsu, nên ông đã dứt khoát đứng dậy, rời khỏi bàn thu thuế, nơi ông đang làm việc, nơi ông đã gắn bó, nơi là sự nghiệp đã nuôi sống ông và gia đình ông, để đáp lời mời gọi đầy trìu mến và đi theo Đức Giêsu.

Thật vậy, một tình yêu, một lòng mến, Đức Giêsu đã gọi ông. Cũng một tình yêu, một lòng mến, ông đã đáp lại tiếng Đức Giêsu mời gọi, để tiếp bước trên hành trình loan báo Tin Mừng tình thương của Chúa trong cuộc đời môn đệ nơi ông.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhận ra mình bất xứng để cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình. Mặt khác, từ những gì đã cảm nghiệm, Chúa cũng muốn mời gọi chúng ta sẵn sàng cảm thông cho những yếu đuối của anh chị em mình, sống khiêm tốn và đón nhận Thánh giá trong hành trình môn đệ của mình như một hồng ân.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con đã được Chúa yêu thương quá nhiều, dù chúng con bất xứng. Xin Chúa cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho chúng con, để rồi chúng con ra đi loan báo về tình yêu đó cho anh chị em mình. Amen.

 

THỨ BẨY

HÃY ĐỔI MỚI

( Mt 9, 14-17)

Xem lại CN 8 TN B,

Thứ Hai tuần 2 TN, thứ Sáu sau lễ Tro

và thứ Sáu tuần 22 TN.

Đã nhiều lần Đức Giêsu bị những người Pharisêu cho rằng Ngài không giữ Lề Luật của Môsê. Họ kết án Đức Giêsu là người vô kỷ luật. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã phủ nhận chuyện đó và Ngài đã khẳng định: “Tôi đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng là để kiện toàn”. Thật vậy, Lề Luật Cựu Ước chỉ là một sự chuẩn bị cho Con Người và sứ vụ của Đức Giêsu đến mà thôi.

Nhưng nay, thời đã điểm và Đức Giêsu đã đến, Ngài hiện diện như những gì các tiên tri đã tiên báo và Lề Luật của Môsê hướng tới. Vì thế, giờ đây, chính Ngài là nội dung của Luật, nên hãy sống với một tinh thần mới chứ không phải mong đợi nữa, vì Chàng Rể là Đức Giêsu đã đến.

Tinh thần mới ở đây chính là lòng bao dung, tha thứ, hiền hòa, nhân hậu, từ bỏ con đường tội lỗi. Đổi mới bầu da cũ là bỏ đi nếp sống không còn phù hợp với Tin Mừng và thay vào đó là những cách sống mà Đức Giêsu đã vạch ra, đó là: “Mến Chúa và yêu người”. Thiên Chúa không thể đổ tràn ân sủng mới của Ngài vào trong một thân thể cũ với đầy những tội lỗi, những thù hằn, ghen ghét …

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức mình là người tội lỗi, để đáng được đón nhận tình yêu của Chúa, và để Chúa đổi mới chúng con. Amen.

PHIÊU LƯU THEO CHÚA

AM. Trần Bình Anan2

Chia sẻ Tin Mừng CN 13 TN NC 2016 (Lc 9, 51-62)

Trong lá thư đề ngày 21/10/2010 gởi các Giám Mục Ba Tây, Đức Cha Luis Gonzaga Bergonzini (1936-2012) của giáo phận Guarulhos cho biết, ngài nhận được những lời hăm doạ sẽ lấy mạng ngài, nhưng ngài sẽ vẫn tiếp tục cuộc chiến chống lại chính sách phò phá thai của đảng cầm quyền.

Các quan sát viên ghi nhận đảng cầm quyền của tổng thống Lula da Silva, đang tỏ ra lúng túng trước những lời chỉ trích mạnh mẽ của các Giám Mục Ba Tây, đặc biệt trong thời điểm gần kề ngày tổng tuyển cử dự trù diễn ra vào ngày 31/10/2010.

Trong một chuyển biến ngoạn mục chứng tỏ những lời chỉ trích của các Giám Mục Ba Tây, mà mạnh mẽ nhất là Đức Cha Gonzaga, đã có hiệu quả rất cao, Dilma Rousseff, nữ ứng cử viên tổng thống của Đảng Công Nhân Ba Tây tuyên bố, là cá nhân bà ta không ủng hộ việc hợp pháp hoá phá thai tại Ba Tây và chính bà, nếu được đắc cử tổng thống, sẽ không bao giờ yêu cầu Quốc Hội nước này, thông qua luật cho phép phá thai.

Trước đó, bà Dilma Rousseff, người được tổng thống Lula da Silva đưa ra tranh cử cho Đảng Công Nhân của ông, đã nhiều lần tuyên bố ủng hộ việc hợp pháp hoá phá thai, coi đó là một trong các ưu tiên trong nhiệm kỳ của bà. Tuy nhiên, những người phò sinh tin rằng việc quay 180o trong lập trường của bà này chỉ là một sách lược nhằm đối phó với các chỉ trích của hàng giáo phẩm Ba Tây.

Đảng cầm quyền tại Ba Tây đã dùng các phương tiện truyền thông có trong tay để mạ lỵ cá nhân Đức Cha Gonzaga cho rằng ngài xen quá sâu vào các hoạt động chính trị của xã hội dân sự.

Về phần mình, Đức Cha Gonzaga giải thích trong thư gởi các Giám Mục rằng những hành động và tuyên bố của ngài “dựa trên lương tâm và Tin Mừng” và rằng ngài không ủng hộ cá nhân một ứng cử viên nào. “Tôi không muốn tạo ra bất cứ mâu thuẫn nào. Nhưng tôi cần phải làm rõ thái độ của một Giám Mục trong việc bênh vực Giáo Hội và các lệnh truyền của Thiên Chúa”.

Đi xa hơn việc mạ lỵ, trong tuần qua những kẻ cảm thấy bị phương hại bởi những chỉ trích mạnh mẽ của các Đức Giám Mục Ba Tây, đã gởi cho Đức Cha Gonzaga và tất cả các Giám Mục trong bang Sao Paulo những lá thư doạ giết.“Những lá thư ấy đang nằm trong tay cảnh sát,“ Đức Cha Gonzaga tiết lộ như thế. Ngài nói thêm rằng “chúng tôi không nao núng.”

Không chỉ bị tấn kích từ bên ngoài, các Giám Mục chống lại trào lưu phò phá thai của đảng cầm quyền đau đớn thay còn bị tấn công từ phía những người anh em của họ. Thông Tấn Xã Công Giáo Catholic News Agency cho biết các tuyên bố mạnh mẽ của các Giám Mục chống lại Đảng Công Nhân đã gây ra một cuộc tranh cãi bên trong Hội Đồng Giám Mục Ba Tây. “Những khuôn mặt như Giám Mục Demetrio Valentini của giáo phận Jales, người khét tiếng tôn sùng thần học giải phóng MácXít, đã gây sức ép buộc Đức Cha Gonzaga phải im lặng.” (Nguyễn Việt Nam, Giám Mục anh hùng. Càng bị dọa giết càng nói mạnh, Vietcatholic)

Không chỉ thế gian say mê văn minh sự chết, hăm he đe doạ lấy mạng Đức Cha Luis Gonzaga Bergonzini, nhưng đau đớn hơn, chính là những bạn đồng liêu của ngài lại đồng loã với sát nhân. Tuy nhiên mặc bao nguy hiểm, bao thách thức, hăm doạ, ngài vẫn sẵn sàng thí mạng sống, một mực quyết tâm theo Chúa đến cùng.

Trình thuật Tin Mừng Chúa nhật hôm nay nhắc đến ba người điển hình theo Chúa. Nghe Đức Giêsu thẳng thắn đáp lại, chẳng biết ba người đó có còn dám dấn bước đi theo Người nữa chăng. Bởi chưng, đó là một sứ vụ phiêu lưu, cấp bách và ưu tiên, chứ không như chuyện được chăng hay chớ, đầy cảm tính, nhất thời.

Sứ vụ phiêu lưu

Đang khi đi đường có kẻ thưa Người rằng: “Dù Thầy đi đâu tôi cũng sẽ theo Thầy.” Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu.” Người Việt vẫn quan niệm “an cư lạc nghiệp,” mong muốn làm sao ổn định mái nhà cư trú, rồi mới tính chuyện mưu sinh, làm ăn, hay lo chuyện đại sự. Thế mà Đức Giêsu đi rao giảng không cần đến nhà cao cửa rộng, chẳng cần cơ sở, trung tâm rộng rãi. Người cũng chẳng mấy quan tâm chuyện ăn uống. Đến nỗi có khi  các môn đệ dọc đường cồn cào đói lả, phải bứt vài bông lúa mì lót dạ trong ngày Sabat, thì bị ngay người Biệt phái rình rập bắt quả tang. Người đã phiêu lưu, mà còn kéo theo các môn đệ phiêu lưu cùng.

Phiêu lưu, Người sống đơn sơ, khó nghèo, thanh bần, không tích cốc phòng cơ, cũng chẳng đầu tư, tích luỹ tiền nong, của cải. Bởi vì gia nghiệp của Người chính là Chúa Cha.“Tất cả những gì của Cha đều là của con.”(Lc 15, 31) Vì lương thực của Người chính là vâng theo Thánh Ý.“Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 4, 34)

Người phiêu lưu khi chọn và giao quyền hành cho môn đệ Phêrô, một ngư phủ hậu đậu, ít học, yếu đuối phản Thầy. Người còn phiêu lưu hơn, khi khuyên đừng mang hành trang, lương thực, tiền bạc khi thi hành sứ vụ. ““Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo” (Lc 9, 3).

Người muốn những ai muốn theo Người cần có đầu óc và tâm hồn khoáng đạt, thoát khỏi những nhu cầu, những điều kiện vật chất, mà thế gian vẫn quen đòi hỏi, để được tự do, không bị ràng buộc, yêu sách, để sẵn sàng dấn thân đáp lại Ơn Gọi của Thiên Chúa, cũng như sẵn sàng nhập cuộc, hy sinh phục vụ tha nhân.

Sứ vụ cấp bách

Người thứ hai chấp nhận theo Chúa với điều kiện cho anh về chôn cất người cha mới qua đời trước đã.Người bảo một kẻ khác rằng: “Hãy theo Ta”. Người ấy thưa: “Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã.”Nhưng Người đáp: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa.” Một đòi hỏi khá khắt khe, tựa như vô lý, như mâu thuẫn với đạo lý thảo kính cha mẹ (Mt 15, 3-9), mà chính Người đã răn dạy. Nhưng không phải đơn giản vậy.

Với đòi hỏi khắt khe này, Đức Giêsu muốn đề cao bổn phận thánh thiêng vô cùng cấp bách, mà người Kitô hữu vẫn thường tỏ ra thờ ơ, lơ là, hữu ý, hay vô tình lãng quên trong cuộc sống thường ngày. Ngay từ 12 tuổi, cậu bé Giêsu đã xác tín bổn phận thiêng liêng khẩn cấp với phụ mẫu: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2, 49)

Người chết thì đã mãn phần rồi, người sống cần mau mắn dấn thân phục vụ cho bao người khác đang có nhu cầu tâm linh, đang khát khao tìm đến chân lý, sự thật và sự công chính trong Tin Mừng. Thánh Phaolô diễn tả việc đi theo Chúa không thể nào chậm chạp, lẹt đẹt, ì ạch, bước tới, mà là vội chạy theo Người. “Tôi đã không chạy uổng công, và đã không lao nhọc vô ích.” (Pl 2, 16) Thánh nhân còn xác quyết hơn nữa: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin.” (2Tm 4, 7)

Sứ vụ ưu tiên

Đi theo Chúa là sứ vụ ưu tiên hàng đầu, không để bất cứ việc gì có thể ngăn trở, níu kéo sao nhãng, bỏ dở chừng. “Một người khác thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã”. Nhưng Chúa Giêsu đáp: “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa.”

Tình cảm gia đình tuy rất cao quý, đáng trân trọng, nhưng cũng phải xếp đằng sau chỗ đứng của sứ vụ. Theo Chúa là can đảm vượt lên trên những mối dây tình cảm huyết tộc, thân bằng quyến thuộc, hay riêng tư. Đức Giêsu đã kêu gọi người Kitô hữu vượt qua nhu cầu vật chất, không dính bén với của cải, nhà cửa, tiện nghi, nay còn cần vượt nhu cầu tình cảm, ưu tiên theo Người.

Trong từng phút giây cuộc đời, bất cứ ai cũng phải đấu tranh chính bản thân, qua việc chọn lựa theo Chúa hay theo thế gian. Không thể chần chờ, lưỡng lự, cân nhắc, chờ bao giờ có đầy đủ hành trang, của cải, quyền hành, chức tước, con cái, mới nhẩn nha đi theo Chúa. Bởi vì chẳng bao giờ có thể đầy đủ với lòng tham vô đáy, với những cám dỗ hưởng lạc vô chừng, với những thói háo danh bất tận.

Thánh Phaolô đã công khai sự chọn lựa minh bạch của mình với tín hữu thành Philipphê: “Tôi còn coi mọi sự hết thảy là thua lỗ bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giê su Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô.” (Pl 3, 8)

“Hãy theo Thày!” Các tông đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa, con có dứt khoát một phen theo Chúa không? Chúa phải gọi con mấy lần rồi?” (Đường Hy Vọng, số 61)

Lạy Chúa Giêsu, xin giải thoát chúng con khỏi ách nô lệ của cải, tiền tài, khỏi bản năng, thú tính, khỏi cám dỗ danh lợi, khỏi tình cảm gia đình, khỏi tất cả những gì thân xác, thế gian, ma quỷ, đang ra sức ràng buộc, níu kéo, để chúng con có thể can đảm, mạnh dạn, dứt khoát bỏ mình, bỏ mọi sự, đi theo Chúa.

Khấn xin Mẹ cầu bầu và cứu thoát chúng con khỏi chốn lưu đầy, khỏi thung lũng nước mắt này. Mẹ vẫn biết chúng con yếu đuối, nặng nề, hay chao đảo, mềm lòng trước những cám dỗ thế gian. Cúi xin Mẹ thương ban cho chúng con tràn đầy lửa mến, vững chãi niềm tin và hoàn toàn phó thác cậy trông vào Chúa. Amen.

SỐNG THANH THOÁT ĐỂ HẠNH PHÚC

 Lm. Tạ Duy Tuyền 201600 tuye

Nước Pháp người ta vẫn tự hào về chị nữ tu Emmanuelle.  Nữ Tu này, đã từng được biết đến  như là “Nữ Tu lượm giẻ rách” tại Cairô, Ai Cập.

Năm 1971, Nữ Tu Emmanuelle đến sống giữa những anh chị em nghèo cùng tại khu nhà ổ chuột ở thủ đô Cairô, Ai Cập, và đi lượm rác kiếm sống như họ. Năm 1980, Nữ Tu đã thiết lập hội “Trợ Giúp Xã Hội và Y Tế cho Trẻ Em”, hiện có mặt hoạt động tại 9 quốc gia trên thế giới, và giúp cho khoảng hơn nửa triệu trẻ em.

Trong lần sinh nhật 87 của bà, người ta đã nêu câu hỏi dành cho bà: “làm sao Sour có thể chấp nhận sự mất tự do ấy khi sống cho người nghèo và hoàn toàn lệ thuộc vào người nghèo?” Vị nữ tu trả lời : “tôi lại nghĩ rằng nữ tu là người tự do nhất !” Trước sự ngạc nhiên của cử tọa, chị giải thích :

Với ba lời khấn hứa của đời nữ tu, tôi hoàn toàn tự do. Ba lời khấn đó là :

– Thứ nhất : nghèo khó, không giữ của riêng. Nhờ đó tôi không bị ràng buộc bởi những ham muốn tiền bạc, tài sản, không phải bon chen tìm kiếm chúng, không phải loay hoay để bám lấy chúng. Sống có nhà dòng lo, chết cũng nhà dòng lo nên tôi chẳng phải bận tâm đến nó.

– Thứ nhì : thanh tịnh, không dính vào tình yêu nam nữ. Nhờ đó tôi được giải thoát khỏi sự kềm tỏa của quý ông (mọi người cười) ! Không phải sợ chồng con hỏi đi đâu, bao giờ về, tôi hoàn toàn tự do sống cho người nghèo.

– Thứ ba : vâng lời, tuân phục bề trên. Nhờ đó, tôi được giải thoát khỏi chính tôi, tức là khỏi những ham muốn, khi thì thích đi đây, khi thì thèm đi đó, khi đòi làm chuyện này, lúc muốn làm chuyện nọ, của riêng tôi. Tôi để bề trên quyết định

Bà kết luận : với ba sự giải thoát ấy, tôi hoàn toàn tự do.

Và tôi có cảm tưởng những người nghèo đói sống trong những khu nhà ổ chuột ở Cairô, Ai Cập lại có vẻ hạnh phúc hơn những người giàu vì họ ít ham muốn… Và điều quan trọng là họ thỏa mãn với những gì mình có.

Cuộc sống con người quan yếu là hạnh phúc. Hạnh phúc không dựa vào tiền bạc, quyền lực mà hạnh phúc là sống thanh thoát khỏi những bon chen của tiền – tình – quyền. Có tiền mà không hạnh phúc thì cũng không bằng không tiền mà hạnh phúc. Có quyền lực mà không có tự do cũng không bằng thường dân mà thanh thản.

Cuộc sống sẽ đẹp biết bao khi con người biết sống thanh thoát khởi những ham muốn danh lợi thú trần gian. Đôi chân sẽ nhẹ nhàng để đến với mọi người. Đôi tay sẽ thanh thoát để trao ban. Tâm hồn sẽ lạc quan dẫu cuộc đời vẫn còn đó những khó khăn.

Hôm nay Chúa Giê-su cũng nhắc nhở người theo Chúa hãy sống thanh thoát với ảo ảnh trần gian. Chính Chúa cũng sống vượt ra ngoài những tiện nghi. Chúa không có nơi gối đầu để có thể thanh thoát ra đi đến với muôn nơi. Đôi chân Chúa không bị níu kéo bởi những tình cảm mau qua. Chúa đã chọn sống vì mọi người và cho mọi người. Cuộc sống của Ngài không tìm niềm vui riêng cho mình. Ngài không giữ lại cho mình một mái nhà, một người thân mà sẵn lòng bỏ lại đi đến tận cùng của hiến dâng cho đồng loại.

Xin cho chúng ta biết sống cao đẹp như Chúa khi biết sống mình vì mọi người. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống thanh thoát trước những mời gọi của danh lợi thú để tâm hồn luôn dành trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Amen

SỨ VỤ DỌN ĐƯỜNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC GIÊSU

Lm Đan Vinh

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

LỄ SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ

Is 49,1-6 ; Cv 13,22-26 ; Lc 1,57-66.80

SỨ VỤ DỌN ĐƯỜNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC GIÊSU

  1. HỌC LỜI CHÚA
  2. TIN MỪNG: Lc 1,57-66.80

(57) Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Êlisabét sinh hạ một con trai. (58) Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà. (59) Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép Cắt bì, và tính lấy tên cha là Dacaria mà đặt cho em. (60) Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: “Không, phải đặt tên cháu là Gioan. (61) Họ bảo bà: “Trong họ hàng của bà, chẳng có ai có tên như vậy cả”. (62) Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì? (63) Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gioan”. Ai nấy đều rất bỡ ngỡ. (64) Ngay lúc ấy, miệng lưỡi của ông lại mở ra. Ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa. (65) Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giuđê. (66) Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi sẽ ra thế nào đây?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em. (80) Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ítraen.

  1. Ý CHÍNH:

Bài Tin mừng hôm nay tập trung vào lễ nghi Cắt bì và Đặt tên con trẻ Gioan. Khi được chứng kiến những sự lạ lùng, nhất là sự kiện Dacaria được khỏi bệnh câm, mọi người đều bỡ ngỡ và thắc mắc về sứ mệnh của em nhỏ sau này. Về sau Gioan đã vào sống trong hoang địa cho đến khi ra vùng sông Giođan thi hành sứ mệnh tiền sứ: giúp dân Ít-ra-en chuẩn bị đón Đấng Thiên Sai là Đức Giêsu.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 59 : + Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép Cắt bì: Cắt bì là một nghi lễ có từ lâu đời trong đạo Do thái, do lệnh Thiên Chúa truyền (x Gs 5,2). Đây còn là một dấu chỉ hữu hình của Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Do thái mà mọi bé trai đều phải mang trên da thịt mình (x Xh 4,26). Tuy nhiên, Ngôn sứ Giêrêmia lại cho thấy cắt bì trong tâm hồn mới là điều quan trọng (x Gr 9,24; 4,4). Cũng như Gioan, Đức Giêsu cũng đã chịu nghi lễ Cắt bì và được đặt tên là Giêsu (x Lc 2,21).

+ Về sau, trong thời Giáo hội sơ khai: Theo đề nghị của thánh Phaolô, để các Kitô hữu gốc lương dân khỏi phải chịu đựng cái ách nặng nề của Luật Môsê mà họ không chu tòan được (x Gl 6,12.15), thì Công đồng Giêrusalem năm 49 đã quyết định như sau: không buộc lương dân xin gia nhập đạo công giáo phải chịu phép cắt bì của đạo Do thái trước khi chịu bí tích rửa tội (x Cv 15,5-6.10-11.28-29), mà chỉ đòi họ có thứ đức tin hành động nhờ đức ái trong Chúa Kitô là đủ (x Gl 5,6).

  1. CÂU HỎI:

1) Tại sao bà Êlisabét không đồng ý đặt tên cho con trẻ là Dacaria mà là Gioan ? 2) Hãy cho biết những sự lạ đã xảy ra trong nghi lễ cắt bì và đặt tên của Gioan Tẩy giả ? 3) Cắt bì là gì ? Những ai được chịu phép cắt bì ? Mục đích của phép cắt bì thế nào ? 4) Tại sao ngày nay khi theo đạo công giáo, lương dân không phải chịu phép cắt bì trước khi chịu phép rửa tội để gia nhập vào Hội thánh?

  1. SỐNG LỜI CHÚA:
  2. LỜI CHÚA: “Đức Kitô phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
  3. CÂU CHUYỆN: CUỘC ĐỜI CỦA GIOAN TIỀN SỨ:

Gioan là vị tiền hô của Chúa Giêsu (x.Mt 3,3). Gioan là con của ông Dacaria và bà Êlisabét. Cả hai thuộc dòng tộc tư tế. Bà Êlisabét là chị họ của Đức Maria, nên Gioan là anh bà con của Đức Giêsu. Cha mẹ của Gioan sống ở miền núi xứ Giuđê (x.Lc 1,39). Từ nhỏ, Gioan đã sống cuộc đời ẩn tu khổ hạnh trong sa mạc. Đến năm thứ 15 thời Hoàng đế Tibêria, Gioan mới xuất hiện tại vùng hoang địa miền Giuđê cạnh sông Giođan để rao giảng và làm phép rửa sám hối cầu ơn tha tội (x.Mt 3,1). Phép rửa của ông là một nghi thức thống hối kèm theo sự xưng thú tội lỗi (x. Mt 3,6). Gioan nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai khi ông giới thiệu Người với các môn đệ của ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1,29). Có lần đức Giêsu gọi Gioan là Êlia khác, là người lớn nhất trong Cựu ước, là tiên tri loan báo Nước Trời (x.Mt 11,2 –19; Lc 7,18-33).

Cuộc đời của Gioan kết thúc bằng khổ hình bị chém đầu trong nhà tù, do ông can đảm bênh vực cho công lý, dám lên tiếng can ngăn vua Hêrôđê không được lấy bà chị dâu Hêrôđiađê làm vợ. Do đó ông đã bị vua Hêrôđê tống giam vào ngục và sau đó ông còn bị bà Hêrođia-đê âm mưu hãm hại khiến ông bị vua Hêrôđê chém đầu cách oan ức trong ngục tối (x. Lc 9,7-9).

THẢO LUẬN: Chúng ta cần làm gì để noi gương nhân đức của Gioan như: khiêm nhường (x Ga 3,30), khó nghèo (x Mc 1,6-8), vâng phục (x Mt 3,13-15). trung tín (x Ga 1,35-37), thật thà (x Ga 1,20-23), dũng cảm (x Mt 14,3-4; Lc 3,7-9) ?

SUY NIỆM:

  1. Sứ vụ làm tiền hô đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai: Trước khi Đức Giêsu ra giảng đạo, tại miền núi xứ Giuđê nước Do Thái, người ta thấy ông Gioan ăn mặc cổ quái: áo bằng lông lạc đà, lưng thắt dây da thú, đồ ăn đạm bạc là châu chấu nướng với mật ong rừng… nên Thượng Hội Đồng Do thái ở thủ đô Giêrusalem đã cử mấy vị tư tế đến điều tra. Họ hỏi Gioan: “Ông có phải là đấng Thiên Sai không?” Gioan trả lời: “Tôi không phải là đấng Thiên Sai. Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến”. Rồi hôm sau, khi thấy Đức Giêsu đến với mình, ông Gioan đã giới thiệu Người với các môn đệ của ông như sau: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1,36). Nghe thầy giới thiệu, hai môn đệ của Gioan là Anrê và Gioan đã nghe thầy đi theo làm môn đệ Đức Giêsu.

Hôm nay Chúa cũng muốn mỗi người chúng ta thi hành sứ vụ dọn đường cho Chúa là giới thiệu Đức Giêsu cho tha nhân, và dẫn đưa họ đến trở thành môn đệ Chúa Giêsu. Đề nên giống Gioan, chúng ta không được coi mình là trung tâm và muốn cho mọi người đến với mình, nhưng phải giới thiệu để họ đi theo làm môn đệ của Chúa Giêsu.

  1. Sứ vụ kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và tin vào Chúa Giêsu: Tin Mừng thánh Luca (3,1-18) đã trình bày sứ vụ của Gioan là dọn đường cho Đấng Thiên Sai: Bạt đồi núi xuống, lấp thung lũng cho đầy, uốn thẳng con đường quanh co… nghĩa là Gioan dạy người ta phải ăn năn sám hối tội lỗi và làm những việc đạo đức bác ái. Đối với mỗi hạng người, Gioan đều có những lời răn dạy phù hợp: Ông gọi những người Biệt phái giả hình gian dối là loài rắn độc, không thể thoát cơn thịnh nộ của Thiên Chúa nếu không cấp thời ăn năn sám hối (x. Lc 3,7-9); Với những người thiện chí, Gioan khuyên họ phải có lòng thương xót, biết bố thí cơm áo cho người nghèo để rửa sạch tội lỗi (x. Lc 3,10-11); Với bọn người thu thuế, Gioan bảo họ không cần phải đổi nghề, mà chỉ cần giữ đức công bình, đừng ăn hối lộ, không được lạm thu bất chính (x. Lc 3,12-13); Với quân nhân, Gioan dạy họ đừng hà hiếp bóc lột ai, đừng dọa nạt ai, nhưng phải bằng lòng về số lương của mình (x. Lc 3,14)… Với tất cả mọi người, Gioan khuyên họ hãy chịu phép rửa là nghi lễ tỏ lòng khiêm hạ sám hối để đáng được Chúa tha tội và sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa (x. Lc 3,16). Khi các người Biệt phái hạch hỏi: “Nếu không phải là Đức Kitô, tại sao ông lại làm phép rửa?” Gioan đã giới thiệu về Đấng Thiên Sai là Chúa Giêsu qua câu nói khiêm hạ: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Đấng ấy sẽ rửa các ông bằng Thánh Thần và lửa.” (Lc 3,16).

Hôm nay, mừng lễ sinh nhật thánh Gioan, Thiên Chúa cũng muốn chúng ta trở nên những người tiền hô đi trước dọn đường cho Chúa như Gioan Tẩy Giả. Vậy chúng ta có giúp những người đến với mình nên tốt hơn không ? Có giúp họ nên giống Chúa Giêsu hơn không?

  1. Sứ vụ hy sinh tất cả để làm chứng cho Đấng Thiên Sai Giêsu: Ông Gioan luôn có lối sống khiêm hạ, làm cho mình nhỏ bé lại, để Chúa được lớn lên trước mặt mọi người. Ông đã nói với môn đệ khi họ báo cáo về công việc của Đức Giêsu với ông: “Thưa Thầy, người trước đây đã ở với thầy bên kia sông Giođan, và được thầy làm chứng cho. Bây giờ ông ấy cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông ấy.” Ông Gioan đã trả lời họ rằng : “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3,26)… “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30). Gioan đã luôn chu toàn sứ vụ giới thiệu Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai cho mọi người. Thay vì ganh tị, ông đã vui mừng khi thấy có nhiều người đã đến xin chịu phép rửa với Người (Ga 3,28-29). Ông cũng khuyến khích hai môn đệ thân tín là Anrê và Gioan bỏ mình theo làm môn đệ Đức Giêsu (x. Ga 1,35-37). Cuối cùng ông còn can đảm làm chứng cho sự thật, là đứng ra can ngăn vua Hêrôđê không được lấy bà chị dâu làm vợ, để rồi cuối cùng ông đã chịu chết vì hành động dũng cảm ấy.

Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta có sẵn sàng hy sinh công sức, tiền bạc… để loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu, tích cực góp phần giúp anh em lương dân nhận biết và gia nhập Nước Trời là Hội thánh Công giáo để cùng được hưởng ơn cứu độ của Chúa với chúng ta hay không?

  1. NGUYỆN CẦU

– LẠY CHÚA GIÊSU. Thánh Gioan đã thực hiện sứ vụ tiền sứ kèm theo những dấu lạ, khiến mọi người phải bỡ ngỡ thán phục. Đời con chẳng có những dấu lạ giống như ngài. Nhưng Chúa chỉ muốn con trở nên chứng nhân cho tình thương của Chúa. Xin cho con trở thành dấu chỉ để giúp người đời nhận biết Chúa qua lối sống bác ái yêu thương tha nhân và khiêm nhường phục vụ, nhất là phục vụ những người nghèo đói của con.

– LẠY CHÚA GIÊSU. Thánh Gioan Tẩy giả đã nêu gương khiêm tốn và can đảm làm chứng cho Chúa. Làm chứng trong cuộc sống hôm nay chính là: Tự làm cho mình lu mờ đi bằng việc ít nói về mình, không khoe khoang thành tích, và để Chúa được lớn lên nơi tha nhân. Làm chứng cho Chúa hôm nay cũng là: sống điều độ chừng mực, tránh lối sống xa hoa lãng phí hay chè chén say sưa. Làm chứng cho Chúa hôm nay còn là hy sinh tất cả, kể cả mạng sống của mình cho Chúa như Gioan xưa, hầu giúp nhiều người nhận biết và theo làm môn đệ của Chúa. Xin giúp chúng con luôn biết sống đơn sơ khó nghèo, can đảm làm chứng cho sự thật và không bao giờ chịu lùi bước trước những khó khăn trở ngại gặp phải trong cuộc sống hằng ngày.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

NGÀI CƯƠNG QUYẾT LÊN ĐƯỜNG

Lm Nguyễn Thái-ns. Hiepnhat

Chúa nhật 13 tn-c- Luca 9:51-62

“Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi ở đời này; Ngài cương quyết lên đường đi Gierusalem, và sai những ngươì đưa tin đi trước Ngài”.

Trong cuộc đời, những cuộc hành trình vĩ đại nhất là cuộc hành trình đi tìm sự tự do, trưởng th ành và độc lập của mỗi cá nhân, quốc gia và dân tộc.

Trẻ con thường hay than vãn khóc lóc khi phải vâng lời cha mẹ bắt buộc đi ngủ sớm, phải làm bài tập thay vì chơi game. Các cô cậu choai choai thường muốn được lái xe sớm hơn luật lệ cho phép.  Các anh chị thanh niên thường muốn được tự do yêu thương.  Người công dân trong một nước muốn có quyền tự do dân chủ.  Như vậy, từ cá nhân tới xã hội, theo bản tính tựnhiên, đời sống của con người là một hành trình đi tìm kiếm độc lập, tự do và hạnh phúc.

Năm 1775, Patrich Henry, một nhà ái quốc Mỹ đã nói: “Hãy cho tôi tự do hay là chết,” khi ông kêu gọi tiểu bang Virginia tham gia với 12 thuộc địa khác trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do, vượt ra khoi quyền cai trị của người Anh.  Những  lời phát biểu của ông Henry có một ý nghĩa rộng lớn hơn là chính biến cố lịch sử đó.  Chúng diễn tả cái ước vọng sâu xa nhất trong tâm khảm của con người.  tất cả mọi người đều muốn được tự do.

Ngoài ước muốn được tự do, độc lập và hạnh phúc sống trên trần gian, con người còn có một ngưỡng vọng cao quý hơn của tâm linh mà thánh Phaolo đã nhắc nhở cho chúng ta biết: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta.” (Gl 5:1).  Đức Kitô giải thoát chúng ta khỏi hận thù, tội lỗi và sự chết.  Ngài ban cho chúng ta tự do sống theo Thần Khí (Gl 5:13-25; Rm 8:9; 2Cr 3:17), tự do đích thực.  Đó là cuộc hành trình đi tìm ơn cứu rỗi của linh hồn.

Dag Hjalmar Agne Carl Hammarskjod (1905-1961), con trai của Thủ Tướng Thụy Điển , đã theo học luật và kinh tế. Sau đó ông trở thành giáo sư kinh tế học tại Đại học Stockhọm.  Rồi ông lần lượt giữ các chứcc vụ; chủ tịch hội đồng Ngân hàng Thụy Điển, Quốc Vụ Khanh, trưởng  phái đoàn Thụy Điển ở Liên Hiệp Quốc, và sau cùng Tổng Thư Ký liên hiệp Quốc từ năm 1953, Hammarskjold đã nói về những ảnh hưởng của cha mẹ trên cuộc đời ông như sau:

“Tôi đã thừa hưởng của cha tôi, những thế hệ csc chiến sĩ và nhân viên chính phủ, một niềm tin tưởng rằng, không có đời sống nào hạnh phúc hơn đời sống của một người hy sinh phục vụ quên mình vì tổ quốc hay vì nhân loại. Sự phục vụ này đòi hỏi phải hy sinh tất cả mọi ích lợi riêng tư, giống như lòng can đảm, không lùi bước vì những niềm xác tín của bạn.  Tôi đã thừa hưởng từ phía mẹ tôi, những học giả và những giáo sĩ, có một niềm xác tín rằng, trong ý nghĩa căn bản nhất của các Phúc Âm, tất cả mọi người đều bình đẳng với nhau vì là con cái  Thiên Chúa.  Chúng ta cần gặp gỡ và đối xử với họ như những người làm chủ trong Thiên Chúa.”

Trong vai trò Tổng Thư ký Liên HIệp Quốc, Hammarskjolk đã lên đường thực hiện biết bao nhiêu cuộc hành trình nòại giao trên khắp thế giới để dàn xếp, hòa giải và moang lại hoà bình cho các quốc gia, đặc biệt trong những vùng đang tranh chấp gay cấn như ở Đông Nam Á, Phi Châu, và Trung Đông. Năm 1961 ông được giải thưởng Nobel về Hòa B ình cũng là năm ông qua đời trong một tai nạn rớt máy bay tại Phi Châu.  Mặc dù cuống sách của ông có tựa đề “Markings” vẫn chưa được xuất bản khi ông qua đời, nhưng những lời ông viết đã tiên đoán cho số phận của ông: “cuộc hành trình dài nhất là cuộc hành trình nội tâm của một người mà chính họ đã chọn lựa số phận của mình”.

Lời của ông Hammarskjold cũng đã diễn tả đoạn phúc âm hôm nay của thánh Luca, Lc 9:51-62, nói về quyết định của Chúa Giêsu: “Vì gần thời gian Ngài phải cất khỏi đời nầy, Ngài cương quyết lên đường đi Giê ru sa lem” (Lc 9:51).  Lên đường đi Giêru sa lem để bắt đầu cuộc hành trình nội tâm.  Cuộc hành trình sẽ dẫn tới cuộc thương khó, sự chết, sống lại và lên trời của Chúa Giêsu.  Cuộc hành trình mang lại tự do đích thực cho nhân loại, và giải thoát con người khỏi sẹ nô lệ của tội lỗi.

Lịch sử của dân Thiên chúa trong Cựu Ước là lịch sử của những cuộc hành trình.  Tổ phụ Á ra ham đã được Chúa gọi để lên đường thực hiện cuộc hành trình về miền đất hứa (St. 12:1). Mô sê dẫn dân Chúa rời bỏ Ai Cập đi vào cuộc hành trình 40 năm trong  sa mạc tiến về miền đất hứa đó (Xh 13:37).  Tioên Tri Ê li sa từ bỏ việc đồng áng thực hiện cuộc hành trình theo tiên E lia a (2V 19:19-21).

Theo các học giả thánh kinh, Phúc Âm của Thánh Luca cũng là bản tường thuật về những cuộc hành trình.  Mỗi cuộc hành trình đều có một ý nghĩa thiêng liên trong vai trò cứu rỗi nhân loại của Chúa giêsu.  Khởi đầu là cuộc hành trình của Đức maria đi thăm viéng bà thánh E li sa bét đem Tin mừng cứu rỗi (Lc 1:39).  Cuộc hành trình của maria và Giuse lên thành Bêlem sinh Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ (Lc 2:5). Sau đó, cuộc hành trình lên Giê ru sa lem dâng Chúa Giêsu cho Thiên Chúa Cha (Lc 2:22) v.v… cuối cùng, cuộc hành trình của Chúa Giêsu lên Giêru sa lem (Lc 19:29) để cử hành lễ Vượt Qua, chịu chết, sống lại và hiện ra với hai môn đệ trên cuộc hành trình đi về Emmau (Lc 24:13-35).

Tất cả những cuộc hành trình này, do tài năng khéo léo của Luca, đã được sắp xếp dàn dựng rất tài tình để ăn khớp, hòa nhịp với cuộc hành trình vĩ đại bắt đầu trong bài phúc âm hôm nay ở chương 9; lên Giêru sa lem; và kết thúc ở chương 19; Chúa Giêsu vào thành Giêru sa lem, dân chúng trải áo xuống đường đón rước ngài bằng cành lá Ô liu (Lc 9:51 – 19:44). Qua 10 chương thánh kinh này, các học giả thánh kinh gọi là “bản tường thuật về cuộc hành trình, chiếm hết   /3 phúc âm của Luca.  Luca muốn chúng ta phải nghĩ rằng Chúa Giêsu đang sửa soạn cho chính Ngài cuộc hành trình dẫn đến sự thương khó, sự chết, sống lại và lên trời.

Từ cuộc hành trình cứu độ của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, lca tiếp tục dẫn đưa độ giả vào những cuộc hành trình truyền giáo của Giáo Hội.  Cuộc hành trình làm chứng nhân của các thánh Tông đồ (Cv 1:8, 12; 16:6-7), với ba cuộc h ành trình truyên giáo hàng ngàn dặm của thánh Phao lô trong Công Vụ Tông Đồ từ chương 19 tới 28.  Người ta ước tính rằng Thánh Phao lô đã đi lối 8,000 cây số đường bộ, và từ 9,000 tới 10,000 cây số đường biển.  Sau cùng là cuộc hành trình đức tin của riêng mỗi người Kitô Hữu.

Cuộc hành trình vĩ đại của Chúa Giêsu lên  Giêru salem cũng là cuộc hành trình mà mỗi người Kitô hữu chúng ta pahi tực hiện. Chắc chắn mỗi người chúng ta phải bước trên con đường dẫn đến thành Giêru salem trên trời.  Chúng ta sẽ cần đến những hướng dẫn cho cuộc hành trình quan trọng đó.  Và may thay chúng ta tìm thấy trong 10 chương của bản tường thuật về cuộc hành trình này: đó là cẩm nang hướng dẫn của những người hành hương về quê trời, là sổ tay của môn đệ Chúa Giêsu Kitô.  Những hướng dẫn đó sẽ dạy chúng ta biết cách phải bước theo Chúa Giêsu trên cuộc hành trình đầy đau khổ và thử thách (Lc 9:23).

Ở đây, trong bài phúc âm hôm nay, chúng ta có những lời phán dạy của Chúa với ba người muốn lên đường thực hiện cuộc hành trình làm môn đệ của ngài:

1-Phải chấp nhận gian khổ: Lời khuyên cho người thứ nhất trước khi bước theo Ngài là phải chấp nhận gian nan thử thách. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9:58).  Chúa Giêsu không chơi trò quảng cáo, phỉnh lừa, cho ăn bánh vẽ, hứa hẹn vinh quang giả tạo… Ngài thẳng thắn và chính trực. Chẳng thà có ít người theo Chúa, nhưng họ dám iều mạng sống cho ngài.

2-Phải quyết định ngay bây giờ: Người thứ hai xin trở vè chôn cất cha đã rồi mới theo.  Điều này có nghĩa là: “Tôi sẽ theo Ngài sau khi cha tôi chết đã.” Để giải thích lý do này, William Barlay đã kể câu chuyện sau đây:

Một nhân viên bộ ngoại giao Anh Quốc phục trách các nước phương Đông kể chuyện một thanh niên Ả Rập rất thông minh tuấn tú.  Anh đã nhận được một học bổng ở trường Đại hộc Oxford hay Cambridge.  Nhưng anh đã trả lời rằng: “Tôi sẽ nhận học bổng ngày sau khi chôn cất cha tôi đã”.  Hiện nay cha của anh mới hơn 40 tuổi!

3-Phải dứt khót từ bỏ: Phúc Âm diễn tả thái độ dứt khoát từ bỏ của Pherô và Anrê: “Lập tức, hai ông bỏ chài lưới mà đi theo người” (Mt 4:20), của Giacôbê và Gioan: “Lạp tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4:22).

Đối với người thứ ba còn đang lưỡng lự, nhập nhằng nửa muốn theo nửa còn quyến luyến thế gian, Chúa Giêsu nói, “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa’ (Lc 9:62).  Không một người cày ruộng nào có thể quay đầu lại đằng sau mà điều khiển cái cày đi thẳng đường phía trước được.Có một số người luôn để lại con tim ở một nơi nào, cho một ai đó trong quá khứ như bài hát “Để quên con tim” của Đức Hy: “Ngày rồi Paris anh đã để quên con tim”, hay đi tìm hạnh phúc ở sự tiếc nuối những ngày tháng huy hoàng đã qua!

Tại một quốc gia nọ, việc cấm đạo và bắt bớ người Kitô Hữu đang trở nên rất khắt khe.  Những người Công giáo của một ngôi làng kia đang tụ họp nhau trong nhà thờ dâng Thánh Lễ.  Thình lình cánh cửa nhà thờ bị mở tung ra.  Đứng trước họ là một người lính đang lăm le khẩu sung máy đe dọa.  Với vẻ giận dữ, anh lớn tiếng nạt nộ: “Nếu ai thực sự không tin vào Đức Kitô, hãy mau mau bước ra khỏi nhà thờ này ngay lập tức để khỏi phải chết.”  Có một số người từ từ lén bước ra ngoài nhà thờ.  Khi họ bước ra ngoài rồi, người lính bèn đá cánh cửa khép lại sau lưng.  Rồi anh hạ giọng xuống nói với những người còn lại trong nhà thờ rằng: “Tôi cũng tin vào Chúa Giêsu. Tốt hơn hết là chúng ta không nên có những người đang ở ngoài kia”.

Những người còn lại trong nhà thờ tuy khiếp sợ, nhưng họ không có ý muốn rút lui.  Họ đã muốn theo chân Chúa Giêsu thực hiện cuộc hành trình lên Giêru salem tiến vào Vương Quốc Thiên Chúa bằng mọi giá (Lc 9:24; 17:33).  Không ai trong số họ đã nghĩ rằng làm môn đệ Chúa Giêsu luôn luôn dễ dàng (Lc 9:18-24; 14:26-27; Mt 10:37-38; Ga 12:25-26).  Mỗi người phải trải qua một cuộc hành trình lên Giêru sa lem đầy thử thách để tiến về que trời (Pl 3:20; Dt 11:15-16).

THIÊN CHÚA CẤT TIẾNG GỌI CON NGƯỜI ĐÁP TRẢ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XIII năm –  C

( Lc 9, 51-62)

Bước vào Chúa nhật thứ XIII thường niên, với chủ để chính là : ” Chúa cất tiếng gọi“. Ngỏ lời là sáng kiến của Thiên Chúa và con người đáp trả. Êlia và Êlisê là hai nhân chứng. Chúa đã dùng Êlia gọi Êlisê, Êlisê đáp trả (x.1 V 19,16b.19-21). Vì là sáng kiến của Thiên Chúa nên Chúa gọi người Chúa muốn :”Hãy theo Ta” (Lc 9, 51-62). Hôm qua cũng như hôm nay, Thiên Chúa vẫn đến gọi con người ngay giữa dòng đời. Chúa gọi Êlisê khi ông đang cày ruộng (x.1 V 19, 19). Tiếng gọi của Thiên Chúa là nhất. Chúa gọi, Êlisê không thể trốn được, đến nỗi ông không nói được gì. Tiếng gọi của Thiên Chúa là bắt buộc. Êlia làm điều tốt cho Êlisê khi ông đòi trở về nhà để hôn chào cha mẹ. Êlisê bỏ bò lại và chạy theo Êlia mà nói rằng: “Tôi xin đi hôn cha mẹ tôi, rồi tôi theo ngài” (1 V 19, 20).

Khung cảnh thật đơn sơ, nhưng đầy xúc động, không giấu được. Khi Chúa gọi con người, con người không thể cưỡng lại, Ngài không dùng sức mạnh để áp đặt. “Êlisê con ông Saphát, đang cày ruộng với mười hai cặp bò, chính ông đang dẫn cày cặp thứ mười hai” (1 V 19, 19) nghĩa là công việc gần xong. Thiên Chúa đến ra cho ông một chân trời mới. Qua trung gian Êlia, Thiên Chúa gọi Êlisê một cách rất kín đáo : “Khi Êlia đến trước ông, thì đặt áo choàng mình trên ông” (1 V 19, 19).  Không một lời chiêu mộ, không một huấn lệnh để bắt ông vâng theo. Êlisê thấy sự công chính và hành động ngôn sứ của Êlia, ông hiểu theo lòng mình. Tiếng Chúa gọi lay động lòng người.

Để đáp lại tiếng Chúa, con người phải có tự do là lẽ đương nhiên. Tự do này do Đức Kitô mang lại cho chúng ta. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô nói : “Đức Kitô giải thoát chúng ta để chúng ta thực sự tự do” (Gl 4, 31b). Chúng ta chỉ thực sự tự do khi chúng ta hoàn toàn đáp lại tiếng Chúa. Từ lúc Thiên Chúa gọi đến lúc con người đón nhận ân sủng để đáp trả cách tự do là cả một thời gian dài để đắn đo và cân nhắc. Như Êlisê, hành động trước tiên là ông thu mình vào trong dĩ vãng, và tìm kiếm sự an toàn nơi gia đình. Đây là người chắc chắn, nhưng ơn của Thiên Chúa là không đổi. Êlia từ chối sự trốn chạy của Êlisê, dù Êlisê không lượm áo choàng Êlia tặng cho. Khi Êlisê tìm gặp được sức mạnh, ông nắm bắt ngay, ông bỏ lại tất cả những gì mình đang có để dâng hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa.

Tương tự như bài Tin Mừng, có ba người được gọi (x. Lc 9, 51-62). Nhưng lịch sử cuộc đời của mỗi người khác nhau. Vấn đề là tiếng Chúa gọi và sự đáp trả của con người.

Câu hỏi được đặt ra cho người thứ nhất khiến chúng ta suy nghĩ. Trước hết, anh không được Đức Giêsu gọi, anh đến xin làm môn đệ Người (x. Lc 9, 57). Giống như ở trường các thầy Rabbi, học trò đến xin theo học. Đức Giêsu không ở trong trường đặc biệt này, Người không có điều kiện ổn định, Người đang trên đường. Bước vào trường Giêsu  là lên đường, từ bỏ tất cả những gì ổn định, ngay cả gia tài và địa vị. Theo Đức Giêsu là gắn bó với Người, lên đường tiến về phía trước, cần phải tự mình quyết định, nhưng không thể tiến bước một mình.

Người thứ hai là một ngoại lệ. Chính Đức Giêsu gọi anh. “Hãy theo Ta” ( Lc 9, 59). Người này được kêu gọi cách đặc biệt đi vào trong giao ước tình yêu gắn kết với Thầy. Đối với anh, Đức Giêsu yêu cầu từ bỏ cách triệt để, không trở về chôn cất mẹ cha. Khi anh thưa: “Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã”. Nhưng Người đáp: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa” ( Lc 9, 59 – 60). Chúng ta không biết anh đáp lại ra sao. Nhưng đòi hỏi ở đây cho thấy, phục vụ Nước Trời luôn kéo theo một sự từ bỏ tận căn. Từ bỏ chính là thước đo tình yêu của ta đối với Đức Giêsu.

Người thứ ba xin theo Đức Giêsu với điều kiện (x. Lc 9, 61). Như trong bài đọc I, thái độ là điều cần phải suy nghĩ. Đối với Đức Giêsu tra tay vào cầy, nghĩa là đang phục vụ người khác chuẩn bị cấy cầy, ngoái lại sau là bỏ dở việc. Quyết định này làm sáng tỏ điều trên. Từ bỏ gia đình không phải là một từ bỏ, vì nó mở ra một gia đình khác. Theo Chúa không loại trừ gia đình đầu tiên nhưng là vượt qua. Gia đình Thiên Chúa là gia đình có Thiên Chúa hiện diện, liên kết hết mọi người lại với nhau một cách chặt chẽ sâu xa hơn gia đình tự nhiên.

Tóm lại, nhân đức đầu tiên của trang Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống chỉ đẹp khi thực sự sống tự do. Chính tự do, Đức Giêsu “dứt khoát ” lên đường đi Giêrusalem nơi Người biết rằng mình sẽ chết. Giá trị của cuộc sống lớn lao hơn khi người ta sử dụng tự do để phục vụ sự sống cho người khác. Cần bước qua những thử thách trong đời, lằng nghe tiếng Chúa gọi và đáp trả. Lịch sử nhân loại chúng ta đang sống, người này liên đới với người kia. Thánh Phaolô khuyên chúng ta : “Ước chi tự do của anh em không phải là cái cớ để làm thoải mãn tính ích kỷ của anh em, trái lại, anh em hãy phục vụ mọi người trong tình yêu” (Gl 5,13).

Công Ðồng Vaticanô II quả quyết rằng “kẻ được Thiên Chúa Cha kêu gọi… theo ý định của ân sủng Ngài” (Lumen Gentium, số 40). Đúng thế, theo Chúa là ra khỏi ý định riêng tư, để đặt mình trong bàn tay và ý định nhiệm mầu của Chúa. Đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa là đặt mình trên đường theo Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con thưa với cả cuộc đời : “Lạy Chúa, này con đây, con xin đến để thi hành thánh ý Chúa” (x. Dt 10,7).

HÃY THEO THẦY

Lm. Antôn Nguyễn Văn ĐộAntonius-Do300

Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XIII – C

(Lc 9, 51 – 62)

Thánh sử Luca trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu, đang khi trên đường hướng về Giêrusalem đã gặp một vài người, có lẽ là đang tuổi thanh xuân, họ hứa sẽ đi theo Người khắp nơi. Chúa Giêsu đã tỏ ra rất yêu sách đối với người bắt gặp dọc đường đến xin : “Dù Thầy đi đâu tôi cũng sẽ theo Thầy” (Lc 9, 57), Chúa cảnh báo cho người ấy biết rằng “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người, tức là Ðấng Mesia – không có chỗ gối đầu” (Lc 9, 58), nghĩa là không có một nơi thường trú, và ai đã chọn làm việc với Người trong cánh đồng của Thiên Chúa thì không được quay trở lại (x. Lc 9,57-58.61-2). Với một người khác, Chúa Giêsu nói: “Hãy theo Ta“, và yêu cầu anh cắt đứt mọi ràng buộc với gia đình (x. Lc 9,59-60).

Chúa nhật tuần trước, Chúa Giêsu đã phán với chúng ta rằng : “Kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất …” (Lc 9,23). Hôm nay tương tự như thế Chúa đòi hỏi tất cả : “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 62). Yêu cầu của Chúa Giêsu thật quá khắt khe, vì tất cả những điều người ta giữ thật rất tự nhiên và phù hợp với đạo lý gia đình mà bất ai làm người cũng phải phải có như “hôn chào cha mẹ” và nhất là “chôn cất mẹ cha”. Còn gì tự nhiên và ý nghĩa hơn lòng biết ơn đối với người thân chúng ta như cha như mẹ, ấy vậy mà cử chỉ cuối cùng của tình yêu là “chôn cất cha” cũng phải từ bỏ.

Những đòi hỏi trên xem ra quá đáng, nhưng thực ra chúng diễn tả sự mới mẻ và ưu tiên của Nước Thiên Chúa hiện diện ở nơi bản thân của Chúa Giêsu. Nói cho cùng, tính cách triệt để bắt nguồn từ Tình yêu của Thiên Chúa mà Đức Giêsu là kẻ đầu tiên đã vâng theo. Phàm ai từ bỏ mọi sự, kể cả bản thân mình, thì đi vào một chiều kích mới của tự do, được thánh Phaolô định nghĩa như là “bước theo thần trí” (xc. Gl 5,16). Thánh Phaolô viết: ” Chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta“, và ngài giải thích rằng hình thái mới của sự tự do mà Đức Kitô đã chinh phục cho chúng ta hệ tại việc “phục vụ lẫn nhau” (Gl 5,1.13). Tự do và yêu thương trùng hợp với nhau. Ngược lại, việc tuân theo tính ích kỷ dẫn tới hiềm khích và xung đột.

Hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta suy nghĩ về cách chúng ta theo Chúa. Điều quan trọng là chúng ta phải biết theo Chúa với cách thức Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta. Giacôbê và Gioan vẫn chưa học được sứ điệp tình yêu và sự tha thứ nên các ông mới thưa cùng Chúa : “Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu hủy chúng không?” (Lc 9,54). Các môn đệ thì Chúa mời gọi từ bỏ gia đình và người thân. Để theo Chúa Giêsu Kitô và thi hành sứ mạng chúng ta được trao phó, tất cả chúng ta phải thanh thoát khỏi những ràng buộc hầu xứng đáng với Nước Thiên Chúa (x. Lc 9,62)

Hãy theo Thầy“. Lời mời gọi trên của Chúa Giêsu vẫn thật cấp bách gửi đến mỗi người chúng ta. Theo Thầy, trở nên môn đệ Thầy để mở mang Nước Chúa. Kẻ đi theo làm tông đồ cho Chúa cần ý thức về sứ mạng của mình là truyền giảng Tin Mừng của Chúa Kitô. Vì, chỉ có tình yêu của Thiên Chúa mới có thể qui tụ những con người thuộc đủ mọi sắc tộc, màu da, tiếng nói, khác nhau về văn hóa thành một gia đình, lúc ấy mới có thể hàn gắn những vết thương đau bởi chia rẽ, khác nhau về ý thức hệ, bất bình đẳng kinh tế và những cuộc tấn công bạo lực đàn áp nhân loại cho đến hôm nay. Qua việc truyền giảng Tin Mừng, người tín hữu giúp mọi người nhận ra mình là anh chị em với nhau.

Theo Chúa Giêsu không chỉ có từ bỏ mà còn vác thập giá (x. Lc 9, 22). Từ bỏ cũng có nghĩa là từ chối nhiều điều kiện “thuận lợi ” trong cuộc sống giúp thăng tiến bản thân. Khi lựa chọn bước theo Chúa Giêsu, như các Tông đồ, bỏ buông thuyền lưới, gia đình, nghề nghiệp. Con đường theo Chúa Giêsu không trải đầy nhung lụa mà là những gai nhọn và gian nan. Con đường đó dẫn lối về hạnh phúc cho những ai dám từ bỏ mọi sự để sống cho Chúa, dám sống đời hèn mọn, dám sống đời tận hiến với quyết tâm thuộc trọn về Chúa suốt đời. Đó là Ơn Gọi cho những người bước đi theo Thầy Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nhận ra những tiếng gọi mời của Chúa, giúp chúng con bước theo và thực thi cách trung thành. Xin cho nhu cầu truyền giáo của Giáo hội luôn là tiếng gọi chúng con phải quan tâm để ý. Lạy Đức Trinh Nữ Maria Nữ Vương và là Mẹ chúng con, xin cầu cho chúng con. Amen.

DỨT KHOÁT THEO THẦY

Lm Richard Leonard sj biên-soạn-Mai Tá lược dịch.

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 13 thường niên năm C 26/6/2016

Tin Mừng (Lc 9: 51-62)

Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem. Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gioan nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” Nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác.

Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”

Đức Giêsu nói với một người khác:“Anh hãy theo tôi!” Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.”

Một người khác nữa lại nói:”Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”

“Lòng ta tha-thiết đượm tình yêu,”

Như cảnh trời xuân luyến nắng chiều.

Mắt lệ đắm trông miền cách biệt,

Phút giây chừng mỏi gót phiêu-lưu.”

(Dẫn từ thơ Thế Lữ)

Phiêu-lưu, mạo-hiểm mòn bước chân, là chuyện đã đành. Phiêu-bạt đây đó làm chứng cho Lời của Chúa đâu nào thấy mỏi. Phiêu-lưu lên đường rao truyền Lời Chúa là bổn-phận Chúa vẫn kêu mời, từ ngàn xưa.

Trình thuật Lời Chúa hôm nay, mở cho thấy khoảnh khắc rất quan trọng, trong cuộc đời Đức Kitô. Gần đến ngày Ngài được cất nhắc về cùng Cha, Đức Giê-su cương quyết lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Với Tin Mừng thánh Luca, Giêrusalem là điểm tập trung toàn bộ cuộc đời của Chúa. Toàn bộ tập trung, vì đây là nơi chốn Ngài hoàn thành công trình cứu độ. Và, cũng từ Giê-ru-sa-lem, công trình của Ngài lan rộng khắp mọi nơi, trên thế giới.

Quyết lên đường, Đức Giê-su đưa ra mẫu mực thử thách đến với ta, để ta tham gia công trình hầu chấp nhận làm mọi việc được ủy thác. Điều trớ trêu, là: ngày Ngài lên đường vào làng Samaritanô, nhiều người ở đây không tiếp nhận Ngài. Và, Ngài đi Giêrusalem, là để chấm dứt tình trạng rẽ chia, đang lan tràn. Ngài quyết phá đổ mọi rào cản chia cách mọi người. Và, đem bình an và hòa hợp đến với mọi người.

Tin mừng “đi Giêrusalem”, nhắm vào trọng tâm ý nghĩa của Tiệc Thánh, thời buổi này. Tin Mừng cũng nhằm vào sự đáp trả của mỗi người trong ta, khi Chúa kêu mời cùng Ngài lên đường. Thấy Ngài lên đường, nhiều người cũng muốn đi theo như vẫn thấy dẫy đầy ngày hôm nay. Vẫn thấy, nhiều người trong cộng đoàn dân con Đức Chúa, chỉ biết đi là đi. Chứ chẳng hiểu tại sao lại “đi Giêrusalem”. Đi như thế, có ý gì? Với Chúa. Với những người đi theo Ngài.

Có 3 loại người muốn theo Ngài. Và, có lẽ một hoặc hai người trong số này, có thái độ giống như ta, hôm nay. Thành thử, hãy xét thử xem sao, thái độ của những người dự tính đi theo Chúa. Người thứ nhất tuyên bố: Thầy đi đâu, tôi cũng xin theo! Nói là nói thế, nhưng những người theo dạng này, không am-tường thực-tế Ngài phải đối đầu. Và, câu đáp trả của Đức Giêsu làm họ không mấy hứng thú. Dấn thân làm ngôn sứ, như Ngài, tức biết mình sẽ không nhà không cửa, không chốn tựa đầu, đâu nào dám theo.

Loại người thứ hai cũng muốn đi. Nhưng, vẫn nại vào lý do khiến Chúa không thể trách móc. Để rồi, cuối cùng cũng bỏ cuộc. Và, thái độ đáp trả của Chúa thoạt nghe, có vẻ nghịch lý/nghịch thường, nhưng lại là điều kiện cho những người dấn bước theo chân Đức Ngài. Theo chân Chúa, là: hãy để lại mọi sự bỏ đó mà ra đi loan báo Nước Trời, cho mọi người. Ở đây nữa, có thể: thân phụ của người thanh niên trong trình thuật, thật sự đâu đã chết. Anh chỉ muốn chờ khi báo hiếu cho cha xong xuôi, rồi mới quyết định. Và, đây là lý do chính đáng để khước từ lời Chúa mời. Và, đây cũng là trở ngại khác, khiến người quyết tâm không thấy vững chí, mà ra đi.

Trả lời cho những người như thế, Đức Kitô chỉ muốn xem con người đặt sự việc nào ưu tiên hơn cả, ở đời mình. Và, ý Ngài là: ta vẫn được mời gọi thực hiện việc dựng xây Nước Trời, ở trần gian, ngay trước mắt. Làm xong việc ấy rồi, mọi sự cũng sẽ “bất chiến, tự nhiên thành”. Bởi, Nước Trời chính là: thế giới của sự thật, của lòng xót thương, công chính. Của tự do và an bình. Của, thế giới nhất định sẽ xẩy đến với gian-trần.

Loại người thứ ba, cũng muốn theo chân Chúa, thật đấy. Nhưng, lại vẫn phải quay về từ biệt bạn bè người thân, xong cái đã. Thái độ này, có nghĩa là: người như anh, chỉ muốn có cuộc sống vui nhộn với bà con bạn bè, mà thôi. Trong khi đó, muốn trở thành đồ đệ của Chúa, buộc lònh mọi người phải có quyết tâm. Không do dự. Lời Chúa mời gọi, là: lời mời ở đây, hôm nay. Và, lời đáp trả phải là lời ứng-đáp tự do ngay ở đây, hôm nay; chứ, không là chuyện xảy đến trong tương lai. Đề cập đến chiếc cày, là Chúa ám chỉ lời tiên tri Isaya ở bài đọc 1.

Bài đọc 1, Êlisha đáp ứng lời kêu gọi làm ngôn sứ, ngõ hầu tiếp tục công việc của vị tiền nhiệm mình là: tiên tri Êlya. Đệ tử Êlisha cũng muốn giã từ cha mẹ. Và, ông cũng đã về nhà, để giết bò, đốt cháy chiếc cày, rồi tay không đến với sư phụ của mình, là Êlya. Tin Mừng Chúa, được viết không phải để ta hiểu từng chữ, theo nghĩa đen. Nhưng, thánh sử muốn để người nghe có dịp suy nghĩ về những điều Chúa đề cập.

Thật ra, thì điều thánh sử muốn nói, tức: vật chất, tình cảm và tri thức đều có thể là rào cản ngăn chặn khiến ta không thể đi theo Chúa một cách vô điều kiện. Đời người hôm nay, lại có quá nhiều thứ để ta vui chơi hưởng thụ dễ biến Lời Chúa nên nhạt-nhoà, mờ dần; chẳng còn bận tâm gì chuyện tham gia, dính dự vào đời người vốn đã có quá nhiều thứ để bận tâm, lo lắng và tiếc-nuối. Nuối-tiếc nhiều, những chuyện xảy ra, trong quá khứ; vẫn cứ lo-ngại không ít, về những chuyện sắp xảy đến, trong lai thời.

Các yếu tố nêu trên, đều khiến cuộc sống càng thêm phức tạp, trục trặc. Phần đông trong chúng ta, mới chỉ sống có phân nửa cuộc đời, hoặc đang sống cuộc đời của người khác. Chứ, chưa hẳn là đã và đang thực sự sống đời mình, cho riêng mình. Và, đó cũng là điều mà thánh Phaolô nhắc nhở cộng đoàn Galát: ”Quả thế, anh chị em đã được gọi để hưởng sự tự do.” (Gl 5: 13)   

Sở dĩ thánh Phaolô phải nói lên điều đó, vì có nhiều vị ở nơi đây là người Do thái, đã trở lại. Và xem ra, nhiều người trong số đó chỉ muốn quay về với truyền thống Do thái giáo, thời xưa cũ. Trớ trêu thay, đối với mọi người, xưa cũng như nay, tất cả đều đã và đang lo sợ. Lo và sợ, vì mình đang có quá nhiều tự do.

Nhưng, tự do thực sự, không phải là thách thức quyền bính. Cũng không là, tự cho mình có quyền tha hồ vui thú, hưởng thụ; tha hồ phiền hà người khác. Tự do, cũng không là thái độ cứ ưỡn ngực tuyên bố: tôi có quyền mở to máy hát, chẳng cần biết rằng hàng xóm mình đang khổ sở vì âm thanh, tiếng nhạc.

Hoặc, cứ đua xe trên đường phố, chẳng sợ ai, chẳng san sẻ đường đi nước bước, với mọi người. Người có tự do đích thực, là người biết quan tâm đến tha nhân; biết để ý xem tha nhân có cần mình giúp đỡ gì không. Tự do, là biết rằng những người thân-cô-thế-cô, đang đau khổ. Là, biết đối xử với những người đó như người anh/người chị, cùng nhà.

Thánh Phaolô còn thêm: “Đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt; nhưng hãy lấy tình thương mà phục vụ lẫn nhau.” (Gl 5: 13) Tự do như thế, không là thái độ trốn tránh thực tại sống. Nhưng, biết giáp mặt, đối đầu với cuộc sống. Tự do thực, là dám nhận lãnh trách nhiệm chăm lo cuộc sống của chính mình.

Và, không đem khó khăn riêng tư của mình mà đổ lên đầu người khác. Không coi họ như mối oan khiên như con dê tế thần, chịu hết mọi trách nhiệm. Tự do, còn có nghĩa: không đeo bám vào các tiện nghi vật chất. Vào mọi sự ở ngoài, như: tiền tài, nhà cửa, chức vụ, cùng công danh/sự nghiệp, hệt như thế.

Kỳ lạ thay, người tự do đích thực sẽ làm được những gì mình mong muốn. Bởi, những điều họ mong và muốn, là: dựng xây thế giới tôn trọng sự thật. Thế giới biết san sẻ, chăm sóc lẫn nhau. Biết tạo cho nhau, sự an bình hiền hoà, trong nội tâm. Người có tự do, là người rất tách bạch, không lấy đi mọi thứ tốt đẹp, của người khác. Vì làm thế, không là san sẻ thị kiến chung, của mọi người. Nhưng, biết được khó khăn của người khác để giúp đỡ. Để, coi nhẹ khó khăn mình đang gặp.

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 13 mùa thường niên C 26/6/2016

 

“Xuân vương trên ngàn hoa,”

nhắc bao sầu nhớ mơ màng mây buông trong chiều vắng

như luyến tiếc giấc mơ đã tàn nhớ dưới xuân năm nào

lòng say ước mơ sống trong mộng vàng.”

(Hoàng Bách – Nhớ Bạn)

(1Cor 1: 10-13)

Có lúc buồn, bọn tôi thường nhớ nhiều đến nhạc bản “Nhớ Bạn” do ca sĩ có giọng trầm buồn rất dễ thương là: Sĩ Phú. Nghe Sĩ Phú hát, bọn tôi thường mường-tượng về buổi thính-phòng nào đó, trong quá khứ. Có thể là phòng-trà “Đêm Mầu Hồng” hoặc quán “Ritz” ở Sàigòn thập-niên 1960s lúc thị thành còn sôi-động.

Giọng trầm và ấm của Sĩ Phú vẫn đưa lòng người về với nhớ nhung. Nhớ rất nhiều, là đám bầu bạn thân-thương thuở cắp sách đến trường. Nhớ, bạn cùng trang-lứa có những ngày trốn học rủ nhau đi Xinê, nghe nhạc hoặc tìm nơi chuyện trò cũng dễ thương. Nói chung, bọn tôi “Nhớ Bạn” cũng rất “khủng” tưởng chừng như sẽ không còn gặp lại nhau, bao giờ nữa.

Quả, như lời bài hát vẫn đưa bọn tôi vào chốn thân quen bàng bạc một tình-tự, như sau:

“Chiều nay niềm ái ân xưa

tìm đến bên ai

kể nỗi nhớ thương

lời thề cùng cánh hoa rơi

tàn úa bên song dưới ánh tà dương.

Xuân nay bao sầu nhớ xuân xưa, Tiếc mối tình phai hương đan lòng hầu dứt, muôn đường tơ vương, sầu vương áng mây bao nhuốm màu tang.

Bóng dáng xa khuất ngàn

trùng dương nhớ nhung càng suy lòng vấn vương cung đàn lỡ bao nhịp

luyến thương đường đời vạn nẻo nhuốm mối đau thương nhớ phút giây êm đềm say đắm tiếc bao giờ mơ màng dưới trăng xa kìa bướm ong đùa cùng với muôn hoa lòng mơ ước thầm ai say hòa nhân duyên.”

(Hoàng Bách – bđd)

Nỗi nhớ niềm thương ở đời, là như thế. Niềm thương/nỗi nhớ đầy ân-huệ ở nhà Đạo, lại khác thế cũng rất nhiều. Khác, như vừa rồi ở trời Tây bên ấy, đã có đấng bậc nọ từng dẫn-giải tình-tự đầy tiếc nuối, như sau:

“Hôm ấy, nhân kỷ-niệm 500 năm cải-cách của giới Thệ-Phản, lm Raneiro Cantalamessa có nói rằng: lãnh-đạo Kitô-giáo phải tập-trung nhiều hơn vào niềm tin mình đang san-sẻ hơn là cãi-tranh nhau về công-thức đạo-lý/tín-điều. Linh mục này có nói:

Cùng lúc có các cuộc bàn-luận về tín-lý, ta phải có cuộc đại-kết giáp-mặt riêng tư thân-thiện và hòa-hợp tâm-can, thì tốt hơn. Bởi, có như thế ta mới lôi kéo cộng-đồng Đạo Chúa xích lại gần nhau hơn như đã xảy ra trong vài thập-niên vừa qua. Lâu nay, giữa người Công-giáo và Thệ-Phản vẫn có xung-đột dựa trên nền-tảng không hiểu rõ ràng thông-điệp của thánh Phaolô về những sự việc như thể để biện minh cho mình luôn là đúng.

 Khi xưa, thánh Phaolô tông-đồ, qua thư Rôma ở chương 3, chỉ muốn khẳng-định rằng những gì ta biện-minh/bào-chữa cho chính mình bằng niềm tin chính là biện-minh niềm tin vào Đấng Kitô. Thường thì, ta cũng không mấy đặt nặng việc mình bào chữa nhờ ân-huệ cho bằng nhờ ân-huệ do Đấng Kitô ban cho ta.

 Bằng vào việc tin-tưởng vào Đấng Ki-tô, người Công-giáo cũng như Thệ-Phản mới có thể lướt thắng khác-biệt của nhau. Nay, không còn chiến-tranh tôn-giáo giữa người Công-giáo và Thệ-Phản nữa rồi. Nên, cần nghĩ đến những việc tốt đẹp nào khác để làm hơn là cãi-vã hoặc tranh-luận với nhau nữa. (x. phần tin: Focus on beliefs, not doctrine, says papal preacher, trên The Catholic Weekly này 27/3/2016, tr. 12)

 Nếu cứ xét chuyện đạo-lý thần-học trong Giáo-triều đầy quyền-bính, hẳn là người Đạo Chúa sẽ thấy rằng: mọi sự trong Đạo không phải lúc nào cũng mang dáng-dấp mầu hồng, bao giờ hết. Đó, còn là ý-tưởng được Đức Giáo Tông nói lên vào một buổi triều-yết có giảng-giải ở Rôma, được các phóng-viên ghi lại qua tiêu-đề là Nhưng bên trong Giáo hội, con đường không đầy màu hồng với Đức Phanxicônhư sau:

Lúc Đức Bênêđictô XVI thoái vị, Giáo triều Roma, nội các của giáo hoàng với các hồng y và giám mục điều hành thể chế Giáo hội ở trong cơn khủng hoảng. Các tin đồn về nạn đấu đá và vấn đề tài chính đáng ngờ đang nhan nhản. Quản gia riêng của Đức Bênêđictô đã phản bội ngài, ông tiết lộ các tài liệu nội bộ cho truyền thông.

 Trong những ngày trước khi xảy ra mật nghị hồi tháng ba năm 2013, các hồng y, những người chịu trách nhiệm trong việc bầu giáo-hoàng ý-thức mình phải làm gì đó. Vatican cần một người đến từ bên ngoài, một người không ngại lay chuyển mọi sự và đưa nhà Giáo hội vào trật tự. Người đó, tất nhiên, là Đức Giáo hoàng Phanxicô.

Được bầu lên như một nhà cải cách ở tuổi 76, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhận ngai tòa Phêrô với ý thức rằng mình không có nhiều thời gian để tạo nên sự khác biệt. Nên ngài vận động nhanh chóng, lập các văn phòng mới để quản lý tình trạng tài chính khó kiểm soát của Vatican. Ngài giới hạn quyền lực của Giáo triều bằng cách lập nhóm chín hồng y cố vấn, họp thường xuyên để định hướng công việc. Và ngài cắt bớt vây cánh của những người đối lập muốn tìm cách phá hoại các nỗ lực của ngài.

Là những con người của Chúa, các hồng y và giám mục đột nhiên bị tước quyền này, họ nuốt kiêu hãnh xuống và cùng chung sức làm việc với Đức Phanxicô, lãnh đạo mới của mình. Nhưng không phải ai cũng thế. Một số không đi chung đường với Đức Phanxicô, họ mở một chiến dịch xì xào với đủ kiểu đàm tiếu và ước-đoán, để làm giảm giá trị các cải cách của Đức Giáo hoàng. Những lời ám chỉ, tin đồn, và dối trá trắng trợn mà một vài cấp lãnh đạo trong Giáo hội đã tiết lộ cho truyền thông làm Vatican phải hổ thẹn.

Một trong những người cốt cán được Đức Phanxicô bổ nhiệm vào Ngân hàng Vatican, bị cáo buộc là có quan hệ đồng tính. Về sau, trong Hội đồng Gia đình, các giám mục có cảm tình với cải cách tự do trong Giáo hội bị cáo buộc là hấp tấp phát hành một báo cáo hội đồng với ngôn từ thân thiện với những người đồng tính và những người ly dị rồi tái hôn.

Lại có lời đồn rằng phòng thư từ Vatican đã không chuyển các quyển sách mang tính bảo vệ giáo huấn của Giáo hội hiện thời cho các thành viên hội đồng. Khi các cải cách tài chính của Đức Giáo hoàng được đẩy lên cao độ, thì nhân vật cốt cán được ngài giao phó kiểm tra chuyện tiền bạc, bị đồn là tiêu xài hoang phí cho trang trí văn phòng và trang phục. Đàm tiếu đang hung hăng vượt lên, muốn diệt các đồng minh của Đức Phanxicô.

Một hồng y người Mỹ có uy-thế ở Vatican, trở thành biểu tượng cho những người nghi ngờ cương vị lãnh đạo của Đức Giáo hoàng. Hồng y này nói là “nhiều” người bày tỏ “quan ngại” về Đức Giáo hoàng Phanxicô.

Trong buổi phỏng vấn ngày 30 tháng mười, với tờ báo Công giáo Tây Ban Nha Vida Vueave, hồng y này nói, “có một suy nghĩ mạnh cho rằng giáo hội như con thuyền không bánh lái.” Ông nói rằng đây không phải là cảm giác của riêng ông, nhưng là của một người khác, với ý muốn làm rõ là những người chỉ trích Đức Giáo hoàng sẽ có một đồng minh mạnh ở Roma.

Chuyện này không kéo dài lâu. Khoảng một tuần sau, ông bị đẩy khỏi vai trò lãnh đạo Tòa Thượng Thẩm, và được bổ nhiệm vào một vai trò mang tính hình thức là tuyên úy cho Hội Hiệp sĩ Malta. Trường hợp đặc biệt này cũng là trường hợp cực đoan nhất, khi một hồng y đầy uy-thế công-khai chất vấn cương vị lãnh đạo của Đức Giáo hoàng và không lâu sau bị thuyên chuyển chức vụ, nhưng không phải là duy nhất.

Một giám mục Hoa Kỳ nói rằng Đức Phanxicô đang hạ bệ những người Công giáo bảo thủ. Một hồng y khác chất vấn không biết Đức Giáo hoàng có thực sự hiểụ được các bài diễn văn và bài giảng của ngài có tác động toàn cầu thế nào hay không. Và nhiều linh mục cũng như giáo dân, tiếp tục tỏ ra khó chịu mỗi khi Đức Phanxicô bỏ qua bài soạn sẵn, mà nói tự phát, từ trái tim và làm cho báo giới tốn nhiều giấy mực.

Vài người ở Vatican nghĩ, cách tốt nhất để chống lại các thay đổi của Đức Giáo hoàng là làm rò rỉ thông tin và nói bóng gió cạnh-khoé để loại trừ các đồng minh của Đức Phanxicô. Những chiến thuật này thường được các chức-sắc muốn giữ ghế áp dụng, và đôi khi bất chấp tác hại của nó với công việc phúc âm hóa. Đức Phanxicô đã có một thông điệp gởi đến các giám mục này: hãy thôi đi.

Các câu tweet của Đức Giáo hoàng về ngồi lê đôi mách cũng giống như “quả trứng Phục Sinh” với nhiều ẩn nghĩa mà tôi đã mô tả trong chương trước, và thực sự có tác động đến những người này. Chỉ có hai tweet trực tiếp nói về thói đàm tiếu, nhưng khi hiểu được những gì sau màn ảnh, chúng ta thấy đây là cú đấm mạnh hơn nhiều.

Đức Phanxicô muốn các giám mục hãy thôi ám ảnh về quyền lực và danh tiếng của mình, và phải biết đi vào trong thế giới. Chặn đứng thói đàm tiếu là một trong các bước đầu tiên của ngài. Nhưng ngài không tweet về đàm tiếu chỉ để chấn chỉnh hàng ngũ (dù chắc chắn là chúng có tác động tốt này). Nhưng ngài muốn mỗi một tín hữu biết noi gương Chúa Giêsu hơn nữa, mà chuyện đàm tiếu lại kéo chúng ta đi ngược lại con đường này.

Cuộc Cách mạng Phanxicô không diễn ra với những thay đổi lớn trong giáo huấn của Giáo hội, hay bán các tác phẩm nghệ thuật vô giá để lấy tiền phát cháo cho người nghèo. Nhưng cuộc Cách mạng Phanxicô sẽ đến khi các tín hữu bắt đầu sống giống Chúa Giêsu hơn, từ những giáo dân bình thường cho đến các hồng y cao cấp của Giáo triều.”

Muốn diễn-đạt tình-trạng sống Tin Mừng ở nhà Đạo, theo cách người ngoài đời vẫn làm, tưởng cũng nên quay về với truyện kể ngắn gọn nhưng bàn về “cái thâm thúy của người xưa”, từng sống đời thực-tế như sau:

“Cao nhân chân-chính, chính là có thể thắng nhưng không nhất định phải thắng, có thể đánh bại kẻ khác nhưng không nhất định phải đánh bại.

Thế nào gọi là cao nhân? Tương truyền, Tả Tông Đường rất thích chơi cờ vây, hơn nữa còn là một cao thủ, gần như không có ai là đối thủ của ông.

Có một lần, Tả Tông Đường cải trang trước khi xuất chinh đánh trận, trên đường bỗng nhìn thấy một ngôi nhà tranh, trên xà nhà có treo tấm biển “Thiên hạ đệ nhất kỳ thủ”. Tả Tông Đường thấy thế thì trong lòng không phục, liền đi vào trong để cùng chủ nhân ngôi nhà đánh ba ván cờ.

Vị chủ nhà đánh ba ván đều thua, Tả Tông Đường cười nói: “Ông nên tháo tấm biển kia xuống đi!” Nói xong, Tả Tông Đường tràn đầy tự tin, cao hứng bừng bừng mà rời đi.

Không lâu sau, Tả Tông Đường thắng trận trở về, lại đi ngang qua ngôi nhà ấy, thấy tấm biển “Thiên hạ đệ nhất kỳ thủ” vẫn chưa được gỡ xuống, Tả Tông Đường tức giận đi vào trong nhà để cùng vị chủ nhân tỷ thí ba ván cờ nữa.

Lần này, Tả Tông Đường thua cả ba ván. Tả Tông Đường vô cùng kinh ngạc, liền hỏi vị chủ nhân tại sao lại như vậy. Vị chủ nhân đáp:

-Lần trước, ngài tuy mặc thường phục nhưng ta đã sớm biết ngài là Tả Công, ngài mang trên mình nhiệm vụ đánh giặc, ta không thể dập tắt nhuệ khí chiến đấu của ngài. Lần này, ngài đã chiến thắng trở về, ta đương nhiên toàn lực ứng phó, việc đáng làm thì ắt phải làm, không thể nhượng bộ!

Cao thủ chân chính trên thế gian, chính là có thể thắng nhưng không nhất định phải thắng, có thể đánh bại kẻ khác nhưng không nhất định phải đánh bại, ấy là vì có tấm lòng khiêm nhượng, thiện tâm với người.

Cuộc sống chẳng phải là như vậy sao? Thông minh không nhất định là có trí tuệ, thế nhưng trí tuệ thì nhất định bao quát thông minh. Người thông minh tâm nặng chuyện được mất, người trí tuệ có thể dũng cảm xả bỏ. Tai thính thật sự thì có thể nghe được tiếng lòng, mắt sáng thật sự thì có thể nhìn thấu tâm linh.

Chứng kiến, không có nghĩa là nhìn thấy.

Nhìn thấy, không có nghĩa là nhìn rõ.

Nhìn rõ, không có nghĩa là hiểu được.

Hiểu được, không có nghĩa là hiểu rõ.

Hiểu rõ, không có nghĩa là đã thông suốt.

Chúng ta vẫn thường nghe nói: “Không có văn hóa thì thật đáng sợ!”. Thế nhưng “văn hóa” ấy rốt cuộc là gì? Là bằng cấp hay kinh nghiệm? Hoặc sự từng trải? Câu trả lời: tt cả đều không phải! Ngày hôm nay, coi như chúng ta đã được thấy một lời giải thích thuyết phục, “văn hóa” ấy chính là biểu đạt bởi bốn điều sau đây:

1.Đào sâu vào tu dưỡng nội tâm.

2.Tự giác không cần nhắc nhở.

3.Lấy ước thúc làm tiền đề cho tự do.

4.Suy nghĩ lương thiện vì người khác.  (Dịch giả: Minh Nữ)

“Văn hóa” nhà Đạo, nay cũng thế. Cũng có khi, người nhà Đạo quyết-chí đào-sâu tu-dưỡng nội-tâm. Cũng có lúc, hơi bị “chểnh mảng” đi chệch ra ngoài mục-tiêu và mục-đích do Đạo đề ra. Thế nên, cũng phải tự-giác, lấy ước-thúc làm tiền-đề cho tự-do và suy-nghĩ lương-thiện vì người khác.

Nhà Đạo mình, nhiều lúc cũng quên đào sâu tư-tưởng và chiều-hướng được nhấn mạnh ở lời vàng thánh kinh, nên mới thế. Đào sâu tư-tưởng ở thánh kinh, ta sẽ thấy đấng thánh nhân hiền từng bảo rằng:

“Tôi khuyên tất cả anh em

hãy nhất trí với nhau

trong lời ăn tiếng nói,

và đừng để có sự chia rẽ

giữa anh em,

nhưng hãy sống hoà thuận,

một lòng một ý với nhau.”

(1Cor 1: 10-13)

Như thế có nghĩa: chuyện chia rẽ giữa anh chị em cùng thờ một Chúa, là chuyện thường ngày ở huyện từng xảy ra trước đây, ở Corintho6 và nhiều nơi khác. Xảy ra, là bởi vì người cùng một Đạo Chúa hay đạo làm người đã không còn biết sống hòa-thuận/một lòng một ý với nhau, như được khuyên.

Như thế tức là, ở mọi thời đều có những vấn-đề cần giải-quyết. Cả vấn đề sống đạo hoặc giữ gìn lời nói với nhau, trong mọi sự.

Nói như thế, tức là mọi chuyện xung khắc xảy ra trong đời người, phần lớn là do lời nói, tư-tưởng hoặc lối đối xử không nhất trí theo cùng một tinh-thần nương-tựa giùm giúp và sẻ san điều hay điều tốt với nhau, mà thôi.

Trong nhận thức rất như thế, nay mời bạn và mơi tôi, ta lại cất lên tiếng hát trích-dẫn ở trên để nhớ đời, rồi sống. Hát, là hát những lời như sau:

“Chiều nay niềm ái ân xưa tìm đến bên ai

kể nỗi nhớ thương lời thề cùng cánh hoa rơi

tàn úa bên song dưới ánh tà dương.

Xuân nay bao sầu nhớ xuân xưa, Tiếc mối tình phai hương đan lòng hầu dứt, muôn đường tơ vương, sầu vương áng mây bao nhuốm màu tang.

Bóng dáng xa khuất ngàn

trùng dương nhớ nhung càng suy lòng vấn vương cung đàn lỡ bao nhịp luyến thương đường đời vạn nẻo nhuốm mối đau thương nhớ phút giây êm đềm say đắm tiếc bao giờ mơ màng dưới trăng xa kìa bướm ong đùa cùng với muôn hoa lòng mơ ước thầm ai say hòa nhân duyên.”

(Hoàng Bách – bđd)

 

Trần Ngọc Mười Hai

Có những lúc những thời

Vẫn liên-tưởng

đến những khó khan

trong đời đi Đạo

vốn dĩ là thế.

THI CA SUY NIỆM

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN. C

(Luca 9: 51-62)

THEO THẦY

Ba năm rao giảng Tin Mừng,

Thời gian đã mãn, Chúa dừng nơi đây.

Lên đường thành Thánh đong đầy,

Giê-ru-sa-lém, ngất ngây hương trời.

Hành trình muôn nẻo nhiều nơi,

Không người đón tiếp, lại khơi hận thù.

Sa-ma-ri-a dập trù,

Môn đồ nóng giận, dọa hù lửa thiêu.

Giê-su quở trách đừng liều,

Tinh thần bác ái, cao siêu cứu đời.

Trên đường mấy kẻ nghe lời,

Muốn xin theo Chúa, đáp mời dấn thân.

Nơi đâu Thầy đến canh tân,

Con đi theo sát, góp phần học khôn.

Quay nhìn mấy kẻ đồng môn,

Chim trời có tổ, con chồn có hang.

Gối đầu chẳng có lang thang,

Nay đây mai đó, cái bang đồng thuyền.

Tín trung giữ vững lệnh truyền,

Hướng về phía trước, lời khuyên theo Thầy.

Chúa Giêsu cương quyết lên đường đi Giêrusalem. Lên Giêrusalem là bước lên con đường thập giá. Chúa Giêsu nói với những người muốn theo Chúa: Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu biết gần tới ngày Ngài phải lìa khỏi đời này. Ngài muốn các môn đệ chọn lựa một thái độ dứt khoát, hướng về phía trước và thẳng tiến cho dù có muôn vàn chông gai.

Trên đường đi, có nhiều người muốn theo Chúa, Chúa nói rõ những khó khăn phải đối diện: Con chồn có hang, con chim có tổ, Con người không có chỗ gối đầu. Theo Chúa không phải tìm hưởng vinh hoa ở đời này nhưng hướng về hạnh phúc mai sau. Tất cả các phép lạ Chúa đã thực hiện giúp con người nhận ra quyền năng và ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Chúa làm rất nhiều phép lạ như hóa bánh ra nhiều, chữa lành các loại bệnh tật, xua trừ ma qủi và cho kẻ chết sống lại. Những phép lạ này không phải để con người thỏa mãn thị yếu và khen ngợi tung hô, nhưng là để củng cố niềm tin và hy vọng.

Có người nghe nói về hoàn cảnh sống nghèo nàn và lang thang nay đây mai đó của Chúa Giêsu, họ chán nản bỏ đi. Vì cuộc sống của họ còn mải mê với của cải tiền bạc giầu sang. Họ cậy dựa và gối đầu vào các của cải trần gian, dựa vào bảo hiểm, vào ngân hàng và vào qũy tiết kiệm để dành. Họ hy vọng rằng các thứ quỹ đó có thể mua sự bảo hiểm an toàn cho đời sống. Thật ra, bảo hiểm chỉ là những bảo đảm tạm thời một phần về vật chất. Chúng ta thấy bao nhiêu người đã sa cơ vì hãng bảo hiểm bị phá sản.

Truyện kể: Có vị thiền sư Ấn Độ đang ngồi tinh niệm bên bờ sông. Một người đàn ông nọ muốn ra mắt xin làm đệ tử. Ông rón rén đến bên vị linh sư và đặt dưới chân ngài hai viên ngọc qúy như là lễ vật ra mắt. Vị linh sư lấy một viên ngọc ném xuống sông. Tiếc của, người đàn ông giầu có liền nhảy xuống sông để cố tìm viên ngọc. Lâu giờ không tìm được, ông xin vị linh sư chỉ chỗ nào ngài ném viên ngọc. Vị linh sư cầm viên ngọc còn lại ném xuống sông và chỉ cho ông ta, tôi đã ném vào chỗ đó, xuống mà mò. Con người cậy dựa vào tiền bạc và tiếc xót của cải, còn ngoái cổ lại đằng sau tìm kiếm. Không xứng đáng là môn đệ của Chúa.

Chúa Giêsu không ép buộc ai phải theo Chúa, nhưng khi chúng ta chấp nhận là môn đệ của Chúa, chúng ta phải chấp nhận thập giá. Chúa phán: Ai muốn làm môn đệ của Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Thầy. Chúa không chỉ hứa hạnh phúc hiện tại nhưng còn là hạnh phúc vĩnh cửu đời đời.

THỨ HAI, TUẦN 13 THƯỜNG NIÊN

(Mt 8, 18-22).

THEO THẦY

Đám đông dân chúng vây quanh,

Bước đi theo Chúa, ơn lành nguyện xin.

Ước mong Luật Sĩ van xin,

Đi đâu bất cứ, con tin theo Thầy.

Giê-su thú thật lời này,

Chim trời có tổ, chồn bầy có hang.

Con Người không ở cao sang,

Gối đầu không có, không màng công danh.

Theo Thầy bỏ hết lợi danh,

Xa cha xa mẹ, bỏ ngành chuyên môn.

Chú tâm nuôi dưỡng linh hồn,

Chân thành tín nghĩa, suy tôn Ngôi Lời

Chứng nhân sự thật ở đời,

Truyền rao đạo lý, gọi mời yêu thương.

Môn đồ dứt bỏ đoạn trường,

Hy sinh gian khó, mở đường thiên cung.

THỨ BA, TUẦN 13 THƯỜNG NIÊN

(Mt 8, 23-27).

GIÓ BIỂN

Lênh đênh giữa biển chiều hôm,

Chúa nằm dựa ngủ, gió nồm nổi lên.

Sóng to biển động tràn bên,

Dập dềnh sóng vỗ, nước trên ngập tràn.

Môn đồ chèo chống giữa làn,

Nguy cơ chìm đắm, vô vàn sợ lo.

Cầu mong Thầy giúp sức cho,

Lại gần đánh thức, Thầy trò cứu nguy.

Sao mà nhát sợ giảm suy,

Đức tin yếu kém, tư duy nghi ngờ.

Chúa rằng sóng lặng như tờ,

Nước trôi gió nhẹ, vật vờ lặng yên.

Thất kinh quyền phép siêu nhiên,

Đất trời vâng phục, cõi thiên phép lành.

Kính tin Con Chúa ẩn danh,

Quyền năng siêu thoát, chúng sanh phụng thờ.

THỨ TƯ, TUẦN 13 THƯỜNG NIÊN

(Mt 8, 28-34).

TRỪ QUỶ

Hai người quỷ ám đi ra,

Sống nơi mồ mả, thiệt là thất kinh.

Ám tà hung dữ hằng rình,

Người qua kẻ lại, thình lình khiếp thay.

Chúng kêu xin Chúa đừng rầy,

Can chi hành hạ, trước ngày định sao.

Bỏ qua tha thứ cách nào,

Đàn heo mé biển, sẽ nhào xuống sâu.

Chúa đành ưng thuận lời cầu,

Quỷ ma xuất khỏi, chúi đầu thoát thân.

Người chăn sợ hãi quỷ thần,

Đành rời chạy trốn, về gần báo tin.

Hai người tỉnh táo đứng nhìn,

Cả thành kinh hãi, van xin Thầy rời.

Chúa thương dân chúng mọi nơi,

Ra đi vùng khác, gọi mời canh tân.

THỨ NĂM, TUẦN 13 THƯỜNG NIÊN

(Mt 9, 1-8).

THA TỘI

Xuống thuyền vượt biển đi về,

Quê hương xứ sở, cận kề làng bên.

Khiêng người bất toại nằm trên,

Đớn đau bệnh hoạn, cuốn mền xót xa.

Cầu xin Chúa cứu người ta,

Chữa lành thân xác, thứ tha tội tình.

Mấy người Luật sĩ rẻ khinh,

Sao ông phạm thượng, quyền linh Chúa Trời.

Quyền năng Chúa Cả cao vời,

Có quyền tha tội, chữa đời phàm nhân.

Bệnh tình hồn xác toàn thân,

Chúa rằng vác chõng, bước chân về nhà.

Đoàn dân sợ hãi kêu la,

Tôn vinh Thiên Chúa, hải hà ban ơn

Chúa thương đoàn lũ nhiều hơn,

Bơ vơ lạc lõng, lâm cơn đau buồn.

THỨ SÁU, TUẦN 13 THƯỜNG NIÊN

(Mt 9, 9-13).

ƠN GỌI

Ngồi bàn thu thuế bên đường,

Mát-thêu oai vệ, xã phường ở đây.

Giê-su bước tới chốn này,

Ngó nhìn kêu gọi, ông này theo tôi.

Ông ta đứng dậy ngay thôi,

Về nhà đãi tiệc, cùng ngồi với nhau.

Nhiều người thu thuế đến sau,

Cả phường tội lỗi, tới mau xum vầy.

Những người Biệt Phái quấy rầy,

Tại sao ăn uống, nơi này không hay.

Chúa cùng môn đệ giãi bày,

Chỉ người đau yếu, cần thầy cứu cho.

Xác thân khỏe mạnh khỏi lo,

Học xem ý nghĩa, lý do thực hành.

Những người công chính tốt lành,

Không cần cứu chữa, hư danh một đời.

THỨ BẢY, TUẦN 13 THƯỜNG NIÊN

(Mt 9, 14-16).

GIỮ CHAY

Gio-an khắc khổ luyện tu,

Ăn chay nếm mật, công phu tập tành.

Tiền hô tu đạo thực hành,

Giữ chay nghiêm ngặt, lưu danh ở đời.

Môn đồ tuân giữ mọi lời,

Theo thầy chay tịnh, một đời khắc ghi.

Giê-su Con Chúa từ bi,

Lữ hành dương thế, ra đi có ngày.

Thời gian hiện diện nơi này,

Tin mừng loan báo, cơ may trong đời.

Tông đồ vui hưởng một thời,

Giống như phù rể, chung lời chúc khen.

Tân lang rời bỏ gót sen,

Hạt mầm gieo xuống, muối men cho đời.

Ăn chay tưởng nhớ đến Người.

Tông đồ môn đệ, tới thời ăn chay.

CHIẾC BỊ

Niềm vui chia sẻ 

Một thi sĩ Pháp đã tả lại cuộc từ bỏ để đi theo Chúa qua một bài thơ dí dỏm mang tựa đề: “Chiếc bị” (La besace).  Thi sĩ coi Chúa như một người bạn và tâm sự rằng.

“Hôm ấy, tôi đang mê mải bóp trán nặn vần thơ thì tôi nghe tiếng Bạn mời.  Tôi vội vã đi theo.

Tôi bỏ vào trong chiếc bị một sống tiêu bằng trúc, nhiều áo quần và cả một tập thơ, một album kỷ niệm thân thương, với nhiều kỷ vật quý giá.

Tôi cùng Bạn lên đường khi mặt trời vừa hé.

Bạn đi trước, tay không nhẹ nhõm,

Tôi theo sau với chiếc bị nặng trĩu trên vai.

Chân kéo lê trên một quãng đường dài.

Một ngày đã trôi qua trên cánh đồng gió thoảng.

Mỏi vai, tôi xin dừng lại giữa đường.

Mở bị ra tôi quăng bớt áo quần, rồi cùng Bạn tôi rảo bước.

Vẫn tay không, Bạn nhẹ nhàng đi trước,

Tôi đi sau mồ hôi đẫm áo ngoài.

Sắp lên cầu để vượt khỏi dòng sông,

Tôi quăng đi tập thơ và sáo trúc, rồi cùng Bạn đi tiếp tục.

Đường lên cao dốc giác và uốn khúc quanh co.

Ôi cánh tay mỏi rã rời, tôi nài xin Bạn cho tôi dừng nghỉ một chút để tìm lại tấm hình mẹ tôi, người tôi yêu dấu nhất đời, chụp vào ngày hôn lễ với cha tôi.

Nhưng tấm hình không còn nữa, nó đã bay mất.

Tôi bỗng buông xuôi, mắt tôi tối tăm lại giữa mặt trời đúng ngọ.

Rồi đêm về khi trăng vừa mới ló trên những giọt sương rơi,

Tôi quăng luôn cả chiếc bị trên đường.

Nắm tay Bạn nhanh chân tôi đi tiếp.

Nhưng bỗng nhiên Bạn bảo tôi ngừng bước.

Dưới vòm trời trong suốt ánh trăng,

Bạn cười tươi nhè nhẹ vỗ vai tôi và nói: Hãy dừng chân vì chúng ta đã đến nơi rồi.” 

Anh chị em thân mến,

Muốn theo Chúa Giêsu đến cùng, phải ra đi tay không, phải bỏ lại đằng sau cả hành trang, kỷ vật và người thân.  Khi đã mất hết, chỉ còn lại một mình Ngài, cuộc hành trình sẽ kết thúc êm đẹp.  Đó cũng là những đòi hỏi mà Chúa Giêsu ngỏ cùng những người muốn đi theo Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay:

Thánh Luca kể lại, khi Chúa Giêsu đang tiến lên Giêrusalem, nơi Ngài phải hoàn tất công cuộc cứu thế bằng tử nạn thập giá, thì một người chạy lại bày tỏ thiện chí tối đa: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu con cũng xin theo Thầy.”  Chúa Giêsu không vồn vã cũng không xua đuổi, nhưng nói lên thân phận của Ngài để giúp cho người kia ý thức rõ ràng những gì chờ đợi anh ta, nếu anh ta muốn theo Chúa một cách dứt khoát và tuyệt đối như vậy, Ngài nói: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có chỗ dựa đầu.”  Điều nầy Chúa Giêsu đã thực hiện ngay từ lúc Ngài sinh ra: “không có chỗ cho ông bà trong quán trọ,” và Ngài đã được thân mẫu vấn tã đặt nằm trong máng cỏ.  Cuối cùng, trên thập giá, chúng ta cũng đã thấy tất cả sự khốc liệt của lời tuyên bố nầy.  Trong Tin Mừng thứ ba, không bao giờ thấy nói đến một ngôi nhà riêng của Chúa Giêsu hoặc của nhóm môn đệ.  Thực tế là vậy đó, muốn theo hay không tùy ý.

Một người khác lại được Chúa Giêsu ngỏ lời trước: “Hãy theo Tôi.”  Nhưng anh ta lại xin phép trở về nhà mai táng cha mình trước đã.  Chúa Giêsu không nhượng bộ: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh, hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa.”  Sứ mạng loan báo Nước Trời là ở cõi chết. Hãy để những người ở ngoài Nước Trời chôn cất những người ở ngoài Nước Trời.  Còn người đã được gọi phục vụ Nước Trời thì hãy lo bổn phận chính của mình trước hết và trên hết, không được trì hoãn vì bất cứ lý do gì.  Việc báo hiếu cha mẹ là việc quan trọng nhất theo quan niệm thông thường của người đời, cũng không thể làm trì hoãn việc rao giảng Nước Thiên Chúa.

Người thứ ba đến xin theo Chúa Giêsu thì vừa xin đi theo vừa đặt điều kiện: “Thưa Thầy, con xin đi theo Thầy, nhưng xin cho phép con về từ giã gia đình trước đã.”  Chúa Giêsu nói thẳng cho anh ta biết rằng thái độ ấy không xứng đáng với Nước Thiên Chúa.  Câu chuyện nầy cho ta liên tưởng đến câu chuyện ông Êlia gọi ông Êlizê mà chúng ta vừa nghe trong Bài đọc I: Ông Êlizê được gọi, xin về từ giã cha mẹ trước đã.  Ông Êlia đồng ý ngay.  Còn ở đây, Chúa Giêsu cho thấy đòi hỏi của Nước Thiên Chúa mãnh liệt hơn đòi hỏi của Cựu Ước.  Toan đi theo Chúa Giêsu mà còn quyến luyến cha mẹ hơn Chúa Giêsu thì khác nào kẻ đã cầm cày mà còn ngoái cổ lại đằng sau.  Cầm cày thì phải nhìn về phía trước mới cày được.  Muốn theo Chúa Giêsu thì không được quyến luyến cái gì khác, kể cả cha mẹ.

Ba mẫu đối thoại nầy đặt chúng ta trước ánh sáng chói lòa của những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa.  Muốn theo Chúa Giêsu thì phải chấp nhận đồng số phận với Ngài: Nghèo khó, trần trụi, không nhà riêng, không trụ sở, không có gì bảo đảm cho mình ở trần gian nầy; phải coi nhiệm vụ rao giảng Nước Trời là nhiệm vụ trên hết.

Chúa Giêsu không nhượng bộ nửa bước trước những bổn phận chính đáng nhất như mai táng, từ giã cha mẹ.  Chính Ngài đã cư xử như vậy lúc Ngài ở lại trong đền thờ năm 12 tuổi.  Thánh Giuse và Đức Mẹ đã đau điếng về chuyện nầy.  Chúa Giêsu chỉ trả lời bằng một câu thật khó hiểu: “Ông Bà không biết rằng tôi phải lo việc của Cha tôi sao?”  Đức Mẹ đã ghi nhớ và nghiền ngẫm câu ấy suốt đời.  Những lời tuyên bố của Chúa Giêsu ở đây cũng làm cho chúng ta choáng váng chẳng khác Đức Mẹ và Thánh Giuse lúc ấy.  Muốn hiểu được, chúng ta phải im lặng suy đi nghĩ lại trong lòng.

Đối với những người được mời gọi hiến thân phục vụ Nước Thiên Chúa, những lời nầy mời gọi kiểm điểm lại thái độ sống của mình.  Chúa Giêsu và Nước Trời đã thực sự độc chiếm tâm hồn và cuộc đời của mình chưa?  Đối với mọi Kitô hữu, những lời nầy cũng có ý nghĩa, vì tất cả những ai muốn theo Chúa Giêsu trên con đường tới vinh quang đều phải coi Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa hơn tất cả, nếu còn ngoái cổ lại đằng sau, còn coi một cái gì hơn Chúa Giêsu thì không xứng đáng vào Nước Thiên Chúa.  Thánh Phaolô đã sống điều nầy và đã phát biểu: “Tất cả những cái tôi coi là mối lợi cho tôi, thì vì Đức Kitô, tôi đã coi như bất lợi.  Chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy như thua lỗ, bất lợi hết, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi.  Vì Ngài, tôi đành bị tổn hại về mọi sự và xem như rác rưởi tất cả, để lợi được Đức Kitô” (Pl 3, 7-13).

Theo Chúa thì có nhiều người muốn theo.  Nhưng lại chỉ muốn theo Chúa như quan niệm và ý muốn của mình, chứ không theo Chúa như Chúa muốn.  Vì thế, có khi mắc phải ảo tưởng là mình đang theo Chúa, nhưng thật ra họ đang theo mình và bắt Chúa theo mình.  Theo Chúa đúng nghĩa là phải chấp nhận rủi ro, mạo hiểm, mất gốc; phải từ bỏ tất cả những gì không phù hợp với ý Chúa, với sự thánh thiện của Ngài, phải từ bỏ những gì là nguy cơ làm cho ta xa Chúa hay cản trở ta kết hợp mật thiết với Chúa.  Theo Chúa là phải hoàn toàn tín nhiệm vào Chúa và thuộc trọn về Chúa.

Việc tham dự tích cực và trọn vẹn vào mầu nhiệm chết và sống lại của Đức Kitô được tái diễn trên Bàn Thánh nầy sẽ giúp chúng ta sống một cuộc đời thuộc trọn về Chúa mãi mãi.

ĐƯỜNG THEO CHÚA Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa Nhật XIII THƯỜNG NIÊN, năm C Lc 9, 51- 62

“ Hãy theo tôi “. Đó là lời mời gọi của Chúa Giêsu khi chọn các môn đệ.Với lời kêu gọi này, Chúa đã tuyển chọn Simon Phêrô, người ngư phủ; Ngài đã chọn Lêvi, người thu thuế giầu có, và đã chọn các môn đệ khác đi theo Ngài. Con đường theo Chúa là con đường từ bỏ, hy sinh, quả cảm :” đường thập giá “.Con đường Giêsu mà người môn đệ Chúa đi theo là con đường tiến về Giêrusalem để chịu chết. Đường thập giá là thế. Hôm nay, Tin Mừng thánh Luca 9, 51- 62 chỉ cho chúng ta thấy rõ điều ấy…

Chúa Giêsu trong trích đoạn Tin Mừng của thánh Luca 9,51-62 cho thấy: “ …Chúa cương quyết lên đườg đi Giêrusalem “. Đi Giêrusalem không phải là con đường tự ý Ngài thích chọn, do đó, Chúa Giêsu cũng lo âu, sợ sệt, bởi vì lên Giêrusalem là để chịu chết trên thập giá, để cứu độ nhân loại theo ý Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài…Chúa Giêsu còn day dứt mãi trong cơn hấp hối ở vườn Cây Dầu.Tuy nhiên, Ngài đã chấp nhận ý Chúa Cha và sẵn sàng hy sinh mạng sống, chết trên thập giá để cứu rỗi nhân loại, cứu độ con người. Trên đường đi Giêrusalem, Chúa Giêsu đã gặp những trường hợp sau đây để dạy những người muốn đi theo Chúa.

Trước khi lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đã sai một số một đệ trong nhóm mười hai đi Giêrusalem, trong đó có hai anh em Giacôbê và Gioan, dọn chỗ trọ cho Ngài và các môn đệ sẽ tới sau. Và xẩy ra, dân làng Samaria không đón tiếp họ, khiến hai anh em này tức bực, đã xin Chúa cho lửa từ trời thiêu đốt họ. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã hiền lành trả lời với các môn đệ :” Con người đến không để giết mà để cứu sống “. Chúa muốn cho các môn đệ và chúng ta hay đường theo Chúa không phải lúc nào cũng êm đềm, cũng thẳng tắp không có gồ ghề, không có dốc dác, bụi mù, trắc trở. Chính vì thế, người môn đệ của Chúa phải là người hiền lành, khiêm nhường, nhẫn nại, quả cảm để đối xử, để chinh phục các linh hồn.

Sau đó, trên đường Chúa gặp ba trường hợp muốn đi theo Chúa. Người thứ nhất tự mình đến gặp và xin theo Chúa. Anh hứng khởi và tuyên bố anh đi theo Chúa khắp nơi khắp chốn, Chúa đưa ra điều kiện khiến anh chưng hửng:” Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu “. Chúa cho anh thanh niên này biết Chúa nghèo lắm, theo Chúa anh có chấp nhận được sự kho nghèo không ? Thánh Luca không cho chúng ta biết anh có theo Chúa hay không khi Chúa đưa ra điều kiện ấy ?”. Người thứ hai chính Chúa kêu gọi nhưng anh xin được trở về chôn cất cha già. Chúa bảo anh ta :” Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ, còn anh hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa “. Chúa phân biệt nghĩa vụ trần thế và bổn phận theo Chúa. Tin Mừng cũng không cho biết anh có đi theo Chúa hay không ? Người thứ ba cũng như người thứ nhất tự thân hành đến xin đi theo Chúa. Anh cũng khôn khéo xin Chúa cho về từ giã gia đình, nhưng Chúa muốn anh dứt khoát, không được quay lưng lại phía sau, nghĩa là phải để tâm hồn thanh thản mới có thể theo Chúa được. Tin Mừng cũng không cho biết anh có đi theo Chúa không ?

Chúa cũng mời gọi chúng ta đi theo Chúa và chấp nhận những điều kiện Chúa đưa ra như “ từ bỏ mình, vác thập giá của mình mỗi ngày mà theo Chúa “, đồng thời thực tế là ta phải từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những hành vi xấu xa, gây nên gương mù gương xấu, từ bỏ những thói hư tật xấu, miệng độc ác, những lời nói chua cay, xấc xược vv…Và để từ bỏ được những điều trên chúng ta phải phấn đấu, ý chí vững bền, quyết tâm mạnh mẽ mới có thể bỏ được.

Lời của Đức Thánh Cha Phanxicô nói với các bạn trẻ :” Các bạn trẻ cảm nghiệm được ơn gọi của Chúa Kitô thì đừng sợ hãi “. Lời ấy vẫn vang vọng mỗi ngày như lời Chúa đã mời gọi “ Hãy theo tôi “.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn can đảm để chúng con không sợ đi theo Chúa vì chính Chúa là đường tình yêu mà chúng con phải bước tới.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Chúa Giêsu đã cương quyết lên Giêrusalem để làm gì ?

2.Chúa đã nói gì với những người Chúa mời gọi ?

3.Trên đường Chúa đã gặp gỡ những trường hợp nào ?

4.Những người gặp gỡ có sẵn sàng theo Chúa không ?

TRUNG THÀNH THEO CHÚA

Lm. Anthony Trung Thành

Suy Niệm Chúa Nhật XIII THƯỜNG NIÊN C

Thiên Chúa tạo dựng nên con người. Ngài có quyền đòi buộc con người đi theo Ngài. Thế nhưng, Ngài không áp đặt trên con người điều đó. Ngài tôn trọng tự do lựa chọn của con người, nhưng tự do luôn đi liền với trách nhiệm. Ngài chỉ mời gọi con người đi theo Ngài. Có khi Ngài mời gọi trực tiếp. Có khi Ngài mời gọi cách gián tiếp. Có khi con người tự nguyện xin đi theo Ngài. Ai chấp nhận đi theo Ngài thì cũng phải chấp nhận những đòi hỏi kèm theo. Có những đòi hỏi Chúa đặt ra chung cho mọi người, nhưng cũng có những đòi hỏi Chúa đặt ra cho riêng một số người. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này qua những trường hợp mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay kể lại.

Bài đọc thứ nhất, trích từ sách Các Vua Quyển Thứ Nhất (1V 19, 16b. 19-21) cho chúng ta thấy, Thiên Chúa mời gọi ông Êlisê qua trung gian tiên tri Êlia. Thiên Chúa phán bảo ông Êlia xức dầu phong Êlisê làm tiên tri thay cho mình. Êlia đi tìm và thấy Êlisê đang cày ruộng với mười hai cặp bò, chính ông đang dẫn cày cặp bò thứ mười hai. Êlia đặt áo choàng trên mình Êlisê. Ông Êlisê bỏ bò lại và chạy theo Êlia. Nhưng, Êlisê xin phép trở về “hôn cha mẹ”. Khi Êlia cho phép ông trở về, ông đã bắt một đôi bò làm thịt, lấy cày làm củi đốt quay thịt cho dân ăn. Đó là hành động nói lên sự dứt khoát, từ bỏ mọi sự để đi theo Thầy.

Trong thực tế cuộc sống, nhiều người vẫn quyết tâm đi theo Chúa nhưng không dứt bỏ được quá khứ tội lỗi, vẫn bắt cá hai tay, vẫn làm tôi hai chủ, nên đã gây ra biết bao tổn hại cho bản thân và Giáo Hội. Hãy noi gương Êlisê, đã chọn Chúa thì phải dứt khoát với những gì không phù hợp với Chúa, dứt khoát với những gì ảnh hưởng đến ơn gọi của mình.

Bài Tin mừng hôm nay kể lại ba trường hợp khác nhau về ơn gọi đi theo Chúa.

Trường hợp thứ nhất, một người tự nguyện đến xin đi theo Đức Giêsu. Anh ta thưa rằng: “Dù Thầy đi đâu tôi cũng sẽ theo Thầy”(Lc, 9,57). Có thể người này đã từng biết Chúa Giêsu, đã nghe Ngài giảng, đã chứng kiến những phép lạ Ngài làm…Trên hết, anh ta tin tưởng nơi Chúa Giêsu có thể bảo đảm cho anh một cuộc sống đầy đủ dù ở bất cứ nơi đâu. Cho nên anh ta mới quyết định một cách táo bạo như vậy. Chúa Giêsu không hoan nghênh anh ta. Trái lại, Ngài cho anh ta biết: những ai đi theo Ngài phải chấp nhận cuộc sống nay đây mai đó, thiếu thốn về thể xác, đau khổ về tinh thần. Ngài nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”(Lc, 9,58). Hy vọng sau lời giải thích của Chúa Giêsu, anh ta vẫn chấp nhận đi theo Ngài.

Trường hợp thứ hai, chính Chúa Giêsu đích thân mời gọi “Anh hãy theo Ta” (Lc, 9,59). Người này chấp nhận đi theo Ngài nhưng xin phép về “chôn cha.” Sao anh ta lại xin phép về “chôn cha?”

Chúng ta có thể hiểu trường hợp nay bằng hai cách. Cách thứ nhất: có thể cha anh ta vừa mới chết, giờ anh ta xin về chôn cất? Nhưng có người lại thắc mắc rằng: nếu cha anh ta mới chết, tại sao anh ta không ở nhà để lo hậu sự mà lại có mặt ở đây? Cách thứ hai: có thể cha anh ta chưa chết, nhưng anh ta muốn chăm sóc, phụng dưỡng một cách trọn vẹn, sau đó mới đi theo Chúa? Cách hiểu này xem ra có lý hơn.

Thực ra, Chúa Giêsu không ngăn cấm việc phụng dưỡng cha mẹ. Trái lại, Ngài còn dạy con cái phải có hiếu kính với cha mẹ qua điều răn thứ tư. Phụng dưỡng cha già là bổn phận, nhưng còn có nhiều cách khác để có thể chu toàn bổn phận đó, chẳng hạn: còn có các thành viên khác trong gia đình hay những người thân hoặc bà con làng xóm…Vì vậy, Chúa Giêsu từ chối yêu cầu của anh ta, Ngài nói: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa”(Lc 9,60). Qua đó cho chúng ta thấy, đứng giữa hai thứ chọn lựa, con người cần phải ưu tiên chọn Chúa. Chúa Giêsu đã từng nói: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10, 37).

Tin mừng không cho biết anh ta có đi theo Chúa hay không? Chúng ta vẫn có quyền hy vọng sau đó anh ta đi theo Ngài.

Trường hợp thứ ba, là một người tự nguyện đến xin đi theo Chúa Giêsu nhưng cũng xin Chúa cho phép anh ta về từ giã gia đình: “Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã” (Lc 9,61). Đây là một việc chính đáng. Cũng giống như trường hợp của của Êlisê trong bài đọc thứ nhất và Êlia đã cho phép Êlisê về từ biệt cha mẹ. Nhưng tại sao ở đây Chúa Giêsu lại không chấp nhận yêu cầu của anh ta? Ngài nói: “Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”(Lc 9,60-61).

Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, người đang cày luôn cần phải nhìn về phía trước thì đường cày mới có thể ngay thẳng, đều đặn, nhờ thế, đất ruộng sẽ tơi xốp hơn. Nếu người đi cày cứ ngoảnh mặt lại đằng sau thì đường cày sẽ không thẳng, đất cày sẽ không đều, ảnh hưởng rất lớn đến việc trồng trọt. Ý Chúa Giêsu cũng muốn người thứ ba này khi đã quyết định đi theo Chúa, chọn Chúa thì phải dứt khoát không còn hối tiếc vương vấn những thứ khác, ngoài Chúa. Tin mừng cũng diễn tả thái độ dứt khoát của một số người khi được Chúa mời gọi: Lêvi đứng dậy và đi theo Người (x. Mc 2, 14); Phêrô và Anrê lập tức bỏ chái lưới mà đi theo Người (x. Mt 4, 19-20); Giacôbê và Gioan cũng lập tức bỏ thuyền, bỏ cha lại mà đi theo Người (Mt 4, 22).

Tin mừng cũng không cho chúng ta biết anh ta có chấp nhận điều kiện mà Chúa Giêsu đưa ra để đi theo Ngài hay không? Chúng ta vẫn hy vọng anh ta đi theo và làm môn đệ của Ngài.

Cuộc sống luôn là một chọn lựa. Chọn nói hay không nói. Chọn nghe hay không nghe. Chọn làm hay không làm. Chọn theo hay không theo ai đó. Chọn cái tốt hay cái xấu. Chọn cả hai hay chọn cái này bỏ cái kia…Có những chọn lựa tạm thời vì có thể thay đổi như: chọn trường, chọn nghề nghiệp…Có những chọn lựa chỉ duy nhất một lần như: chọn vợ chọn chồng, chọn làm linh mục, chọn khấn giữ các lời khuyên phúc âm trong các dòng tu. Trong mọi trường hợp, con người luôn phải chịu trách nhiệm về sự chọn lựa của mình.

Là người kitô hữu, chúng ta đã chọn Chúa. Đi liền với sự chọn lựa đó là những đòi hỏi của Chúa và Giáo Hội. Điều kiện chung cho mọi người là: tuân giữ những lời thề hứa trong ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa tội; mười điều răn của Thiên Chúa và sáu điều răn của Hội Thánh; tám mối Phúc thật; và bảy mối tội đầu…Điều kiện đối với những người sống đời đôi bạn: một vợ một chồng và phải sống với nhau cho đến chết. Điều kiện đối với những người sống đời độc thân linh mục, tu sĩ: vâng lời, khó nghèo và khiết tịnh. Ngoài ra, Chúa còn đặt ra những điều kiện khác cho những trường hợp đặc biệt như các trường hợp trong bài Tin mừng hôm nay.

Nhìn lại lịch sử Giáo Hội chúng ta vẫn thấy: nhiều người tự nguyện bước theo Chúa, hay tự do đáp lại lời mời gọi của Ngài, nhưng vẫn muốn đặt những lợi ích của bản thân và gia đình lên trên lợi ích của Chúa và Giáo Hội; nhiều người vẫn đặt những thứ như tiền, tài, tình…lên trên Chúa; nhiều người vẫn không muốn chấp nhận cuộc sống nghèo khó; nhiều người vẫn muốn làm theo ý riêng chứ không muốn toàn tâm toàn lực theo ý Chúa…Còn chúng ta thì sao?

Lạy Chúa Giêsu, chúng con là những kitô hữu, là tu sĩ, chủng sinh, linh mục. Chúng con đã chọn lựa đi theo Chúa, xin cho mỗi người chúng con đừng bao giờ “ngoái đầu trở lại”, nhưng quyết tâm trung thành với sự lựa chọn của mình. Amen.

ĐẶC QUYỀN ĐẶC LỢI

JM. Lam Thy ĐVD

(CN XIII/TN-C)

Tâm lý chung của con người khi được tín nhiệm trao phó một nhiệm vụ quan trọng nào đó, thường hay muốn chứng tỏ mình có đặc quyền, thậm chí còn ỷ vào đặc quyền để “được voi đòi tiên”. Với các môn đệ của Đức Giê-su thì vì khi được thâu nhận, Người có nói một câu thật hấp dẫn: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mc 1, 17). Theo Thầy thì sẽ có khả năng “lưới được con người” (thu phục lòng người, thu phục nhân tâm), như vậy mình sẽ trở nên nhân vật vô cùng quan trọng, được hưởng những “đặc quyền đặc lợi” không phải ai cũng có thể được thụ hưởng. Và vì thế nên các môn đệ đều mau mắn đi theo Thầy.

Điển hình cho quan niệm muốn chứng tỏ mình có đặc quyền là 2 nhân vật nổi bật ở trong Nhóm Mười Hai, đó là 2 người con ông Dê-bê-đê: Gia-cô-bê và Gio-an. đã có lần xin được ngồi bên tả và bên hữu Đức Giê-su (Mc 10, 35-40), rồi sau Phục Sinh, khi thấy một làng miền Sa-ma-ri không đón tiếp Đức Giê-su  thì “hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống rhiêu huỷ chúng nó không?” Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác.” (Lc 9, 51-55). Sau khi xảy ra cảnh vì ham muốn “đặc quyền đặc lợi” nên bị quở mắng, các môn đệ còn được “thực mục sở thị” những nhân vật cụ thể biểu hiện thái độ khi biết rõ điều kiện để được đi theo Đức Giê-su. Bài Tin Mừng hôm nay (CN XIII/TN-C – Lc 9, 51-62) trình thuật sự kiện đó.

Đó là câu chuyện 3 người muốn đi theo Đức Giê-su. Ở mỗi trường hợp, Đức Ki-tô trả lời một khác. Người thứ nhất xin đi theo thì Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Lc 9, 58). Đa số những bài chia sẻ đều phân tích ý của câu này Đức Giê-su muốn nói rằng Người nghèo lắm, nghèo đến độ không có một miếng đất thật nhỏ để tựa đầu (giống như Việt Nam hay nói nghèo đến độ “không có cả miếng đất cắm dùi”). Đúng là Con Người vâng lệnh Chúa Cha, xuống thế mặc lấy thân khó hèn, gánh lấy bệnh tật và tội lỗi của loài người, thì rất nghèo. Vậy ai muốn đi theo Người cũng phải chấp nhận cuộc sống khó nghèo (một trong 3 lời khuyên của Phúc Âm). Ngoài nghĩa đen, câu nói của Đức Ki-tô còn hàm chứa một nghĩa bóng: Đó là Con Người đem tình yêu, tình thương đến cứu độ loài người, nhưng không được đón tiếp, không được chấp nhận, không có nơi trú ngụ (trong lòng người thế), đến độ còn thua cả con chồn có hang, con chim có tổ. Như vậy là Người muốn hỏi ngược lại kẻ muốn đi theo Người: “Thầy là như vậy đó, liệu anh em có thể theo được không?”

Trường hợp thứ hai, chính Đức Ki-tô lên tiếng kêu gọi một người đi theo, thì người ấy lại nói: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” Đức Giê-su bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.” Lời dạy này mới thoạt nghe thì có vẻ tréo cẳng ngỗng, nghịch thường nghịch lý (“Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết” – người chết lại có thể chôn người chết được ư?), nhưng nếu để ý đến câu tiếp theo (“Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa”) thì sẽ hiểu ra ngay. Lời Thiên Chúa là Lời Hằng Sống, Triều Đại Thiên Chúa là Triều Đại Hằng Sống, là Nước Trường Sinh. Vậy thì, hãy cứ để “kẻ chết” (những người đang sống trong cõi chết trần thế) chôn “kẻ chết” của họ. Nói cách khác, anh muốn đi theo Thầy thì hãy từ bỏ tất cả, từ bỏ cả chính bản thân anh (từ bỏ chính mình), rồi còn phải vác thập giá của mình (những hy sinh, nhọc nhằn, vất vả, kể cả cái chết) mà theo Thầy. Có như vậy mới xứng đáng lo việc Cõi Sống (loan báo Triều Đại Thiên Chúa).

Đến trường hợp thứ ba, thì người xin theo lại “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” (Lc 9, 61). Và Đức Ki-tô cũng trả lời khác hơn 2 lần trước: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” Trở lại với thời Cựu Ước (bài đọc 1 cùng ngày) thì thấy: “Ông Ê-li-sa muốn theo ngôn sứ Ê-li-a, xin phép về từ biệt gia đình thì được chấp thuận và ông Ê-li-sa đã về giết một cặp bò làm lễ tế và tiệc từ biệt gia đình” rồi mau mắn “đi theo ông Ê-li-a và phục vụ ông” (1V 19, 19-21). Ngôn sứ Ê-li-a thì chấp thuận cho Ê-li-sa về làm tiệc từ giã gia đình, còn Đức Giê-su thì không đồng ý. Như vậy thì chẳng lẽ sang đến thời Tân Ước mà còn khó hơn cả Cựu Ước hay sao? Chuyện cũng đơn giản, vì sang đến thời đại Tân Ước, con người văn minh hơn, tiến bộ hơn, và cũng “kém tin” hơn, kém thực thà hơn, thậm chí còn ranh mãnh hơn, xảo quyệt hơn; nên chi cũng còn “tiếc của trời mà ngoái lại đàng sau” nhiều hơn. Biết đâu khi được cho về nhà từ giã gia đình thì lại muốn ở lại luôn, chẳng muốn rời xa cái tổ ấm đầy quyến rũ ấy để rồi cứ phải “ngoái lại đàng sau”. Cầm cày mà cứ ngoái cổ lại đàng sau thì làm sao mà cày ruộng?

Không lâu sau 3 trường hợp vừa nêu, thì lại có câu chuyện anh chàng phú hộ (người thanh niên có nhiều của cải) đến xin đi theo Đức Ki-tô. Anh ta đã là người giàu có, giờ đây nếu được theo chân Đức Giê-su Thiên Chúa thì còn hãnh diện biết chừng nào. Phú quý + danh vọng là mãnh lực quyến rũ con người muôn đời muôn thủa. Và cũng vì thế, nên khi nghe Đức Ki-tô bảo “anh hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mt 19, 21), anh ta bị … cụt hứng! Ôi chao! Làm sao mà bán hết của cải đi được! Buồn lắm! Buồn đến đứt ruột! Thôi thì đành bái bai cái viễn tượng “cuộc sống đời đời” chẳng biết có thực hay không, để trở về với cái hiện thực đầy hấp dẫn “của cải đầy nhà, thóc lúa đầy bồ…” còn sướng hơn! Và chàng phú hộ nhà ta… tiu nghỉu như mèo bị cắt tai, buồn rầu bỏ đi một nước (Mt 19, 16-21). Thêm một lần minh hoạ một cách sống động cho cái kiểu muốn đi theo Thầy mà cứ “ngoái lại đàng sau” tiếc rẻ cõi phù sinh trần thế. Vậy đó!

Xét theo tâm lý chung của loài người thì 4 trường hợp nêu trên chỉ là “chuyện thường ngày ở huyện”. Con người là thế, chỉ muốn những điều có lợi cho bản thân (ích kỷ) theo nhãn quan thiển cận của mình, thậm chí có khi vì lợi ích bản thân mà hại đến người khác (ích kỷ hại nhân). Đến ngay như các môn đệ thân tín của Đức Ki-tô cũng không ngoại lệ. Cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được ăn trên ngồi trốc, quyền lực thượng đẳng, chớ không ai nghĩ rằng muốn theo Chúa thì phải vác thập giá mình mà theo. Trong dụ ngôn “Tiệc cưới” biết bao kẻ được nhà vua mời một cách nhưng không, còn tìm đủ lý do xin kiếu (Lc 14, 15-24), huống hồ!

Cả 4 trường hợp “theo Chúa” như nêu trên đã chứng minh con người là chủ thể xuất phát điểm của đức tin và đức ái, nhưng khi con người chưa hết lòng Tin Yêu thì tất nhiên sẽ xảy ra cảnh muốn theo Chúa nhưng vẫn tiếc của trời “ngoái lại đàng sau”, không muốn “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Đối với con người trần tục thì vấn đề theo Chúa Ki-tô quả thực là thiên nan vạn nan, khó lòng mà thực hiện cho được. Khó, nhưng không phải là không làm được, nếu người Ki-tô hữu biết sống đúng, sống đủ, sống trọn 3 nhân đức TIN + CẬY + MẾN. Tiên vàn thì cần phải “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” đã. Muốn yêu Chúa như vậy thì phải dốc một lòng tin tưởng Người thực sự là cứu cánh duy nhất cho cuộc đời mình. Đức tin là gốc nhưng đức tin chỉ trưởng thành nhờ đức ái. Ấy cũng bời vì “chỉ có Đức Tin hành động nhờ Đức Ái” (Gl 5, 6).

Người Ki-tô hữu đừng bao giờ quên “Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn.” (Gl 5, 17), nên phải dốc một lòng Cậy trông Đấng đã hứa: “anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.”(Cv 1, 8), đó chính là “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Ga 14, 26). Và chỉ có như thế mới khiến con người mỏng giòn yếu đuối của mình khi được Chúa mời gọi cộng tác với Người, sẽ không còn cảnh “ngoái lại đằng sau” mà lưu luyến cái cõi trần đầy nhơ uế tội lỗi, nhưng lại rất nhiều hấp lực lôi cuốn con người.

Ước được như vậy. Amen.

MINH HỌA LỜI CHÚA

Hiếu Nguyễn

Chúa Nhật XIII Thường Niên Năm C

(1V.19,16-21; Gl.5,1.13-18; Lc.9,51-62)

Tinh thần của môn đệ Chúa Giêsu

1-Lòng Chúa khoan dung

Một họ đạo không có Linh mục. Mỗi Chúa nhật nhờ một linh mục đến dâng lễ cho giáo dân tham dự. Nhưng phần đường xa phần vì đường xá khó đi, nên nhiều lần linh mục đến trễ.

Chúa nhật nọ, giáo dân đã tụ họp đọc kinh xong mà linh mục chưa đến. Trong khi giáo dân ngồi chờ đợi, một người vô thần tiến lên giữa nhà thờ tuyên bố:

-Bà con hãy về đi, không có Chúa bà đâu mà ngồi đó chờ đợi mất giờ. Tôi sẽ chứng minh cho bà con thấy rõ: Nếu Chúa của bà con có thật, tôi thách Ngài phạt tôi ngã ra chết tại đây trong vòng 5 phút.

Nói xong anh ta nhìn đồng hồ trên tay như thách đố. Mọi người trong nhà thờ im lặng hồi hộp thầm thì cầu nguyện cho anh ta. Rồi 5 phút trôi qua. Anh ta hạ tay đeo đồng hồ xuống và hãnh diện nói:

-Bà con thấy chưa, có Chúa bà gì đâu? Chúa của bà con chỉ là do tưởng tượng thôi.

Và anh ta dõng dạc đi ra khỏi nhà thờ vừa lúc linh mục đến. Mọi người thuật lại việc phạm thượng của anh ta cho cha nghe. Cha liền quỳ xuống giữa nhà thờ. Giáo dân thấy vậy cũng quỳ theo và bắt đầu cám ơn Chúa:

Lạy Chúa, chúng con hết lòng cám ơn Chúa, vì Chúa nhân từ khoan dung, đã thương tha tội phạm thượng cho người vô thần đó, cũng như Chúa đã khoan hồng tha thứ cho dân làng Samari khước từ xua đuổi Chúa, trong lúc các tông đồ Giacôbê và Gioan đòi khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy họ.

Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, sẵn sàng thương yêu tha thứ lỗi lầm của anh chị em đối với chúng ta, và để chúng con xứng đáng làm môn đệ Chúa. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập IV).

2-Tinh thần từ bỏ

Hai tu sĩ lên đường hành hương. Một vị chủ trương phải có đủ tiền bạc và phương tiện, còn vị kia thì chấp nhận tinh thần từ bỏ, không cần tiền của gì. Hai vị bàn luận tranh cãi nhau về hai tinh thần đó, nhưng không ai thuyết phục được ai.

Khi họ đến bờ một dòng sông thì trời cũng đã tối. Vị có tinh thần từ bỏ đề nghị:

-Chúng ta không có tiền mướn người đưa qua sông. Nhưng lo lắng làm gì, chúng ta cứ ở nghỉ lại đây, sáng mai thế nào cũng tìm được người giúp đưa chúng ta qua sông.

Vị tin vào tiền của quả quyết:

-Bên này không có nhà cửa trú ngụ, thú dữ có thể cắn xé, nhất là làm sao chịu nổi giá lạnh đêm nay. Tôi có mang tiền đây, hãy mướn người đưa chúng ta qua bờ bên kia cho an toàn.

Sau khi sang qua sông, vị tu sĩ đó trả tiền rồi nói với vị kia:

-Anh thấy ịch lợi của tiền của chưa? Nếu không có tiền, làm sao anh với tôi sang được bên này. Và điều gì sẽ xảy ra cho chúng ta, nếu tôi cũng từ bỏ như anh?

Vị sống theo tinh thần từ bỏ mỉm cười nói:

-Chính sự từ bỏ của anh đã cứu chúng ta, vì anh đã không tiếc tiền để thuê người lái đò. Hơn nữa tôi không có tiền của gì mà tôi vẫn sống, vẫn sang đây được: chính tinh thần từ bỏ của tôi đã cho tôi mọi sự cần thiết…

———

Tin mừng hôm nay thuật lại, trong khi Chúa và các môn đệ đi lên Giêrusalem, thì có kẻ chạy đến thưa: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo”.

Người liền trả lời:

-“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”.

Đối với người khác, Chúa bảo:

-Anh hãy theo tôi?

Người ấy thưa:

-Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.

Người bảo:

-“Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa”.

Một kẻ khác nữa lại nói:

-Thưa Thầy, tôi xin theo thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã”.

Đức Giêsu bảo:

-“Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đằng sau khì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”

“Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ và tất cả những ai muốn theo Ngài một thái độ dứt khoát tận căn. Ngài không chấp nhận bất cứ một thỏa hiệp nào hoặc việc bắt cá hai tay, vừa theo Chúa vừa làm tôi ma quỷ xác thịt thế gian.”

Qua những đòi hỏi đó, Chúa Giêsu muốn nhắc lại cho chúng ta nhớ giới răn căn bản: “Mến Chúa hết linh hồn, hết trí khôn hết sức lực”. Con người chỉ thực sự làm người khi nó đạt được ơn gọi làm người, khi nó sống trọn vẹn cho Thiên Chúa. Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi nó thuộc trọn về Thiên Chúa.

“Mến Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, chính là để cho Thiên Chúa chiếm ngự tâm hồn mình và ngày một trở nên trống rỗng hơn để cho Ngài lấp đầy. Những việc hy sinh, khổ chế, từ bỏ chỉ có ý nghĩa và có giá trị nếu chúng ta được thực thi như một cố gắng dốc cạn chính mình để tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa. Và đó chính là điều kiện để được trở nên người môn đệ Chúa. “Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập I).

3-Hy sinh

Câu chuyện thật ý nghĩa xảy ra tại Calcutta. Một đôi vợ chồng trẻ đến gặp mẹ Têrêsa. Đó là những người Ấn Độ. Họ trao cho mẹ một số tiền lớn. Mẹ hỏi:

-Làm sao các con có số tiền lớn thế?

-Chúng con vừa làm đám cưới xong hai ngày nay. Trước ngày cưới, chúng con đã quyết định không tổ chức đám cưới lớn và cũng chẳng sắm áo cưới mới. Chúng con đồng ý sẽ biếu mẹ số tiền tiết kiệm được để mẹ nuôi người nghèo.

Theo tục lệ Ấn Độ, một dòng tộc lớn và giàu có mà không tổ chức đám cưới lớn và mua sắm áo cưới mới thì rất bị tai tiếng. Thế nên mẹ hỏi họ:

-Sao các con làm thế. Các con không sợ bị tai tiếng sao?

-Mẹ ơi! Chúng con yêu nhau tha thiết, nên chúng con muốn được Chúa chúc lành cho chúng con, khi chúng con làm việc hy sinh này.

———

Quà tặng này thật là tuyệt diệu. Sự hy sinh của đôi vợ chồng trẻ này thật cao cả. Phải chăng nó minh họa Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay?

Chúa Giêsu quyết định đi lên Giêrusalem, mặc dầu Người biết ở đó người ta sẽ khước từ Người, bắt bớ hành hạ và giết Người trên thập giá.

Người sẵn sàng hy sinh mạng sống vì thương chúng ta và để cứu rỗi chúng ta. Người nêu gương cho chúng ta là những kẻ theo Người, làm môn đệ của Người. (Theo “Mẹ Têrêsa, quà tặng của tình thương”).

4-Đã tra tay cầm cày

Ở nước Anh vào năm 1924, có anh Eric Liddell là vận động viên xuất sắc trong môn chạy 100 mét. Mọi người đều hy vọng anh đoạt được huy chương vàng tại đại hội Olympic tổ chức tại Paris nước Pháp cùng năm đó. Nhưng rồi họ ngỡ ngàng bực tức khi nghe tin anh từ chối không tham dự đại hội đó. Lý do là vì đại hội đó tổ chức nhằm ngày Chúa nhật. Anh không thể bỏ lễ Chúa nhận để đi tìm một huy chương vàng. Mọi người đều gây sức ép trên anh. Cả hoàng tử xứ Wales cũng cố gắng thuyết phục anh đi dự đại hội đó. Thấy anh không chịu đổi ý, báo chí Anh quốc cho anh là tên phản bội.

Vài năm sau, anh còn làm cho mọi người sửng sốt hơn, khi anh đến Trung Hoa làm một người truyền đạo.

Thế rồi thế chiến thứ hai xảy ra. Khi Nhật nhảy vào cuộc chiến, anh bị bắt giam trong một trại tập trung. Tại đây anh vẫn tiếp tục việc mục vụ bên cạnh các tù nhân. Vài năm sau, anh đã anh dũng chết tại trại tập trung này. Năm 1980, có người đã dựng lên cuốn phim về cuộc đời hy sinh vì Chúa của anh. Cuốn phim tựa đề là “Chuyến xe chở lửa” đã phá kỷ lục về lợi nhuận mà còn đoạt giải thưởng Hàn Lâm năm 1982.

———

Cuộc đời của Eric Liddell đã làm sáng tỏ thái độ dứt khoát Chúa Giêsu đòi hỏi nơi môn đệ trong Tin mừng hôm nay: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng say thì không thích hợp với Nước Trời”.

Một khi đã quyết định theo Chúa Giêsu, Eric cứ nhắm thẳng phía trước mà tiến bước, không bao giờ ngó lại phía sau, dù phải đối diện với áp lực khủng khiếp của dân chúng, dù bị gọi là tên phản bội.

Bí quyết nào giúp anh can đảm, trung thành bền đổ đến thế?

Anh luôn thức dậy sớm mỗi ngày, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện. Đó là bí quyết của anh. Và chắc chắn đó cũng là bí quyết cho chúng ta, nếu chúng ta muốn làm môn đệ Chúa bền vững. Và “ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu thoát” (Theo “Sunday Homilies”).

5-Con không có chỗ tựa đầu

Mẹ Têrêsa Calcutta quyết định bắt đầu công việc của mẹ tại một trong những khu lao động tồi tệ nhất ở Calcutta. Mẹ đã tập trung một số trẻ em nghèo bên mẹ và dạy chúng học ở ngoài trời. Mẹ dạy các em bằng cách dùng những cái que viết trên mặt đất.

Khi đến giờ cơm trưa, mẹ đi tìm một bóng mát có thể có nước uống. Lần nọ, mẹ đến gõ cửa một người nhà xin vào nghỉ và dùng cơm trưa. Người ta chỉ cho mẹ đi vòng ra sân sau, ngồi trên một cầu thang, ăn cơm trưa như một người ăn mày ở đầu đường. Mẹ đã viết: “Chúa muốn tôi là một nữ tu nghèo khó. Hôm nay tôi đã học được bài học quý giá. Sự túng cực của người nghèo thật là đau đớn”.

———

Phải chăng đó là tinh thần nghèo khó Chúa Giêsu đòi hỏi nơi những ai muốn theo Người, làm môn đệ Người; “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu”.

Mẹ Têrêsa Calcutta đã làm theo Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay. Đó là tinh thần nghèo khó đích thực. Khi chúng ta sống tinh thần nghèo khó đó, chúng ta mới nhìn thấy cảnh nghèo khổ của anh chị em chúng ta. Chúng ta có tinh thần nghèo khó đó, chúng ta mới dễ cảm thông và chia sẻ với tha nhân. Chúng ta có tinh thần nghèo khó đó, chúng ta mới xứng đáng làm môn đệ Chúa Giêsu. (Theo “Mẹ Têrêsa, biểu tượng của tình thương”).

LỄ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ

Lm Đan Vinh

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

Cv 12,1-11 ; 2 Tm 4,6-8.17-18 ; Mt 16,13-19

NOI GƯƠNG HAI THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ TÔNG ĐỒ

  1. HỌC LỜI CHÚA
  2. TIN MỪNG:

(c 13) Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói con Người là ai?” (c 14) Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”. (c 15) Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (c 16) Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (c 17) Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Simon con ông Giôna, Anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều đó, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. (c 18) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. (c 19) Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”.

  1. Ý CHÍNH: HỘI THÁNH ĐƯỢC XÂY TRÊN ĐÁ TẢNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ.

Sau khi Simon đại diện cho Nhóm Mười Hai khẳng định Người là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (c 15-16), ông đã được khen là có phúc (c 17), được đổi tên thành Phêrô và được hứa xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin mà ông vừa tuyên xưng, tiên báo Hội Thánh ấy sẽ trường tồn, bất chấp ma quỷ chống phá (c 18). Sau cùng Người cũng trao cho ông chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc và tháo cởi (c 19).

  1. HỎI ĐÁP VÀ CHÚ THÍCH:

HỎI 1: Khi thay mặt anh em tuyên xưng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa hằng sống”, phải chăng Tông đồ Simon có ý nói về bản tính Thiên Chúa của Người?

ĐÁP:

Có lẽ khi tuyên xưng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa hằng sống”, Phêrô vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa của tước hiệu ông nói. Ông chỉ muốn giải thích ý nghĩa của tước hiệu Đấng Kitô, theo lời ngôn sứ Nathan tuyên sấm về người con sẽ nối nghiệp vua Đa-vít như sau: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền nó được vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính Danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là Cha. Đối với Ta, nó sẽ là con” (2 Sm 7,12-14). Lời ấy đã không ứng nghiệm nơi vua Salômon. Từ đó, dân Do thái hằng trông mong Đấng Thiên Sai thuộc dòng dõi vua Đavít sẽ đến. Về sau, trong cuộc khải hoàn vào Giêrusalem, Đức Giêsu cũng được dân chúng ca tụng bằng tước hiệu “Con Vua Đavít” này (x. Mt 21,9). Khi tuyên xưng tước hiệu “Con Thiên Chúa hằng sống”, Phêrô chưa hiểu ý nghĩa lời ông nói. Sau đó, Đức Giêsu đã cho biết ý nghĩa tước hiệu này nói về bản tính Thiên Chúa, khi khen ông có phúc vì đã được Chúa Cha thương mặc khải sự thật ấy (x Mt 16,17).

HỎI 2: Tại sao Đức Giêsu đổi tên Simon thành Phêrô? Việc đổi tên chính xác xảy ra vào lúc nào: Khi vừa gặp mặt (x Ga 1,42), khi thành lập Nhóm Mười Hai (x Mc 3,16; Lc 6,14) hay sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin (x Mt 16,18)?

ĐÁP:

Có thể Đức Giêsu đã đặt tên Phêrô cho Simon khi vừa gặp mặt (x. Ga 1,42), hay khi thành lập Nhóm Mười Hai (x. Mc 3,16; Lc 6,14). Tuy nhiên có lẽ việc đổi tên xảy ra sau lời tuyên xưng đức tin của Simon là hợp lý nhất (x. Mt 16,18), vì sau khi đổi tên, Đức Giêsu đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của ông trong Hội Thánh: Đức tin của Phêrô vào Đức Giêsu chính là tảng đá vững chắc mà trên đó Chúa xây dựng Hội Thánh. Ngoài ra Đức Giêsu còn trao tối thượng quyền để cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19). Ngưới cũng cho Phêrô đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2), và hứa sẽ cầu nguyện để ông kiên vững đức tin, hầu củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng, Chúa còn trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh cho ông (x.Ga 21,15-17).

HỎI 3: Một số người cho rằng: Simon Phêrô là một người đầy khuyết điểm và đã từng phạm tội chối Thầy ba lần, thì làm sao xứng đáng lãnh đạo Hội Thánh và thi hành quyền cầm buộc và tháo cởi được?

ĐÁP:

Từ ngày được Đức Giêsu gọi đi theo làm môn đệ, Simon đã phạm nhiều sai lầm. Chẳng hạn: Ông bị Thầy quở trách vì đã suy nghĩ theo kiểu khôn ngoan của loài người (x. Mt 16,23); Bị trách là kẻ hèn tin khi đang đi trên mặt nước (x. Mt 14,31); Bị Thầy đe không cho dự phần với Thầy, vì đã từ chối được rửa chân (x. Ga 13,8-10); Nhất la quá tự tin nên đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước (x. Mc 14,30.66-72).

Nhưng Simon Phêrô cũng có những ưu điểm xứng đáng được Đức Giêsu tín nhiệm trao quyền lãnh đạo Hội Thánh. Chẳng hạn: tại thành Xêdarê Philípphê, ông đã tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, nên đã được đổi tên thành Phêrô, và được trao quyền tối thượng cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19). Có lần ông được Đức Giêsu hứa sẽ cầu nguyện cho để luôn kiên vững đức tin, và trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em (x. Lc 22,32). Phêrô cũng rất nhiệt tình, thường đại diện anh em trả lời những vấn nạn của Thầy (x. Lc 5,3-10), đại diện Nhóm 12 tuyên xưng đức tin vào lời Chúa dạy về Bánh Thánh Thể, đang khi nhiều môn đệ khác chán nản rút lui (x. Ga 6,68). Nhờ kiên vững đức tin, nên ông đã được Đức Giêsu đặt đứng đầu Nhóm Mười Hai (x. Mt 10,2), được đi trên mặt nước (x Mt 14,28-32), trở thành một trong ba môn đệ thân tín nhất được chứng kiến cuộc hiển dung của Người (x. Mt 17,1), phép lạ bé gái đã chết được sống lại (x. Mt 5,37), và nhất là chứng kiến Thầy hấp hối trong vườn Cây Dầu (x. Mt 26,37).

Tuy có lần sa ngã phạm tội, nhưng Phêrô đã lập tức sám hối (x. Mt 26,69-75). Nhờ yêu Chúa nhiều hơn anh em, nên ông đã được Người tha thứ và còn trao nhiệm vụ lãnh đạo đoàn chiên (x. Ga 21,15-17). Chính lòng yêu mến Đức Giêsu đã thúc bách Phêrô chạy thi với Gioan ra mồ và đã sớm tin Thầy sống lại (x. Ga 20,1-9). Phêrô cũng được Chúa Phục Sinh hiện ra (x. Lc 24,34), được cùng anh em lãnh nhận ơn Thánh Thần và đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi (x. Cv 2,14-36), chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 9,33-35.40-41), chủ tọa công nghị Giêrusalem năm 49 (x. Cv 15,5-29). Cuối cùng ông đã can đảm trở lại thành Rôma để bị bắt và chịu khổ hình thập giá thời hoàng đế Nêrô (năm 64-67). Cái chết của Phêrô chứng tỏ lòng mến Chúa, và nêu gương đức tin vững chắc như đá tảng, để các tín hữu chúng ta noi theo.

  1. SỐNG LỜI CHÚA:
  2. LỜI CHÚA: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).
  3. CÂU CHUYỆN: PHẢI LÀM GÌ ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA GIÊSU?

Ngày xưa, một vị vua nước Hy Lạp tổ chức một cuộc thi làm tượng ảnh nghệ thuật: các nghệ nhân sẽ tạc tượng hoặc làm tranh tượng chân dung của nhà vua. Vua hứa sẽ ban thưởng lớn cho những tác phẩm nào giống ngài nhất. Nghe thông báo, các nghệ nhân từ khắp các nước đã ùn ùn đến Hy Lạp để xin ứng thí. Nghệ nhân Ấn-độ thì mang theo dụng cụ để chạm trổ đồ kim hoàn vàng bạc và các loại ngọc trai quý giá. Nghệ nhân Ai Cập thì mang theo đồ nghề đục đẽo đá quý và một khối cẩm thập rất đẹp. Ai cũng quyết tâm dành giải thưởng. Riêng nghệ nhân nước chủ nhà Hy Lạp chỉ đến ứng thí với bộ đồ gọt dũa đánh bóng đơn giản.

Mỗi đoàn dự thi được ban tổ chức bố trí ở và làm việc tại một phòng trong khu vực hoàng cung. Tới ngày thi, nhà vua ra lệnh mỗi đoàn phải hoàn thành tác phẩm trong thời gian một tuần lễ. Thế là các nghệ nhân vội vàng bắt tay vào việc. Họ đục đẽo, chà sát, đánh bóng để khắc họa chân dung của nhà vua Hy Lạp cho giống như người thật. Khi một tuần trôi qua, nhà vua truyền đem các tác phẩm đến trưng bày tại một đại sảnh lớn trong hoàng cung để nhà vua và bá quan trong triều đến chấm điểm. Khi thấy những tác phẩm dự thi họa lại chân dung của mình do các nghệ nhân Ấn Độ, Ai Cập và nhiều nước khác sáng tác. Nhà vua hết sức hài lòng. Theo ngài thì mỗi bức tượng, tranh tượng phù điêu đều có những đường nét tinh vi sắc sảo, nhìn thấy giống hệt khuôn mặt của ngài. Các tác phẩm ấy được tạc vẽ từ đất nung, từ đá cẩm thạch, hay các loại vàng bạc quý kim khác. Cuối cùng khi đến chỗ trưng bày tác phẩm của các nghệ nhân Hy Lạp thì ngài lấy làm ngạc nhiên vì không thấy bất cứ bức tượng hay tranh tượng nào, mà chỉ thấy một phiến đá cẩm thạch trắng, được các nghệ nhân đánh bóng. Nhà vua liền hỏi xem tác phẩm đâu, thì một người đưa ngài đến đứng trước phiến đá và chỉ vào chân dung của ngài hiện ra trong đó. Nhìn thấy hình ảnh trung thực của mình, nhà vua đã hiểu ra và hết sức cảm động. Ngài nhận xét các bức tranh hay tượng khác, dù có giống ngài nhưng chúng không sống động và trung thực như hình ảnh được phản chiếu từ chính con người thật của ngài. Nhà vua đã chấm cho tác phẩm của đoàn nghệ thuật Hy Lạp hạng nhất. Còn các tác phẩm khác cũng được xếp hạng và đều có phần thưởng tương xứng với giá trị của chúng. Sau đó, tất cả các tác phẩm đều được trưng bày tại viện bảo tàng quốc gia cho dân chúng được tự do chiêm ngưỡng.

  1. THẢO LUẬN: Đối với bạn, Đức Giêsu là ai? Người là một vị ngôn sứ, nên ta có thể xin Người cầu bầu cùng Chúa cho ta; hay là một thần tượng để ta thán phục; hay chính là Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa, để ta tin và sẵn sàng bỏ mọi sự mà đi theo làm môn đệ Người, sẵn sàng vác thập giá là những đau khổ phải chịu để kết hiệp với Người cứu rỗi tha nhân?
  2. SUY NIỆM:
  3. SO SÁNH GIỮA HAI TÔNG ĐỒ PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ:
  4. a) Về sự giống nhau:

– Về đức khiêm nhường và thành tâm sám hối: Cả hai vị đều là những người yếu đuối và tội lỗi nhưng đã biết khiêm nhường và hoán cải. Tông đồ Phêrô đã chối Thầy ba lần, nhưng đã hết lòng ăn năn và trung thành với Thầy đến chết. Tông đồ Phaolô đã quyết tâm tiêu diệt Hội Thánh ngay từ khi còn phôi thai, nhưng khi đã trở lại, đã hiến dâng cả đời để loan báo Tin Mừng, làm cho Hội Thánh được lan rộng đi khắp thế giới, bất chấp đói khát, hiểm nguy, tù đầy, kể cả cái chết.

– Về đức tin vào Chúa Giêsu là Đức Kitô và là Con Thiên Chúa: Trong khi những người Do Thái đồng thời đang mong chờ một Đấng Messia thế tục, đến để giải phóng họ khỏi ách nô lệ cho ngoại bang, còn hai vị Tông đồ đã nhận ra Đức Giêsu chính là Đấng Kitô của Thiên Chúa sai đến. Tông đồ Phêrô là người đầu tiên đã tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống” (Mt 16,16 ). Còn Tông đồ Phaolô luôn gọi Thầy Giêsu là “Chúa” hay là “Đức Kitô”, hay là “Con Thiên Chúa” (x. 1 Ts 1,10; Rm 5,10; 8,3; 2 Cr 1,19).

– Về lòng yêu mến Chúa và Hội Thánh: Sau khi đã trở lại, hai vị đã hoàn toàn quên mình và hiến trọn đời cho Chúa. Cả cuộc đời còn lại của Tông đồ Phaolô được tóm tắt như sau: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi, nhưng là Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Ngài khuyên chúng ta: “dù anh em ăn, uống, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy làm tất cả vì vinh danh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31). Còn Tông đồ Phêrô thì nhắc nhở chúng ta: “Hãy tôn thờ Ðức Kitô là Chúa trong lòng anh em, và luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ người nào hỏi anh em về lý do của niềm hy vọng nơi anh em” (1 Pr 3,15), và “vì chính Ðức Kitô đã chịu đau khổ trong thân xác, nên anh em cũng hãy tự trang bị bằng cùng một tâm tưởng ấy, vì ai chịu đau khổ về thể xác thì ngừng phạm tội, để thời gian còn lại trong thân xác, người ấy không còn sống theo những tình dục con người, nhưng theo thánh ý của Thiên Chúa” (1 Pr 4,1-2). Cả hai vị đã nêu gương hy sinh mạng sống cho Chúa và cho Hội Thánh.

  1. b) Khác nhau về ơn gọi và sứ vụ:

– Tông đồ Phêrô: được gọi ngay từ khi Đức Giêsu mới ra giảng đạo, đang khi tông đồ Phaolô được gọi sau khi Chúa đã về trời. Tông đồ Phêrô là một trong những người được gọi trước hết và được Đức Giêsu trao nhiệm vụ lãnh đạo Hội Thánh (x. Mt 6,19) và nâng đỡ các anh em khác (x. Lc 22,32 ).

– Tông đồ Phaolô: được Chúa gọi sau cùng sau khi Người đã tử nạn và phục sinh và Phaolô được trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại.

Việc Chúa chọn hai vị tông đồ Phêrô và Phaolô cho thấy Thiên Chúa thật mầu nhiệm và quyền năng vô biên trong việc biến đổi những người tầm thường hoặc cứng đầu nhất trở thành những tông đồ nhiệt thành của Người nếu họ thành tâm đón nhận ân sủng của Người.

  1. 2. BÀI HỌC TỪ HAI THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ:
  2. a) Học tập gương nhân đức của các ngài: Thánh Phaolô đã dạy các tín hữu noi gương bắt chước ngài như ngài đã bắt chước Đức Kitô (x.1 Cr 4,16; 11,1). Còn thánh Phêrô thì khuyên các mục tử: “Ðừng thi thố quyền hành, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1 Pr 5,3).

– Gương khiêm nhường: Khi chịu kết án tử hình, thánh Phêrô đã xin được đóng đinh ngược vì thấy mình không xứng đáng chịu đóng đinh giống như Thầy là Đức Giêsu. Còn thánh Phaolô thì công khai nhận mình là “một tên phạm thượng, khủng bố và ngạo mạn.” Ngài cũng khiêm tốn coi mình chỉ là “một đứa bé sinh non, là người bé nhỏ nhất trong số các Tông đồ, không đáng được gọi là Tông đồ” (x. 1 Cr 15,8-9). Thánh Phêrô khuyên các tín hữu chúng ta: “Tất cả anh em hãy mặc lấy đức khiêm nhường trong cách đối xử với nhau, vì ‘Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho người khiêm nhường.’” (1 Pr 5,5). Thánh Phaolô thì nói: “Nếu tôi phải khoe khoang, thì tôi sẽ khoe về những gì liên quan đến sự yếu đuối của tôi” (2 Cr 11,30).

– Gương nhẫn nhịn chịu đựng nhau và xây dựng tình hiệp thông huynh đệ: Tuy có nhiều kiến thức hơn Phêrô, nhưng thánh Phaolô đã đến ở với Phêrô 15 ngày để học cùng Phêrô những gì Phêrô đã học từ Đức Kitô (x. Gal 1,18). Ngài khuyên chúng ta: “Ðừng làm gì vì ganh tị hay hư danh, nhưng trong tinh thần khiêm nhường, mỗi người hãy coi người khác là hơn mình” (Phil 2,3). Còn thánh Phêrô khi bị Phaolô chỉ trích công khai, đã giữ thái độ bình thản không tranh cãi (x. Gal 2,11-14). Dù có những bất đồng ý kiến, nhưng các ngài luôn thể hiện sự hiệp thông: Thánh Phêrô đã cùng với Giacôbê và Gioan bắt tay Phaolô (x. Galat 2,9-10). Còn thánh Phaolô thì tổ chức quyên góp tiền gửi về giúp giáo đoàn Giêrusalem.

– Gương can đảm làm chứng cho Đức Kitô: Thánh Phêrô đã đứng trước Công Nghị Do thái tuyên bố: “Chúng tôi không thể không nói ra những gì chúng tôi đã nghe, và đã thấy.” (Cv 4,19-20). Còn thánh Phaolô thì nêu gương “chịu đựng trong gian khổ, cùng quẫn, lo âu, đòn đánh, tù ngục, lao nhọc, đói khát” (x. 2 Cr 6,4-5), để giữ vững đức tin (x. 2 Tm 4,7).

  1. b) Sống và loan báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay?:

– Tội lỗi của thế giới hôm nay: Cũng như thời các Tông đồ, con người ngày nay đang tôn thờ ngẫu tượng là tiền tài, danh vọng và những thú vui xác thịt. Họ đang “theo những dục vọng của lòng họ, theo những điều ô uế, để họ cùng nhau làm nhục thân thể của họ. Họ đã đổi chân lý của Thiên Chúa để lấy sự giả trá. Họ đã tôn kính và thờ phượng những loài thụ tạo, thay vì Ðấng Tạo Hoá” (Rm 1,24-25). Họ cũng “theo dục tình đồi bại. Phụ nữ của họ đã đổi những liên hệ tự nhiên lấy những liên hệ trái tự nhiên. Ðàn ông cũng thế, bỏ liên hệ tự nhiên với phụ nữ để nôn nao thèm muốn lẫn nhau. Ðàn ông làm việc tồi bại với đàn ông” (Rom 1,26-27). Họ đang tìm cách đạp đổ gia đình là nền tảng của xã hội bằng cách gán cho nó một định nghĩa mới. Họ đang nhân danh “quyền chọn lựa của phụ nữ” để phá thai, giết hại hàng triêu thai nhi mỗi năm. Không những thế họ còn muốn dạy những điều này cho trẻ em, và thay đổi luật pháp để biến những điều này thành những quyền căn bản, hầu bịt miệng những ai muốn vạch rõ chân lý.

– Loan báo Tin Mừng là can đảm chống lại nền văn hóa sự chết: Là Kitô hữu chúng ta có nhiệm vụ đoàn kết với nhau và đoàn kết với các tổ chức tốt khác chống lại “nền văn hoá sự chết này” dù phải chịu mọi thiệt thòi hay phải chết như các Tông đồ khi xưa.

  1. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊSU. Chúng con cũng muốn được góp phần xây dựng Hội Thánh. Nhưng muốn làm được như vậy, chúng con phải có đức tin mạnh mẽ như hai thánh Phêrô và Phaolô. Xin Chúa cho chúng con trở thành những viên đá đức tin sống động vững chắc, làm thành nền móng xây nên tòa nhà Hội Thánh như thánh Phêrô. Xin Chúa hãy giúp chúng con tránh những lời nói khó ưa, những hành động vụ lợi ích kỷ, để sống bác ái hiệp thông với nhau như thánh Phaolô. Xin giúp chúng con loại bỏ những đam mê bất chính và các thói hư tật xấu, loại bỏ tính háo danh, thói ưa châm chọc chỉ trích kẻ khác, những tư tưởng tự mãn và hẹp hòi… Nhờ đó, chúng con có thể trở thành chứng nhân hữu hiệu của Chúa giữa xã hội Việt Nam hôm nay.

– LẠY CHÚA. Tòa nhà Hội Thánh sau hai ngàn năm đến nay vẫn còn đang được xây dựng dang dở. Xin Chúa giúp mỗi người tín hữu chúng con tích cực góp phần xây dựng để ngôi nhà Hội Thánh sớm được hoàn thành. Xin cho chùng con luôn sống yêu thương hòa thuận để gia đình và Giáo Xứ chúng con trở thành một cộng đoàn yêu thương hiệp nhất và bình an. Nhờ đó nhiều người sẽ nhận biết tin thờ Chúa và sau này cùng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với chúng con.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*