- Hãy Ra Đi Rao Giảng Tin Mừng-Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
- Các Con Hãy Đi- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
- Điều Kiện cần của người thừa sai-Jos.Vinc. Ngọc Biển
- Sức mạnh của lòng tin-by Huệ Minh
- Con chiên giữa sói rừng-Am Trần Bình An
- Bài sai-Am Trần Bình An 2013
- Phúc âm hoá bản thân mình trước hết-Linh mục Inhaxiô Trần Ngà 2010
- Chúa sai tôi đi-Tgm Giuse Ngô Quang Kiệt
- Hành trang tông đồ-Lm Giuse Nguyễn Hữu An
- Chúa sai tôi đi loan tin bình an và hạnh phúc-Lm. Carolô Hồ Bạc Xái
- Làm gì cho người nghèo? Lm.Jos Tạ Duy Tuyền 2016
- Chúa sai tôi đi- Lm.Jos Tạ Duy Tuyền 2013
- Nghịch lý- Lm.Jos Tạ duy Tuyền 2010
- Bình an chân thật-Lm. Minh Vận, CMC
- Mênh mông lúa đồng-Thiên Phúc
- Hai suy tư-Mai Tá
- Thi ca cầu nguyện- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
- <span style=
- <span style=
- Đàn sói đói-Lm Vũđình Tường 2016
- Triều đại nước Thiên Chúa đã gần-Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
- Hiệp Sống Tin Mừng-Lm Đan Vinh
- Niềm vui của việc được ghi tên trên nước trời-Huệ Minh
- Đổi mới cái nhìn-Đổi mới con tim-Huệ Minh
- Xin sai nhiều thợ gặt-Huệ Minh
- Đức tin của con đã cứu chữa con-Huệ Minh
- Title 2
- Title 3
HÃY RA ĐI RAO GIẢNG TIN MỪNG
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XIV Năm – C
(Lc 10, 1-12. 17-20)
Câu đầu trang Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới (x. Lc 10, 1). Như thế, sứ mạng loan báo Tin Mừng không chỉ dành riêng cho nhóm 12 Tông Đồ, mà còn được trao cho các môn đệ khác nữa. Ðây là một đặc điểm tiêu biểu của thánh sử Luca khi muốn nhấn mạnh đến sứ mạng phổ quát của việc loan báo Tin Mừng trong đó chúng ta có nhiệm vụ này.
Trong Sứ Điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo Năm 2011, khi nhắc đến tính chất thời sự và cấp thiết của sứ vụ truyền giáo mà Chúa Kitô đã ủy thác cho Giáo Hội. Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết : “Sứ vụ này vẫn chưa được hoàn tất… Một cái nhìn chung về nhân loại cho thấy sứ mạng ấy vẫn còn ở giai đoạn khởi đầu và chúng ta phải hết sức dấn thân phục vụ sứ mạng ấy” (J.P. II, RM 1). Chúng ta không thể tiếp tục an tâm khi nghĩ rằng sau hai ngàn năm, vẫn còn những dân tộc không biết Chúa Kitô và chưa được nghe biết sứ điệp cứu độ của Ngài.“
Đúng là “lúa chín thì nhiều, nhưng thợ gặt lại ít” (Lc 10,2). Lời Chúa Giêsu cách đây gần 2000 năm vẫn còn luôn thời sự, Ngài mời gọi chúng ta : “Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người” (Lc 10,2). Cánh đồng của Thiên Chúa thật bát ngát mênh mông, những người được sai đi thỏa sức làm việc. Nhưng Chúa Kitô không phải chỉ giới hạn trong việc sai đi, Chúa còn trao cho các nhà truyền giáo những quy luật rõ ràng để hành xử. Trước hết, Chúa “sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới ” (Lc 10,1), để họ giúp đỡ lẫn nhau và làm chứng cho tình yêu huynh đệ. Chúa cảnh báo cho họ biết trước là họ sẽ như “chiên ở giữa sói rừng” (Lc 10,3), nghĩa là trước sự dửng dưng, không đón tiếp, có khi bị từ chối, bị ngược đãi, bị bắt bớ bởi thế gian dành cho họ, hiền hoà là thái độ luôn cần phải có. Vì là sứ giả hòa bình, nên họ phải mang trong mình sứ điệp hoà bình ấy như lời Chúa dạy : “Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này” (Lc 10,3), và Chúa khuyên họ : “Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép” (Lc 10, 4). Tại sao vậy? Thưa là để người được sai đi sống với những gì Chúa Quan Phòng an bài cho họ ; họ sẽ chăm sóc cho những kẻ đau yếu như là dấu chỉ của lòng thương xót Chúa; nơi nào họ bị khước từ, thì đi nơi khác, chỉ cần cảnh báo nơi đó về trách nhiệm khước từ Nước Thiên Chúa. Thánh sử Luca làm nổi bật lòng hăng say của các môn đệ vì những kết quả tốt của sứ mạng, và ghi lại lời nói đẹp sau đây của Chúa Giêsu : “Các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời” (Lc 10,20).
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới, con người đang tìm kiếm sự sung túc, dễ dàng, công danh sự nghiệp và thành công như mục đích của cuộc sống, gây thiệt hại cho các giá trị luân lý, sống xa rời Sứ điệp Tin Mừng, và sống như thể không có Thiên Chúa.
Trang Tin Mừng trên đây khơi dậy nơi chúng ta, những người đã lãnh nhận bí tích Rửa tội ý thức làm nhà thừa sai của Chúa Kitô, những kẻ được gọi để chuẩn bị đường cho Chúa, bằng lời nói và bằng chứng tá đời sống. Vì Thánh Phêrô nói : “Tin mừng không phải là một thiện ích dành riêng cho người lãnh nhận, nhưng là một hồng ân cần phải được chia sẻ, một tin vui cần phải thông truyền. Hồng ân – Nghĩa vụ này được ủy thác không phải chỉ cho vài người, nhưng cho tất cả các tín hữu đã chịu phép rửa…” (1 Pr 2,9).
Vì vậy không lạ gì khi Công đồng Vaticanô II và Huấn quyền của Hội Thánh luôn nhấn mạnh cách đặc biệt về nhiệm vụ truyền giáo mà Đức Kitô đã uỷ thác cho các môn đệ của Người, và là nhiệm vụ mà toàn thể Dân Thiên Chúa: các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân phải dấn thân thực hiện. Hội Thánh phải cảm thấy lệnh truyền rao giảng Tin Mừng của Chúa chất vấn mình mãnh liệt, để Đức Kitô được rao giảng khắp nơi.
Là những tín hữu trong Đức Kitô, chúng ta phải tiếp bước Thánh Phaolô Tông Đồ, là “tù nhân của Đức Kitô vì anh em, những người dân ngoại” (Ep 3, 1), ngài đã chịu đau khổ và chiến đấu để đem Tin Mừng đến giữa dân ngoại (x. Cl 1, 24-29), không ngại tiêu hao sức lực, thời giờ và của cải để loan báo Sứ điệp của Đức Kitô.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Thông điệp Redemptoris Missio viết: “Chúng ta không thể ngồi yên khi nghĩ tới hàng triệu anh chị em chúng ta đang sống trong tình trạng không biết đến tình yêu của Thiên Chúa, chính họ cũng được cứu chuộc bằng máu Chúa Kitô” (số 86).
Khi công bố Năm Đức Tin, Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã viết rằng : “Đức Kitô hôm nay cũng như hồi ấy, sai chúng ta đi khắp các nẻo đường trên thế giới để loan báo Tin Mừng của Người cho mọi dân tộc trên mặt đất” (Tông Thư Porta Fidei, 7).
Hướng tới kỷ niệm 90 năm thành lập Ngày Thế Giới truyền Giáo vào chúa nhật 23 tháng 10 năm 2016 tới đây với chủ đề “Giáo Hội Truyền Giáo, Chứng Tá Của Lòng Thương Xót”, Đức Giáo hoàng Phanxicô đề cao vai trò của phụ nữ và các gia đình trong việc biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài khẳng định : “Khi đón nhận và theo Chúa Giêsu qua Tin Mừng và các bí tích, nhờ tác động của Chúa Thánh Linh, chúng ta có thể trở nên người có lòng thương xót như Cha chúng ta trên trời, học yêu thương như Chúa yêu thương chúng ta và biến cuộc sống chúng ta trở thành một món quà nhưng không, dấu chỉ lòng nhân lành của Ngài” (Misericordiae Vultus 3).
Chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy trên việc loan báo Tin Mừng, đặc biệt trên những ai đang làm việc trên cánh đồng truyền giáo. Nguyện xin Mẹ Maria, Mẹ Hội Thánh, Ngôi Sao dẫn đường loan báo Tin Mừng đồng hành với tất cả các sứ giả của Tin Mừng. Amen.
CÁC CON HÃY ĐI
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XIV Năm – C
(Lc 10, 1-12. 17-20)
Tin Mừng hôm nay cho thấy có một số đông những người vây quanh Chúa Giêsu. Nhìn đồng lúa chín vàng, Chúa nói với họ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người” (Lc 10, 2). Và Người đã chọn trong đám đông đó một số người. Anh hãy theo Ta, anh và cả anh nữa. Cho đến người thứ bẩy mươi hai…
Như thế, ngoài số Mười Hai Tông Đồ ra còn có rất nhiều môn đệ được Chúa gọi đi theo Chúa. Trong số các môn đệ Người, Chúa Giêsu đã chọn ra bảy mươi hai người khác và giao cho một sứ vụ cụ thể. Người đòi hỏi họ như đòi hỏi Nhóm Mười Hai, là dứt khoát từ bỏ những dính béng với của cải trần thế và phó thác hoàn toàn cho sự quan phòng của Thiên Chúa toàn năng.
Chọn xong rồi, Chúa sai họ cứ từng hai người một, đi đến các thành và các nơi mà Người định tới. Một người trong số họ đã có thể trả lời trong sự lúng túng : “nhưng lạy Thầy, con đến chỉ để lắng nghe Thầy thôi vì tất cả những gì Thầy nói đều tốt đẹp!”
Chúa cảnh báo họ đề phòng những hiểm nguy đang chờ đợi họ. “Các con hãy đi! Này Ta sai các con như chiên con vào giữa sói rừng” (Lc 10, 3). Và bằng cách dùng các hình ảnh quen thuộc của dụ ngôn, Chúa nói thêm: “Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” (Lc 10, 4). Diễn đạt bằng ngôn ngữ biểu cảm của Chúa Giêsu là : Hãy để sự trợ giúp của con người sang một bên. Thày sai các con đi, các con cứ đi và như thế đã là đủ. Cho dù các con ở xa tít tắp, Thầy vẫn ở bên cạnh các con, đồng hành với các con.
Bẩy mươi hai người này khác với mười hai môn đệ kia, Chúa chọn gọi mười hai ông để ở với Người, còn bẩy mươi hai môn đệ ở lại với gia đình và nghề nghiệp của họ. Và sống điều họ khám phá ra khi ở bên Chúa Giêsu : để làm chứng, mỗi người một địa vị, đơn giản là để giúp đỡ những người xung quanh để họ được gần gũi Chúa Giêsu hơn.
Cuộc phiêu lưu của họ kết thúc tốt đẹp : “Bảy mươi hai trở về vui mừng” (Lc 10, 17). Ngồi quanh Chúa Giêsu, họ kể cho Chúa nghe những kinh nghiệm từng gặp, và họ khám phá ra nét đẹp của đời nhân chứng.
Biến cố thời xa xưa ấy ngày hôm nay nhắc nhớ chúng ta rằng, đây không phải là một ký ức đơn thuần lịch sử. Chúng ta cảm thấy mình có liên quan : chúng ta có thể đến gần Chúa Giêsu hiện diện trong các nhà thờ và tôn thờ Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Đức Thánh Cha Phanxicô khuyến khích chúng ta “mang Chúa Giêsu Kitô đến cho mọi người và dẫn mọi người đến gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô là đường, là sự thật và là sự sống, Người đang thực sự hiện diện trong Giáo hội và nơi con người hôm nay”.
Thánh Công đồng Vatican II, trong Sắc Lệnh về Tông đồ Giáo dân, nhắc nhở chúng ta rằng, sau khi rửa tội mỗi người Kitô hữu được mời gọi để thực hiện một sứ mệnh nhân danh Chúa : “Vậy Thánh Công Ðồng nhân danh Chúa hết sức kêu mời tất cả các giáo dân, hưởng ứng sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, hãy mau mắn, đại độ và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa Kitô, Ðấng giờ đây đang tha thiết mời gọi họ. Ước gì giới trẻ hiểu rằng lời mời gọi này được đặc biệt gởi tới họ và ước gì họ vui mừng và quảng đại đón nhận. Quả thật chính Chúa một lần nữa nhờ Thánh Công Ðồng này, mời gọi tất cả các giáo dân hãy kết hợp với Người ngày một mật thiết hơn và nhận thức được những gì của Người cũng là của chính mình (x. Ph 2,5), họ hãy tham gia vào sứ mạng cứu rỗi của chính Người và một lần nữa Người sai họ đi tới các thành và những nơi Người sẽ đến (x. Lc 10,1). Như thế giáo dân hãy chứng tỏ mình là cộng tác viên của Chúa, cộng tác vào cùng một công cuộc tông đồ của Giáo Hội bằng nhiều hình thức và phương tiện khác nhau. Những cộng tác viên phải luôn luôn thích nghi với những đòi hỏi mới của thời đại và không ngừng ra sức phục vụ Chúa bởi biết rằng khó nhọc của mình không phải là uổng phí trong Người (x. 1Cor 15,58).”(số 33)
Chúa Giêsu Kitô muốn thấm nhuần nơi các môn đệ của Người sự mạnh dạn tông đồ; chính vì lý do đó mà Chúa Giêsu nói với họ: “Này Ta sai các con” (Lc 10, 3). Và Thánh Gioan Kim Khẩu giải thích rằng : “Như thế đã đủ để ban cho các con sự can đảm, điều này cũng đủ để ban cho các con niềm tin để các con không còn sợ hãi trước sự tấn công của kẻ thù”.
Sự can đảm của các Tông Đồ và của các môn đệ đến từ chính Thiên Chúa là Đấng đã chọn họ và sai họ đi. Như Phêrô đã quả quyết trước Thượng Hội Đồng rằng, nhân danh Chúa Giêsu Kitô thành Nagiarét, “vì dưới gầm trời này, không có môt Danh nào khác đã được ban xuống cho nhân loại để phải nhờ vào đó mà chúng ta trông được giải thoát “ (Cv 4,12).
“Các con hãy đi”. Lời Chúa Giêsu ngày hôm nay vẫn còn rất cấp bách. Xin cho các bạn trẻ đáp lại sự sai đi của Chúa. Amen.
ĐIỀU KIỆN CẦN CỦA NGƯỜI THỪA SAI
Jos.Vinc. Ngọc Biển
(Is 66,10-14c; Gl 6,14-18; Lc 10,1-12.17-20)
Khi nói đến truyền giáo, Giáo Hội muốn chúng ta trở về căn gốc để hiểu và thấy được rằng: Đức Giêsu chính là nhà thừa sai đầu tiên được Chúa Cha sai xuống trần gian để loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân.
Khi đến trong thế giới con người, Đức Giêsu đã thi hành xuất sắc sứ vụ thừa sai mà Chúa Cha trao phó cho Ngài. Sứ vụ ấy không chỉ dừng lại nơi bản thân và cuộc đời của Đức Giêsu, nhưng nó được trao truyền cho những người tiếp bước. Khởi đi từ các Tông đồ, rồi đến các môn đệ và chúng ta, đồng thời sẽ còn được tiếp diễn mãi cho đến tận thế.
Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về vai trò, tinh thần, sứ mạng của người được sai cũng như những cách thức thực hiện sứ vụ thừa sai.
- Vai trò của nhà thừa sai
Bài đọc I cho chúng ta thấy vai trò thừa sai của tiên tri Isaia: ông loan báo cho dân về một giai đoạn tự do, không còn bị lệ thuộc trong thân phận nô lệ bên Babylon nữa. Bởi vì vua Ba Tư đã ký và cho phép dân Israel hồi hương, kết thúc giai đoạn lưu đày. Tuy nhiên, lòng dân vẫn chưa thấy bình an, nỗi lo vẫn còn đó…! Biết được sự trăn trở của dân, nên tiên tri Isaia đã trấn an họ bằng việc loan báo Chúa sẽ ban bình an và vinh quang cho Giêrusalem. Bổn phận của họ là kiên trì và tin tưởng vào Người để được no nê, sung sướng, bình an, được vỗ về, an ủi và nâng niu. Giống như người mẹ yêu thương con mình thế nào, Thiên Chúa cũng yêu thương dân của Người như vậy.
Sang Bài đọc II, Thánh Phaolô đã sống sứ vụ cốt lõi thừa sai của mình khi tập trung vào mầu nhiệm thập giá của Đức Kitô.
Vì thế, ngài đã mạnh dạn tuyên bố niềm xác tín đó của mình khi nói: “Trong khi người Dothái đòi dấu lạ, và người Hylạp tìm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô đã bị đóng đinh vào thập giá, cớ vấp phạm cho người Dothái, sự điên rồ đối với người dân ngoại (Hylạp)” (1 Cr 1,22-23).
Không chỉ nói, mà cả cuộc đời của ngài diễn tả niềm vui vì được kết hợp với Đức Giêsu chịu đóng đinh: “Đối với tôi, không một vinh quang nào khác ngoài vinh quang thập giá Đức Kitô”.
Như vậy, vai trò thừa sai của thánh Phaolô chính là gắn bó mật thiết nơi mầu nhiệm thập giá Đức Kitô.
- Tinh thần của nhà thừa sai
Sang bài Tin Mừng, sau khi đã gợi hứng cho các môn đệ về sứ vụ thừa sai qua hình ảnh cánh đồng lúa chín vàng, Đức Giêsu bắt đầu sai họ ra đi để thu hoạch.
Trước tiên, Ngài sai “từng hai người một” ra đi loan báo Tin Mừng. Khi sai các môn đệ đi từng hai người như thế, Đức Giêsu muốn cho các ông hiểu rằng: khi loan báo về Nước Trời, điều quan trọng là tính hiệp thông, hiệp nhất để cùng nhau sống và làm chứng cho sự thật.
Thứ đến, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ thấy trước những khó khăn thử thách, những rào cản trên cuộc hành trình ấy: “Thầy sai các con đi như chiên con đi giữa bầy sói” (Lc 10,3). Ngài nói trước những khó khăn như vậy để cho các ông thấy rằng, trong khi loan báo về Nước Trời, không thiếu những kẻ không muốn vào mà lại còn tìm cách ngăn cản không cho những người khác vào. Cuộc sống và hành trình này không phải lúc nào cũng xuôi trèo mát mái, mà luôn gặp phải những bão táp cuồng phong.
Tiếp theo, tinh thần siêu thoát, nhẹ nhàng là hành trang của người môn đệ. Đức Giêsu không chấp nhận nhà thừa sai mang những thứ cồng kềnh. Bởi vì những thứ đó sẽ làm cho người thi hành sứ vụ sinh ra nặng nề và đôi khi bỏ cuộc chỉ vì những chuyện phụ thuộc như “củ hành, củ tỏi”. Vì thế, Ngài nói:“Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép…”. Người môn đệ phải sống nghèo thực sự. Có sống nghèo, các ngài mới có sự cảm thông, liên đới và chấp nhận tất cả vì sứ mạng.
Hơn nữa, loan báo về Nước Trời là một sự cần kíp, cấp bách đến độ phải ưu tiên hàng đầu. Vì thế, Đức Giêsu căn dặn các ông rằng: “Đừng chào hỏi ai dọc đường”. Lý do, đây là mệnh lệnh khẩn trương, đòi hỏi người môn đệ phải nhanh nhẹn. Bởi vì, khi loan báo Tin Mừng, không được quan tâm đến những chuyện bên lề quá nhiều để rồi quên đi việc chính yếu.
Cuối cùng, là tinh thần kiên nhẫn. Phải chăng chính Đức Giêsu đã cảm nghiệm sâu sắc khi người dân quê của Ngài nhận định về mình: “Ông ấy chẳng phải là con bà Maria hay sao, cha ông ta lại không phải là bác thợ mộc…?” Rồi biết bao chống đối, ngờ vực, không tin, bị bắt bớ, đánh đòn… Nhân đây, Đức Giêsu muốn dạy cho các ông phải có tinh thần kiên trì, chịu đựng, không được nóng vội.
Như vậy, qua bài Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu đã truyền lại cho các môn đệ tinh thần thừa sai của chính Ngài, để các ông ra đi thi hành sứ vụ theo Thiên Ý chứ không phải theo cách thế phàm trần.
- Sứ mạng thừa sai của mỗi chúng ta
Khi sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu muốn cho mỗi người chúng ta được tham dự vào sứ mạng ngôn sứ phổ quát của Ngài. Sứ mạng ấy được khởi đi từ lệnh truyền của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Từ đó, chúng ta xác định căn tính truyền giáo thuộc về chúng ta. Bao lâu chúng ta không truyền giáo, thì bấy lâu ta đánh mất bản chất của mình. Bởi vì: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1 Cr 9,16). Nỗi lòng thao thức của Đức Giêsu: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít…” phải là lời chất vấn lương tâm mỗi chúng ta.
Là Kitô hữu, chúng ta cùng đồng lòng và cảm nghiệm với Đức Giêsu trước những cánh đồng bao la đang độ chín vàng… Tham gia vào sứ mạng truyền giáo là chúng ta đang đóng góp cho Giáo Hội những viên gạch, hạt cát để xây nên tòa nhà Giáo Hội, nơi đó là niềm vui, hạnh phúc và bình an.
Thiết nghĩ, trong cuộc sống của con người thời nay, niềm tin đang bị đánh cắp hay bị đặt sai chỗ bởi những chủ thuyết tương đối, dẫn đến tình trạng bình thường hoá mọi mặt, kể cả những giá trị đạo đức, những chân lý đức tin. Đứng trước thực trạng trên, chúng ta có bổn phận phải thực thi sứ vụ thừa sai của mình về Chúa cho anh chị em chúng ta.
Sứ vụ ấy được khởi đi từ trong gia đình: chồng làm chứng cho vợ, vợ làm chứng cho chồng, vợ chồng sống chung thủy. Cha mẹ nêu gương sáng cho con cái. Con cái hiếu nghĩa với cha mẹ. Bạn bè sống tốt với nhau trong môi trường, công ty, xí nghiệp. Hàng xóm láng giềng ăn ở hài hoà, sẵn sàng giúp đỡ nhau những lúc cần kíp…
Khi sống đời chứng tá bằng những giá trị Tin Mừng như thế, chúng ta sẽ gặp không ít những khó khăn, thử thách trong đời sống. Không thiếu gì những cám dỗ làm cho muối ra nhạt, ánh sáng bị lu mờ. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn luôn nhớ mình thuộc về Đức Kitô, có tránh nhiệm mang Ánh Sáng ấy soi sáng thiên hạ.
Lạy Chúa Giêsu, còn biết bao nhiêu người chưa nhận biết Chúa, nhiều chiên lạc chưa được đưa về ràn. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con trở nên những thừa sai đích thực, luôn sẵn sàng, hăng say loan báo Tin Mừng cho những người chưa nhận biết Chúa. Ước gì mọi người con của Chúa trên trần gian này đều được quy tụ thành một ràn chiên duy nhất, dưới sự lãnh đạo của Vị Mục Tử Tối Cao là chính Chúa. Amen.
SUY NIỆM CÁC NGÀY TRONG TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN
Jos. Vinc. Ngọc Biển
THỨ HAI
BÀN TAY CỦA NIỀM TIN VÀ QUYỀN NĂNG
(Mt 9, 18-26)
Xem lại CN 13 TN B
và Thứ hai tuần 4 TN.
Chúng ta vẫn thường nghe đến câu nói: “Con đường dài nhất là con đường từ miệng đến tay”. Thoạt nghe xem ra có vẻ khó tin, nhưng thực tế là vậy. Bởi lẽ vẫn còn đó những người chỉ thích nói mà không làm; chỉ thích nghe mà không muốn hành động. Vì thế, họ nói rất hay, khẩu lệnh rất kêu, nhưng làm thì không đáng gì!
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thánh Mátthêu đã rất tinh tế khi tập chung đến hành động của bàn tay:
Trước tiên là lời van xin của vị kỳ mục: “Xin Ngài đến đặt tay trên nó, thì nó sẽ sống lại”;
Tiếp theo là hành động tin tưởng của người phụ nữ bị bệnh, bà tìm mọi cách để chạm tay vào gấu áo của Đức Giêsu để mong được khỏi bệnh;
Cuối cùng là hành động nhân ái của chính Đức Giêsu khi Ngài “… vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy”.
Với ba hình ảnh khác nhau về cử chỉ bàn tay, thánh sử Mátthêu đã dệt nên một bức tranh diễn tả niềm tin của vị kỳ mục và người phụ nữ bị bệnh, đồng thời cũng làm toát lên quyền năng và ân sủng của Thiên Chúa qua bàn tay của Đức Giêsu.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có một niềm tin mãnh liệt như vị kỳ mục và người đàn bà. Không được buông trôi, thất vọng khi những khó khăn, bệnh tật xảy đến trong đời. Những lúc như thế, hãy vững tin tuyệt đối vào Chúa. Mặt khác, noi gương Đức Gêsu, luôn dùng bàn tay của mình để hành động vì đức ái, luôn giúp đỡ và làm ơn cho tha nhân, nhất là những anh chị em kém may mắn hơn chúng ta.
Mong thay, Lời Chúa mà chúng ta vẫn lắng nghe hằng ngày sẽ được hiện tại hóa cách sống động nơi đời sống đức tin của chúng ta, để “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày hôm nay cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của người môn đệ Đức Kitô”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin giúp chúng con biết sống liên đới và yêu thương mọi người như Chúa. Amen.
THỨ BA
XIN MỞ MIỆNG CON
(Mt 9, 32-38)
Hôm nay, Đức Giêsu đã chữa lành một người bị quỷ câm ám. Khi đã được thoát khỏi quỷ câm, người đó liền nói được.
Sau đó, Đức Giêsu còn đi khắp các làng mạc giảng dạy, chữa lành các bệnh tật.
Tiếp theo, Ngài đã mời gọi các môn đệ hãy đi để loan báo về tình thương của Thiên Chúa cho mọi người.
Khi nói đến câm, chúng ta thấy có hai dạng: một là câm ngoài ý muốn, tức là câm từ lúc mới sinh, hay bị một sự cố nào đó mà ảnh hưởng đến thanh quản, khiến bệnh nhân không nói được; hai là câm tự ý muốn, tức là đương sự không muốn nói.
Giữa hai dạng, câm ngoài ý muốn, tự bản chất, không ảnh hưởng đến ơn cứu độ. Tuy nhiên, dạng thứ hai, tức là câm tự ý muốn thì nguy hiểm, và có thể mất ơn cứu độ! Họ là những người mê tiền tài, danh vọng, dâm dục… nên mọi hành vi, cử chỉ đều hướng chiều về nó, khiếm người đó bị câm không nói được về Chúa cho anh chị em mình.
Thật vậy, nói về sự thanh thoát làm sao được khi chính mình ham tiền, hám bạc! Nói về sự từ bỏ sao được khi chính mình ham quyền, cố vị! Nói về khiết tịnh sao được khi chính mình khoái danh, sắc, dục…! Và, nói về đạo đức, bác ái, dấn thân, phục vụ… làm sao khi chính tôi còn đang tham sân si! Hay không thể nói về tha thứ được, vì tôi còn đang nuôi hận thù!
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy nên ngôn sứ của Đức Giêsu và thuộc về Ngài để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, chứ không chỉ như cái xác vô hồn hay chiếc bóng trong cuộc sống, để rồi sống buông tha, suy đồi và không dám làm chứng cho Tin Mừng. Bên cạnh đó, sứ điệp Lời Chúa cũng nhắc cho mỗi người chúng ta cần loại bỏ những hệ quả của ma quỷ như: độc địa, ích kỷ, gian tham, hận thù, rượu chè, cờ bạc… và không được đứng về phía sự ác để thành kiến, ghen tương, đố kỵ mà trà đạp người anh chị em chúng ta để đưa mình lên như những người Pharisiêu khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp sức cho chúng con, để chúng con không bị câm về phần hồn. Xin cho chúng con can đảm nói và làm chứng về Chúa cho anh chị em. Và, xin cho chúng con đừng vì miếng cơm manh áo mà chà đạp anh chị em mình xuống để vươn lên trong sự bất chính. Amen.
THỨ TƯ
“PHẢI TRUYỀN GIÁO”
(Mt 10, 1-7)
Xem lại CN 11 TN A,
thứ Sáu tuần 2 TN và thứ Tư tuần 25 TN
Truyền Giáo là bản chất của Giáo Hội. Nếu không truyền giáo, chúng ta đánh mất bản chất của mình. Vì thế, Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II khẳng định “Giáo Hội vẫn sẽ tiếp tục là một Giáo Hội truyền giáo trong tương lai, bởi vì đặc tính truyền giáo thuộc về bản chất của Giáo Hội” (Thông điệp Tertio Millennio Adveniente, số 57). Bởi vì Giáo Hội coi: “Truyền giáo là một ân sủng, ơn gọi xứng hợp, và là căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” (Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 14).
Hôm nay, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ chung chia sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận từ Chúa Cha. Sứ mạng ấy là: hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi người, mọi nơi hầu cho “muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).
Cùng một sứ mạng, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta, những Kitô hữu, mỗi người một cách, hãy loan báo Tin Mừng cho mọi người, mọi nơi bằng nhiều cách thế khác nhau để cho muôn dân được nhận biết Đức Giêsu và ơn cứu độ của Ngài mang lại.
Mong sao, lệnh truyền của Đức Giêsu “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15), và thái độ, ý thức về truyền giáo của thánh Phaolô cũng là của chính chúng ta: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1Cr 9, 16).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn trợ lực cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội, để các ngài chu toàn bổn phận đã được trao phó, đồng thời, xin cho chúng con được trở nên môn đệ và được tiếp bước với Chúa trên cánh đồng mênh mông bao la hiện nay. Amen.
THỨ NĂM
CĂN TÍNH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ
(Mt 10, 7-15)
Xem lễ thánh Banaba Tông Đồ ngày 11/ 6
Đức Giêsu đã trao truyền cho các môn đệ sứ mạng và sự nghiệp của chính Ngài.
Thật vậy, hôm nay, như một người thầy nhắn nhủ các môn sinh của mình trước lúc lên đường, Đức Giêsu trao cho các ông quyền trên mọi thần ô uế, để các ông chữa lành, và củng cố lời giảng của mình, hầu cho lời giảng có giá trị và thuyết phục, đồng thời để lời nói và hành động không bị mâu thuẫn.
Sau đó, Đức Giêsu đã căn dặn các ông về căn tính của người môn đệ:
Trước tiên là nhiệm vụ của người ra đi: người được sai đi là để loan báo Tin Mừng chứ không phải là loan báo tin buồn, đồng thời sai đi để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền chứ không phải gieo rắc đau thương.
Thứ hai là tinh thần của người ra đi: người được sai đi sẽ gặp không ít khó khăn, nên cần phải tin tưởng, trao phó mọi sự nơi Chúa. Ra đi trong tinh thần thanh thoát, không cần phải cồng kềnh và quá lo lắng cho ngày mai. Hãy là người tôi tớ phục vụ, bởi vì : “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”.
Thứ ba là thái độ của người ra đi: người môn đệ muốn được thành công thì phải mặc lấy thái độ của hạt lúa, tức là tự hủy ra không, phải nhân từ để “ngửi thấy mùi chiên” và “mang mùi chiên nơi mình”. Không ngại khổ, ngại khó và cần phải hy sinh. Luôn quan tâm đến người khác hơn là nghĩ về mình.
Thứ tư là lập trường của người ra đi: sống trong một xã hội chủ chương vô thần, muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi tư tưởng, nhận thức của con người. Lập trường của họ là không có Thiên Chúa, cũng chẳng có niềm tin… Vì thế, họ không ngần ngại uốn nắn và tìm đủ mọi cách dưới nhiều hình thức tinh vi để gây nên những hoang mang, thất vọng. Bên cạnh đó là những trào lưu tục hóa, những văn hóa phẩm đồi trụy… nhằm gieo rắc những chân lý nửa vời và làm cho con người lấn sâu trong tội mà không biết! Và cũng những con người đó, họ muốn loại bỏ người môn đệ của Chúa, vì thế, cái chết là kết cục cuối cùng của người môn đệ. Số phận của người môn đệ là: như chiên đi vào giữa bầy sói.
Tuy nhiên, lập trường của người môn đệ, trong mọi hoàn cảnh, không bao giờ và không có cách nào được phép đồng lõa, thỏa hiệp để chỉ vì mục đích “rẻ tiền” nhằm được yên thân. Lập trường của người môn đệ còn là hiện diện và sống những giá trị Tin Mừng cách thực tế chứ không chỉ lo cái gọi là bề ngoài cho thật “hoành tráng” theo thói đời, nhưng bên trong thì rỗng tuếch.
Thứ năm là chiến lược của người môn đệ: được mời gọi hiện hữu giữa thế gian nhưng không bị thế gian điều khiển và đẩy đưa để dẫn đến cái gọi là: dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt. Phải khôn như rắn để xây dựng, bảo vệ sự hiệp nhất của Giáo Hội, và phải hiền lành, đơn sơ như chim bồ cầu trong tinh thần huynh đệ.
Cuối cùng, lời chào của người ra đi là lời chúc bình an của Chúa chứ không phải là những gợi ý, mong muốn để được nâng đỡ cách này hay cách khác mang tính phàm tục.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được trở nên môn đệ đích thực của Chúa như lòng Chúa mong ước. Amen.
THỨ 6
SỐ PHẬN NGƯỜI MÔN ĐỆ
(Mt 10, 16-23)
Xem lễ thánh Tử Đạo Việt Nam 24/11,
Lễ thánh Stêphanô 26/ 12
Từ vài năm qua, phong trào bách hại các tín hữu Kitô ngày càng gia tăng tại nhiều nơi trên thế giới, trong đó có các nước như Irak, Ấn Độ, Pakistan, Indonesia, Nigeria …
Thoạt nghe, chúng ta có thể thấy rất thương tâm và xót xa cho số phận của các Kitô hữu bị cách hại tại những nơi này!
Tuy nhiên, nếu quy chiếu cuộc đời người môn đệ với Đức Giêsu thì không có gì là lạ cả, bởi lẽ người môn đệ là người bước theo Đức Giêsu trên chính con đường mà Ngài đã đi. Bước theo Thầy thì Thầy đi đâu, trò đi đấy; Thầy sống sao, trò sống vậy; và số phận của Thầy cũng là số phận của trò.
Tư tưởng này đã được Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc đến ngày 05-05-2013, ngài nói: “Có quá nhiều những cộng đoàn Kitô hữu trong thế giới này đang bị bách hại. Con đường của các tín hữu Kitô là con đường của Đức Giêsu. Nếu muốn là các môn đệ của Ngài, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường Ngài đã chỉ ra với những hệ lụy là bị thế gian căm ghét”.
Chân lý đó được bắt nguồn từ những lời tiên báo của Đức Giêsu cho các môn đệ hôm nay. Ngài muốn báo trước cho các ông, để những sự việc đó đến, các ông can đảm và vững bước thi hành sứ vụ, dầu có phải chết.
Thật vậy, nếu Thầy Chí Thánh đã chấp nhận cái chết để làm chứng cho sự thật, cho tình yêu, thì đến lượt các môn đệ và mỗi chúng ta, chắc chắn không có con đường nào sáng giá hơn là con đường đón nhận hy sinh, đau khổ và ngay cả cái chết để làm chứng cho Chúa và Tin Mừng của Ngài.
Ngày nay, tại đất nước của chúng ta chỉ còn chút ít những chuyện bách hại về mặt thể lý để ngăn chặn bước chân loan báo Tin Mừng. Có chăng chỉ là những vùng sâu vùng xa, do những con người thiếu hiểu biết gây nên mà thôi!
Tuy nhiên, nếu nhìn rộng ra và suy tư một chút, hẳn chúng ta thấy hơn bao giờ hết, ngày nay, con người lại đang bị bách hại khủng khiếp nhất. Cuộc bách hại trên diện rộng và sâu xa, nó có sức tàn phá mãnh liệt hơn cả thương tích, chết chóc về mặt thể lý. Cơn cám dỗ đó đến từ những trào lưu tục hóa, những phim ảnh, sách báo đồi trụy, những chủ thuyết triết học hiện sinh muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của con người và xã hội, để thay vào đó là những quan niệm “tự nhiên có”; hay “có là do tôi làm ra”.
Dần dà, nó làm cho con người có những lựa chọn sai lạc vì những “chân lý nửa vời” chỉ đạo.
Thiết nghĩ, những cơn cám dỗ đó đến với người môn đệ, đòi hỏi chúng ta phải có một chọn lựa. Tiếp tục theo Chúa hay buông xuôi. Nếu theo Chúa thì phải cẩn trọng và cương quyết từ bỏ những quyến luyến, cám dỗ của bản năng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết can đảm, trung thành theo Chúa đến cùng. Xin cho chúng con biết khước từ những điều bất chính để được thuộc trọn về Chúa. Amen.
THỨ 7
“ĐỪNG SỢ”
(Mt 10, 24-33)
xem lại CN 12 TN A
và CN 4 PS C.
Khi khởi đầu sứ vụ Phêrô, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cánh cửa đón nhận Đức Kitô”. Tại sao Đức Giáo Hoàng lại nói như thế? Phải chăng ngài nhận ra một thế giới đang xa dần Thiên Chúa, hay lòng người đã buông xuôi và không chấp nhận hoặc không dám đứng về phía sự thiện?
Thật vậy, ngày nay, khi con người được Thiên Chúa quan phòng cho có khả năng để phát minh ra nhiều điều mới lạ, hữu ích để phục vụ nhân loại cho tốt hơn, thì cũng là lúc con người muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ. Bởi vì họ sợ Chúa và những giá trị Tin Mừng của Ngài làm cho họ phải thay đổi một nếp sống mà họ đang theo, nếp sống đó là sự bất chính, trái với Tin Mừng của Chúa dạy.
Như vậy, dù trong mọi hoàn cảnh, mọi thời… người môn đệ Chúa Kitô vẫn được sai đến với những nơi đang xa dần Thiên Chúa như thế. Dẫu biết rằng đây là điều khó, đôi khi phải chết vì sứ vụ.
Lời Chúa hôn nay mời gọi chúng ta đừng sợ cái giá phải trả cho việc làm chứng về Đức Giêsu. Hãy can trường tín thác nơi Chúa. Hãy tin tưởng vào Đức Giêsu vì Ngài đã thắng thế gian.
Mong sao trong mọi hoàn cảnh, chúng ta đều xác tín rằng: sự thật sẽ giải thoát chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn tỏa sáng niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống. Xin cho chúng con luôn được ơn can đảm để dấn thân vào mọi môi trường, hầu loan báo về Chúa cho muôn dân. Amen.
SỨC MẠNH CỦA LÒNG TIN
Huệ Minh
Trang Tin Mừng hôm nay là một trình thuật tuyệt vời diễn tả về Ơn tha thứ và niềm tin cộng đồng. Đó là một trình thuật phép lạ có dụng ý giáo huấn, trong đó phép lạ được thực hiện như một dấu chỉ của ơn tha thứ. Và cao điểm của bản văn cho thấy Chúa Giêsu có quyền tha tội.
Hôm nay, thánh Mátthêu kể lại chuyện rất đời thường trong hành trình loan báo Tin Mừng của Chúa Giês. Chuyện là người ta khiêng một người bại liệt đến với Chúa Giêsu để xin Ngài cứu chữa. Tuy nhiên thay vì Chúa Giêsu chữa bại liệt thể xác trước nhưng Ngài đã chữa bại liệt tâm hồn. Chúa Giêsu nhận ra sự tê liệt về tâm hồn phải được chữa trị trước tiên. Bởi vì bại liệt tâm hồn nguy hiểm hơn rất nhiều. Nó không chỉ làm ảnh hưởng đến đời sống đức tin của chúng ta, mà còn làm cho ta mất tình nghĩa với Chúa, mất hạnh phúc đời đời. Hơn nữa, qua phép lạ chữa lành này, Chúa Giêsu muốn cho mọi người nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, Thiên Chúa không những có quyền tha tội mà còn chữa lành cả thể xác.
Từ câu chuyện xa xưa về người bại liệt được chữa lành mà những người từ khắp các làng mạc miền Galilê, Giuđê, và Giêrusalem đã chứng nghiệm, vẫn là câu chuyện lạ kỳ của mỗi chúng ta hôm nay, nếu chúng ta biết lắng đọng lòng mình để chiêm ngưỡng.
Ta hãy hình dung lại quá khứ với khung cảnh: Thầy Giêsu đang giảng dạy nơi một căn nhà tư gia quá nhỏ bé, so với lượng người đông đảo từ khắp các miền lân cận đổ về, bao gồm rất nhiều hạng người, trong đó có mặt cả những con người xem ra rất thế giá đạo đức và thông thái như các vị luật sĩ, biệt phái.v.v. Họ chăm chú lắng nghe và được chứng nghiệm quyền năng diệu kỳ của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.
Điều gì ở nơi thầy Giêsu đã cuốn hút những người từ khắp các làng mạc đổ về ? Điều gì đã khiến cho anh bại liệt tin rằng Thầy Giêsu có khả năng chữa lành căn bệnh nan giải của anh ? Và hơn nữa, điều gì khiến cả những người khiêng anh đã tin, đã cùng nhau tìm cách vượt qua rào cản của đám người đông đúc để sáng kiến đưa người bại liệt từ trên mái nhà xuống gặp được Chúa Giêsu ?
Tin Mừng hôm nay thuật lại một phép lạ xảy ra nhờ ảnh hưởng của tập thể. Một người tê liệt được khiêng đến cho Chúa Giêsu. Phúc Âm Marcô và Luca cho thấy rõ hơn quang cảnh của phép lạ này: vì không có chỗ để chen vào, người ta leo lên gỡ mái nhà và thòng người tê liệt xuống trước mặt Chúa Giêsu. Tất cả sự việc diễn ra không kèm theo một câu nói hay một lời van xin nào, thế nhưng, hành vi của họ đã đủ diễn đạt tấm lòng của họ. Chúa Giêsu thấy lòng tin của họ, tức lòng tin của những người khiêng người tê liệt, Ngài đã chữa lành bệnh nhân.
Dấu lạ đòi hỏi lòng tin. Một khi lòng tin đã đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa, thì con người sẽ dễ dàng gặp được dấu lạ và lòng tin có thể chuyển dấu lạ hay ơn lành sang cho người khác. Với đám đông đang vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng, thì việc đưa bệnh nhân đến gần Ngài quả là một cố gắng vượt mức. Nhìn vào cố gắng này, chắc chắn nhiều người sẽ đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Ngài là ai mà con người phải cố gắng tìm gặp đến thế? Ðặt câu hỏi tức là đã bắt đầu tiến đến gần Thiên Chúa.
Đứng trước niềm tin cộng đồng, lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa đã thể hiện. “Này anh, anh đã được tha tội rồi”.
Điều đáng nói hơn ở đây là Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở việc chữa lành cho người bại liệt, nhưng Ngài đã chọn phép lạ chữa lành như một dấu chỉ của ơn tha thứ: “Để các ông biết ở dưới đất này con người có quyền tha tội… Tôi truyền cho anh hãy đứng dậy, vác lấy giường của anh mà đi về nhà”.
“Ngay lúc ấy, người bại liệt chỗi dậy trước mặt họ, vác cái anh đã dùng để nằm, vừa đi về nhà vừa tôn vinh Thiên Chúa”. Phải chăng niềm tin của người bại liệt được chữa lành đã được chứng nghiệm thêm ? Và cùng với trải nghiệm được chữa lành nơi thân xác, anh đã thật hạnh phúc để cảm nhận ơn tha thứ nơi tâm hồn.
Như một sự tác động lan tỏa trong niềm tin cộng đồng, việc chứng nghiệm người bại liệt được chữa lành đã làm cho tất cả mọi người đều sửng sốt, và cảm nhận sự tác động của Thiên Chúa, họ “tôn vinh Thiên Chúa” và bảo nhau “hôm nay chúng ta đã thấy những chuyện lạ kỳ”.
Đó là những chuyện lạ kỳ của ơn tha thứ, và chính họ đã gặp được Đấng có quyền tha tội. Thật là một điều kỳ diệu khiến cho giới luật sĩ và biệt phái phải thắc mắc trong lòng: “Người này là ai mà dám nói phạm thượng? Trừ một mình Chúa, ai có quyền tha tội?”
Lời Chúa hôm nay không chỉ mời gọi chúng ta hãy biết tin tưởng và cậy trông tuyệt đối vào tình yêu của Chúa mà còn mời gọi chúng ta hãy sống đức tin bằng tình liên đới qua việc nâng đỡ dìu dắt nhau đến với Chúa. Bởi vì ngày hôm nay chúng ta bại liệt nhưng không hay biết: bại liệt vì những đam mê trói buộc; bại liệt vì những lười biếng thiếu cố gắng; bại liệt vì những ước muốn nửa vời; bại liệt vì những lần vô cảm trước những nỗi đau của anh chị em mình; bại liệt vì những gì đã khấn hứa với Chúa mà chúng ta không tuân giữ; bại liệt vì lòng nguội lạnh thiếu nhạy cảm trước những nhu cầu thiêng liêng,…. Nếu có những người xung quang chỉ bảo, hướng dẫn, dìu dắt thì chúng ta sẽ dễ dàng gặp được Chúa để Ngài chữa trị kịp thời.
Quả vậy, ơn tha thứ chỉ có thể được Thiên Chúa ban cho mà thôi, và ơn đó cũng chỉ được đón nhận từ niềm tin. Ước gì mỗi chúng ta cũng luôn biết tin vào Chúa, tìm cách đến với Chúa, để cảm nhận được tình thương và ơn tha thứ của Chúa. Để chúng ta cũng được Chúa chữa lành những căn bệnh tâm hồn, hầu chúng ta tôn vinh Chúa mỗi ngày, hăng hái đứng dậy, đổi mới, và bước đi trong ân sủng của Thiên Chúa như lòng Ngài mong muốn.
CON CHIÊN GIỮA SÓI RỪNG
Chia sẻ Tin Mừng CN 14 TN NC 2016 (Lc 10, 1-9)
Trong cuốn Through the Valley of the Kwai River (Ngang Qua Thung Lũng Sông Kwai), tác giả Ernest Gordon thuật lại một câu chuyện có thật, xảy ra tại một trại tù binh Nhật dọc bờ sông Kwai trong thế chiến II. Nhiều người trong chúng ta đã nghe nói về trại này trong cuốn phim Bridge Over the River Kwai (Cầu Sông Kwai). Nơi đây 12 ngàn tù binh đã chết vì bệnh tật và bị đối xử tàn tệ khi họ phải xây một tuyến đường xe lửa.
Đàn ông bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng đôi khi lên đến 120 độ F (khoảng 49 độ C). Đầu trần, chân đất, họ vác từng thúng đá trên vai để xây cho xong toàn bộ tuyến đường. Họ chỉ mặc mỗi manh áo rách và nằm ngủ trên mặt đất không chăn chiếu.
Nhưng kẻ thù khủng khiếp nhất đối với họ không phải là lính Nhật hay cuộc sống gian khổ mà lại là chính họ. Theo lời kể của Gordon, vì quá sợ lính Nhật, nên các tù binh đã bị mắc chứng hoang tưởng. Họ lấy luật rừng cư xử với nhau. Họ trộm cắp của nhau, nghi ngờ nhau và chỉ điểm lẫn nhau. Bọn canh gác cười nhạo khi thấy những người lính da trắng từng kiêu hãnh biết bao giờ đây đang tiêu diệt lẫn nhau.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra. Hai tù nhân nọ chia nhóm học hỏi Kinh Thánh cho các tù nhân khác. Qua việc học hỏi này, dần dà các tù nhân khám phá ra Chúa Giêsu là một người đang sống giữa họ.
Hơn nữa, họ còn khám phá được rằng Chúa Giêsu hiểu rõ hoàn cảnh của ho. Người cũng không có chỗ gối đầu vào bên đêm. Người cũng đói khát, trơ trụi. Người cũng bị phản bội, cũng nếm roi đòn trên lưng. Tất cả những gì về Chúa Giêsu–Người là gì, Người nói gì, Người làm gì–bắt đầu có ý nghĩa và trở nên sống động. Các tù nhân không còn cho rằng họ là nạn nhân của một tấn bi kịch độc ác nào đó. Họ không còn chỉ điểm. Họ không còn tiêu diệt lẫn nhau nữa. Sự thay đổi tâm hồn của họ được tỏ lộ không đâu rõ rệt cho bằng trong lời cầu nguyện.
Họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau nhiều hơn cho chính mình. Và nếu có cầu xin cho chính họ, thì họ chẳng xin cho được điều gì. Mà xin cho sức mạnh mới mẻ trong tâm hồn của họ được bộc lộ. Dần dà, cả trại đã được biến đổi, đến nỗi không phải chỉ đám lính Nhật mà cả các tù binh cũng phải ngạc nhiên. Một đêm nọ, sau khi gặp gỡ với nhóm học hỏi Kinh Thánh xong, Gordon khập khiễng bước về trại của mình. Đang lúc lần mò trong bóng đêm, ông bỗng nghe có tiếng nhiều người ca hát, có người dùng mảnh gỗ để gõ nhịp vào lon thiếc. Tiếng ca hát và tiếng gõ nhịp làm cho bóng đêm trở nên sống động. (Lm Mark Link, S.J. Sự biến đổi kỳ diệu)
Giữa địa ngục trần gian đoạ đầy, các tù nhân đã hạnh phúc tìm được sự bình an của Chúa qua Kinh Thánh, Lời Chúa và hồng ân Lòng Thương Xót. “Thầy để lại bình an cho các con; chính bình an của Thầy mà Thầy ban cho các con”(Ga 14, 27). Trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, thánh sử Luca thuật lại Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, với hành trang bất khả ly thân là cầu nguyện, chiến đấu, phó thác và bình an.
Cầu nguyện
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người.” Hành trang quan trọng, thiết thực và và thiết yếu nhất của Tông đồ chính là cầu nguyện, để có thể can đảm, vững bền, mạnh mẽ chiến đấu với sự dữ, những thách đố, những gian truân trên đường rao giảng Tin Mừng. Vì cầu nguyện kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, nguồn mạch dồi dào sức sống.
Không cầu nguyện, không chạy đến Thiên Chúa phù trợ, mà kiêu căng, tự đắc, tự phụ, cậy vào sức mình, thì không sớm thì chầy sứ vụ rao giảng sẽ hoàn toàn thất bại trước các mưu ma chước quỷ. “Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.”(Ga 15, 5)
Chiến đấu
Đức Giêsu phán cùng các môn đệ: “Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng.”Người không che giấu những khó khăn, thách thức, nguy hiểm đang rình rập, đón chờ, để các ông không bị bất ngờ, cần thấu đáo tình thế ngặt nghèo, đau khổ, trước khi quyết định thực hiện sứ vụ, như Người đã từng trải.
Cả cuộc đời Người đã liên tục chiến đấu với bản năng, với ham muốn, dục vọng, với cám dỗ háo danh, từ trước khi đi rao giảng, cho đến tận trên thập giá. Người chịu đói khát trong hoang mạc, chịu các tư tế, luật sĩ, Biệt phái hăm doạ, khước từ, xua đuổi, chịu khổ nạn và cuối cùng chịu chết nhục nhã trên núi Sọ, vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha, để cứu chuộc nhân loại khỏi sự chết.
Tiếp bước theo Người đi rao giảng, thánh Phaolô cũng phải miệt mài chiến đấu không ngừng. “Chính vì mục đích rao giảng ấy, mà tôi phải chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi.” (Cl 1, 29)
Phó thác
Ngoài cầu nguyện, chiến đấu, hành trang khác không phải tiền bạc, áo quần, vật dụng cá nhân, mà chính là lòng phó thác vào Chúa Quan Phòng. Đức Giêsu luôn kêu gọi ai muốn theo Người, hãy từ bỏ mình, trở nên khiêm hạ, từ tốn, nhẫn nại, thầm lặng. Không dựa vào bản thân với tài năng, trí lực, sức lực, năng lực để hoạt động, không kiêu căng, hãnh tiến, cũng chẳng tự cao tự đại khi dấn thân rao giảng, mà chỉ hoàn toàn phó thác, trông cậy vào Chúa mà thôi. “Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường.” Luôn tận tâm tận lực, luôn ưu tiên cho sứ vụ, bỏ qua những lề lối nghi thức rườm rà, phức tạp, làm chậm trễ hay vướng víu trên đường hành đạo.
Thánh Phaolô cũng đã xác nhận lại mục đích Đi Gieo không phải tìm kiếm tiền của, mà nhiệm vụ là tìm đưa các chiên về một đàn duy nhất. “Tôi sẽ không phiền luỵ anh em đâu, bởi vì điều tôi tìm kiếm không phải là của cải của anh em, mà là chính anh em.” (2Cr 12, 14)
Bình an
Người Tông đồ có một món quà tuyệt hảo đễ trao tặng cho tha nhân chính là bình an. “Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ‘Bình an cho nhà này.” Thắm thiết giao hoà với Thiên Chúa, yêu thương tha nhân và sống hài hoà với vạn vật, người Tông đồ mới được Chúa thương ban bình an, từ nội tâm ra đến bên ngoài.
Bởi vì bình an là một thuộc tính nổi bật của Nước Trời. “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Ai phục vụ Đức Kitô như thế, thì đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta quý trọng. Vậy chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau. (Rm 14, 17-19)
Yêu mến Chúa chính là từ bỏ sự dữ, tội lỗi, từ bỏ mình, khước từ thế gian, chân thành đón nhận Chúa làm gia nghiệp cuộc đời, đồng thời kết hiệp mật thiết với Chúa trong bình an thanh thoát. “Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy.” (1Ga 4, 16) Đồng thời “Thiên Chúa là nguồn bình an.”( Rm 16, 20).
Để long trọng tiếp đón Chúa, người Tông đồ luôn dấn thân vác thập giá theo chân Người. Đó là chứng tích hùng hồn và vẻ vang của người Kitô hữu. “Tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Ðức Giêsu Kitô.” (Gl 6, 14)
“Thứ nhất cầu nguyện, thứ hai hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động.” (Đường Hy Vọng, số 119)
Lạy Chúa Giêsu, xin thức tỉnh chúng con thoát khỏi chính bản thân nặng nề, tham, sân, si, khỏi cám dỗ thiên la địa võng, khỏi thế gian hào nhoáng ảo ảnh, để chúng con được tự do đi theo Chúa đi gieo Tin Mừng, chỉ mang theo hành trang cầu nguyện, chiến đấu, phó thác và bình an mà thôi.
Khấn xin Mẹ cầu bầu, cứu giúp chúng con khỏi mọi sự ngăn cản chúng con đi theo Chúa, thành tâm noi gương Mẹ suốt đời đồng hành với Con Mẹ. Amen.
BÀI SAI
Cách nay 50 năm, nữ diễn viên Dolores Hart gây sững sờ Hollywood khi đưa ra một tuyên bố quan trọng: Cô rời bỏ Hollywood để gia nhập tu viện Dòng Nữ Chiêm Niệm Biển-Đức. Tại sao một nữ diễn viên đang nổi như cồn lại từ bỏ công nghệ phim ảnh? Sự nghiệp diễn viên điện ảnh của cô cất cánh vào năm 1957. Khi còn là một sinh viên đại học trẻ, cô diễn lần đầu cùng Elvis Presley trong bộ phim đầu tay của anh, Loving You (Yêu Anh), trong đó cô là người đầu tiên hôn anh trên màn bạc.
Trong sáu năm, diễn suất với những tên tuổi lớn nhất trong kỹ nghệ phim ảnh, cô có cho mình 10 phim rất thành công, cộng thêm các vai diễn truyền hình và một đề nghị Giải Tony cho lần trình diễn đầu tiên trên [sân khấu] Broadway. Và cô đính hôn với một kiến trúc sư ở Los Angeles. Nhưng vào năm 1963, cô gia nhập Tu Viện Regina Laudis ở Bethlem (bang Connecticut).
Ngày nay, 50 năm sau, Mẹ Dolores Hart là tu viện trưởng. Trong cuốn tự truyện, “Lắng Nghe Con Tim: Hành trình một nữ diễn viên từ Hollywood đến Những Lời Khấn Trọng,” (The Ear of the Heart: An Actress’ Journey From Hollywood to Holy Vows), đồng tác giả với người bạn cố tri Richard DeNeut và phát hành ngày 07/05 – Mẹ Dolores thuật lại chuyện đời thú vị của Mẹ, từ khi sinh ra ở Chicago đến khi theo Đạo Công Giáo, từ những cuộc phiêu lưu ở Hollywood đến cuộc sống tu viện. Tựa đề cuốn sách lấy từ một trích dẫn do Thánh Biển Đức có nghĩa là lắng nghe với đôi tai tâm hồn tiếng Chúa gọi mời chúng ta đi theo Người.
Mẹ Dolores được ban đặc ân du hành bên ngoài tu viện trong một thời gian ngắn để giới thiệu cuốn sách. Năm 2012, với một đặc ân tương tự, Mẹ là nữ tu chiêm niệm đầu tiên từng bước trên thảm đỏ và tham dự Trao Giải Oscar vì một bộ phim tài liệu HBO về cuộc đời Mẹ, “Thiên Chúa vĩ đại hơn Elvis” (God Is the Bigger Elvis) được đề nghị giải “chủ đề phim tài liệu hay nhất”. Mẹ vẫn là thành viên Ban giám Khảo duy nhất của Viện Hàn Lâm Khoa Học và Nghệ Thuật Điện Ảnh,là một nữ tu.(Joseph Pronechen,Biên tập viên tờ Register.)
Trích thuật Tin Mừng của Thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu trao bài sai cho 72 môn đệ đi rao giảng Nước Chúa đã đến. Để có thể chu toàn hoàn hảo sứ vụ, Chúa nhắn nhủ những phương cách căn bản để thực hiện.“Một hôm, Chúa Giêsu chỉ định 72 môn đệ khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến,”(Lc 10, 1)
1-Cầu nguyện
“Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về,” (Lc 10, 2)
Sau mỗi khi đóng xong một cuốn phim, tâm hồn nữ diễn viên Dolores Hart cảm thấy trống rỗng, chán chường, vì phải chia tay với các bạn diễn, mới thân mật với nhau trên sàn diễn. Thấy thế, một người bạn đề nghị Dolores đến nhà dòng Biển Đức để tĩnh tâm và học hỏi lối sống và làm việc của các nữ tu là những người mà cô này cho là rất ổn định và đáng phục. Ban đầu Dolores có vẻ ngại ngần nhưng sau đó vẫn cứ đi thử. Cô đến tu viện sống vài ngày và không muốn trở về. Nhưng nhà dòng chưa nhận cô vào tu, vì còn nghi ngại thiện chí của nữ diễn viên đã thành danh khi mới 21 tuồi. Sau đó, cô thỉnh thoảng vẫn kín đáo đi tĩnh tâm ở nhà dòng Biển Đức. Hai năm sau, khi hội đủ điều kiện nhà dòng đưa ra, là cô đã lặng lẽ rời bỏ ánh sáng hào nhoáng, vào ngay đêm dạ hội ra mắt cuốn phim Come Fly With Me, để chính thức gia nhập dòng Biển Đức.
Như thế, nhờ tiên quyết cầu nguyện, kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, cô Dolores Hart mới nghe được tiếng Chúa thân thương mời gọi làm môn đệ.“Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về,”
2-Hiệp thông & Dấn thân
Công việc truyền giáo đòi hỏi sự hiệp thông, gắn bó chặt chẽ với cộng đoàn, với Giáo Hội, chứ không thể hoạt động đơn lẻ làm anh hùng cô đơn. Người “sai các ông cứ từng hai người một”đi với nhau, hiệp tâm cầu nguyện, chia sẻ và đồng hành đi gieo, thì Chúa luôn hiện diện. “Ở đâu có hai, ba người họp lại vì danh Ta, thì có Ta ở đó, giữa họ”. (Mt 18, 19-20) Các môn đệ đã tuân thủ theo lời dạy như các ông Phaolô và Banaba. ( Cv 13,1), Phaolô và Xila, (Cv 15, 40), Phêrô và Gioan, (Cv 8, 14) Banaba và Máccô, (Cv 15, 40) Giuđa và Xila, Cv 15, 32). Các đấng đã hiệp thông mật thiết, hiệp lực cùng nhau, làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.
“Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bày sói.” (Lc 10, 3)
Con đường Chúa Giêsu chọn và dẫn dắt môn đệ đi theo bao giờ cũng trái nghịch với thế gian. Cho nên “nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em. Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ Lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy”. (Ga 15,18-21)
3-Khó nghèo & Nhân ái
“Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.” (Lc 10, 4)
Khi thi hành sứ vụ, không cậy vào sức mình, không dựa vào sức mạnh thế gian, như tiền bạc, của cải, quyền lực, cũng không phòng bị những phương tiện vật chất. Bởi vì người môn đệ chân truyền luôn phó thác đường đời vào tay Chúa Quan Phòng, chứ không vào bảo hiểm thế gian. Nếu đi rao giảng mà cứ mãi lệ thuộc vào phương tiện thế gian, đương nhiên sẽ bị thế gian khống chế, lợi dụng và sai bảo, thậm chí còn có thể còn chồng lại Đức Thầy mên yêu, Chúa Giêsu Kitô.
Mặc dù cuộc sống mới có đem lại rất nhiều thử thách, nhất là vào năm đầu, sơ Dolores đã tìm được nhiều sự yểm trợ tinh thần của các chị em nữ tu và của mẹ bề trên, người luôn đóng vai trò linh hướng sáng suốt và khôn ngoan khi phải bất ngờ thu nhận một đệ tử “không giống ai”, để biến nhân vật nổi tiếng hơn bất cứ ai mà bà từng thu nhận trở thành một nữ tu sống trọn lời khấn “khó nghèo, trong sạch, và vâng lời.”(Vietcatholic)
“Người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó.” (Lc 10, 7)
Với tấm lòng khiêm nhu, nhân ái, môn đệ Chúa vui lòng chấp nhận sự đón tiếp của đàn chiên, dù đơn sơ, đạm bạc hay xoàng xĩnh, tùy theo khả năng và lòng mến mộ. Không đòi hỏi, không phật lòng, bất bình, khó chịu. Cùng chia vui sẻ buồn với đàn chiên, không chút lấn cấn phân biệt giàu nghèo, sang hèn.
4-Phục vụ & Vị tha
“Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.” (Lc 10, 9)
Những bệnh tật thể xác đã có những nơi chuyên chữa chạy, bệnh viện, phòng khám, cơ sở y tế. Nhưng những thương tích tâm hồn cần đến các y bác sĩ tâm linh chăm sóc điểu trị. Môn đệ Chúa được sai đến giúp dỡ những bệnh nhân này. Những con chiên ham vui lạc bầy, những người vô vọng, đau khổ vì tình đời, nghĩa phu thê, tình gia đình cần được tìm lại mái ấm, lòng hoán cải, đổi mới và tái hội nhập vào cộng đoàn dân Chúa.
Tuy nhiên, vẫn có những nơi, những người không chịu hoán cái trở về với Lòng Thương xót Chúa, thì người môn đệ của Chúa chẳng lấy làm phiền muộn, hay tức giận, mà vị tha, bỏ mặc ra đi.
“Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra quảng trường mà nói: Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều đại Thiên Chúa đã đến gần.” (Lc 10, 10-11)
Với tinh thần yêu thương, khiêm nhường, phục vụ, người môn đệ sẵn sàng đón nhận những phản ứng tiêu cực, khi gieo giống vào sỏi đá, bụi gai. Bình tĩnh chấp nhận các lời khiêu khích, chống báng, hiềm thù, vì là chứng nhân cho Đường, Chân Lý và Sự Sống của Chúa Giêsu. Nếu cũng nóng giận, phản pháo, đôi co, ăn thua, trả miếng thì đâu còn là chứng nhân thật. Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng khuyên nhủ: “Cần đổ đầy “Sự nhiệt thành, lòng yêu mến truyền giáo” trong con tim, lý trí của mình đã rồi tự nó sẽ lan tỏa ra xung quanh.”
Giữa những thử thách, con hãy nghĩ gian khổ sánh sao được vời nước Thiên Đàng. Đó là phương pháp của Chúa: “Phước cho ai khó nghèo, ai khóc lóc, ai chịu bắt bớ…vì Nước Thiên Đàng là của mình vậy.” (Đường Hy Vọng, số 695)
Lạy Chúa Giêsu, xin an ủi, khuyến khích và nâng đỡ tất cả những ai làm chứng nhân trong mọi môi trường truyền giáo, được can đảm, vững mạnh trước những thử thách nặng nề và trung kiên với sứ vụ Đi Gieo.
Lạy Mẹ Maria, xin cầu bầu, giúp đỡ chúng con sống đời chứng nhân thực thụ giữa xã hội đang chạy theo vật chất, hưởng thụ và bất nhân. Xin che chở và bảo vệ chúng con khỏi sa chước cám dỗ. Amen…
PHÚC ÂM HÓA BẢN THÂN MÌNH TRƯỚC HẾT
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà 2010
(Chúa nhật 14 thường niên, năm C : Lc 10, 1-12; 17-20)
Người chủ ruộng sẽ rất lo âu và sốt ruột khi nhìn thấy đồng lúa mênh mông bát ngát của mình đang vào thời kỳ chín rục mà chẳng tìm đâu ra thợ gặt để thu hoạch lúa về kho.
Chúa Giê-su cũng cảm thấy tâm hồn nôn nao xao xuyến khi phần đông nhân loại đang cần được cứu độ nhưng chẳng mấy ai dấn bước đem ơn cứu độ cho bao người.
Thế nên, khi sai 72 môn đệ ra đi, Chúa Giê-su căn dặn các ông: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ ruộng sai thợ ra gặt lúa về”. Lời căn dặn nầy hôm nay cũng được lặp lại với mỗi người chúng ta. Đáp lời Chúa mời gọi, chúng ta sẵn sàng cầu xin có thêm thợ gặt, nhưng vấn đề là chúng ta sẽ cầu cho ai đi làm thợ gặt đây?
Ai là thợ gặt của Chúa?
Khi cầu xin ơn bình an, sức khoẻ và may mắn, thì chúng ta cầu cho bản thân ta trước; còn khi cầu cho có người làm thợ gặt trong cánh đồng của Chúa, thì chúng ta cầu Chúa ban ơn đó cho những người khác, ngoại trừ ta!
Nhưng, dù muốn dù không thì chúng ta đã là thợ gặt chính danh ngay từ khi được lãnh Bí Tích Thánh Tẩy. Nhờ Bí Tích nầy, chúng ta đã trở nên chi thể của Chúa Giê-su, nên đã được thông dự vào chức vụ ngôn sứ, tức sứ vụ loan Tin Mừng của Người. Vậy thì trách nhiệm ‘gặt lúa’ là trách nhiệm của chúng ta, không thể thoái thác được, trừ phi chúng ta tự tách lìa mình khỏi Thân Thể Chúa.
Là thợ gặt của Thiên Chúa, chúng ta cũng được sai đi để loan Tin Mừng Nước Trời, để đẩy lùi quyền lực của ma quỷ như 12 tông đồ và 72 môn đệ xưa.
Ai là người cần được rao giảng trước tiên ?
Đứng trước đồng lúa mênh mông, thợ gặt không biết phải bắt đầu từ đâu? Nói khác đi, phải loan Tin Mừng cho ai trước hết ?
Giáo điểm đầu tiên cần được truyền giảng Tin Mừng là chính bản thân chúng ta, vì dù mang danh là ki-tô-hữu nhưng có thể chúng ta còn xa lạ với Tin Mừng.
Xa lạ với Tin Mừng vì chúng ta chưa đọc hết Tin Mừng và chưa từng khám phá kho tàng khôn ngoan chứa đựng trong đó.
Xa lạ với Tin Mừng vì đời sống chúng ta và những giáo huấn của Tin Mừng còn cách biệt rất xa!
Nếu Tin Mừng của Chúa Giê-su chưa sáng lên trong cuộc đời ta, trong tim ta, trong lòng ta… thì làm sao chúng ta có thể đem lửa Tin Mừng ấy thắp lên cho người khác được. Không ai có thể cho điều mình không có.
Thế nên, chính bản thân chúng ta phải được phúc âm hoá trước, rồi ta mới có thể phúc âm hoá tha nhân.
Ai là người cần được xua trừ ma quỷ trước tiên?
Sứ mạng thứ hai mà Chúa Giê-su uỷ thác cho các môn đệ song song với việc loan báo Tin Mừng là giải thoát con người khỏi quyền lực của Sa-tan.
Chưa bao giờ quyền lực Sa-tan trở nên khủng khiếp và mãnh liệt như trong thế kỷ nầy. Ma quỷ đã tận dụng mọi phương tiện truyền thông như sách báo, văn chương nghệ thuật, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, internet, âm nhạc, hội họa… để lôi cuốn nhiều người vào cạm bẫy và tội lỗi.
Ma quỷ đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, nhưng cũng phải nhận rằng ma quỷ cũng đang chi phối mạnh mẽ cuộc đời chúng ta, đang lôi kéo chúng ta làm nhiều điều sai trái.
Một người đang mang xiềng xích không thể giải thoát được ai. Vậy thì trước khi giải thoát người khác khỏi ách Sa-tan, chúng ta phải tự giải thoát mình trước.
Vậy người đầu tiên cần được giải thoát khỏi quyền lực ma quỷ lại cũng là chính chúng ta.
***
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta biết sau cuộc hành trình truyền giáo ngắn ngày, 72 môn đệ vui vẻ trở về báo cáo với Chúa Giê-su những thắng lợi vẻ vang: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con”.
Xin Chúa giúp chúng ta cũng đạt được những thắng lợi vẻ vang như vậy ngay trên chính cuộc sống của mình.
CHÚA SAI TÔI ĐI
Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.
Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào? Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất cơ hội.
Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.
Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.
Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.
Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác
Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.
Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1-Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?
2-Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?
3-Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không?
4-Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?
HÀNH TRANG TÔNG ĐỒ
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
CN 14 TN-C-2013
Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện bằng cách cho các ông được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các Tông đồ ra đi thực tập truyền giáo. Chúa Giêsu còn chọn thêm nhiều môn đệ nữa. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy 72 môn đệ được sai phái thêm sau chuyến sai đi Nhóm Mười Hai (Lc 9,1-6) vì “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2). Thánh Luca muốn nhấn mạnh rằng, không riêng gì các Tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Hai động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các môn đệ. Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồ. M. Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo”1.
- Hành trang Tông đồ
Hành trang đi đường chỉ là: cây gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.
Chuyến đi nào cũng cần đến những hành trang. Hành trang cồng kềnh bước đi sẽ chậm. Hành trang gọn nhẹ bước tới sẽ nhanh. Hàng trang càng được tinh giản chỉ còn lại những gì thiết yếu nhất thì bước chân cũng sẽ thanh thoát khai lối cho mùa sứ vụ.
Hành trang của những kẻ lên đường xem ra chẳng có gì. “Gậy và dép” như gợi lại buổi Xuất hành. Nhẹ nhàng quá! Bận vướng với của cải đất đai sản nghiệp đùm đề làm sao có đủ tự do để bứt ra mà dứt khoát lên đường?
Hành trang của những kẻ lên đường xem ra chẳng có gì. “Không bánh, không bị, không tiền, không hai áo”. Nghèo khó quá! Chả bù cho con người ngày nay luôn biết tích lũy lo xa, có của ăn chưa đủ, còn có của để dành nữa. Nhưng cái nghèo về tài sản lại cho thấy cái giàu về đức hạnh. Không lo chiếm hữu hoặc gắn bó với của cải vật chất, người Tông đồ trở nên thanh thản lên đường bất cứ lúc nào. Không bận vướng những thứ lỉnh kỉnh làm nặng bước đi hoặc làm chùn bước tới, người Tông đồ học sống tinh thần phó thác để chỉ biết đợi chờ tất cả nơi một mình Thiên Chúa.
Xem ra chẳng có gì. Mà thực ra lại có tất cả. Bởi hành trang đích thực của họ chính là Chúa, Đấng đã nên sản nghiệp cho những kẻ được sai đi 2.
Hành trang ấy còn có ý nghĩa đặc biệt nữa. Đó là các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.
-Cây gậy: Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.
-Đôi dép: Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.
-Tấm áo: Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.
Chúa Giêsu còn trao cho các môn đệ những quyền năng của Ngài: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ.
Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động Tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.
2.Phương thức hoạt động Tông đồ.
Sứ vụ loan báo Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác. Khi sai đi “từng hai người một”, Chúa Giêsu mong các môn đệ hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.
Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22)… Hoạt động Tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu. Chứng tá về tính hiệp nhất khi gắn bó với Đấng đã sai mình, chứng tá về tình huynh đệ khi nhận ra mình được sai đi “từng hai người một”. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.
Chúa Giêsu gọi các môn đệ và sai đi truyền giáo. Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.
Như thế, Tông đồ là người lên đường chứ không phải xuống đường. Lên đường là một tinh thần nhạy cảm của Tin Mừng được thể hiện qua lối sống gắn bó với sứ vụ. Nhạy cảm với những thao thức của thời đại để tìm đổi mới tư duy, nâng cao tầm nhìn, nới rộng kiến thức, mong diễn đạt Tin Mừng sát với ngôn ngữ hiện tại. Nhạy cảm với nhu cầu của tha nhân bằng muôn ngàn cách thể hiện lòng nhân ái vốn là điểm sáng của giới luật yêu thương, đồng thời là dấu hiệu dễ nhận ra nhất của Tin Mừng cứu độ. Nhạy cảm với Giáo Hội để tìm hiệp nhất. Nhạy cảm với đồng nghiệp để tìm huynh đệ nâng đỡ cộng tác. Nhất là, nhạy cảm với Chúa để tìm thuộc về Ngài mỗi ngày một hơn. Và dọc dài sứ vụ, tư thế lên đường sẽ làm nên hình ảnh chứng nhân 3.
3.Sứ vụ Tông đồ là sống chứng nhân
Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Trong Tông huấn “Loan báo Tin Mừng”, Đức Thánh Cha Phaolô VI quả quyết ít nhất hai lần rằng, phương thức thứ nhất để rao truyền Phúc Âm chính là làm chứng bằng một cuộc sống Kitô hữu đích thực (x. số 21 và 41).
Có ba cách làm chứng: nói, làm và sống. Hiệu năng nhất là cách thứ hai và thứ ba. Ai cũng biết nói thì dễ, làm khó hơn, và sống như mình nói lại càng khó hơn nữa. Chính việc làm và đời sống làm cho lời mình nói đáng tin hơn. Nhưng cả khi người ta chưa nói hay không thể nói, chưa làm hay không thể làm một số điều nào đó, thì người ta đã có thể sống điều mình xác tin và muốn chia sẽ.
Theo Đức Phaolô VI, làm chứng bằng cuộc sống, bằng hành động cụ thể là một cách rao giảng thầm lặng, không nghe được, nhưng thấy được và rất hữu hiệu, nhất là đối với con người thời nay vì hai lý do: một là vì thời nay (thời của khoa học thực nghiệm và của óc thực tiễn), người ta nhạy cảm với việc làm và dị ứng với lời nói và các học thuyết, hai là vì trong thế giới trần tục hoá ngày nay, như ở Việt Nam chẳng hạn, tôn giáo bị đẩy ra bên lề như chuyện riêng tư, thế nên không phải bất kỳ ở đâu và lúc nào người ta cũng có thể, hay nên trực tiếp rao giảng Tin Mừng. Năm 1937, Mahatma Gandhi, vị anh hùng dân tộc Ấn Độ nói với các nhà truyền giáo: “Hãy để cho đời sống các ngài nói với chúng tôi như đoá hoa hồng không cần ngôn ngữ, mà chỉ đơn sơ để cho hương thơm của mình toả lan. Cả người mù không nhìn thấy hoa hồng vẫn nhận ra được mùi thơm của nó. Hãy để chúng tôi nghĩ tới sự cao cả của nhân dân của các ngài khi họ toả hương thơm đời sống. Đối với tôi, đó là tiêu chuẩn duy nhất. Tất cả những gì tôi muốn họ làm là sống đời Kitô hữu chứ không phải chú giải nó”.
Vậy để loan báo Tin Mừng thuyết phục, người Kitô hữu phải sống thế nào cho cuộc đời mình trở thành đáng tin. Đới sống đáng tin thì tự nhiên lời nói cũng đáng tin. Làm tông đồ, rao giảng Phúc Âm đặc biệt thích hợp cho ngày nay là làm cho đời sống Kitô hữu đáng tin. Như vậy toàn bộ cuộc sống ta đều phải “làm chứng”: lời ăn tiếng nói, cách cư xử, giao tiếp, trong gia đình, ngoài xã hội, khi làm việc, khi vui chơi giải trí… Đối với người có ý thức truyền giáo thì nhất nhất việc gì, khía cạnh nào của đời sống họ cũng có thể là lời loan báo. Lời trách nặng nề nhất của người chưa biết Chúa đối với tín hữu Công giáo có lẽ là: Người Công giáo các anh (các chị) không mấy đáng tin; các anh (các chị) nói một đường làm một nẻo. Đức tin, giáo lý nghe thì thật hay nhưng không thấy đem lại cho xã hội một cái gì thật sự tốt đẹp và mới mẻ. Lời phê bình đó có lẽ là quá đáng nhưng thiết tưởng ta chẳng cần cãi lý làm gì, hãy coi đó như một lời nhắc nhở để chúng ta nhìn lại cuộc sống “chứng tá” của mình. Xã hội này đang suy thoái trầm trọng về đạo đức: tham nhũng, thối nát, dối trá, bất công, xì ke ma túy, sa đoạ … Ta có còn là men, là muối, là ánh sáng nữa không? 4.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu,xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát,không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui,như người tìm được viên ngọc…. quý,biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân. Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. Amen. (Mana).
1.”Comment lire un évangile?”, Seuil, trang 103.
2.”Với cả tâm tình”, trang 117-120, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống.
3.”Với cả tâm tình”, trang 121.
4.”Đạo trong đời”, trang 252-255, Lm Nguyễn Hồng Giáo.
CHÚA SAI TÔI ĐI LOAN TIN BÌNH AN VÀ HẠNH PHÚC
Lm Carolô Hồ Bạc Xái
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay thuật chuyện Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi khắp nơi như những sứ giả của sự bình an và hạnh phúc. Ngày nay Chúa cũng sai chúng ta như thế. Nhưng muốn là những sứ giả của bình an và hạnh phúc thì trước tiên chúng ta phải có bình an và hạnh phúc trong lòng chúng ta. Đó là hai ơn rất quý mà chúng ta hãy xin Chúa ban trong Thánh lễ này.
- Gợi ý sám hối
Chúng ta chỉ lo đến phần rỗi của riêng mình mà không nghĩ đến việc cứu rỗi người khác.
Trong cuộc sống chung đụng với người khác, chúng ta chưa thực sự là những người mang lại bình an và hạnh phúc cho họ.
Chúng ta chưa được như Thánh Phaolô, biết sung sướng hãnh diện vì Thập Giá Đức Kitô.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Is 66, 10-14c)
Vua Cyrus nước Ba Tư vừa tiêu diệt đế quốc Babylon và ký sắc lệnh cho phép dân Do Thái hồi hương. Trong bầu khí phấn khởi vui mừng đó, ngôn sứ Isaia nói tiên tri rằng Thiên Chúa sẽ ban phúc lành cho dân. Điều đáng lưu ý là phúc lành quý giá nhất chính là ơn bình an: “Ta sẽ làm cho bình an chảy đến nó (Giêrusalem) như con sông”.
- Đáp ca (Tv 65)
Tv này reo mừng Thiên Chúa và ca ngợi về những ơn lành của Ngài.
- Tin Mừng (Lc 10, 1-12. 17-20)
Đoạn Tin Mừng này đã được Phụng vụ cắt bớt khúc giữa (cc 13-16), để chỉ còn lại hai phần chính: Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng (cc 1-12), và các môn đệ rao giảng xong trở về kể chuyện cho Ngài nghe (cc 17-20)
a/ Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng:
Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm tông đồ mà còn cả nhóm môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ý này lại được làm rõ thêm với con số 72. Đây là số dân của loài người mà St 10 đã liệt kê.
“Từng nhóm hai người”: Việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.
“Hãy cầu xin”: Việc đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Thiên Chúa là chủ mùa gặt, nhận ai vào Nước Thiên Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Chúa Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.
“Như chiên non vào giữa sói rừng”: Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ về những hiểm nguy và sự thù nghịch mà có thể họ sẽ gặp phải.
“Đừng chào ai dọc đường”: việc chào hỏi của người Phương Đông thường kéo theo những câu chuyện rề rà rất lâu. Trong khi sứ mạng loan Tin mừng đòi phải gấp.
“Bình an cho nhà này”: đây vừa là một lời chúc vừa là một lời ban ơn bởi vì nó có sức tạo nên điều nó chúc (Is 45, 23). Người rao giảng Tin Mừng phải là “con cái của sự bình an”. Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Nếu nhà nào đáng được hưởng ơn bình an thì được bình an, nếu không thì ơn bình an trở lại cho người chúc.
“Cứ ở lại nhà ấy”: gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình.
“Ăn uống của người ta cung cấp cho mình”: sứ mạng của môn đệ đừng để bị ảnh hưởng bởi những quan tâm có tính cách trần thế (đòi hỏi hoặc e ngại những gì của ăn uống người ta lo cho mình).
“Thợ đáng trả lương”: đây là một nguyên tắc (1Tm 5, 18; 1Cr 9, 11). Nhưng người thừa sai cũng có thể tự ý từ chối (1Cr 9, 14-18).
“Người ta dọn thức gì cứ ăn thức ấy”: Người rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu không còn bị bận vướng bởi luật Môsê về sự phân loại thức ăn nào sạch, thức ăn nào dơ (1Cr 10, 27).
“Hãy chữa lành các bệnh nhân”: đây là dấu hiệu Nước Thiên Chúa gần đến.
“Phủi bụi chân”: người Do Thái thường phủi bụi chân khi từ một vùng đất ngoại trở về đất Palestina vốn được coi là đất thánh. Cử chỉ này có nghĩa là không có chung đụng giữa Israel và dân ngoại. Thành nào không đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu thì cũng cắt đứt liên hệ với dân Thiên Chúa, trách nhiệm là thuộc về họ.
Thành đó sẽ đáng chịu phán xét trong ngày chung thẩm, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề còn hơn Sôđôma ngày xưa. Việc các thừa sai đến loan Tin mừng là cơ hội cho người ta chọn lựa để hoặc được cứu độ hoặc bị luận phạt.
b/ Sau một thời gian đi truyền giáo trở về, các môn đệ vui mừng kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Nhân dịp này Chúa Giêsu nhận xét về kết quả ấy của họ: Ngài chia vui với họ vì những thành công ấy. Nhưng Ngài cho biết họ càng nên vui mừng hơn vì Thiên Chúa đã coi họ là công dân của Nước Trời (“tên các con được ghi trên trời”)
- Bài đọc II (Gl 6, 14-18) (Chủ đề phụ)
Trong đoạn thư này gởi tín hữu Galata, Thánh Phaolô chia xẻ cho họ biết một Tin Mừng đặc biệt mà Ngài khám phá ra, đó là giá trị tuyệt vời của thập giá Đức Kitô:
Thập giá đã mang lại ơn cứu độ cho mọi người
Thập giá trở thành lẽ sống của Phaolô
Thập giá là nguồn bình an và hạnh phúc của Ngài.
- Gợi ý giảng
* 1. Những kẻ mang bình an
Lời đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải nói khi vào một nhà nào là “Bình an cho nhà này”. Như thế nghĩa là họ sẽ làm những sứ giả của sự bình an. Nói cách khác, làm sứ giả của bình an là sứ mạng đầu tiên của người môn đệ Chúa.
Bắc Ai Len là một đất nước mà hai khối dân Công giáo và Tin lành thù ghét nhau và nhiều lần bắn giết nhau. Vào một dịp lễ Giáng sinh, một Linh mục công giáo đi sang bên kia đường để đến thăm một Mục sư Tin Lành. Vị Mục sư rất cảm động, đón tiếp vị Linh mục rất niềm nỡ. Ít lâu sau Vị Mục Sư cũng sang bên kia đường để thăm vị Linh mục. Tình thân giữa hai người ngày càng thắm thiết hơn. Tuy nhiên một vài tín đồ lớn tuổi thì nổi giận. Họ tìm đủ cách để cấp trên của Giáo Hội thuyên chuyển vị Mục sư ấy đi nơi khác.
Vị Linh mục và Vị Mục sư trên chỉ làm điều mà tất cả các môn đệ Chúa Giêsu phải làm, đó là làm những sứ giả của bình an và hòa giải trong một xã hội có nhiều chia rẻ.
Bình an không phải là một cái gì tiêu cực do không có chiến tranh và thù hận. Nó đòi phải có tinh thần cởi mở, tình huynh đệ, lòng khoan dung, thiện chí và ước muốn hòa giải. Nó buộc chúng ta đi đến với người khác. Nó giúp chúng ta gỡ bỏ những rào cản của nghi kỵ, sợ hãi, thành kiến và óc cố chấp.
Trước lúc Rước Lễ, chủ tế chúc “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”. Đây thực là một món quà quý giá mà thế gian không thể ban tặng được. Tiếp đó chủ tế kêu gọi “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Đáp lời Ngài, chúng ta chào nhau, đến bắt tay nhau hoặc ôm hôn nhau. Ước chi những cử chỉ đó không phải chỉ là hình thức mà thực sự bày tỏ lòng thân thiện của chúng ta. Cuối Thánh lễ, chủ tế lại chúc “Chúc anh chị em ra về bình an”. Câu này có nghĩa là chúng ta đã đến nhà thờ lãnh nhận bình an của Chúa, vậy khi ra về chúng ta cũng hãy mang bình an ấy đến cho mọi người chúng ta sẽ gặp gỡ.
* 2. Mênh mông lúa đồng (Lc 10,1-12, 17-20 )
Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói: “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp: “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy!” Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên: “Đã thấy!”
Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích: “Ánh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy”.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên!” Bỗng chốc, cả vận động trường rực sáng.
Ông John Kener kết luận: “Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.
* * *
Đã qua 2000 năm nhưng lời dạy của Chúa Giêsu vẫn như đang nói với chúng ta hôm nay: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10, 2). Thế giới có trên 6 tỉ người, mà kẻ tin vào Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới, nhưng người Công giáo chỉ không tới 3%.
Cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang không thợ gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn mò mẫm trong bóng đêm dày đặc của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù; rất cần những đốm sáng của tình thương, của khoan dung, của tha thứ. Thế nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói” (Lc 10, 3)
Tuy cuộc ra đi có nguy hiểm, bấp bênh, thiếu thốn vì “không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”( Lc 10,4) nhưng chúng ta vẫn phải lên đường, vì Thầy đã nói “Anh em hãy ra đi”.
“Ra đi” chứ không phải “ở lại”, đó là một lệnh truyền. Cả cuộc đời của Thầy là một hành trình: Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng ngoài đường, cuối cùng chết cũng ngoài đường. Thầy luôn lên đường và không ngừng ra đi. Công đồng Vaticano II cũng long trọng khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Đức Thánh Cha Gian Phao lô II cũng quả quyết: “Không một ai trong những người rin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là toan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3).
Vậy ơn gọi của người tín hữu Kitô là “Ra đi”.
Ra đi đem “bình an” đến cho các dân tộc, bình an giữa mọi người với nhau, bình an với Chúa.
Ra đi chữa lành bệnh nơi thể xác cũng như trong tâm hồn.
Ra đi loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần, nước tình yêu và ân sủng, nước công chính và bình an.
Thánh Phao lô đã phải thốt lên: “Khốn cho thân tôi: nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9, 16). Nhưng việc làm mới chứng thực cho lời rao giảng, và lời rao giảng sẽ soi sáng cho việc làm. Ra đi là để làm chứng, và lời chứng sáng giá nhất chính là việc làm. Đúng như L. Moody đã nói: “Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ĩ, chúng chỉ chiếu sáng”.
***
Lạy Chúa Giêsu, Chúa sai chúng con ra đi không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, là để chúng con được siêu thoát mà lên đường, không cậy dựa vào sức riêng hay trần thế, nhưng chỉ phó thác nơi một mình Chúa mà thôi.
Xin cho chúng con luôn tin tưởng lên đường, dám sống chết cho sứ mạng Chúa đã trao ban. Amen. (Thiên Phúc)
* 3. “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”
Catherine de Hueck Doherty làm việc trong một quán bar ở Mahattan. Đến 4 giờ sáng, cô nói lời tạm biệt với các khách uống rượu. Một người hỏi:
– Cô đi đâu?
– Tôi phải đi Nhà thờ dự Thánh lễ, vì hôm nay là Chúa nhật.
– Thế cô là người công giáo hả?
– Đúng vậy.
Nhiều người trong đám khách rất ngạc nhiên vì không ngờ Catherine có thể vừa là một người công giáo ngoan đạo vừa làm việc tại một nơi phức tạp như vậy. Vài tuần sau, một người trong đám khách trở lại nói với Catherine: “Cô đã khiến tôi suy nghĩ nhiều. Cô có thể vừa sống đạo tốt vừa làm việc ơ một nơi như thế này, thì tại sao tôi không thể!” Và người ấy đã trở lại nhà thờ.
Lần khác, Catherine đang trên đường tới trạm xe điện ngầm thì gặp một bà cụ. Bà cụ mở lời “Cô có vui lòng nói chuyện với tôi giây lát không?” Cô vui vẻ nhận lời. Hai người đã nói chuyện với nhau trong suốt chặng đường. Sau đó hai người còn kết thân với nhau và Catherine thường xuyên tới thăm viếng bà cụ cho tới ngày bà cụ qua đời.
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Một kitô hữu có ý muốn làm thợ gặt như cô Catherine thì không bao giờ thiếu dịp để gặt lúa cho Chúa.
* 4. Mảnh suy tư
Tông đồ là kẻ được sai đi.
Vì thế làm tông đồ rất khác với làm chuyên viên. Làm chuyên viên thì cần phải có tài năng. Còn làm tông đồ thì chỉ cần đi theo lệnh Chúa sai, đến với người Chúa sai mình đến, và mọi việc khác hầu như Chúa sẽ làm tất cả.
* 5. Chuyện minh họa
a/ Đi giảng
Ngày kia, thánh Phanxicô Assadi nói với một thày dòng: “Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo. ” Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thày dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!” Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?”
Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô-hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chứng tá của họ.
b/ Khuôn vàng thước ngọc
“Hãy nói về Chúa cho những người quanh bạn nghe; và hãy nói về những người quanh bạn cho Chúa nghe”.
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi người Kitô hữu cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Người. Với ước mong trở nên những sứ giả Tin mừng cứu độ, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Hội thánh là dấu chỉ ơn cứu độ Chúa sẵn sàng ban cho hết thảy mọi người / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa gửi nhiều thợ gặt lành nghề / đem tin mừng đến cho mọi loài thọ tạo.
- Khát vọng sâu xa nhất của con người ở mọi thời đại / là được sống bình an và hạnh phúc / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh / để hết thảy mọi người đều được sống hạnh phúc và an bình.
- Tin tưởng vào Chúa quan phòng là thái độ người Kitô hữu cần có suốt cuộc đời của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu / biết đặt trọn niềm tin vào sự quan phòng kỳ diệu của Chúa / mỗi khi gặp thử thách gian truân.
- Số linh mục trên thế giới ngày nay thiếu hụt trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết góp phần vào việc đào tạo linh mục tương lai của các giáo phận / bằng lời cầu nguyện / cũng như bằng việc rộng rãi giúp đỡ Chủng viện.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa sai chúng con đem Tin mừng cứu độ, mang sứ điệp yêu thương đến cho biết bao anh chị em chưa nhận biết Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết dùng đời sống bác ái yêu thương và phục vụ tận tụy, mà làm tròn sứ mạng này. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
- Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã nói “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người”. Giờ đây chúng ta hãy tha thiết cầu xin Chúa Cha cho Nước Chúa mau trị đến.
– Chúc bình an: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng bảo mỗi kitô hữu chúng ta hãy làm sứ giả của bình an. Chúng ta hãy thật lòng chúc bình an cho nhau.
VII. Giải tán
Anh chị em thân mến. Môn đệ Chúa là những sứ giả của bình an. Chúng ta hãy ra về và mang bình an đến cho tất cả những người chúng ta sẽ gặp gỡ.
LÀM GÌ CHO NGƯỜI NGHÈO?
Cuộc sống quanh ta có rất nhiều những mảnh đời bất hạnh. Bất hạnh vì thiếu ăn. Bất hạnh vì bệnh tật. Có người bất hạnh tâm hồn. Có người đau khổ về thể xác. Nỗi đau nào cũng cần được chia sẻ. Nỗi khổ nào cũng cần sự cảm thông nâng đỡ. Bởi vì như ai đó nói rằng: “Có một đường đi – đi cùng sẽ vui hơn. Có một nỗi đau – đau cùng sẽ nguôi ngoai”. Cuộc sống sẽ bớt đi những tủi nhục, những đắng cay khi con người biết quan tâm chia sẻ tinh thần và vật chất cho nhau. Dòng đời sẽ không còn nước mắt của sự bỏ rơi, từ chối hay khước từ.
Hôm nay khi nhìn vào dòng đời với những đau khổ thiếu thốn của nhân loại. Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy thực thi 3 việc để làm vơi đi nỗi đau cho nhân thế. Đó là cầu nguyện cho có nhiều sứ giả của lòng xót thương – sống thanh thoát để dễ dàng đến với người nghèo – sẵn lòng xoa dịu nỗi đau cho các bệnh nhân. Vì chưng, ở giữa dòng đời hôm nay vẫn còn đó những mảnh đời bất hạnh đang rất cần chúng ta trợ giúp. Họ đang tuyệt vọng bởi dòng đời vô tình đưa đến với họ biết bao tai ương hoạn nạn. Họ đang rên xiết từng ngày bởi thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu cả tình thương nơi đồng loại.
Mấy tháng qua cá miền trung chết cũng dẫn đến dân chài thất nghiệp. Nạn thất nghiệp sẽ kéo theo đói nghèo khổ đau. Hàng ngàn gia đình đang đối diện với cái đói, cái nghèo . . . Hằng ngày ta vẫn bắt gặp những mảnh đời đói khổ, bệnh tật vẫn đang lê bước mưu sinh bằng đủ nghề vé số, ve chai, cửu vạn . . . để kiếm sống qua ngày hay chỉ mong qua được cửa ải trần ai ! Họ chính là những hạt lúa mà Chúa Giê-su kêu mời chúng ta hãy nhanh tay cứu giúp họ. Họ đang cần chúng ta nâng niu, bảo vệ khỏi rầy nâu là sự dữ đang vây bủa chung quanh. Họ đang cần chúng ta cứu giúp họ vượt qua cái đói, cái nghèo, cái khổ đau. Đừng để họ rơi vào tuyệt vọng khiến họ thành mồi ngon cho ma quỷ dẫn lối lạc xa Chúa. Hãy cho họ thấy cuộc đời này vẫn tươi đẹp vì vẫn còn tình người che chở, ôm ấp, nâng đỡ họ.
Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm 12 tông đồ mà còn cả nhóm 72 môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ngài cũng sai “từng nhóm hai người” như ngầm ngụ ý: việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.
Bên cạnh đó, việc loan báo Tin mừng cũng phải được làm song song với việc thực hành lòng thương xót dành cho anh em. Lòng thương xót thể hiện qua việc chữa lành bệnh tật. Lòng thương xót qua việc cứu giúp anh em. Khi chúng ta sống đạo mến thương như thế cũng là cách chúng ta loan bao tin mừng cho nhân thế hôm nay.
Ở Giáo xứ Hà nội hàng tháng các bạn trẻ vẫn hăng hái thu gom ve chai để kiềm tiền phát gạo, làm nhà cho người nghèo. Nhìn thấy từng tốp bạn trẻ với chiếc xe kéo ve chai khiến tôi thầm cám ơn Chúa vì giữa một xã hội hưởng thự ích kỷ hôm nay, vẫn còn đó những tâm hồn quảng đại với tha nhân, vẫn còn đó những đôi chân thanh thoát sống hết mình với tha nhân. Cách sống của họ chính là lời rao giảng hùng hồn về lòng Thương xót của Thiên Chúa dành cho con người. Đôi chân của họ ra đi luôn để lại cho đời những dấu ấn của tình yêu được tô thắm bởi lòng hăng say phục vụ Thiên Chúa. Họ rao giảng không bằng lời mà bằng chính sức trẻ, sự năng động của trẻ luôn sống hết mình cho người nghèo và vì người nghèo.
Ước gì đời ky-tô hữu chúng ta luôn là một đời chứng nhân cho Lòng Thương Xót của Chúa bằng gương lành bác ái, bằng lời nói về Chúa cho tha nhân. Xin cho chúng ta luôn có trái tim biết chạnh lòng thương xót những mảnh đời bất hạnh quanh ta để nhanh tay chia sẻ, ủi an họ. Xin cho đôi chân chúng ta luôn nhanh nhẹn ra đi đến với mọi phận người khổ đau hầu xoa dịu nỗi đau cho nhân thế. Amen
CHÚA SAI TÔI ĐI
Cn 14 TN-C-2013
Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm 12 tông đồ mà còn cả nhóm 72 môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ngài cũng sai “từng nhóm hai người” như ngầm ngụ ý: việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.
Nhưng trên hết, trình thuật hôm nay nhắm đến 3 công việc mà người truyền giáo phải biết, đó là:
+ Cầu nguyện: cầu nguyện cho Hội Thánh có nhiều thợ lành nghề theo như lòng Chúa mong muốn.
+ Sống thanh thoát với của cải: vì cái mà người truyền giáo cần có là ơn Chúa chứ không phải là những phương tiện vật chất (túi tiền, bao bị, giày dép…)
+ “Chữa lành các bệnh tật”; Đây là việc làm chính của người truyền giáo. Người truyền giáo phải là người làm giảm bớt đi những đau khổ tinh thần và vật chất nơi tha nhân.
Nhưng xem ra lối sống của người tín hữu hôm nay chỉ nhắm đến việc giữ đạo, sống đạo mà ít quan tâm đến việc truyền giáo. Có mấy ai đã cầu nguyện cho việc truyền giáo? Có mấy ai đã biểu lộ việc truyền giáo bằng việc sống thanh thoát với của cải trần gian và xoa dị nỗi đau cho anh em?
Thành thực mà nói cũng có, nhưng rất ít. Có khi chỉ là một cánh én đơn độc nên vẫn chưa mang lại mùa xuân truyền giáo cho Giáo hội. Ngay cả các sứ giả hôm nay cũng được sai đi nhưng cũng chỉ là để đến với tín hữu, đến với những cộng đoàn có đạo để củng cố niềm tin cho họ, và dường như Giáo hội Việt Nam vẫn chưa có một linh mục được sai đi chỉ để loan báo tin mừng cho dân ngoại. Chính vì thế, rất nhiều linh mục đến với những vùng hẻo lánh, các ngài lại chú trọng việc xây cất cho bằng chị bằng em, nhưng lại thiếu thời giờ để đến với lương dân.
Có lẽ, chính vì thế từ người giáo dân đến linh mục đều chú trọng việc sống đạo nhưng không có sáng kiến mục vụ để thu hút người ngoại đạo, kể chi đến việc mang tin mừng đến cho anh em lương dân. Giáo hội đã quá chú trọng đào tạo nhân sự từ linh mục, tu sĩ, tông đồ giáo dân nhưng đều được tung vào vườn nho để quản lý vườn nho mà không được mang đến cánh đồng truyền giáo bát ngát. Giáo hội cũng tốn kém rất nhiều tiền bạc vào việc đào tạo nhân sự nhưng lại không bao giờ tặng anh em lương dân một tấm hình đạo, một quyển phúc âm . . . như là một hình thức giới thiệu đạo Chúa cho anh em. Dường như các chủ chăn chỉ loay hoay gìn giữ các con chiên và cũng chẳng mấy khi đi tìm kiếm con chiên lạc trở về, và có lẽ khó mà có thời giờ đến với muôn dân không thuộc đàn chiên của mình.
Hôm vừa rồi, có một cán bộ tôn giáo nói với tôi: “Nếu giáo hội Công giáo không quan tâm đủ đến người dân tộc thiểu số ở trong xứ đạo, coi chừng họ theo Tin Lành hết”. Được biết người tín hữu tin lành họ rất quan tâm đến anh em lương dân của họ. Họ luôn tìm cách tiếp cận và giới thiệu tin mừng cho anh em lương dân. Họ coi đây là việc làm hàng đầu của người tín hữu. Họ không quan trọng việc đi lễ hay các bí tích, nhưng điều quan yếu của họ là làm sao tin mừng đến được với muôn dân.
Giáo hội vẫn nói sứ mạng hàng đầu của Giáo hội là truyền giáo, nhưng xem ra hành vi truyền giáo vẫn chưa cụ thể, vẫn chung chung . . . Chúa Giê-su không gọi chung chung, Ngài cũng không sai đi chung chung, nhưng Ngài gọi từng người một và sai đi. Ngài sai đi không phải đến một làng, một vùng mà đến các vùng lân cận để rao giảng. Xem ra Giáo hội là truyền giáo nhưng lại thiếu những con người có thể đi đến với những làng lân cận mà rao giảng Nước Thiên Chúa như 72 môn đệ. Không có cuộc ra đi. Không có mùa gặt hái. Không có mùa bội thu. Giáo hội vẫn là thiểu số giữa muôn dân, muôn sắc tộc.
Hôm nay không phải là ngày Khánh Nhật Truyền Giáo nhưng lời Chúa vẫn vang vọng bên tai chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Lời Chúa vẫn nhắc nhở chúng ta về sứ vụ truyền giáo của Giáo hội, của chúng ta là thành viên của Giáo Hội. Chúa Giê-su vẫn tiếp tục sai chúng ta ra đi gặt lúa của Người. Chúa Giê-su vẫn tha thiết kêu mời chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo hội có thêm thợ lành nghề. Chúa Giê-su vẫn mời gọi chúng ta hãy ra khỏi chính mình để đến với những kẻ bất hạnh lầm than, để xoa dịu nỗi đau cho nhân thế.
Ước gì đời ky-tô hữu chúng ta luôn là một đời truyền giáo bằng gương lành bác ái, bằng lời nói về Chúa cho tha nhân. Xin cho chúng ta luôn thao thức về cánh đồng truyền giáo đang chính vàng, nếu không nhanh tay thì chim trời sẽ ăn hết. Thế nên, mỗi người chúng ta cần thể hiện tinh thần truyền giáo của mình cách cụ thể quá lời nói và việc làm của mình. Amen.
NGHỊCH LÝ
Chúa nhật 14 thường niên, năm C-2010
Nghịch lý của thời đại chúng ta đó là:
Đường phố rộng hơn, quan điểm lại hẹp hòi hơn
Chúng ta giành nhiều hơn nhưng lại có ít hơn
Mua sắm nhiều hơn nhưng hưởng thụ lại ít hơn
Chúng ta có những tòa nhà đồ sộ hơn nhưng gia đình lại bé nhỏ hơn.
Cuộc sống tiện nghi hơn nhưng ít thời gian nhàn rỗi hơn
Bằng cấp nhiều hơn nhưng giá trị lại ít hơn
Hiểu biết nhiều hơn nhưng nhận xét lại kém hơn
Nhiều nhân tài hơn nhưng ít sáng tạo hơn
Chúng ta sở hữu nhiều hơn nhưng nhân cách giảm nhiều hơn
Chúng ta nói quá nhiều, yêu thương thì quá ít và ghen ghét lại nhiều hơn
Chúng ta biết cách mưu sinh nhưng không biết tạo dựng cuộc sống
Chúng ta sống thọ hơn nhưng sống ít ý nghĩa hơn
Chúng ta làm được những điều cao sang nhưng lại không làm được điều đơn giản với đồng loại.
Vâng, cuộc sống xem ra tiến bộ hơn nhưng đáng tiếc chúng ta lại đang đánh mất nhiều hơn. Mất tình gia đình, mất tình bạn, mất tình làng nghĩa xóm. Cái mất lớn nhất của thời đại hôm nay chính là mất niềm vui của sự bình an tâm hồn. Vì cuộc đời hôm nay có quá nhiều những rủi ro, có quá nhiều những căng thẳng, những bất trắc khiến con người hôm nay dù có nhiều tiền, nhiều của, nhiều vật chất nhưng lại có rất ít những giây phút thư thái bình an. Cuộc đời luôn đong đầy những lo toan khiến con người hôm nay luôn phải sống trong cảnh đối phó với những nghịch cảnh có thể đưa tới. Bên cạnh sự vật lộn với cuộc sống quá nhiều khó khăn, sự bươn chải để tìm miếng cơm manh áo, cuộc sống chung quanh lại còn quá nhiều những sự dữ bủa vây như muốn nhậm chìm con người. Những tệ nạn xã hội như: xì ke, ma tuý, mại dâm, . . . luôn là những cạm bẫy có thể xâm chiếm và làm mất đi sự bình an nơi các gia đình. Thực tế, đã có biết bao gia đình khô cạn nước mắt vì một đứa con đang lao vào con đường xì ke, ma tuý; đã có biết bao gia đình tan nát vì lối sống buông thả, phóng túng của những người chồng thiếu trách nhiệm; đã có biết bao gia đình đang u sầu vì những quan hệ bất chính của những người cha, người mẹ đang làm gương mù gương xấu cho đàn con. Sự dữ dường như đang khống chế con người hôm nay. Sự dữ dường như đang làm chủ xã hội hôm nay khiến con người luôn cảm thấy bất an và lo sợ.
Cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giê-su cũng nhìn thấy sự dữ đang hoành hành. Sự dữ đang gây nên những đau khổ, đổ vỡ, mất mát cho biết bao con người. Sự dữ luôn làm cho con người lo sợ, bất an. Chúa đã sai các môn đệ ra đi trong tình trạng khẩn trương và cấp bách. Cấp bách đến độ không cần chuẩn bị những hành trang bên mình như giầy, dép, bao bị, . . . Chúa muốn các môn đệ hãy ưu tiên cho việc đem tin mừng đến cho muôn người. Tin mừng mà Chúa muốn các môn đệ đem đến cho nhân trần chính là đẩy lùi sự dữ và kiến tạo bình an cho các tâm hồn. Chúa bảo với các môn đệ hãy mang bình an của Chúa đến cho muôn người. Bình an của những con người thoát khỏi sự thống trị của sự dữ khi đón nhận tin mừng Nước Trời. Bình an sẽ được tặng ban khi Triều đại Nước Thiên Chúa thống trị địa cầu.
Lời mời gọi đó dường như vẫn đang cấp bách trong thời đại hôm nay. Một thời đại có quá nhiều sự dữ. Một thời đại của sự hưởng thụ, ích kỷ đã biến con người thành sự dữ đang giết chết bản thân và tha nhân. Chúa vẫn đang tha thiết mời gọi mỗi người chúng ta hãy chung tay góp sức đẩy lùi sự dữ ra khỏi gia đình, khỏi môi trường chúng ta sống. Hãy nói không với tội lỗi. Hãy tránh xa những cám dỗ tội lỗi. Hãy sống ngay lành để có niềm vui của sự bình an trong tâm hồn, và trao ban bình an cho tha nhân.
Nguyện xin Chúa là hoàng tử bình an ban bình an đến cho mỗi người chúng ta để nhờ đó chúng ta cũng biết trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi người chúng ta cũng trở thành những sứ giả bình an cho thế giới hôm nay. Amen.
BÌNH AN CHÂN THẬT
Helen Keller, một cô gái vừa mù, vừa câm, lại vừa điếc. Giác quan duy nhất còn lại để cô có thể tiếp xúc với thế giới bên ngoài là dùng tay mà sờ. Thế mà cô đã cố gắng đi học, kiên trì trong gian khổ… Nhờ sự nhẫn nại chuyên cần, cô đã đạt được một thành quả rất khả quan, đó là cô đã đoạt được văn bằng tiến sĩ. Một hôm, cô được người ta hỏi rằng, nếu chỉ được mộng ước một điều thôi, thì cô sẽ mộng ước điều gì? Trong khi chờ đợi cô trả lời, ai cũng nghĩ rằng: Cô sẽ ước ao được sáng mắt để chiêm ngắm vẻ kỳ diệu của cảnh thiên nhiên; được khỏi điếc để có thể thưởng thức những thanh âm của muôn loài và những khúc ca du dương trầm bổng của các ca sĩ trứ danh? Thực là bất ngờ, cô đã trả lời ngược hẳn lại ý nghĩ của mọi người. Cô nói: “Tôi ước ao cho thế giới được hưởng hòa bình”.
- BÌNH AN LÀ KHÁT VỌNG CỦA MỌI NGƯỜI
Câu trả lời của cô Helen chứng tỏ cô có một tâm hồn cao cả, đã được thấm nhuần tinh thần của Chúa Kitô và chia sẻ lòng khát khao của Người, như chính Người đã phán với các Môn Đệ trong giáo huấn Lời Chúa hôm nay, khi sai các ông đi truyền bá Tin Mừng cho muôn dân: “Khi vào nhà nào thì các con hãy cầu chúc: “Bình an cho nhà này!”.
Mỗi người chúng ta khi lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, trở nên con cái Chúa, đều được Chúa ủy thác sứ mạng truyền bá Tin Mừng Cứu Độ cho muôn người; hay nói cách khác, tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ được Chúa sai đi đem sự bình an, lòng nhân từ thương mến, niềm an vui hạnh phúc của Chúa đến cho mọi người.
Trong một thế giới đầy hận thù, chém giết và tràn ngập những thương luân bại lý ngày nay, sứ mạng Chúa ủy thác cho chúng ta, càng trở nên khẩn thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Nhưng có thể chu toàn sứ mạng đem sự bình an của Chúa đến cho mọi người thế nào được, khi tâm hồn chúng ta chưa có sự bình an, chưa được hưởng tràn đầy ơn an bình hạnh phúc chân thật của Chúa, để có thể chia sẻ, thông ban, trao tặng cho tha nhân?
- ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC BÌNH AN THẬT
Sau khi Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, mỗi lần hiện ra với các Môn Đệ, Chúa đều cầu chúc: “Bình an cho các con!” Điều đó chứng tỏ lòng Chúa khát khao cho chúng ta được hưởng bình an hạnh phúc chân thật của Chúa. Nhưng sự bình an Chúa muốn ban tặng chúng ta, không phải chỉ là sự bình an tạm bợ của trần gian. Vì bình an chân thật của Chúa bắt nguồn từ nội tâm con người, không phải chỉ là sự bình an có cái nhãn hiệu bên ngoài: Không súng đạn chiến tranh, không võ khí nguyên tử và những hòa ước trên giấy tờ.
Chính Chúa đã nhiều lần quả quyết: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy không ban thứ bình an như thế gian ban tặng; lòng các con đừng bối rối sợ sệt”.
Sự bình an chân thật của Chúa muốn ban tặng chúng ta là gì? Đó chính là sự bình an tâm hồn. Sự bình an này chính các Thần Trời đã ca lên trong đêm Chúa Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Mọi người trên trần gian, ai ai cũng khát khao hòa bình, các chính phủ, các nhà lãnh đạo các quốc gia, các chính khách đều cổ võ và vận động cho các cuộc hòa giải được thành sự, kêu gọi chấm dứt chiến tranh để tái lập hòa bình cho các dân tộc… Nhưng tại sao hòa bình vốn còn là viễn tượng mơ hồ. Chính là vì lòng con người còn đầy tham vọng, đầy tranh dành, đầy hận thù, đầy nghi kỵ lẫn nhau… Ai cũng chỉ muốn vượt trên người khác, hạ bệ đối phương, chiến thắng kẻ thù…
Nhưng hòa bình chân thật của Chúa chỉ được ban tặng cho những ai thành tâm thiện chí, giầu lòng yêu thương, đầy tình tương thân tương ái, luôn biết an ủi người sầu khổ, biết thông cảm chia sẻ niềm an vui hạnh phúc với tha nhân, khích lệ người nản chí ngã lòng, chỉ muốn làm ơn và sống hào hiệp với mọi người.
Là con cái Chúa, Chúa muốn chúng ta cảm nghiệm được sự bình an chân thật của Chúa, tức là tâm hồn không bị nô lệ tội lỗi và những tham vọng trần thế, để có thể tận hưởng niềm an vui hạnh phúc của con cái Chúa, sống trong ơn nghĩa với Người. Không những thế, Chúa còn ủy thác cho chúng ta sứ mạng đem sự bình an, tình yêu thương hạnh phúc của Chúa đến cho mọi người. Đó là một vinh hạnh, một phúc lành Chúa dành cho mỗi người chúng ta, như lời Chúa đã chúc phúc: “Phúc cho những ai biết xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con cái Thiên Chúa” (Mt 5:9).
III. ÁP DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG
Trong khi cử hành Thánh Lễ hằng ngày, Giáo Hội muốn các vị Chủ Tế chúc lành cho những người tham dự bằng lời cầu chúc: “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em!”; đồng thời, Chủ Tế cũng kêu gọi mọi người chia sẻ bình an của Chúa cho nhau bằng lời: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau!”
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta cùng có một khát vọng như Thánh Phanxicô Khó Khăn trong “Kinh Hòa Bình” mà chúng ta sẽ cùng với ca đoàn dâng lên, sau khi được đón rước Chúa Giêsu Thánh Thể là nguồn sự Bình An ngự vào tâm hồn chúng ta.
Để chiếm hữu được sự bình an chân thật của Chúa, chúng ta cần có các điều kiện sau:
- Tâm hồn trong sạch, sống trong ơn nghĩa với Chúa, không bị ràng buộc bởi bất cứ tội lỗi nào, nhất là tội trọng, vì tội làm cho lương tâm chúng ta luôn bị cắn rứt, mất quân bình, bởi bất tuân lệnh Chúa, phản bội Ngài, nên không còn được hưởng niềm an vui hạnh phúc trong tình Cha con thân mật với Ngài.
- Tâm hồn nhiêm nhu, hiền từ nhân ái, luôn biết tôn trọng tha nhân, không bao giờ dám tự cao tự đại vươn mình lên trên kẻ khác, nhưng luôn đặt mình dưới hết mọi người; vì kẻ kiêu căng luôn bôn chôn rạo rực, phen bì, ghen tuông, giận ghét bởi thấy người khác hơn mình.
- Tâm hồn luôn tin tưởng ở Thiên Chúa, tín thác mọi sự nơi Người, chỉ muốn điều Thiên Chúa muốn và làm điều Thiên Chúa muốn. Họ luôn bằng lòng với tất cả những gì do tình yêu thương mà Chúa là Đấng khôn ngoan luôn quan phòng định đoạt cho họ, cho gia đình hay cộng đồng cũng như quốc gia của họ.
Kết Luận
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ sự bình an chân thật, vì Mẹ luôn chân nhận thân phận thụ tạo hèn yếu của mình, luôn hoàn toàn sống lệ thuộc vào Thiên Chúa, trong niềm tin yêu phó thác; đồng thời, luôn tôn trọng và đặt mình dưới hết mọi người, xin Mẹ dạy chúng con biết sống theo bí quyết bình an của Mẹ, để chúng con cũng được Chúa hài lòng và ban cho chúng con được tận hưởng sự bình an chân thật Chúa dành cho những con cái ngoan thảo của Chúa.
MÊNH MÔNG LÚA ĐỒNG
Thiên Phúc
CN 14 thường niên, năm C (Lc 10,1-12, 17-20 )
Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói: “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp: “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy!” Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên: “Đã thấy!”
Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích: “Ánh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy”.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên!” Bỗng chốc, cả vận động trường rực sáng.
Ông John Kener kết luận: “Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.
* * *
Đã qua 2000 năm nhưng lời dạy của Chúa Giêsu vẫn như đang nói với chúng ta hôm nay: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10, 2). Thế giới có trên 6 tỉ người, mà kẻ tin vào Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới, nhưng người Công giáo chỉ không tới 3%.
Cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang không thợ gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn mò mẫm trong bóng đêm dày đặc của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù; rất cần những đốm sáng của tình thương, của khoan dung, của tha thứ. Thế nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói” (Lc 10, 3)
Tuy cuộc ra đi có nguy hiểm, bấp bênh, thiếu thốn vì “không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”( Lc 10,4) nhưng chúng ta vẫn phải lên đường, vì Thầy đã nói “Anh em hãy ra đi”.
“Ra đi” chứ không phải “ở lại”, đó là một lệnh truyền. Cả cuộc đời của Thầy là một hành trình: Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng ngoài đường, cuối cùng chết cũng ngoài đường. Thầy luôn lên đường và không ngừng ra đi. Công đồng Vaticano II cũng long trọng khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Đức Thánh Cha Gian Phao lô II cũng quả quyết: “Không một ai trong những người rin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là toan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3).
Vậy ơn gọi của người tín hữu Kitô là “Ra đi”.
Ra đi đem “bình an” đến cho các dân tộc, bình an giữa mọi người với nhau, bình an với Chúa.
Ra đi chữa lành bệnh nơi thể xác cũng như trong tâm hồn.
Ra đi loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần, nước tình yêu và ân sủng, nước công chính và bình an.
Thánh Phao lô đã phải thốt lên: “Khốn cho thân tôi: nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9, 16). Nhưng việc làm mới chứng thực cho lời rao giảng, và lời rao giảng sẽ soi sáng cho việc làm. Ra đi là để làm chứng, và lời chứng sáng giá nhất chính là việc làm. Đúng như L. Moody đã nói: “Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ĩ, chúng chỉ chiếu sáng”.
***
Lạy Chúa Giêsu, Chúa sai chúng con ra đi không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, là để chúng con được siêu thoát mà lên đường, không cậy dựa vào sức riêng hay trần thế, nhưng chỉ phó thác nơi một mình Chúa mà thôi.
Xin cho chúng con luôn tin tưởng lên đường, dám sống chết cho sứ mạng Chúa đã trao ban. Amen….
Thiên Phúc “Như Thầy đã yêu” năm C
HAI SUY TƯ
Mai Tá
Suy tư tuần 14 thường niên năm nay, có giòng thơ những ngâm rằng:
“Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại!
Ta đi thuyền trên mặt nước lòng ta.
Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại!
Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta.”
Thơ ngâm rồi, người lại hát đôi lời thân-thương, lưu-luyến như bảo rằng:
“Ngồi nghe anh hát thiên tình ca,” “Ngỡ như đất trời giao hòa. Và tai nghe thấy một rừng âm vang khúc hát dâng đời ta.”
Thật ra thì, có ngồi nghe em ngâm thơ hay ca hát những lời đầy tình-tự, cũng chỉ để cảm-thông với như thế cũng để chuyển đến người anh, người chị ở chốn Nước Trời trần-gian đang cảm-nghiệm một đời người ra như thế.
Như thế, là để hiệp-thông với tất cả dân con Đạo Chúa, trong những tháng ngày dài của cuộc đời, ở nơi đây, chốn Nước Trời này, mà thôi.
Mai Tá
từ Sydney vẫn hiệp thông thân-thương với mỗi người và mọi người ở đây đó.
Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 14 thường niên năm C 03/7/2016
Tin Mừng (Lc 10: 1-1. 17-20)
Một hôm, Chúa Giêsu chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Người bảo các ông:
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúc về. Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia8 Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ:”Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.” Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó.”
Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con.” Đức Giêsu bảo các ông: “Thầy đã thấy Xatan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời.”
“Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại!
Ta đi thuyền trên mặt nước long ta.
Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại!
Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta.”
(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Ngông cuồng và rồ dại. Ai dám bảo, thế đó là thái-độ của riêng ta. Ngông cuồng và rồ dại, vẫn có thể là lối sống của nhiều người. Những người “nằm chờ sung rụng” như truyện kể, ở dưới.
Trình thuật, nay cũng đề cập đến một dại khờ. Thứ khờ dại chẳng ai muốn có, là dại và khờ của những người vẫn cứ cư xử với lời của Chúa theo thói “nghe qua rồi bỏ”. Nghe, thì cũng có nghe đấy, nhưng chẳng tha chẳng thiết chuyện đưa Lời Ngài vào hiện thực. Lời Chúa nhắn, nay chừng đã nghe quen: “lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít.”
Rõ ràng là, lời Chúa phù hợp với tình huống cuộc sống của dân con, thời tiên khởi. Là cộng đoàn nhỏ, dân con Chúa vẫn phải chung đụng sống với đoàn người hầu hết là dân ở ngoài. Những vị ấy, thường dị đoan mê tín, tin vào thuyết “định mệnh đã an bài”, khó chữa. Thời ấy, Hội thánh tương tự như hạt cải nhỏ bé; như dúm men trong bột đầy ắp niềm tin khác biệt. Khác, ở ảnh hình lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt chuyên chăm, thì lại ít. Rất ít, vào thời Chúa sống. Thời, mà dân con theo Ngài vẫn là thợ gặt quí giá nơi cánh đồng truyền Đạo, tràn ngập những đợi mong, được thuyết giảng.
Cho đi, dân con nhà Đạo mình có triển vọng và ý thức trở thành thợ gặt trong khả năng mong ước, của chính mình. Thợ gặt đích thực, không duy nhất chỉ mỗi giám mục/linh mục/tu sĩ, hoặc nữ tu, thôi. Thánh Phaolô kia, là ví dụ rất cụ thể cho sự “rồ dại” mà người ngoại vẫn gán cho dân con nhà Đạo, rất hiển nhiên. Sự dại khờ của người nghe Lời Chúa trên đây, không như nhà triệu phú được kể, chỉ muốn làm chyện thật dễ, để rồi chẳng còn tâm trí mà nhận lời mời từ Đức Chúa. Chẳng nhận làm thợ gặt cho cánh đồng đầy lúa; dù chỉ với tư cách giáo dân chân phương, khiêm hạ.
Theo sự hiểu biết của mọi người, khi lĩnh nhận ơn thanh tẩy gia nhập đàn con của Chúa, người người đều đã nhận trong bài sai Chúa ủy thác. Nhận, là quyết sống thực những điều Ngài dạy dỗ. Quyết sống và rao truyền Lời Chúa gồm tóm Tin-vui-an-bình. Tin vui, vì được dạy, là: hãy khởi đầu hành trình đưa dẫn các người anh/người chị trong cộng đoàn kẻ tin vào với cuộc sống an bình, hài hoà. An-bình hài- hòa, là sống cả với người ở bên trong cũng như bên ngoài nhà Đạo. Sống an bình hài hoà như thế, đòi hỏi các kẻ tin phải biết canh cải cuộc đời mình.
Canh cải, để sống theo điều được Chúa nhủ khuyên, nơi sách thánh. Canh cải, là bởi nếu không, tất cả sẽ bị phê bình chỉ trích, như Mahatma Gandhi có lần từng nói: “Tôi sẽ hứng nhận từng giọt vắn giọt dài nơi giếng rửa của Đạo Chúa, nếu tôi thấy được những người trong Đạo biết sống điều Thầy của họ khuyên bảo.”
Đây, là điều thánh Phaolô tông đồ từng khẳng định khi thánh nhân có thư cho cộng đoàn kẻ tin ở Galát: “Anh chị em hãy cùng nhau trở nên thụ tạo đã đổi mới.” (Gl 6: 14-18) Bởi, nếu không canh cải trở thành người đổi mới, thì Bí tích Thanh Tẩy sẽ không còn giá trị và Đạo Chúa sẽ kết cuộc ở cuối đường hầm, đầy tăm tối. Đạo của Ngài, đích thực là đường lối hữu hiệu giúp những ai theo Ngài, biết canh cải chính mình để trở thành người mới. Mới vừa thay da đổi thịt. Thay, như lời Đức Kitô vẫn khuyến cáo, vào mọi lúc. Đổi, để sống cuộc đời trọn vẹn, trung thực hơn. Sống trọn vẹn và trung thực hơn, với lòng thương biết quan tâm đến mọi người. Biết sống an bình, tự do.
Rõ ràng, bằng vào trình thuật hôm nay, Chúa lại nhắc:“Các con đừng mang theo túi tiền. Bao bị. Giầy dép…” (Lc 10; 2). Nói thế, là bởi an toàn Ngài đem đến cho mọi người không nhất thiết sẽ hiển hiện nơi những gì mình đang có, như: tiền tài, nhà cửa, công cuộc đầu tư, tín dụng… An toàn thực sự không gắn liền quyền bính, chức vụ hoặc ảnh hưởng mình đang có, với người khác. An ninh/an toàn thực sự, nằm ở nội tâm con người. Không ai và không hoàn cảnh nào có thể cất nó, bỏ đi được.
Mặt khác, sự an ninh/an toàn, là cụm từ được lập đi lập lại nhiều lần trong cả 3 bài đọc. Với Isaya, thì:“Ta sẽ làm cho bình an chảy đến với nó như con sông.” (Ys 66: 12). Còn thánh Phaolô, lại vẫn chúc:“Bình an và lòng thương xót đối với những ai rập theo quy tắc đó.” (Gl 6: 16). Quả là, an ninh/an toàn sẽ không tùy thuộc tình hình ở ngoài đời. Nhưng, vẫn là sự an bình/an vui Chúa đã cảm nghiệm ở vườn Cây Dầu, Ngài cầu nguyện. Và, là sự an bình mà thánh Phaolô đã chia sẻ cùng với thập giá của Chúa.
Thành thử, công tác và phần vụ Chúa gửi dân con nhà Đạo, vẫn là: “đem bình an đến chốn u sầu”. Bình an của cuộc sống hài hoà không còn căng thẳng, giận hờn hoặc tham vọng làm giầu, làm lớn. Tức, vừa làm vừa reo vang những hời hợt chóng qua của tiền tài, dục vọng hoặc vật chất. Lời mời gọi nay Chúa gửi đến với các thợ gặt trần gian ở xã hội nhiễu nhương ta đang sống. Đó là lời mời khẩn thiết ta hãy dấn bước ra đi. Ra đi, mà cải hoán xã hội trần gian thành chốn tràn ngập giá trị cao quý, của Phúc Âm. Lời gọi mời mà chỉ ít người biết đáp ứng. Bởi, họ vương vấn quá nhiều vào những thứ gây lo toan, bịn rịn.
Lời mời gọi: “Các con hãy đi!” Tức, cứ đi mà rong ruổi chốn bụi trần. Rong ruổi, để đem Chúa đến với mọi người. Và, cùng đi. Cùng nhau rao truyền Lời Chúa. Cùng sống thực Lời Ngài dặn dò, từ nhiều năm. Và, như bẩy mươi hai môn đồ của Ngài khi trước, nay ta cũng ra đi. Đi, để rồi sẽ trở về, với lòng vui mừng hớn hở, mà nói: “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng đã vâng phục chúng con.” (Lc 10: 17).
Hôm nay cũng thế, khi đón nhận lời mời từ Thầy Chí Thánh mà ra đi, ta sẽ hái/sẽ gặt thật nhiều đồng lúa chín. Sẽ hân hoan hát bài ca an-bình như người nghệ-sĩ khi xưa vẫn hát:
“Ngàn lời ca dâng lên say sưa,
Dù bình-minh hay trong đêm mưa
Ta hát vang vang ngập muôn lối
Gió mát lác đác hương quê êm dâng
Có tiếng ríu rít rì rào chào mừng
Mừng tự-do về trên quê hương.” (Văn Phụng – Ta vui ca vang)
Vâng. Con tim đã đổi mới, thì người người sẽ hát lời chào mừng tự-do. Tự-do và an-bình, nay đến với người anh, người chị đã chọn lựa theo Chúa ra đi về cánh đồng ngập tràn những lúa chín. Ở nơi đó, không còn những ngông-cuồng/rồ-dại, khi xưa nữa. Nhưng đã vui, đã an-bình vì có đổi mới, yêu thương, đỡ đần hết mọi người, trong cũng như ngoài nhà Đạo.
Lm Richard Leonard sj biên-soạn – Mai Tá lược dịch.
Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 14 mùa thường niên C 03/7/2016
“Ngồi nghe anh hát thiên tình ca,” “Ngỡ như đất trời giao hòa. Và tai nghe thấy một rừng âm vang khúc hát dâng đời ta.” (Nhạc ngoại quốc – Lời Việt: Nỗi Đau Dịu Dàng)
(Mt 23: 11-12)
Mấy hôm nay, gặp ngày trời mây trong sáng, mà lại nghe anh/chị hát khúc “thiên tình ca” như thế thì bần đạo đây thấy đời bỗng nhiên tuyệt đẹp. Đẹp nhiều và đẹp lắm, chí ít là khi thấy câu hát những ca-tụng “đất trời giao-hoà”, “một rừng âm vang khúc hát dâng đời ta”, nữa.
Chả nói giấu gì bạn đọc và cả những bạn không chịu đọc, rằng thì là: đất trời của ta, ít khi nào chịu giao hoà, hết ráo trọi. Và, rừng của ta cũng ít khi “âm vang khúc hát dâng đời” người và đời ta, bao giờ hết. Gọi là ít khi nghe như thế, rồi lại nghe câu hát tiếp những lời “bóp nát” rất như sau:
“Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca” “Bóp nát sức sống em qua điệu nhạc Bằng lời dịu dàng anh giết em, giết chết trái tim em Bằng tiếng ca ru em trong u mê, và xót xa nhắm mắt với nỗi đau Ngọt lịm da.”
(Nhạc ngoại quốc: Killing me softly with his song)
Nghe nhạc ngoại quốc có giòng nhạc thong thả rất êm ả chứ đâu “lã chã” đầy những lời “bóp nát sức sống”, đến như thế. May thay! Mấy câu tiếp nghe cũng không đến nỗi nào, như sau:
Cỏ cây muôn loại đều hân hoan Nhưng riêng em tưởng như anh
Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca Bóp nát sức sống em qua điệu nhạc Bằng lời dịu dàng anh giết em, giết chết trái tim em Bằng tiếng ca ru em trong u mê, và xót xa nhắm mắt với nỗi đau Ngọt lịm dạ.”
(Nhạc ngoại quốc: Killing me softly with his song- bđd)
Kể lể hơi dài giòng như thế, là để dẫn nhập đôi câu quyết bảo rằng: trong đời người, và cả đời nhà Đạo, lại có nhiều điều nghe qua bỗng thấy như bị “bóp nát sức sống” của mọi người. Thôi thì, đã trót nghe nhạc rồi, xin cứ tiếp tục nghe cho hết, rồi hẵng tính. Vậy thì, mời bạn và mời tôi, ta nghe tiếp cho hết nhưng câu như:
Rồi khi cơn sốt đun tình tôi Bỗng theo cõi nhạc xa vời Và anh lên tiếng gọi hồn em đang khóc bên con vực sâu Hãy mau lên đường về uyên uyến Khi nghe thân xác nài van
***
Giờ đây ai hát thiên tình ca Khiến tôi thêm nhiều xa lạ Lời ca âu yếm vỗ về êm nhưng vẫn thấy xa thật xa Thiếu anh khúc nhạc thành vô duyên Tim em vẫn còn nghe.”
(Nhạc ngoại quốc: Killing me softly with his song)
Nghe thế rồi, nay mời bạn và mơi tôi ta đi vào chuyện Đạo, có những vụ việc rất “lạo xạo” như sau:
Vừa rồi, bần đạo gặp được ông bạn già tên là Nguyễn Văn Tạ, cựu sinh viên “Giáo Hoàng Học Viện ĐàLạt” đến gần bên gạn hỏi: Này, anh đã đọc bài của tác giả Ralph Woodrow hỏi rằng: Ông Phêrô có là vị Giáo Hoàng La Mã đâu tiên không? Anh thấy bài ấy thế nào?
Nghe hỏi, bần-đạo thấy bỗng dưng chột dạ, bèn lần lữa, khất hẹn với anh bạn già rằng thì là: để tớ kiếm giờ đọc xong, rồi sẽ tính. Nói của đáng, đọc rồi mới thấy: Ôi thôi rồi, nồi xôi! Bài viết xem ra: rất ư là … nổi cộm. Thôi thì, xin bạn và tôi cứ để bần đạo đây tìm dịp thông và dịch cho chuẩn-xác rồi sẽ thưa thốt sau.
Thôi thì, quí bạn đang đọc những hàng chữ này nếu nghe có chói tai hoặc trái khuấy thế nào cũng cứ xin để đó, hạ hồi phân-giải nhé. Nhưng, trước khi dịch và thuật cho thông, xin bầu bạn hãy cùng tôi nghe thêm câu truyện kể khá đáng kể, để cho “nhẹ lòng tướng quân”, rồi sẽ tính.
Truyện kể, là kể những điều như sau:
“Ngày 31/5/2016 vừa qua, tại bệnh viện Koln ở Đức đã có một trái tim nhỏ ngừng đập ở tuổi 77. Một người ra đi ở tuổi gọi là thất thập cổ lai hy, điều đó có gì để gây xôn xao! Vì trên hành tinh này mỗi ngày có hơn 150,000 người từ trần với nhiều nguyên nhân!
Nhưng đây là một tin gây rúng động cho nhiều cộng đồng, đặc biệt là người VN di tản hiện đang sống tại Đức, vì người đó là Tiến sỹ Rupert Nudeck, một nhà thần học Thiên-chúa-giáo, một nhà báo, nhà hoạt động xã hội.
Rupert Nudeck, ông là ai?
Thú thật trước đây, Anh Tri đây cũng chưa biết đến tính danh của ông, nhưng tình cờ nhận một email của một cộng đồng người Việt ở Đức đang kêu gọi nhau đến dự lễ cầu nguyện ông vào ngày 14/6/2016, tôi mới tò mò tìm hiểu tại sao một người Đức qua đời mà cộng đồng người Việt lại xôn xao báo tin và kêu gọi nhau đến nơi sẽ an táng ông để dự lễ tưởng niệm vậy!
Càng tìm hiểu về ông tôi lại càng say mê và ngưỡng mộ về những gì ông đã làm cho đồng bào của tôi trong thập niên1970s, khi hàng ngày ở miền Nam có hàng trăm người vượt biển đi tìm cuộc sống tốt đẹp hơn cho họ!
Thời đó, do phương tiện truyền thông bị hạn chế, cũng như tin tức về người vuợt biên rất nhạy cảm theo quan điểm của nhà cầm quyền, nói chung chưa có face book, Twitter… như thời bây giờ! Nên những vụ đắm tàu, cướp biển tấn công, hãm hiếp người di tản, một số nước châu Á cho tàu quân đội ra xua đuổi tàu chở thuyền nhân khi vào lãnh hải của họ… ít người biết đến!
Nhưng lúc đó, ở các nước phương Tây tin tức này là thời sự, nó cũng như cảnh ta đang xem trên tivi mới đây về những người dân Somali, Lybia vượt biên chết hàng loạt trên biển! Tình cảnh thê lương cùng đường bị xua đuổi như tội đồ đã đánh động trái tim của tiến sỹ Rupert Nudert. Nó thúc đẩy ông dấn thân hành- động bằng cách kêu gọi chính quyền Đức, cộng đồng xã hội,tôn giáo, các bằng hữu hãy cứu giúp những thuyền nhân VN đang bị nạn như thuyền hết xăng dầu, lương thực, chết máy, bị cướp bóc đang lênh đênh trên biển!
Khi bị nhà cầm quyền từ chối, ông không nản lòng mà đã cầm cố ngôi nhà của mình, kêu gọi bạn bè thân nhân góp tiền của để đóng thuyền ra khơi cứu người Việt Nam! Câu chuyện về người có trái tim nhân ái này được ông Franz Alt, sau này là giám đốc đài truyền hình Baden kể lại vô cùng ấn tượng đối với tôi: “Ông ấy gõ cửa xin tôi phát lời kêu gọi cộng-đồng, tôi bảo không thể làm thế được, vì một ý-kiến cá-nhân!”. Ông ấy kêu gào: “Chẳng lẽ chúng ta cứ nhìn thảm- cảnh như vậy mỗi ngày sao?” tôi trả lời: “Tôi có thể làm được gì?” ông trả lời: “Tôi có thể cầm-cố ngôi nhà đang ở để khởi-sự cho chuyến đi biển”. Tôi đành nhượng bộ trước quyết tâm của con người này và cho ông ấy 2 phút để phát song!!!
Đúng vậy, sau lời kêu gọi trên đài, chỉ 3 ngày sau cả nước Đức đã hưởng ứng với số tiền đóng góp lên đến 1.3 triệu mác (tiền Đức thời bấy giờ)- để thuê chiếc tàu CAP ANAMOUR đầu tiên ra khơi vào ngày 9/8/1979 với sứ mệnh cao cả là cứu vớt người VN gặp nguy khốn trên biển Đông! Tiếp theo đó, là thêm 2 chiếc Cap Anamur được hạ thủy nhờ vào sự ủng hộ của những người có lòng từ tâm!
Trong thời gian 7 năm hoạt động (1979-1986) tổ chức Cap Anamour đã cứu vớt được 11.300 người vượt biển trên 223 chiếc ghe/thuyền và hầu hết được định cư tại nước Đức! Để làm được việc này chính ông, cùng với nhà văn Heinrich Boll, đoạt giải Nobel năm 1972, cùng thân hữu đã thuyết phục thành công chính quyền Đức cho thuyền nhân Việt Nam được nhập-cư vào nước này! Được biết, ngoài việc cứu giúp cho người Việt; tổ chức do ông sáng lập đã có nhiều hoạt động giúp đỡ nạn nhân chiến cuộc tại Somali, châu Phi, Afganistan, Pakistan. Để tỏ lòng trân trọng công lao to lớn của ông mà nhà cầm quyền Đức đã tặng ông huân-chương Chevalier cao quý, nhưng ông đã hai lần từ chối nó.
Chính ông đã đánh động lương tâm nhiều người, trong đó có người Mỹ và người Việt Nam sống tại Mỹ! Năm 1979, chính tổng thống Mỹ Jimmy Carter đã ra lệnh cho 5 tuần-dương-hạm đi cứu-vớt các thuyền-nhân và cho họ được nhập cư vào đất Mỹ!
Hãy tưởng tượng, từ 11.300 người suốt từ năm 1979 đến nay cũng gần 40 năm, số người như thế đã tăng lên biết bao nhiêu? Nếu tính luôn việc họ bảo-lãnh người thân từ Việt Nam sang, thì hẳn có hàng chục ngàn số phận đã đổi thay từ cơ-duyên này!
14/6 năm nay, sẽ diễn ra lễ tưởng-niệm một con người vĩ-đại, nói như lời của ông thị-trưởng thành-phố nơi ông qua đời, rằng: “ông Rupert Nudeck đã làm công việc cao-cả của con người, là cứu- vớt nhiều mạng người. Nước Đức rất tự-hào về ông!”
Sẽ còn nhiều người Việt-Nam và con cháu họ chịu ơn cứu-tử của ông từ khắp nơi trên nước Đức đến dự lễ tưởng-niệm! Sẽ có nhiều lời tri ân, cảm phục tấm-lòng nhân ái của ông! Riêng tôi, dù không là thuyền nhân trên các chuyến tàu thập-tử-nhất-sinh đó, tôi vẫn ngưỡng mộ ông như một nhân cách cao quý, một trái tim vĩ đại! Ông sẽ sống mãi trong lòng của những người tử tế biết trân quý tinh cảm, có lòng nhớ!
Tôi cũng muốn chia xẻ thêm tin về thời niên thiếu của ông: Lúc còn bé, thời đệ nhị thế chiến, ông và gia đình đã nhỡ một chuyến tàu tỵ nạn và chuyến tàu xấu số đó trúng thuỷ lôi của hồng quân Liên-xô chìm ngoài biển mang theo hơn 9000 người. Có lẽ biến cố này đã gây ấn tượng lớn với cậu để khi trưởng thành nó đã thôi thúc ông làm nghĩa cử gì đó cho nạn-nhân trên biển cả chăng?
Vĩnh-biệt tiến-sỹ Rupert Nudeck! Ông đã ra đi về nơi thanh-nhàn sau khi làm được công việc tốt đẹp của Thượng-Đế, là: đem sự sống lần thứ hai cho hàng chục ngàn người! Và nhờ đó ông trở thành bất-tử!” (Anh-Tri 7/6/2016)
Với nhà Đạo, thì chắc hẳn Ts Rupert Nudeck đã là thánh-nhân được sống cạnh bên Thiên-Chúa ngay khi ông nhắm mắt lìa đời! Ghi lại câu truyện về bậc vĩ-nhân rất ân-cần với nhiều người, là để sánh-ví và tưởng/nhớ các vĩ-nhân khác, trong đời người. Chí ít, là đời người đi Đạo. Nói xa/nói gần, chi bằng nói thẳng/nói thật. Và, nói thật đây, là nói về vĩ-nhân nhà Đạo mà mọi người có thói quen gọi ngài là Đức Giáo Tông, hay Đức Giáo-hoàng của La Mã.
Nói về Giáo hoàng của nhà Đạo, nhiều người vẫn nói nhiều và nói quá lời, để đến nỗi quên cả lịch-sử hoặc sự-tích về nhân-vật vĩ-nhân, vĩ-đại ấy. Nên, hôm nay, có đề-nghị với tôi và với bạn, rằng: ta nên có một chút gọi là “đôi giòng lịch-sử” cũng rất lịch-sự để rồi nói thật và nói thẳng về nhân-vật mà ta quen gọi là Đức Giáo-Tông hay Giáo-hoàng của Công-giáo, như sau:
“Theo đạo-lý/tín-điều của Công-giáo thì “đầu não” của Giáo-hội ở dưới thế và là người kế-vị của thánh Phêrô. Vốn tin là thế, người đi Đạo cứ nghĩ là Đức Kitô đã chỉ-định thánh Phêrô là vị Giáo-hoàng tiên-khởi và đã đi Rôma nhậm-chức cùng làm việc tại nơi đó, suốt 25 năm. Nhưng, hỏi rằng sách thánh có chỗ nào nói về chức-năng của vị Giáo-hoàng, hoặc Giáo-Tông như thế không? Và, tín-hữu thời tiên-khởi có công-nhận thánh Phêrô là thế chứ?
Ngược lại, Kinh thánh rõ ràng cho thấy rằng: khi xưa, thành-viên Hội-thánh đều có chức-năng đồng đều, và Đức Kitô mới là “đầu não” của Giáo-hội mọi thời, chứ không phải Đức Giáo Hoàng, như thánh Phaolô có viết ở thư Êphêsô đoạn 5 câu 23.
Trong Tân Ước, có lần thánh Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu hỏi xin Ngài cho mỗi vị được ngồi bên phải và bên trái Ngài nơi Vương-quốc của Ngài. Nên nhớ, ở các nước Đông-phương, hai vị bộ-trưởng quan-trọng đều ngồi bên tay phải và tay trái của nhà vua.
Giả như điều mà Đạo Công-giáo La Mã chúng ta nói đúng, thì: xem ra Đức Giêsu đã phải cắt nghĩa là Ngài đã dành chỗ bên tay phải cho ông Phêrô và không có ý-định đặt ai bên tay trái hết.. Nhưng ở đây thì ngược lại, câu trả lời của Ngài ở Tin Mừng theo thánh Mác-cô rày đã viết:
“Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” Ngài hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.”
Đức Giêsu bảo: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp: “Thưa được.” Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.”
Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”
Thế nhưng, người Công-giáo chúng ta lại được giới-chức trong Đạo dạy bảo rằng: thánh Phê-rô được ở vào vị-trí gọi là toàn Giáo-hội được dừng xây trên vị-trí của ông. Câu kinh-thánh mà Giáo-hội Công-giáo vẫn qui về là đoạn Phúc Âm thánh Mátthêu đoạn 16 câu 18 như sau:
“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Đá Tảng, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây dựng Hội Thánh của Thầy, và quyền-lực tử-thần sẽ không thể thắng nổi.”
Xét kỹ câu này, ta sẽ thấy là Giáo-hội của Chúa không dựng-xây trên thánh Phêrô mà trên Đức Kitô. Ở giòng chữ trước câu ấy, Đức Giêsu có hỏi các môn-đệ Ngài xem thiên-hạ nói Ngài là Ai? Có người bảo: là, ông Gioan Tẩy Giả, có người nói là ngôn-sứ Êlya; người khác lại cho rằng Ngài là ngôn sứ Giêrêmia hoặc một trong các Tiên-tri của thời trước đó.
Khi ấy, Đức Giêsu mới hỏi: “Thế còn anh, anh bảo Ta là ai?” Nghe lời này, ông Phêrô mới thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên-Chúa Hằng Sống.” Và khi đó, Ngài mới bảo cùng thánh Phê-rô rằng: “Anh là Đá (“Petros”, tiếng Hy-Lạp gọi đây là viên đá, hòn đá) và trên đá này (chữ “đá” đây là: “Petra”, tiếng Hy-Lạp là “tảng đá”, tức: thứ đá tảng thật lớn của “sự thật” mà thánh Phêrô vừa bày-tỏ), Ta sẽ dựng-xây Giáo-hội của Ta.”
Đá tảng, mà trên đó Giáo-hội đích-thực được dựng-xây đã nối-kết với câu nói của thánh Phêrô, tức câu trả-lời, rằng: “Thày là Đức Kitô” và như thế là nền-tảng đích-thực trên đó Giáo-hội được dựng-xây chính là Đức Kitô, chứ không phải thánh Phêrô.
Ngay đến thánh Phêrô cũng tuyên-bố rằng Đức Kitô là tảng đá khổng-lổ làm nền-tảng ở thư thứ I Phêrô đoạn 2 câu 4-8 và ở sách Công-vụ Tông-đồ đoạn 1 câu 11, 12 cũng nói như sau:
“Anh em hãy tiến lại gần Đức Kitô, tảng đá sống-động bị người ta loại-bỏ, nhưng đã được Thiên-Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên-Chúa dùng anh em như những tảng đá sống-động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng-liêng, và hãy để Thiên-Chúa đặt anh em làm hàng tư-tế thánh, dâng những lễ-tế thiêng-liêng đẹp lòng Ngài, nhờ Đức Giêsu Kitô. Quả thật, có lời Kinh Thánh chép: Này đây Ta đặt tại Sion một tảng đá quý được lựa-chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất-vọng. Vậy vinh-dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin, thì đá mà thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là tảng đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số-phận của họ là như vậy.” (1P 2: 4-8)
Thật ra thì, mãi cho đến thời của Giám-mục Calixtô từng là Giám-mục thành La-Mã từ năm 218 đến 223, đoạn phúc-Âm trên đây của thánh Mát-thêu mới được sử-dụng để xác-chứng là Giáo-hội được dựng-xây trên thánh Phê-rô và từ đó Đức Giám-mục thành La Mã được gọi là vị kế-tục thánh Phê-rô trong chức-vụ này.
Để ý kỹ các đoạn Kinh-thánh nói về thánh Phêrô, ta thấy rõ-ràng thánh-nhân đây chưa từng là Giáo-Hoàng bao giờ hết. Hơn nữa, xét từng luận-điểm ở bên dưới, ta còn thấy rõ hơn, rằng:
1-Thánh Phêrô là người có gia-đình. Điều này không phù-hợp với vai-trò của Đức Giáo-chủ của Công-giáo. Các đoạn Kinh-thánh như Mátthêu đoạn 8 câu 14, và nhất là đoạn thư thứ nhất Côrintô ở đoạn 9 câu 5, thánh Phaolô có nói rằng các tông-đồ đều có vợ.
2-Thánh Phêrô không bao giờ để mọi người cúi gập người chào thánh-nhân. Điều này thấy rõ nhất khi ông Cornêliô phủ-phục kính-cẩn thánh nhân (x. Cv 10: 25, 26)
3-Thánh Phêrô không đặt truyền-thống ngang tầm mức với Lời Chúa, Ngược lại, thánh-nhân ít tin vào truyền-thống của các tổ-phụ như có viết trong thư thứ nhất Phêrô đoạn 1 câu 18.
4-Thánh Phêrô không là Giáo-hoàng, bởi thánh-nhân chưa từng đội vương-miện hoặc mũ/mão Giáo-hoàng bao giờ hết. Ở thư thứ nhất Phêrô đoạn 5 câu 4, tác-giả giải-thích rõ rằng: “Khi Vị Mục-Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát.”
Quả là, vào những ngày đầu của Giáo-hội, thánh Phêrô đã có địa vị cao-cả trong hàg các thánh tông-đồ. Thánh-nhân luôn dẫn đầu đội ngũ các tông-đồ và là người cất lời giảng rao đầu tiên vào Lễ Ngũ Tuần sau khi Thánh Thần Chúa đổ tràn ơn mưa-móc xuống trên 3000 người có mặt. Nhưng, không có chỗ nào trong Kinh Thánh nói rằng thánh Phêrô là Giáo-hoàng tiên-khởi hoặc là Giám mục của các Giám mục trên thế-giới hết.
Thật ra thì, dù thánh Phêrô đứng đầu danh-sách các thánh Tông-đồ, nhưng thánh Phaolô mới là người có tác-vụ thừa-sai cao-cả nhất. Chẳng hạn, về việc viết Tân Ước, trong khi thánh Phaolô viết lên khoảng 100 chương gồm 2,325 câu, thì thánh Phêrô chỉ viết có 8 chương bao gồm 166 câu mà thôi.
Đằng khác, nói theo Kinh thánh, không có chứng-cớ nào quả-quyết rằng: thánh Phêrô từng đi gần đến Rôma! Mà, Tân Ước chỉ nói cho ta biết thánh-nhân mới đến Antiôkia, Samaria, Joppa, Cêsarê và vài nơi khác chứ không phải Rôma hoặc La-Mã. Nếu các tác-giả Tân Ước đã quên sót không đề-cập, thì đây quả là lãng quên thê-thảm chưa từng thấy, bởi Rôma (hoặc La-Mã) là thành-phố quan-trọng vào bậc nhất, với thế-giới…” (X. Ralph Woodrow, Was Peter the First Pope? Trong cuốn “Babylon Mystery Religion”, Ralph Woodrow Evangelistic Association, Inc. 1966 tr. 74-78)
Nói thế rồi, nay ta đi vào vùng trời truyện kể để xem thiên-hạ có kinh-nghiệm gì về các bậc trưởng-thượng nào khác, trong đời hay không.
Truyện rằng:
“Ông bà nọ tên là Quỳnh có 4 người con, 2 trai 2 gái. Hai đứa trai là bác sĩ y khoa, còn 2 đứa gái, một là dược sĩ và một nha sĩ. Khoảng thời gian khi đứa con gái út vừa rời trường trung học thì 2 vợ chồng ông ly dị, và chỉ một năm sau, bà đã tái giá với một bác sĩ Mỹ già đã về hưu.
Vì mục đích chính trong đề tài này nói về chữ “hiếu”, nên tác giả xin phép không trình bày lý do vì sao 2 vợ chồng ông bà Quỳnh lại ly dị.
Ông Quỳnh là một nhà thương gia tài giỏi, thành công ngay từ hồi còn ở Việt Nam. Khi sang tới Hoa Kỳ thì ông tiếp tục xây dựng lại sự nghiệp thương mại, và mọi sự còn thành công nhiều hơn hồi ông còn ở Việt Nam. Chả thế mà vợ ông không cần phải đi làm việc, chỉ ở nhà và phụ giúp ông săn sóc 4 đứa con cho tới khi chúng khôn lớn, 3 đứa học hành thành tài và một đứa út ra trường trung học với hạng tối ưu. Gia đình ông quả là một hình mẫu mà bất cứ cặp vợ chồng nào cũng mong muốn.
Sau một năm sau ngày vợ chồng ly dị, ông bị bệnh nặng không đi đứng bình thường và không thể tự săn sóc vệ sinh cho mình. Ông phải vào sống trong một “nursing home” vì 3 đứa con lớn đều đã lập gia đình, còn đứa út thì được học bổng phải đi học xa nhà. Về vấn đề vật chất, quả thực ông không thiếu thốn bất kể thứ gì, nhưng về mặt tinh thần thì ông có tâm sự cho tôi biết rằng ông rất cô đơn. Đứa con út bận học hành ở xa, một năm chỉ có thể về thăm ông tối đa là 2 lần. Còn 3 đứa lớn, mặc dù sống chung một thành phố với ông nhưng chúng chỉ đến thăm ông mỗi tháng 1 lần, mỗi lần từ 30 đến 60 phút. Chúng nó viện đủ mọi lý do như bận rộn công việc, con cái…
Có lần, ông tâm sự với những giọt nước mắt chảy dài trên hai gò má gầy gò, nhăn nheo: “Thầy có biết không, lắm lúc tôi ngồi một mình nghĩ lại, cả một cuộc đời của tôi làm việc vất vả để kiếm đủ tiền mang về nhà phụng dưỡng cha mẹ già của mình. Cho đến khi cha mẹ tôi qua đời, sau đó 2 năm tôi mới lập gia đình và vợ tôi sinh cho tôi được 4 người con. Tôi lại làm việc vất vả, cố gắng kiếm được nhiều tiền hơn trước để cho vợ và 4 con của tôi được vui hưởng một cuộc sống sung túc, không thiếu thốn bất cứ một thứ gì, không thua kém bất cứ ai. Thế mà bây giờ Thầy thấy đấy, tôi thân tàn ma dại, bị vợ bỏ, con cái không đoái hoài gì đến, một mình lủi thủi trong viện dưỡng lão.
Ba đứa lớn, cả tháng chúng mới tới thăm tôi một lần chớp nhoáng, đến cho có lệ. Còn đứa út nó bận học hành tôi không trách cứ. Không biết kiếp trước tôi có làm điều gì ác độc, hay cha mẹ tôi có làm gì sai quấy không mà ngày hôm nay tôi phải chịu cảnh này. Nhiều khi buồn quá tôi chỉ muốn chết sớm ngày nào tốt ngày ấy…” (Truyện kể ở trên mạng rất hà rầm, tha hồ đọc).
Mỗi người mỗi ý và mỗi cảnh, nhà Đạo của ta vẫn cứ dạy: mọi sự là do thánh-ý Chúa. Nhưng, tận thâm-tâm, ta có tin thế không hay chỉ là lời an-ủi, một hy-vọng? Hôm nay, về với Hội-thánh Chúa lại có người hỏi là: thánh Phêrô có là Giáo-Hoàng đầu-tiên không, dù có hay không, tưởng cũng không nên quên lời vàng Kinh Sách vẫn bảo rằng:
“Anh em cũng đừng để ai gọi mình là lãnh-đạo,
vì anh em chỉ có một lãnh-đạo, là Đức Kitô.
Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải là người phục vụ anh em.
Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống;
còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.”
(Mt 23: 11-12)
Thành ra, cứ như lời dặn của Đấng Thánh hiền trên đây, hẳn bạn và tôi, ta lại cũng quyết-tâm coi nhau như ngang-hàng, cùng một cấp. Không ai hơn ai. Cũng chẳng có ai thua thiệt, làm bề tôi của ai. Nhưng, hãy cứ tay trong tay hướng về phía trước mà sống nhanh, sống mạnh, sống vững chãi trong niềm tin của người đồng đồng Đạo, và đồng hàng.
Nghĩ thế rồi, hãy cứ hiên ngang hát lên ca-từ rất “hết biết” hoặc đáng sợ, ở trên mà rằng:
“Ngồi nghe anh hát thiên tình ca, Ngỡ như đất trời giao hòa. Và tai nghe thấy một rừng âm vang khúc hát dâng đời ta.
Cỏ cây muôn loài đều hân hoan,
Nhưng em tưởng như anh
Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca Bóp nát sức sống em qua điệu nhạc Bằng lời dịu dàng anh giết em, giết chết trái tim em Bằng tiếng ca ru em trong u mê, và xót xa nhắm mắt với nỗi đau Ngọt lịm dạ…”
(Nhạc ngoại quốc: Killing me softly with his song)
Trần Ngọc Mười Hai
Có những lúc
Thấy đời người và đời mình
Cũng nản chí nam nhi
Vì những chuyện như thế.
Nhưng không sao.
THI CA CẦU NGUYỆN
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN. C
(Luca 10: 1-12, 17-20)
THỢ GẶT
Chúa sai môn đệ ra đi,
Từng hai người một, thực thi rao truyền.
Bảy mươi hai vị chăm chuyên,
Vào thành, làng mạc, lời nguyền tín trung.
Đầy đồng lúa chín cả vùng,
Mong tìm thợ gặt, bao dung tấm lòng,
Mùa màng đầy khắp trông mong,
Hãy xin chủ ruộng, mở lòng ban cho.
Cánh đồng nguy hiểm khôn dò,
Như chiên giữa sói, đừng lo lắng gì.
Dù cho tay trắng lo chi,
Không tiền không bị, ra đi khắp làng.
Bình an cầu chúc gia cang,
Đáp tình tiếp đón, mở mang Tin mừng.
Nơi nào từ chối dửng dưng,
Phủi chân xóa bụi, xin dừng loan tin.
Làng nào đón nhận kêu xin,
Chữa lành bệnh tật, đoái nhìn viếng thăm.
Thầy ban phần thưởng gấp trăm,
Ghi tên Nước Chúa, ngàn năm vững bền.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Đồng ruộng của Chúa rộng khắp cả trên mọi miền trái đất. Nơi đâu có sự xuất hiện của con người, nơi đó cần có thợ gặt. Chúa đã gieo vãi hạt giống Nước Trời khắp nơi nơi. Chúa cần rất nhiều thợ rành nghề đi thu hoạch mùa màng.
Hình ảnh người đi gieo giống và hình ảnh người thợ gặt rất đẹp. Kẻ gieo người gặt. Qua mùa này đến mùa kia. Người trước kẻ sau. Lúc nào Chúa cũng cần đến thợ làm ruộng vườn cho Chúa.
Ngay từ khi ra giảng đạo, Chúa Giêsu đã mời gọi một số người đi theo Chúa. Chúa đã huấn luyện, dậy bảo và trao quyền cho họ. Ngài đã sai từng hai người một ra đi loan báo tin vui. Sau khi sống lại, Chúa đã tiếp tục sai các Tông đồ đi dậy dỗ muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Các Tông đồ, mỗi người một nơi đã tản mát ra đi rao giảng tin mừng. Hạt giống Nước Trời cứ thế được tung gieo từ đời này qua đời kia và từ vùng này tới vùng nọ.
Hằng ngày Chúa vẫn tiếp tục mời gọi nhiều người vào cánh đồng truyền giáo. Cánh đồng thật bao la, có biết bao nhiêu người chưa được nghe biết Chúa. Trên thế giới ngày nay có trên tám tỷ người. Hiện nay mới chỉ có khoảng trên ba tỷ người nhận biết Chúa Kitô, đại đa số còn lại đang đi kiếm tìm nguồn chân lý. Họ cũng có niềm tin nhưng cần được khai mở để họ nhận biết tình yêu thương của Chúa. Con số những người theo các đạo khác rất đông như Do Thái Giáo, Hồi Giáo, Phật Giáo, Ấn Độ Giáo, đây là những tôn giáo lớn và có rất đông các tín đồ.
Với lương tâm được phú ban, phần lớn nhân loại nhận biết quyền năng của Đấng Vô Biên. Họ tin vào Ông Trời, Thiên, Đấng Allah nhưng họ chưa nghe về Đấng Cứu Độ, Con Thiên Chúa, được sai đến với loài người để cứu chuộc. Hơn nữa trong thế giới văn minh, cuộc sống con người bị tục hóa trong mọi lãnh vực. Nhiều người không còn biết đâu là thực và đâu là hư, đâu là đúng và đâu là sai. Cuộc sống trở nên mơ hồ theo thuyết tương tối.
Truyện kể: Vào một kia, một nhóm cướp đã đột nhập tiệm vàng nhưng thay vì ăn cắp vàng bạc châu báu. Chúng đơn giản đổi các bảng giá. Ngày hôm sau, không ai có thể nói cái nào có giá trị và cái nào không. Những món hàng mắc tiền trở nên rẻ mạt, những món không có giá trị trở thành vô giá. Những người khách hàng nghĩ họ đã mua những đồ giá trị, bây giờ trở thành giả. Thế giới chúng ta đang sống có những người đến và đổi giá. Chúng ta khó mà nhận ra điều nào trong cuộc sống có giá trị và cái nào không.
Ơn gọi ra đi rao giảng để thu hoạch mùa màng cho Nước Chúa luôn luôn là mời gọi khẩn cấp. Chúng ta được sai vào một xã hội làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta hãy nài xin chủ ruộng sai thêm nhiều chứng nhân tốt lành đi làm vườn nho cho Chúa.
THỨ HAI, TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN
(Mt 9, 18-26).
SỐNG LẠI
Lạy Thầy, bé gái qua đời,
Cầu xin sống lại, qua lời Thầy ban.
Giê-su chỗi dậy hỏi han,
Ra đi cứu giúp, chứa chan ân tình.
Trên đường đi tới hồi sinh,
Đàn bà loạn huyết, cố tình theo sau.
Tâm tình khổ sở thương đau,
Niềm tin mạnh mẽ, tìm mau tới Thầy.
Tin rằng đụng chạm áo nầy,
Bệnh tình biến mất, lòng đầy sướng vui.
Giê-su ngoảnh mặt ngó lui,
Cảm thương phụ nữ, ngậm ngùi tri ân.
Đức tin cứu chữa toàn thân,
Chữa lành hồn xác, canh tân cuộc đời.
Nghe tin bé gái lìa đời,
Cầm tay Chúa gọi, ơn trời cứu sinh.
THỨ BA, TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN
(Mt 9, 32-38).
TRỪ QUỶ
Người câm quỉ ám dầy vò,
Thân tàn khốn khổ, lắng lo buồn phiền.
Quỉ ma rong ruổi mọi miền,
Gây sầu ám hại, người hiền kẻ ngay.
Hôm nay Chúa độ nơi này,
Xua trừ ma quỉ, đổi thay cuộc đời.
Nhiều người kinh ngạc ơn trời,
Ngợi khen Thiên Chúa, cứu đời phàm nhân.
Mấy người Biệt Phái mất phần,
Ghen tuông xúc phạm, gian trần dối gian.
Nhờ quyền tướng quỷ phá tan,
Nghi ngờ khích bác, mê man thói đời.
Tin mừng rao giảng Nước Trời,
Chữa lành bệnh hoạn, một thời hồng ân,.
Giê-su, Chúa đến gian trần,
Xả thân cứu độ, xua thần ác ma.
THỨ TƯ, TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN
(Mt 10, 1-7).
TRỪ TÀ
Chúa Giê-su đến trần gian,
Chữa lành bệnh tật, thông ban ơn trời.
Xua trừ ma quỉ trong đời,
Rao truyền tin mới, lòng người khát khao.
Tông đồ huấn luyện công lao,
Kêu mời chọn lựa, thương trao quyền hành.
Ra đi rao giảng tin lành,
Nước Trời gần đến, chân thành canh tân.
Mười Hai gắn bó cận thân,
Đêm ngày bên Chúa, Thánh Thần khấn ban.
Phê-rô, An-rế, Gio-an,
Si-mon dõi bước, Tôma tông đồ.
Gia-cô-bê, Mát-thê-ô,
Và Bar-tô-lố-mê-ô chẳng nề.
Ta-đê-ô, Phí-lip-phê,
Gia-cô-bê thứ, bội thề Giuđa.
THỨ NĂM, TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN
(Mt 10, 7-15).
RA ĐI
Giê-su phán bảo tông đồ,
Hãy ra rao giảng, đi vô mọi miền.
Chữa lành bệnh hoạn tật nguyền,
Phục sinh kẻ chết, triều thiên Nước Trời.
Phong cùi chữa sạch mọi nơi,
Xua trừ ma quỷ, tuyệt vời chí công.
Các con lãnh nhận nhưng không,
Hãy cho miễn phí, đừng trông báo đền.
Ra đi không gậy không mền,
Chớ đem vàng bạc, không nên túi tiền.
Đừng mang giầy dép gậy phiền,
Hiền lành phó thác, như chiên giữa đàn.
Vào nhà cầu chúc bình an,
Ai mà xứng đáng, Chúa ban ơn lành.
Thành nào đón tiếp thi hành,
Yêu thương chúc phúc, nhân danh Chúa Trời.
THỨ SÁU, TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN
(Mt 10, 16-23).
BỀN ĐỖ
Chúa sai môn đệ ra đi,
Như chiên giữa sói, thực thi Tin Mừng.
Khôn ngoan như rắn trong rừng,
Đơn sơ phó thác, vui mừng loan tin.
Người đời chống đối niềm tin,
Chứng gian bắt bớ, cầu xin vững lòng.
Cầm quyền đánh đập giam phòng,
Khổ đau giết hại, giáo đòng thấu da.
Đừng lo sợ hãi rên la,
Thánh Thần soi dẫn, hải hà ơn ban.
Kiên tâm bền vững bình an,
Mọi lời đáp trả, Chúa ban từ trời.
Nhiều người chống đối ơn trời,
Thù hành ghét bỏ, hại đời chúng con.
Cầu ơn bền đỗ sắt son,
Hưởng ơn cứu độ, mỏi mòn tấm thân.
THỨ BẢY, TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN
(Mt 10, 24-33).
PHÓ THÁC
Chúng con đừng sợ người đời,
Không gì che dấu, rạng ngời lộ ra.
Điều trong bóng tối vang xa,
Nói nơi ánh sáng, chiếu pha mọi nhà.
Điều nghe âm ỉ bên ta,
Hãy đi rao giảng, mái nhà khắp nơi.
Đừng lo sợ hãi trong đời,
Tù đầy thân xác, trong nơi khổ sầu.
Không ai giết được hồn đâu,
Ngoại trừ sợ Đấng, ném sâu hỏa lò.
Các con đừng sợ đừng lo,
Nhiệm mầu sự sống, thước đo vô ngần.
Chúng con đáng giá bội phần,
Trên đầu sợi tóc, từng phân đếm rồi.
Ai mà xưng tụng Ba Ngôi,
Ngày sau hưởng phúc, trong nôi Nước Trời.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Bronx, New York
LÒNG NHÂN HƠN CỦA LỄ
Huệ Minh
Với đời sống con người, bữa ăn rất quan trọng, đơn giản bữa ăn là giờ duy nhất trong ngày, trong đó mọi thành phần trong gia đình có mặt bên nhau, do đó bàn ăn thường là biểu trương của hiệp nhất. Chính vì lẽ đó nên thời khắc này là thời khắc của sử hiệp nhất, nên bữa ăn cũng là giờ linh thiêng trong cuộc sống.
Ông bà ta đã nói: “Trời đánh tránh bữa ăn”. Bữa ăn là dấu chỉ của hiệp nhất, cho nên thời xa xưa, thỏa ước giữa các bộ lạc cũng được ký trong bữa tiệc. Ngồi đồng bàn với nhau có nghĩa là chấp nhận chia sẻ với nhau, chấp nhận tình thân hữu của nhau.
Trang Tin Mừng hôm nay cho thấy được ý nghĩa nổi bật của bữa ăn trong cuộc đời Chúa Giêsu.
Ta thấy các Thánh Sử vẫn thường ghi lại những lần Chúa Giêsu ngồi đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngồi đồng bàn với người nào là muốn chia sẻ, muốn nói lên tình thân thiện của người đó. Qua những lần ngồi đồng bàn với tất cả mọi hạng người, Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta bộ mặt của một Thiên Chúa nhân hậu luôn hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, một Thiên Chúa chia sẻ cuộc sống của con người và muốn đi vào kết hiệp thâm sâu với con người.
Với Chúa Giêsu, trong bữa ăn và với bữa ăn, Chúa muốn gửi một thông điệp lớn hơn chuyện ăn uống đó là Ngài muốn lòng nhân từ của chúng ta dành cho nhau hơn là những hy lễ thiếu tình yêu. Ngài muốn chúng ta có cái nhìn cảm thông với người tội lỗi hơn là cái nhìn khắc khe, kết án.
Ta không ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu thường mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời: “Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới”. Nước Trời giống như một tiệc vui. Tôn giáo mà Chúa Giêsu loan báo không phải là những nghi lễ hay những luật lệ cứng nhắc, mà là tôn giáo của tình yêu. Trích dẫn lời Tiên Tri Ôsê: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải lễ tế”, Chúa Giêsu đả phá những tôn giáo chỉ xây dựng trên những nghi lễ trống rỗng, mà quên đi cái lõi của tôn giáo là tình thương.
Người Do Thái bị cấm ngồi chung bàn với những kẻ thu thuế và tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu đã không tuân theo điều cấm kỵ này. Thay vào đó Người còn trở nên bạn hữu của họ nữa. Người Biệt Phái trông thấy thái độ của Chúa, liền chất vấn các môn đệ của Người: “Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?” Câu hỏi này có thể được hiểu như là một biểu hiện lòng ước ao của họ để biết lý do tại sao Chúa Giêsu lại hành động theo cách ấy.
Những người khác giải thích câu hỏi ấy như lời chỉ trích về hành vi của Chúa Giêsu, bởi vì qua hơn năm trăm năm, từ thời gian lưu đày Babylon cho đến thời Chúa Giêsu, người Do Thái đã tuân giữ luật thanh sạch. Điều tuân giữ thế tục này đã trở thành một dấu chỉ mạnh mẽ về bản sắc. Đồng thời, đó là yếu tố phân cách họ ở giũa các dân tộc khác. Như thế, bởi vì lề luật thanh sạch, họ đã không thể cũng như không được phép ngồi chung bàn để cùng ăn uống với những người thu thuế. Ăn uống với những người thu thuế có nghĩa là sẽ bị nhiễm ô uế, trở nên không thanh sạch. Các giới răn về luật thanh khiết đã được tuân giữ một cách triệt để, tại vùng Paléstine cũng như các cộng đồng Do Thái sống ngoài đất Israel. Vào thời Chúa Giêsu, có hơn năm trăm giới luật về sự thanh sạch
Với tất cả tâm tình đó, Chúa Giêsu đã thực hiện cho ông Lêvi hôm nay. Chúa đã đi bước trước đề ngỏ lời cùng ông. Chúa đã mở ra cho ông một con đường trở về nẻo chính đường ngay. Chúa cũng mời gọi chúng ta hôm nay hãy lấy lòng nhân từ mà đối xử với nhau. Đừng kết án nhau. Đừng xua đuổi nhau, nhưng biết dùng tình yêu để cảm hoá anh em. Ai cũng có lầm lỗi. Ai cũng có thiếu sót. Đôi khi chỉ vì hoàn cảnh mà sa ngã, phạm tội. Hãy giúp nhau làm lại cuộc đời. Hãy tạo cho nhau điều kiện môi trường tốt để tránh xa dịp tội. Hãy dùng tình thương để góp ý xây dựng cho nhau thay vì kết án nặng lời với nhau.
Chúa Giêsu nghe thấy câu hỏi của những người Biệt Phái nói với các môn đệ và Người trả lời với hai lời minh xác: lời thứ nhất được chọn lọc từ ý thức thông thường: “Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu!” Lời minh xác thứ hai được trích từ Kinh Thánh: “Các ông hãy đi và học xem lời này có ý nghĩa gì: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải hy lễ.” Qua những lời minh xác này, Chúa Giêsu làm cho rõ ràng và minh định sứ vụ của Người ở giữa chư dân: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi.” Chúa Giêsu phủ nhận lời chỉ trích của người Biệt Phái; Người không chấp nhận lập luận của họ, bởi vì chúng xuất phát từ ý tưởng sai lầm về Lề Luật Thiên Chúa. Chúa đã trích lời Kinh Thánh: “Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải hy lễ.” Đối với Chúa Giêsu, lòng nhân từ thì quan trọng hơn là sự thanh sạch theo đúng luật. Chúa đề cập đến truyền thống tiên tri để nói rằng đối với Thiên Chúa lòng thương xót có giá trị hơn tất cả mọi hy lễ (Hs 6, 6; Is 1, 10-17). Thiên Chúa có lòng thương xót thăm thẳm, và đã thổn thức bồi hồi trước những bội bạc của dân Người (Hs 11, 8-9).
Trang Tin Mừng cũng như giáo huấn mà Chúa mời gọi ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta là bữa tiệc dấu chứng tình yêu của Ngài. Tham dự vào bữa tiệc ấy là tham dự vào tinh thần yêu thương chia sẻ với Ngài. Nếu không có tinh thần yêu thương, thì tất cả những kinh kệ, những hành động phụng vụ chỉ là trống rỗng vô ích.
Của lễ đẹp lòng Chúa nhất phải chăng không là những hành động yêu thương, chia sẻ, tha thứ mà Chúa Giêsu luôn mời gọi mỗi Kitô hữu. Và rồi Bàn thờ, Thánh Lễ của ta không chỉ nằm trong bốn bức tường nhà thờ, mà còn phải là gia đình, trường học, văn phòng, công sở, phố chợ. Nơi nào có hành động yêu thương, tha thứ, chia sẻ, thì nơi đó có Chúa hiện diện, có bình an, có Nước Trời.
TIẾP NỐI SỨ MẠNG CỨU THẾ
Lm. Trương Hoàng Vũ, CSsR
Is 66:10-14c; Gl 6:14-18; Lc 10:1-9
Chúa nhật trước đã cho chúng ta thấy những đòi hỏi quyết liệt của Chúa Giêsu dành cho những ai muốn đi theo Ngài làm môn đệ. Muốn theo Chúa là bước vào một cuộc phiêu lưu cùng với Chúa; Chọn lựa điều tối quan trọng; và quyết không theo Chúa nửa vời.
Hôm nay bài Tin mừng cho chúng ta thấy Chúa sai những con người đã quyết từ bỏ mọi sự ấy ra đi Loan Báo Tin Mừng. Ngài chỉ định 72 môn đệ cứ từng hai người một lên ra đi vào bất cứ thành nào mình gặp trên đường. Đây cũng chính là tiếp nối sứ mạng của Chúa Cứu Thế.
Vậy Chúa Giêsu nhắn gởi điều gì cho những người muốn làm môn đệ của Ngài, muốn bước đi theo Ngài trên con đường Loan Báo Tin Mừng cứu độ?
Trước hết, con số 72 môn đệ muón nói lên rằng, tất cả mọi Kitô hữu chúng ta là những môn đệ của Chúa Giêsu, là những người được Chúa chọn, được Chúa chỉ định và sai đi. Chúng ta được nhắc nhở phải ý thức về nhiệm vụ của mình, nhiệm vụ ấy phải được thi hành chung với những môn đệ khác từng hai người một. Và khi thi hành nhiệm vụ người môn đệ cũng ý thức mình thuộc về nhóm môn đệ của Chúa Giêsu và dưới quyền chỉ đạo của ngài. Quả vậy, ý thức rằng mình được Chúa mời gọi, ý thức rằng phải hiệp thông với Hội Thánh, ý thức rằng mình thuộc về Chúa Giêsu và ra đi làm môn đệ cho Ngài đó là điều lưu ý trước hết nơi người môn đệ Chúa Kitô.
Hơn nữa, người môn đệ cũng ý thức về lời mời gọi đi đến mọi nơi, đến “tất cả các thành”, loan truyền Tin Mừng cho mọi người. Người môn đệ cũng được nhắc nhở ý thức rằng: loan Tin Mừng là sứ vụ cần thiết như “lúa chín đầy đồng” không thể bỏ bê, cũng không thể chậm trễ. Trong Tôn Huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô nói đến sự cần thiết phải ra đi như sau: “Chúng ta phải đi ra, đi ra để cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Kitô…. Tôi thà có một Hội Thánh bị bầm dập, mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình” (số 49).
Mặc dù được mời gọi đi ra, lên đường nhưng người môn đệ cũng được khuyến cáo lưu tâm về những hiểm nguy và khó khăn mà mình sẽ gặp phải “như chiên con đi vào gữa bầy sói.” Như thế, cuộc ra đi này không dễ dàng chút nào. Dù cho có những khó khăn, thách đố người môn đệ đừng quên vào lời hứa khải hoàn của Chúa Kitô: “Anh em sẽ lo buồn nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16,20).
Sau khi Chúa Giêsu nhắc nhở về toàn bộ những điều mà người môn đệ phải ý thức khi thực thi sứ vụ. Chúa Giêsu tiếp tục nhắn nhủ người môn đệ về hành trang mà họ cần phải mang theo. Hành trang ấy phải gọn nhẹ, chỉ để phục vụ sứ mạng, không cồng kềnh để rồi bị chi phối làm chậm hoặc làm chùn bước chân sứ vụ. Người môn đệ cũng không bận tâm về nơi ăn chốn ở, về những phương tiện vật chất cá nhân, những nhu cầu phục vụ đời sống thường ngày.
Về các tương quan Chúa Giêsu cũng nhắc thêm cho người môn đệ rằng: người môn đệ phải thanh thoát không dính bén và níu kép những tình cảm nảy sinh dọc đường theo kiểu “chào hỏi” Đông Phương. Một lòng một ý chu toàn sứ mạng cách khẩn thiết, không la cà, không chậm trễ, không phân tán. Chỉ liên đới và cộng tác trong sứ vụ mà thôi.
Về tác phong, Chúa Giêsu muốn người môn đệ không tìm thỏa mãn vật chất cá nhân, không tìm tư lợi cho riêng mình, không mong thù lao, không yêu cầu lương bổng, không quan tâm đến những đòi hỏi mang nặng tính trần thế. Người môn đệ phải biết bằng lòng với những sự đón tiếp, những gì sẽ gặp phải trong khi thi hành sứ vụ cách vui tươi.
Cách riêng, về lời nói và hành động của người môn đệ phải có dấu hiệu mang bình an và chữa lành. Đối với mọi người thì người môn đệ đem “bình an”, nhưng đối với những tâm hồn đau thương tan nát thì người môn đệ phải “xoa dịu và chữa lành”. Không chỉ đem bình an hoặc chữa lành, nhưng Chúa Giêsu còn đòi hỏi cao hơn là đem niềm vui, bằng cách loan báo rằng “triều đại Thiên Chúa đã đến gần.”
Nghe lại tường thuật của Thánh Luca hôm nay trước những đòi hỏi của Chúa Giêsu về người môn đệ, chúng ta như thấy mình được nhắc nhở rằng: Đôi khi chúng ta muốn làm môn đệ Chúa, nhưng chúng ta lại quên đi mình đang thuộc về Chúa, được Chúa hướng dẫn; đô khi chúng ta lại quên rằng mình cần phải hiệp thông trong Hội Thánh, chúng ta mải mê nhiệt tình đi con đường của riêng chúng ta, mà rời xa dần Hội Thánh cũng như rời xa dần thầy Giêsu. Đô khi làm môn đệ cho Chúa, nhưng chúng ta lại ưa thích ngồi những chỗ an toàn, chọn những tiện nghi dễ chịu, níu kéo và bám víu và o những tình cảm chóng qua…. Tất cả những thứ ấy đã làm bước chân sứ vụ của chúng ta như chậm lại, những thứ ấy đã làm cho nhiệt tâm tông đồ của chúng ta như cạn kiệt, những thứ ấy làm cho chúng ta bị chi phối vỡ vụn, phân mảnh.
Sau khi ra đi theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, người môn đệ trở về lòng đầy vui mừng vì với quyền năng của Thầy ban cho các ông làm được những điều phi thường: “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con.” Đó chính là niềm vui của một cộng đoàn ra đi truyền giáo. Nhưng Chúa còn hứa ban cho một niềm vui đầy tràn hơn nữa đó là tên các con đã được ghi trên trời. Đó là niềm vui khải hoàn của ngày cánh chung ngày mà “Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng và niềm vui của anh em không ai có thể lấy mất được” (Ga 16,22).
Xin Chúa ban ơn cho mỗi người trong chúng ta cũng hãy biết mau mắn lên đường vì “lúa đã chín đầy đồng,” ước gì mỗi chúng ta cũng thực thi được những đòi hỏi mà Chúa muốn khi làm tông đồ cho Ngài.
ĐÀN SÓI ĐÓI
Lm Vũđình Tường 2016
Tạp chí địa lí nghiên cứu về đời sống loài sói cho biết sói hú là cách để liên lạc, thông tin cho nhau. Cùng là tiếng hú nhưng chúng mang í nghĩa khác nhau. Sói bị lạc đàn hú để tìm đàn nhưng khi cả bầy cùng hú đó lại là dấu hiệu của chiến tranh bởi có đàn sói khác xâm nhập lãnh thổ của chúng. Tiếng hú đơn độc có khi lại là tiếng hú thân thiện, đáp trả lại tiếng hú gọi nào đó. Sói thuộc vào bộ chó nhưng thân chúng to hơn và dữ tợn hơn. Người ta phân biệt sói theo màu lông. Sói màu nâu nhạt còn được gọi là sói màu gỗ nặng khoảng từ 43-45 kílô và sói lông đậm lớn con hơn và mũi cũng ít nhọn hơn. Người ta không thích sói bởi chúng giết gia súc làm mồi, đôi khi cắn chơi sướng miệng. Khi gặp con mồi cả bầy sói rượt con mồi. Mỗi bầy sói thường có từ 9-10 con và có con đầu đàn lãnh đạo, kế con đầu đàn là con bồ của nó, rồi sau đó mới đến các con khác trong đàn. Một con sói có thể ăn đến 9 kilô thịt trong một bữa. Khi có sói con cả đàn sói có trách nhiệm coi sóc, bảo vệ.
Đức Kitô sai các môn đệ từng hai người một đi rao giảng Tin Mừng, Ngài nhắc các ông,
Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói Lk, 10,3.
Các ông ra đi mang theo Tin Mừng tình yêu và bình anh của Đức Kitô. Bởi có những người định nghĩa tình yêu và bình an theo cách riêng của họ nên họ đã không chấp nhận và còn chống đối Tin Mừng. Từ chống đối bằng lí luận dẫn đến dùng bạo lực. Môn đệ Đức Kitô chắc chắn sẽ gặp phải phản đối, xung khắc trước khi bị hành hung. Đức Kitô biết rõ điều đó sẽ xảy đến với Ngài nên nhiều lần Ngài đã tâm sự với môn đệ. Thầy sẽ bị bắt, bị đánh đập, bị trêo trên thập tự và sau ba ngày sẽ sống lại. Đức Kitô, Chiên Thiên Chúa, bị trao nộp vào trong tay lang sói cho chúng cấu xé và cuối cùng giết chết, treo trên thập tự. Ngài chấp nhận điều đó để đền tội thay cho nhân loại. Chúng ta môn đệ Đức Kitô chắc chắn sẽ gặp phải cám dỗ, chống đối, rồi đến đe doạ và cuối cùng là bị bách hại. Nhẹ nhất là dùng luật ngăn cấm dưới chiêu bài bảo vệ hạnh phúc con người. Điều này gây khó khăn và tốn kém cho việc rao giảng Tin Mừng. Đức Kitô sai 72 môn đệ ra đi rao giảng. Trong thị kiến của Ngài các ông sẽ thu hoạch một mùa gặt hái tốt đẹp nhưng không hoàn mĩ bởi trong tương lai sẽ có bách hại giữa chiên con và sói già. Để có được mùa thu hoạch tốt cần phải gieo trồng chăm sóc. Những ai đón nhận Tin Mừng với lòng thành đời sống đức tin họ sẽ giầu mạnh và tâm hồn an vui. Kẻ từ chối đón nhận Tin Mừng tạo thành nhóm phản nghịch chống lại Tin Mừng. Bảy mươi hai là con số thông dụng trong Kinh Thánh. Môisen chọn 72 bô lão giúp ông trong việc lãnh đạo dân chúng. Hội đồng quản trị Do Thái cũng gồm 72 người. Đức Kitô sai 72 môn đệ đi rao giảng. Môn đệ có hai nhiệm vụ chính là rao giảng về Đức Kitô và thông báo công khai cho mọi người biết nước trời đang đến gần. Để làm trọn vẹn công việc các ông cần có đời sống khiêm nhường, sống đơn sơ, đạm bạc và hưởng những gì người ta trao ban. Các ông không mong được đền đáp, trả công nhưng sống cùng với mọi người và chia sẻ đời sống đạm bạc của họ. Sống đơn giản chính là đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô và hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài. Tiên tri Isaiah đã loan báo rồi sẽ có một ngày sói già bị thuần hoá sống chung với chiên con.
Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn tai ác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tran ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển. Is 11,6-9
Thị kiến này nói về ngày Chúa quang lâm, Đức Kitô đến lần thứ hai trong vinh quang. Kitô hữu hiện nay bị thiệt thòi, chịu đau khổ nhưng ngày huy hoàng sẽ đến, vinh quang sẽ chiếu dọi khắp tầng mây. Ngày đó đến không phải do công sức của ta nhưng do tình yêu Chúa cảm hoá toàn mặt đất đón nhận lời Chúa. Đau khổ thập giá biến thành vinh quang, triều thiên vinh hiển. Ai đón nhận Đức Kitô vác thập giá mình tin theo đều chung hưởng vinh thập giá Đức Kitô mang lại.
Lm Vũđình Tường TiengChuong.org
Ngày nọ Lm Vũđình Tường6/24/2016
Cuộc sống ai cũng có ngày nọ, ngày kia, ngày vui, ngày buồn. Thực tế cuộc sống là thế. Sau những ngày buồn ta cảm thấy cuộc sống ngày vui rộ lên sức sống, vui hơn rất nhiều. Ngày buồn làm tăng thêm niềm vui cho ngày vui. Đây chính là kinh nghiệm của các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay. Quả là một ngày không vui cho các ông khi nghe thấy Đức Kitô quyết định lên thành thánh. Đối với các ông chuyến đi này nguy hiểm quá, nguy hiểm đến tính mạng của Thầy Jêsu và điều đó liên quan đến cuộc đời các ông. Nỗi sợ này chưa qua thì bực dọc kia lại đến. Dân làng thành Samariata không đón tiếp nên các ông cảm thấy chán nản hơn nữa. Quả là bât hạnh, các ông tìm cách phát tiết bực dọc khi nghĩ đến việc thui rụi làng mạc của đám dân này. Các ông hỏi Đức Kitô và Ngài nói với các ông môn đệ chân chính của Ngài đặt ưu tiên truyền giáo lên hàng đầu khi Ngài đưa ra một loạt các thí dụ cụ thể. Người môn đệ xứng đáng nhất là người lo chu toàn nhiệm vụ nước trời trước, còn mọi cái đều là thứ yếu.
Những ví dụ Đức Kitô nói đến nghe có vẻ chói tai và khó chấp nhận. Nghe qua ta thấy có gì đó không ổn, trái với điều răn chôn xác kẻ chết. Thực tế nếu để tâm suy nghĩ thêm sẽ thấy những ví dụ trên gần với cuộc sống và có nhiều í nghĩa thực dụng. Thí dụ như ví dụ về người cầy ruộng. Hình ảnh con trâu đi trước kéo theo sau cái cầy và cuối cùng là người đi cầy. Người chuyên môn không gặp trở ngại khi lái lưỡi cầy cho luống cầy thẳng nhưng kẻ thiếu kinh nghiệm hay lơ là trong công việc thì việc làm này không dễ. Luống cầy cong đất cầy bị lỏi nghĩa là có xen kẽ chỗ đất không được cầy. Kẻ làm mướn thiếu lương tâm thường chủ trương cầy lỏi để đất cầy lấp lên đất chưa cầy cho mau xong công việc để tính ngày công. Tiền công vẫn nhận đủ nhưng làm việc ít hơn. Cái tai hại của cầy lỏi là đất không được cầy, cỏ không chết và sau này đi bừa đất không tan rã. Khi vãi xạ lúa xuống chỗ đất chưa cầy không lấp được hạt giống nên bị chim chuột ăn mất, hạt nào may mắn mọc được sẽ bị cỏ dại chèn ép, chết. Bởi đất chưa cầy nên rễ cỏ nằm sẵn trong đất gặp điều kiện thuận tiện cỏ dại mọc mau và lớn mạnh lan ra vùng đất chung quanh làm chết hạt giống gần đó. Xem thế một chút lợi nhỏ của người làm gây thiệt hại lớn cho chủ đất.
Đức Kitô dùng hình ảnh người cầy ruộng ngó ngang, nhìn dọc ngụ í nói đến luống cầy cong queo, tai hại hơn khi nhìn về phía sau, nghĩa là không chú tâm tới công việc. Làm việc mà không chú tâm là làm cho xong việc, bất kể đến hậu quả tai hại do cẩu thả gây nên. Không người chủ nào lại mướn người làm công cẩu thả, không thích công việc và cũng không quan tâm đến tai hại do cẩu thả gây nên.
Kitô hữu đặt vấn đề đức tin vào hàng thứ yếu, hoặc coi việc giữ đạo là phụ hẳn không thể nào là người Kitô hữu gương mẫu. Khi coi thường công việc mục vụ thì không ai dám trao việc mục vụ vào tay bởi giao cho công việc đã không được hoàn thành mà còn gây tai hại liên quan đến công việc khác.
Chúng ta cần xét mình để nhìn đến vấn đề hành đạo, chứng nhân đức tin giữa đời.
Lm Vũđình Tường TiengChuong.org
TRIỀU ĐẠI NƯỚC THIÊN CHÚA ĐÃ GẦN
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT Chúa Nhật XIV THƯỜNG NIÊN, năm C Lc 10, 1-12.17-20
Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội. Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để loan báo Tin Mừng. Thế giới hiện nay với dân số hơn 8 tỷ người, nhưng số Kitô hữu mới chiếm hơn một tỷ người. Điều ấy cho chúng ta nhận ra lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu quả thực luôn cấp bách. Lục địa Á Châu mênh mông, dân số chiếm cà 1/3 dân số thế giới, thế mà người tín hữu chỉ chiếm có 3%…Do đó, Chúa Giêsu nói :” Lúa chín đầy đồng “…Cách giải thích của Chúa là “ Mùa màng đang bề bộn “. Chúa muốn có nhiều thợ gặt lành nghề đi làm việc trong đồng lúa chín vàng. Đồng lúa có nhiều lúa chín là những người chưa biết Chúa.
Thực tế, khi nói đến mùa màng, Chúa muốn cho chúng ta biết về thực trạng của thế giới, một thế giới rộng lớn bao la, nhưng còn rất nhiều người chưa nhận biết Chúa bởi vì có nhiều người chưa bao giờ được nghe nói về Chúa, có biết bao người chưa được nghe nói về Tin Mừng. Cánh đồng lúa thật bát ngát, bao la nhưng thiếu thợ gặt. Lời của Chúa nói với các môn đệ trước khi về trời vẫn còn vang vọng khẩn thiết mọi nơi, mọi lúc. Nhiều người chưa biết Chúa, có những người đã biết Chúa nhưng họ vẫn cần học hỏi thêm, bồi dưỡng thêm về giáo lý, về lời Chúa để sống tốt hơn, sống đúng hơn, phù hợp với Tin Mừng. Khi Chúa ví nhân loại, thế giới này như một cánh đồng lúa, đầy lúa chín vàng, cần phải gặt, thu lượm về để bỏ vào kho lẫm nước trời. Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một tương lai đầy hứa hẹn, đầy lạc quan.Mùa màng được thu gặt tốt là kết quả của việc loan báo Tin Mừng.
20 thế kỷ đã trôi qua, các nhà Truyền giáo, các Giám mục, Linh mục và cả Giáo Hội đã miệt mài làm việc truyền giáo, loan báo Tin Mừng. Kết quả tương đối khả quan.Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy : nơi đâu có các Nhà truyền giáo, các Linh mục nhiệt thành, đạo đức, nơi đâu Giáo Hội yêu mến làm việc loan báo Tin Mừng thì kết quả gặt hái được trong việc giới thiệu Chúa Kitô sẽ mang lại mùa gặt bội thu. Việc tìm ra và có nhiều thợ gặt lành nghề lại là một chuyện đáng cho chúng ta suy nghĩ…Vấn đề là bao nhiêu thợ gặt cũng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của một thế giới rộng lớn, bao la. Xin đan cử hằng năm Giáo phận nào, Dòng tu nào cũng có thêm linh mục mới, nhưng số mục tử mới vẫn không bao giờ đáp ứng nhu cầu phục vụ các Giáo xứ, Giáo sở, Giáo điểm, đó là chưa dám nói tới nhu cầu truyền giáo.
Trong bài Tin Mừng Lc 10,1-12.17-20, thánh sử đã nhắc đến nhóm Mười Hai và sau nhóm Mười Hai là nhóm bảy Mươi Hai. Bảy mươi hai là con số biểu tượng, đây là từ ngữ để chỉ tất cả các dân tộc, sau đó là chỉ đám đông dân chúng được Môsê dẫn dắt. Tin Mừng của thánh Luca cho thấy việc Chúa Giêsu sai nhóm Bảy Mươi Hai đi, làm rõ nét thời Giáo Hội sơ khai hoàn toàn có tính cách truyền giáo bởi vì Giáo Hội tiên khởi mặc dầu sống chung với nhau xem ra có vẻ co cụm, cục bộ nhưng việc sai các tông đồ đi rao giảng mở ra chân trời mới cho những người ngoại, những người mà những người Do Thái thời đó cho rằng họ là những người ngoài, tội lỗi, không thuộc phe ta vv…
Việc Chúa sai nhóm Mười hai và dặn dò những điều kiện để các Ngài thanh thoát với việc truyền giáo, loan báo Chúa Kitô cho những người khác như “ chiên con đi vào giữa bầy sói, không mang tiền bạc, bao bị, giày dép, không chào ai dọc đường vv…”, khiêm nhượng đón nhận sự giúp đỡ của tha nhân, chấp nhận sự từ chối là bằng chứng cụ thể để người khác tin vào việc họ nói, họ làm. Người tông đồ phải là người siêu thoát, nên, ngày nay tại Á Châu cũng như các Lục Địa khác, người ta dễ đón nhận người tông đồ khó nghèo, giản đơn, khiêm tốn, từ bi, nhân từ…Người ta thích những chứng nhân sống hơn là những lời rao giảng suông. Người tông đồ vừa sống, vừa rao giảng, vừa làm chứng cho “ Triều đại Thiên Chúa gần đến “. Lời nói và việc làm phải đi song song với nhau. Những nhà truyền giáo, những thừa sai, những tông đồ khi ngôn hành đi đôi, sẽ đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc cho con người, cho nhiều người, làm cho nhiều người nhận ra Đức Kitô đang sống giữa họ,
Một thế giới mênh mông, rộng lớn với biết bao người chưa biết Chúa, bổn phận của mỗi Kitô hữu là phải sống, phải làm chứng, phải loan báo Triều đại Thiên Chúa sắp đến. Chính Chúa đã làm gương cho Giáo Hội về việc loan báo Triều đại Thiên Chúa, các Tông đồ cũng ra đi theo lời truyền của Chúa Phục Sinh và rồi từ sau các tông đồ đã có biết bao nhà truyền giáo, có biết bao những thiện nguyện viên ra đi truyền giáo. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Lệnh truyền giáo của Chúa vẫn luôn vang lên :” Anh em hãy đi khắp thế gian và làm cho nhiều người trở thành môn đệ của Thầy…” “ Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít “. Hình ảnh Chúa Giêsu dùng để nói về cánh đồng truyền giáo và việc sai những sứ giả loan truyền Tin Mừng, loan báo Triều đại Thiên Chúa gần đến…
Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho chúng con trở nên những sứ giả nhiệt thành loan báo Tin Mừng, làm chứng cho Bộ Mặt đầy yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con can đảm rao giảng không mệt mỏi về Nước của Thiên Chúa đã đến gần. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Bản chất của Giáo Hội là gì ? 2.Khi Chúa nói :” Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt “, Ngài muốn gợi lên điều gì ? 3.Đồng lúa chín vàng ám chỉ gì ? 4.Triều Đại Nước Thiên Chúa là gì ?
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN C
Is 66,10-14c ; Gl 6,14-18 ; Lc 10,1-12.17-20
LOAN BÁO TIN MỪNG LÀ SỐNG CHỨNG NHÂN
I-HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Lc 10,1-12.17-20
(1) Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. (2) Người bảo các ông: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. (3) Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. (4) Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. (5) Vào bất cứ nhà nào, thì trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!” (6) Nếu ở đó có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ đến đậu trên người ấy. Bằng không, thì bình an đó sẽ quay về với anh em. (7) Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. (8) Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. (9) Hãy chữa những người đau yếu trong thành và nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”. (10) Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên, các ông phải biết điều này: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. (12) Thầy nói cho anh em hay: Trong ngày ấy, thành Xơ-đom còn được xử khoan hồng hơn thành đó”. (17) Nhóm Bảy Mươi Hai trở về hớn hở nói: “Thưa Thầy, nghe đến Danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con”. (18) Đức Giêsu bảo các ông: “Thầy đã thấy Xatan như một tia chớp từ trời sa xuống. (19) Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bò cạp và mọi thế lực kẻ thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. (20) Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em. Nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.
2.Ý CHÍNH:
Đức Giêsu chỉ định bảy mươi hai người làm môn đệ và sai họ từng hai người đi thực tập truyền giáo. Các ông làm theo lời Thầy dạy và đã đạt được kết quả mỹ mãn. Đó là ma quỷ đã phải khuất phục trước các ông.
3.CHÚ THÍCH:
– C 1-2: + Chúa chỉ định bảy mươi hai người: Số bảy mươi hai ở đây ám chỉ dân ngoại. Có hai truyền thống về con số này: Truyền thống Do thái (Hípri) ghi bảy mươi, đang khi truyền thống Hy-lạp lại ghi bảy mươi hai. Luca ghi theo truyền thống Hy-lạp. + Sai các ông cứ từng hai người một đi trước: Đi hai người để dễ dàng trợ giúp cho nhau (x. Gv 4,-12). Thời Giáo hội sơ khai, các Tông đồ đã đi truyền giáo từng hai người: Bácnaba đi với Saolô (x. Cv 13,2); Giuđa đi với Xila (x. Cv 15,27); Bácnaba đi với Máccô; Phaolô với Bácnaba (x. Cv 15,35); Timôthê với Êráttô (x. Cv 19,22). + Phân biệt hai chức vụ Tông đồ và Môn đệ: MÔN ĐỆ là những người nhận Đức Giêsu làm Thầy và đi theo để nghe Người giảng và sống theo Lời Người. Có bảy mươi hoặc bảy mươi hai môn đệ. Các ông cũng được Đức Giêsu sai đi trước đến những nơi mà chính Người sẽ tới (x. Lc 10,1). Khi Đức Giêsu rao giảng ở đâu, các môn đệ tụ tập đến nghe, rồi sau đó lại trở về với gia đình vợ con của mình. Còn TÔNG ĐỒ là 12 người được Đức Giêsu chọn trong số 72 môn đệ (x. Lc 6,13). Và cũng được sai đi rao giảng Tin mừng (x. Lc 9,2). Các ông phải bỏ mọi sự mà đi theo Đức Giêsu (Lc 18,28). Các ông được chứng kiến các phép lạ Người làm (x. Lc 7,11); Được tham dự bữa Tiệc ly (x. Mt 26,26-29); Cùng trải qua biến cố Tử Nạn và Phục Sinh với Người (x. Lc 24,36-43); Được Người trao quyền cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,19), quyền chăn chiên (x. Ga 21,15-17); Sẽ được đồng bàn trong Vương quốc với Người, và được ngồi trên 12 tòa mà xét xử 12 chi tộc Ít-ra-en (x. Lc 22,30); Cuối cùng các ông còn được sai đi làm chứng nhân cho Đức Giêsu đến tận cùng thế giới (x. Mt 28,19; Cv 1,8). + Lúa chín đầy đồng: Các Ngôn sứ trong Cựu ước đã từng miêu tả ngày phán xét như là một ngày gặt hái (x. Is 41,15; Gr 51,33). Ông Gioan Tẩy giả đã kể ra việc phán xét của Đấng Thiên Sai trong ngày tận thế tương tự như các động tác của người nông dân sau mùa gặt lúa (x. Lc 3,17). Ở đây, Đức Giêsu cho môn đệ tham dự vào công trình của thời Cánh chung của Người bằng sự cầu nguyện và rao giảng Tin mừng.
– C 3-6: + Như chiên giữa bầy sói: Các môn đệ của Đức Giêsu sẽ đi vào trần gian đầy những kẻ thù đang tìm cách bách hại. Nhưng các ông phải đi với bàn tay không mang theo vũ khí, tâm hồn đầy nhân từ và hiền lành như con chiên. Các ông phải đặt trọn niềm cậy trông vào Chúa quan phòng. + Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường: Vì người Do thái và các dân vùng Trung Đông gặp nhau thường chào hỏi hàn huyên lâu giờ. Đức Giêsu muốn các môn đệ đừng để các việc trần thế chi phối khi đi rao giảng. Trong các sách của Luca, các sứ giả của Tin mừng đều đi như chạy: Đức Maria chạy đi thăm bà Ê-li-sa-bét, các mục đồng chạy đến máng cỏ, Phi-líp-phê chạy để đuổi kịp chiếc xe của một người Ê-thi-ô-pi (x. Cv 8,3). + “Bình an cho nhà này”: Luca lấy lại cách chào hỏi thông thường của Cựu ước (1 Sm 25,6). Đây là một lời cầu chúc phúc lộc an khang, một lời chúc lành. Bình an là mức sung mãn của sự sống, là món quà cao quý nhất mà Đấng Mêsia ban tặng (x. Lc 1,79). + Có ai đáng hưởng bình an: Đó là người tin và đón nhận sự bình an của Thiên Chúa.
– C 7-9: + Người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó: Đây là một sự cởi mở của Đức Giêsu. Người cho phép các môn đệ được ăn mọi thức ăn do người ta dọn cho, mà không cần bận tâm xem chúng là thức ăn tinh khiết hay ô uế theo Luật Môsê (x. Cv 10,9-15). + Làm thợ thì đáng được trả công: Ăn những thức người ta dọn cho không phải là ăn của bố thí, nhưng là một thứ lương bổng do sự công bằng đòi buộc, tương xứng với Tin mừng cao quý mà các ông đem đến. Trách nhiệm của Cộng đoàn Hội thánh là phải lo phương tiện sống và hoạt động cho các người rao giảng Tin mừng. Sau này thánh Phaolô cũng nói rằng: “Quả vậy Kinh thánh có nói: Đừng bịt mõm con bò đang đạp lúa, và làm thợ thì đáng được trả công: (1 Tm 5,18; Mt 10,10; Đnl 25,4). Nơi khác Ngài còn nói: “Một khi chúng tôi đã gieo của thiêng liêng cho anh em, thì nếu chúng tôi có gặt của vật chất nơi anh em, thì đâu có phải là chuyện quá đáng” (1 Cr 9,11). Tuy nhiên thánh Phaolô lại từ chối quyền gặt hái của cải vật chất ấy cho bản thân ngài (x. 1 Cr 9,12-14 ; 2 Cr 11,7-9). + Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia: Người Tông đồ phải tránh lo lắng tìm sự tiện nghi ăn ở cho mình, nhưng cần chuyên tâm chu tòan sứ vụ. + “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”: Các môn đệ đi trước dọn đường cho Đức Giêsu sắp đến. Người chính là hiện thân của Nước Thiên Chúa.
– C 10-12: + Vào bất cứ thành nào mà người ta không đón tiếp…: Đức Giêsu cảnh báo cho các môn đệ biết họ sẽ bị người ta từ chối đón nhận Tin mừng. Bấy giờ các ông vẫn phải cho họ biết: Dù họ có muốn hay không, một ngày kia, Thiên Chúa sẽ hiển trị. Đó là ngày Phán xét. Nếu họ cố tình chối từ, họ sẽ bị loại ra khỏi Nước Thiên Chúa. + Thành Xơ-đom: Là một địa danh thời Tổ phụ Ap-ra-ham. Thành này đã bị phạt vì đã phạm quá nhiều tội lỗi (St 10,19).
– C 17-20: + Nghe đến Danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con: Ma quỷ phải chịu xuất ra khỏi người bị chúng ám khi các môn đệ ra lệnh nhân Danh Đức Giêsu (x. Cv 16,18). + Xatan từ trời sa xuống: Xatan là cái tên ám chỉ ma quỷ, kẻ đối lập và thù ghét Thiên Chúa. Do đó, khi Nước Thiên Chúa xuất hiện, thì quyền lực của Xatan sẽ bị lật đổ. + Quyền năng để chà đạp lên rắn rết…: Các loài vật kể ra ở đây là khí giới của Xatan. Đức Giêsu chiến thắng Xatan thì cũng tước đoạt hết khí giới của chúng và bắt chúng phải phục quyền (Rm 8,37-39 ; Ga 12,31). + Mừng vì tên được ghi trên trời: Ở đây là cuốn sách trường sinh, trong đó có ghi tên những người được ơn cứu độ (x. Đnl 12,1; Kh 3,5).
4.CÂU HỎI: 1) Đức Giêsu sai bao nhiêu môn đệ đi truyền giáo ? 2) Tại sao môn đệ phải đi từng hai người một ? 3) Có bao nhiêu Tông đồ ? 4) Tông đồ khác với môn đệ thế nào ? 5) Tại sao Đức Giêsu lại truyền cho môn đệ đừng chào hỏi ai dọc đường và chúc bình an cho nơi mà các ông đến ở trọ ? 6) Hãy cho biết lý do các môn đệ lại được quyền ăn mọi thứ người ta dọn cho dựa theo Lời Chúa trong Thánh kinh ? 7) Thành Xơ-đom là thành nào ? 8) Khi nào thì quyền lực của Xatan hòan tòan bị sụp đổ ?
II-SỐNG LỜI CHÚA
1.LỜI CHÚA: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ gặt lúa về” (Lc 10,2):
2.CÂU CHUYỆN:
1) LÀM CHỨNG CHO CHÚA GIỮA ĐỜI THƯỜNG:
Tại Thủ đô Ma-ni-la nước Phi-líp-pin, có trường Đại học Công giáo A-ta-di-ô do các cha dòng Tên sáng lập, tọa lạc trên một ngọn đồi. Đây là một trường cung cấp rất nhiều nhân tài cho đất nước Phi. Dưới chân trường Đại học này là một khu lao động nghèo, trong đó có một Cộng đoàn tu sĩ Tiểu đệ. Đa số các tu sĩ ở đây đã từng ở Việt nam.
Một hôm, một vị linh mục dòng Tên người Mỹ, là Giáo sư Đại học A-ta-di-ô tình cờ đi lạc vào khu lao động ấy và giữa đường gặp được một tu sĩ Tiểu đệ người Bỉ. Sau khi làm quen, vị linh mục người Mỹ đã hỏi tu sĩ người Bỉ: “Thầy làm gì ở khu lao động này ?” Tu sĩ người Bỉ kia trả lời: “Hằng ngày tôi đi chợ, nấu ăn, giặt quần áo, đi làm thuê làm mướn cho những ai cần”. Nghe thế, vị linh mục người Mỹ rất lấy làm tiếc về sự hy sinh lãng phí của tu sĩ trí thức người Bỉ kia. Ông cũng cho biết công việc của ông ở đây là: Dạy học cho các sinh viên, đi thuyết trình đó đây nhằm rao giảng Tin mừng qua việc đào tạo thêm những nhà trí thức phục vụ Giáo hội Phi.
2) HÃY CHIẾN THẮNG SỰ DỮ BẰNG SỰ TIN YÊU:
Vào một buổi tối nọ, một diễn giả nổi tiếng là John Keller được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói: “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối. Ông John Keller lại nói tiếp: “Bây giờ tôi sẽ đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm của tôi đốt thì hãy kêu lớn tiếng: “Thấy rồi !” Một que diêm vừa được bật lên, thì cả vận động trường đều vang lên “Thấy rồi!”
Sau đó đèn trong vận động trường được bật sáng trở lại và ông John Keller giải thích: “Ánh sáng của một hành động nhân ái dù nhỏ như một que diêm cũng có thể chiếu sáng trong bóng đêm tăm tối của nhân loại y như thế”.
Rồi một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại vụt tắt và một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên!” Bỗng chốc, cả vận động trường đều rực cháy sáng.
Rồi ông John Keller kết luận: “Nếu tất cả mọi người chúng ta đều hợp lực cùng nhau, chúng ta sẽ có thể chiến thắng bóng tối, chiến thắng sự dữ và sự oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.
3.THẢO LUẬN: 1)Thế giới đã nhận biết và ca ngợi điều gì trong cuộc sống và hoạt động của Mẹ Têrêsa Can-quýt-ta ? 2)Ngày nay, muốn làm tông đồ truyền giáo hữu hiệu cho đồng bào Việt nam, chúng ta phải làm gì ?
4.SUY NIỆM:
1) Có nhiều cách thức truyền giáo: Cuộc đối thoại giữa vị linh mục dòng Tên người Mỹ và vị tu sĩ dòng Tiểu đệ người Bỉ trong câu chuyện trên cho chúng ta thấy có nhiều cách truyền giáo trong Hội thánh: Vị linh mục dòng Tên đại diện cho đông đảo các nhà truyền giáo trên khắp thế giới, ngày đêm rao giảng Tin mừng bằng khả năng tri thức và các phương tiện sẵn có. Nhưng bên cạnh đó, còn có các tu sĩ âm thầm sống giữa những người nghèo, chia sẻ sự lao động chân tay cực nhọc với những người nghèo khác… mà tu sĩ Tiểu đệ người Bỉ trong câu chuyện trên là một bằng chứng. Đây là những chứng nhân truyền giáo trong âm thầm, lấy cuộc sống chia sẻ để làm chứng cho Chúa. Cả hai đường lối truyền giáo ấy đều có giá trị và thực sự đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp cho Hội thánh.
2) Điều kiện của các thừa sai: Khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giêsu đã căn dặn họ phải sống hiền lành như con chiên và phải có lối sống đơn giản: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường”. Như vậy, một cuộc sống siêu thoát, không lệ thuộc vào của cải đời này, không phí thời giờ vào những chuyện không đâu, trông cậy vào Chúa quan phòng, khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở, cơm ăn… Tôn trọng tự do của tha nhân, chấp nhận có thể bị từ chối xua đuổi… đó chính là những điều mà những ai muốn làm chứng cho Nước Trời cần lưu tâm thực hiện.
3) Sống đạo và truyền đạo: Hiện nay dân số Á châu chiếm gần hai phần ba thế giới. Nhưng số người nhận biết Chúa chưa được 3 phần trăm. Á châu chính là cánh đồng lúa chín đang cần thợ gặt. Là thành phần của Hội thánh, mỗi tín hữu chúng ta cũng phải thi hành sứ vụ tông đồ. Chúng ta phải sống thế nào để những người khác phải bỡ ngỡ giống như người Do thái khi nhìn vào Cộng đoàn Hội thánh sơ khai đã thốt lên: “Xem kìa, họ thương nhau là dường nào !”. Kitô giáo không phải là một lý thuyết nhưng là chính sức sống của Đức Giêsu. Sống đạo là sống sức sống của Chúa và truyền đạo là truyền sức sống ấy sang cho người mình tiếp xúc.
4) Gây thiện cảm để giới thiệu Chúa cho lương dân: Gần đây hội nghị các Giám mục Á châu đã liệt kê một số điều mà các tín hữu cần học hỏi nơi các dân tộc châu Á như sau: Học tập cách cầu nguyện ăn chay và bố thí của người Hồi giáo. Học tập cách chiêm niệm nơi người Ấn giáo. Học tập sự từ bỏ của cải và tôn trọng sự sống nơi người Phật tử. Học cách xây dựng gia đình và xã hội có trật tự nơi Khổng giáo. Học sống đơn sơ khiêm tốn nơi Lão giáo… Càng học, ta càng nhận ra giáo lý Đức Giêsu tiềm ẩn trong giáo lý các tôn giáo đó và nhờ hiểu biết họ, ta sẽ gây được thiện cảm với họ để dễ dàng giới thiệu Đức Giêsu cho họ hơn.
5.NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊSU, Xưa Chúa đã sai các môn đệ đi truyền giáo trong tư thế siêu thoát, không cậy dựa vào thế lực của tiền bạc hay các phương tiện vật chất. Nay xin Chúa cũng cho chúng con biết chia sẻ Tin mừng với niềm vui của người mục tử khi tìm thấy con chiên lạc. Cho chúng con biết nói về Chúa với sự xác tín và kèm theo những dấu chỉ tình yêu. Xin ban cho chúng con góp phần đẩy lùi văn hóa sự chết, là sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con biết lau khô những giọt lệ của bao người đang đau khổ cả về thể xác cũng như tinh thần.
– LẠY CHÚA, thế giới thật bao la và vòng tay của chúng con lại quá bé nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm chặt tay nhau. Xin cho chúng con biết hợp tác với những người thiện chí dù họ không cùng niềm tin với chúng con, để mọi người cùng nhau loại trừ các tệ nạn xã hội, xây dựng một xã hội mới công bình và nhân ái theo thánh ý Chúa.
- X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA..- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH- HHTM
NIỀM VUI CỦA VIỆC ĐƯỢC GHI TẾN TRÊN NƯỚC TRỜI
Huệ Minh
Bài hát rất quen thuộc “Ngày về” của linh mục nhạc sĩ Kim Long như thế này : “Khi Chúa thương gọi con về, hồn con hân hoan như trong một giấc mơ. Miệng con nức vui tiếng cười, lưỡi con vang lời ca hát. Ngàn dân tung hô: con thật vinh phúc.
Khi dân Sion qua khỏi kiếp lưu đày, con vẫn cứ như còn sống hoài giấc mơ triền miên.
Hôm nay chư dân loan truyền với nhau rằng:Thiên Chúa rất nhân từ đã làm biết bao kỳ công.
Bao nhiêu anh em lưu lạc chốn quê người, xin Chúa dẫn đưa về như giòng nước xuôi miền nam.
Gieo trong đau thương sẽ gặt giữa vui mừng, đi khóc lóc u sầu sẽ về giữa muôn lời ca”.
Bài hát này thường được dùng và ta vẫn thường nghe hát trong các Thánh Lễ an táng. Trong một lần chia sẻ, Cha Kim Long mới giải thích ý nghĩa của bài hát này. Cha nói rằng khi được gọi về để lãnh sứ vụ linh mục thì vui quá và nhớ đến dân Sion khi lưu đày được trở về với Giêrusalem nên Cha mới sáng tác để bày tỏ niềm vui. Thế nhưng chẳng hiểu sao giáo dân lại hát bài này trong các lễ an táng.
Thật ra đây là niềm vui của dân Sion vui mừng khi được giải thoát.
Cùng với niềm vui ấy, ta nghe Isaia nói : Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: “Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị.” Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion. Hỡi Jerusalem điêu tàn hoang phế, hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi dân Người, và cứu chuộc Jerusalem. Trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh tay thần thánh của Người: ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta, người bốn bể rồi ra nhìn thấy (Is 52, 7-10).
Sách ngôn sứ Dacaria thì ghi lại như thế này : Chúa phán: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy ca tụng và hân hoan: vì này đây Ta đến ngự giữa ngươi. Trong ngày ấy sẽ có nhiều dân tộc quy phục Chúa, họ sẽ là dân Ta và Ta sẽ ngự giữa ngươi. Ngươi sẽ biết rằng Chúa các đạo binh đã sai ta đến cùng ngươi”. Thiên Chúa sẽ chiếm lấy Giuđa làm sản nghiệp của Người trong thánh địa, và sẽ còn tuyển chọn Giêrusalem. Mọi xác phàm hãy thinh lặng trước nhan thánh Chúa, vì Người đã chỗi dậy trong thành thánh của Người (Dcr 2, 14-17).
Và rồi, ta vừa nghe bài đọc thứ nhất trích từ sách ngôn sứ Isaia : “Các ngươi hãy vui mừng với Giêrusalem, và hết thảy những ai yêu quý nó, hãy nhảy mừng vì nó. Hỡi các ngươi là những kẻ than khóc nó, hãy hân hoan vui mừng với nó, để các ngươi bú sữa no nê nơi vú an ủi của nó, để các ngươi sung sướng bú đầy sữa vinh quang của nó. Vì chưng Chúa phán thế này: “Ta sẽ làm cho sự bình an chảy đến nó như con sông, và vinh quang chư dân tràn tới như thác lũ. Các ngươi sẽ được bú sữa, được ẵm vào lòng và được nâng niu trên đầu gối. Ta sẽ vỗ về các ngươi như người mẹ nâng niu con, và tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi. Các ngươi sẽ xem thấy, lòng các ngươi sẽ hân hoan, và các ngươi sẽ nẩy nở như hoa cỏ, và tôi tớ Chúa sẽ nhìn biết bàn tay của Chúa”. (Is 66, 10-14c)
Và, trong những dịp Lễ lớn, ta vẫn thường hân hoan hát với nhau bài hát rất quen thuộc :
Từ muôn phương ta về đây sánh vai lên đường
Đường đưa ta đi lên đền Chúa ca
Lòng hân hoan ta hòa chung tiếng hát nhịp nhàng
Vui hát mừng mừng dành Chúa của chúng ta.
Tiến tiến bước lên lên đền thánh của người
Cất tiếng hát vui lên đền thánh của người
Tiến tiến bước loan truyền hồng ân đến Chúa trời
Ta hát mừng tình thiên thu Chúa ta …
Phải nói rằng dân Israel cảm được niềm vui của việc lên Đền bởi lẽ Đền Giêrusalem là Thành Đô Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, trong Tin Mừng, các môn đệ được Chúa Giêsu mời gọi lên đường đi loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, loan báo Đền Giêrusalem Thiên Quốc đã gần đến.
Các môn đệ sau khi lên đường, trở về và niềm vui trào dâng : “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con”.
Để ý một chút, các môn đệ vâng lời Chúa Giêsu và đã lên đường loan báo Giêrusalem Thiên Quốc với hành trang không túi tiền, không bao bị, không giày dép …
Và đó chính là đòi buộc của Nước Trời với thái độ từ bỏ mọi quyến luyến của cải thế gian. Khi và chỉ khi ta thanh thoát với của cải thế gian, của quyền lực, của bụi trần thì khi đó ta mới dễ lên đường loan báo Tin Mừng Thiên Chúa được.
Giữa một xã hội mà người ta chạy theo quyền lực, của cải, ích kỷ, ghen ghét, hận thù … người Kitô hữu lại được mời gọi bỏ lại tất cả, bỏ tất cả chỉ để loan báo Tin Mừng mà thôi.
Hôm nay cũng là dịp để ta nhìn lại sứ mạng loan báo Tin Mừng của ta. Các môn đệ thì vui mừng vì cả ma quỷ cũng vâng phục các ông. Đơn giản là các ông đã từ bỏ mọi sự và để quyền năng của Thiên Chúa thể hiện trên đời mình. Khi mình hóa con người của mình ra không và để quyền năng Thiên Chúa tỏ lộ trên đời mình thì ma quỷ chạy làng.
Như Thánh Phaolô, Ngài hủy mình ra không để mặc lấy Đức Kitô.
Như Mẹ Maria, Mẹ đã để mình ra không để cho quyền năng Thiên Chúa thực thi trên đời Mẹ.
Đời chúng ta nặng nề bởi lẽ chúng ta ôm đồm quá nhiều, chúng ta ôm tiền, quyền, danh, vọng để rồi không còn chỗ cho quyền năng của Chúa có chỗ trong đời của ta nữa.
Ngày hôm nay, ta nhìn lại chính bản thân của ta để xin Chúa thương thêm ơn cho ta để ta sống thanh thoát với cuộc đời và vui mừng thật sự khi tiến gần đến Giêrusalem Thiên Quốc.
Chúa nói : “Anh em hãy vui mừng vì tên của anh em được ghi ở trên Trời” vẫn là tự do và lời đáp trả của mỗi người chúng ta. Ta muốn ghi tên ta ở đời này hay ghi tên của ta ở Giêrusalem Thiên Quốc là chọn lựa tự do của mỗi người chúng ta.
ĐỔI MỚI CÁI NHÌN-ĐỔI MỚI CON TIM
Huệ Minh
Ăn chay trong Cựu Ước là để mong chờ sự xuất hiện của Đấng Messia: Chúa Giêsu trong trang Tin Mừng đã dùng hình ảnh tiệc cưới và Tân lang để cho thấy chính Người là Đấng Messia đã đến. Như vậy, tinh thần ăn chay theo Cựu Ước không còn phù hợp nữa, nhưng đòi buộc phải thay đổi. Phải có một tinh thần ăn chay mới là đổi mới đời sống, không còn cậy dựa vào hình thức bên ngoài, mà cần phải đi sâu vào trong mối tương quan với Đức Giêsu.
Người đạo đức ở vào thời nào cũng thế, ăn chay là một điều kiện không thể thiếu. Nhưng trang Tin Mừng hôm nay lại không cho biết họ đang thuộc vào thời gian chay tịnh nào, mà Pharisêu và môn đệ Gioan lại giữ chay, nhưng môn đệ Chúa Giêsu lại không. Những người chuyên công kích Chúa đã chộp ngay cơ hội để bắt bẻ Chúa.
Khi các môn đệ của ông Gioan đến gặp Chúa Giêsu thắc mắc về chuyện họ phải ăn chay trong khi môn đệ của Chúa thì không. Bấy giờ Chúa Giêsu giải thích cho họ biết thêm vì “khách dự tiệc cưới không thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, bầu da vỡ, rượu đổ ra, và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu da mới, và cả hai được nguyên vẹn”.
Chúa Giêsu không vội trả lời trực tiếp, nhưng lại trả lời gián tiếp qua hai cách nói ẩn dụ “Tân lang”. Với hình ảnh ẩn dụ này, Chúa ám chỉ là chính Chúa Giêsu. Hình ảnh đám cưới chính là ơn cứu độ do Chúa đem đến, bạn bè của chú rể là các môn đệ. “Rượu mới”: là Luật mới do Chúa mang đến. “Áo cũ, bình cũ” là Lề Luật cũ do bọn Do Thái chỉ nắm giữ bằng mặt chữ mà trong lòng không có gì!
Ý Chúa muốn trả lời cho bọn họ, tại sao các môn đệ Chúa không giữ chay? Bởi vì Chúa đang hiện diện ở giữa họ, Ngài đang mang lại ơn cứu độ, mang lại niềm hạnh phúc sâu xa tràn ngập, thế thì làm sao lại phải ăn chay với tâm hồn sầu thảm, khóc lóc? Chúa muốn bảo họ hãy chờ đến khi “chú rể” không còn hiện diện nữa, tức là Chúa đi vào con đường Thập Giá tử tội, thì họ sẽ buồn khóc cũng đâu có muộn! Đây có lẽ là lời công bố cuộc khổ nạn sớm nhất so với các sách Tin Mừng khác.
Khi khẳng định điều này, Chúa Giêsu quả là một người quan sát tinh tế vì ở thời đó người ta chưa có bình đựng rượu nên họ thường chứa trong một cái bầu làm bằng da thú. Nếu rượu cũ đổ vào bầu da mới, rượu lên men và thải ra lượng khí carbon độc hại, túi da sẽ rách và rượu chảy ra ngoài. Trái lại rượu mới phải chứa trong bầu da mới vì da mới có tính đàn hồi nên sẽ không bị rách.
Chúa Giêsu còn dùng một hình ảnh rất quen thuộc với mọi người như việc lấy vải mới vá vào áo cũ, miếng vải mới làm áo dúm lại, và chỗ rách lại càng rách to hơn. Với lối nói so sánh bằng hình ảnh, Chúa Giêsu muốn mời gọi chúng ta cần có một tư tưởng mới, một cái nhìn cởi mở thì mới hiểu được những việc Chúa làm, hiểu được những giá trị của Tin Mừng. Có thể nói đây là một cuộc cách mạng lề luật giúp người ta không bị héo mòn trong mớ lề luật để vươn lên tầm cao mới của tình yêu mến. Việc ăn chay, đi lễ, đọc thiên kinh vạn quyển mà thiếu đức ái thì việc ấy có ích gì. Nếu chỉ giữ lề luật mà trong lòng còn chất chứa sự hận thù ghen ghét, đối xử bất công với người khác thì nào có ích gì.
Hình ảnh áo vá và rượu trong bầu da hình như không còn quen thuộc lắm nữa. Nếu Chúa nói chuyện với mọi người hôm nay, hẳn Ngài sẽ dùng những hình ảnh khác. Dù sao, cốt lõi sứ điệp vẫn rất rõ: Cần thích nghi để phù hợp! Ngữ cảnh ở đây là sự giải thích của Chúa Giêsu: Vì chàng rể đang hiện diện, nên các bạn hữu không ăn chay. Như vậy, chính sự hiện diện của Chúa Giêsu, tức của Tin Mừng, của Nước Trời, làm nên yếu tố mới mẻ và đòi người ta phải ứng xử phù hợp với yếu tố mới mẻ này.
Trong cuộc sống, không phải cái gì cũ cũng là xấu, trái lại kỷ niệm xưa thì đáng trân trọng, bạn cũ, đồ cổ thì quý. Trái lại cũng có trang vở mới tinh khôi, thanh khiết, có con đường mới thẳng tắp, chiếc cầu mới nối liền nhịp sống hai bên bờ sông … Đó là cái mới đáng trân trọng được xây nền tảng cái cũ, được chắt lọc từ sự tinh túy của cái cũ. Chúa Giêsu đã đến không phải để phá bỏ cái cũ nhưng kiện toàn và khắc lên đó một tinh thần mới, tinh thần khiêm tốn phục vụ và yêu thương trọn vẹn.
Chúng ta luôn sa ngã phạm tội, bởi đầu óc của ta cứ suy nghĩ và sống theo thói quen cũ. Xin Chúa giúp cho ta đổi mới cách nghĩ, cách nói, cách làm để ta trở nên con người mới.
XIN SAI NHIỀU THỢ GẶT
Huệ Minh
Trang Tin Mừng theo thánh Mátthêu hôm nay, cùng với việc giảng dạy để loan báo Tin Mừng Nước Trời, Chúa Giêsu còn “chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”; không chỉ bệnh hoạn tật nguyện gây ra do thân phận của con người, nhưng còn do bởi ma quỉ, vốn luôn phá hoại tương quan tin tưởng và tình yêu giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Bởi vì, con người không chỉ sống bằng sức khỏe thể lí, nhưng còn bằng tương quan nữa, tương quan với mình, với người khác và với Chúa; con người không thể sống bình an và hạnh phúc, nếu những tương quan này bị tổn thương.
Theo thống kê thì trên thế giới hiện nay có hơn 7 tỷ người, và có khoảng 1,5 tỷ người Công giáo. Tại Việt Nam có hơn 88 triệu người nhưng chỉ có khoảng hơn 6 triệu tín hữu. Một cách đồng mà sự chênh lệch rất lớn giữa nhu cầu thợ và tính cấp bách của cánh đồng lúa mà chính Chúa Giêsu đã nhìn thấy cách đây hơn 2000 năm.
Thế giới hôm nay còn nhiều điểm tối, nhưng vẫn có những đốm sáng rực rỡ: khi con người ngồi gần lại nhau để giải quyết tranh chấp, tìm kiếm hoà bình; khi cả thế giới lo chung một mối lo bảo vệ trái đất, ngăn chặn AIDS, diệt tận ma tuý; khi có những người nghèo quan tâm đến những người nghèo hơn; khi trẻ thơ và người già được chăm sóc; khi những hàng rào ngăn cách các nước được tháo gỡ; khi không còn kì thị chủng tộc, tôn giáo, màu da, khi những tiến bộ khoa học làm con người sống hạnh phúc; khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau, sống trên cùng một hành tinh, dười mái nhà bầu trời.
Nhìn vào thực tế, nhiều khu vực khó tìm thấy nhà thờ Công giáo, và nhiều nơi chỉ có leo teo vài người Công giáo sống chung phần lớn với những anh chị em chưa nhận biết Chúa. Bên cạnh đó, ý thức về trách nhiệm về ơn gọi truyền giáo của mỗi người Kitô hữu chưa thật sự ăn sâu và cảm nhận đủ. Như vậy, để thấy rằng nhận định và lời kêu gọi của Chúa Giêsu là “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít” luôn là thiết thực và cấp bách.
Vì thế, Giáo hội, nhất là trong bối cảnh hiện đại hóa, kỹ nghệ hóa ngày hôm nay cần biết bao những người Kitô hữu thao thức và khao khát mong muốn thực hiện ý muốn của Thiên Chúa là trở thành những người thợ gặt cùng cộng tác với Chúa trong việc dấn thân và sống chứng nhân của Tin Mừng.
Hôm nay, Chúa Giêsu thấy đám đông thị chạnh lòng thương, và Ngài nhận ra họ giống như bầy chiên không người chăn dắt. Chúng ta dễ dàng hình dung ra bầy chiên sẽ ra như thế nào, khi không có mục tử : chúng sẽ vất vưởng, vì lạc lối, tán loạn không tìm ra hướng đi hay đường đi; chúng sẽ lầm than, vì không tìm ra nguồn nước uống và lương thực đích thực, không tìm ra nơi chốn vĩnh cửu để nghỉ ngơi; và kết cục, không sớm thì muộn, cũng sẽ bị bách hại bởi sói dữ, bị lôi kéo bởi những kẻ lừa đảo, chuyên dụ dỗ, bởi thần tượng hay ngẫu tượng đủ loại. Vào thời của Chúa Giêsu, đã có những đám đông như thế; và vẫn còn những đám đông như thế vào thời của chúng ta ngày nay.
“Đám đông lầm than vất vưởng” ngày nay là những ai? Đó là những người, nhóm người, hay cả một xã hội, nhưng nhất là những người trẻ, mất hướng đi, mất niềm tin, chạy theo những mục đích chóng qua, bề ngoài, không có giá trị nhân bản, nhân linh truyền thống bền vững, chạy theo các thần tượng hay ngẫu tượng.
Và chính chúng ta nữa, ở mức độ nào đó, cá nhân cũng như cộng đoàn, chúng ta cũng sẽ trở thành lầm than vất vưởng, mỗi khi chúng ta không để cho Chúa Giêsu là mục tử, chăn dắt chúng ta, hướng dẫn chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời của ngài, bằng Mình và Máu thánh của Ngài, mỗi khi chúng ta không đón nhận sự nghỉ ngơi và bình an mà Chúa ban cho chúng ta (x. Mt 11, 28-30).
Mỗi Kitô hữu, không loại trừ, không miễn chuẩn, không độc quyền, không ỷ lại….tất cả đều phải có trách nhiệm và bổn phận với đời sống truyền giáo của Giáo hội, vì Giáo hội cũng chính là mỗi Kitô hữu. Sống nên, và sống đúng bằng một lòng yêu mến thiết tha, và với một ước muốn làm vinh danh Chúa, lúc đó đời sống của mỗi người chính là một bài giảng hùng hồn, và sẽ thu hút, chinh phục được các linh hồn. Ðây cũng chính là một lời mời gọi dấn thân, một khích lệ tinh thần cho những ai muốn tận hiến mình cho một mục đích thu hoặch và chinh phục các tâm hồn, vì đời sống tận hiến bắt nguồn từ đời sống thánh thiện của gia đình (Ðức Gioan Phaolô II)
Và vẫn theo lời Ðức Gioan Phaolô II, thì “trong khi cánh đồng truyền giáo còn bề bộn, thì không ai được nghỉ ngơi” và sứ vụ này cấp bách đến nổi “Đừng chào hỏi ai dọc đường”
Chúa chạnh lòng thương đàn chiên lầm than vất vưởng. Chúa ra tay cứu chữa, băng bó từng con chiên và đưa cả đàn đến đồng cỏ non, tới suối nước mát. Không chỉ thế, Chúa còn dạy cho ta cầu nguyện để Chúa Cha ban cho có những người tiếp nối sứ mạng mục tử ấy. Ta cùng xin Chúa thương xót những đàn chiên hiện đang bơ vơ thiếu vắng mục tử. Xin cho ta cũng biết quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa để lên đường loan báo Tin Mừng tình thương và chữa lành những con chiên đáng thương đang bị bệnh tật hay ma quỷ trói buộc.
ĐỨC TIN CỦA CON ĐÃ CỨU CHỮA CON
Huệ Minh
Trang Tin Mừng hôm nay nằm trong một loạt hành động của Chúa Giêsu về việc loan báo Nước Trời. Ngài chữa lành các loại bệnh hoạn tật nguyền cho người cùng khổ, nghèo hèn.
Hôm nay Tin Mừng ghi lại một vài cử chỉ của Chúa Giêsu đối với con người: một vị kỳ mục đến xin Ngài cứu đứa con vừa chết, người đàn bà mắc bệnh loạn huyết chi khấn thầm và sờ đến gấu áo của Ngài, cả hai đại diện của đủ mọi tầng lớp mà Chúa Giêsu gặp gỡ hàng ngày.
Mở đầu Tin Mừng, Thánh sử giới thiệu con người đến van xin Chúa cứu chữa con gái của ông. Đó là vị kỳ mục. Vị kỳ mục đã tìm đến với Chúa, người đàn bà đã len lỏi giữa đám đông để sờ vào Ngài, đó là hình ảnh của sự tìm kiếm mà con người không ngừng thực hiện để đến với Chúa. Nhưng thật ra, chính Thiên Chúa mới là Ðấng đi bước trước để đến với con người. Phép lạ đã diễn ra như một kết quả của lòng tin: “Ðức tin của con đã cứu chữa con”, nhưng cũng chính niềm tin đã giúp con người khám phá ra phép lạ Thiên Chúa không ngừng thực hiện vì yêu thương con người.
Ngài không loại trừ bất cứ hạng người nào, bất cứ giai cấp nào trong xã hội, bởi vì tất cả đều là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Ngài đến với 2 giai cấp trong xã hội, tuy họ khác nhau về đẳng cấp chức vị : một người đàn bà bệnh tật và một cô gái nhỏ, con của vị thủ lãnh trong xã hội. Nhưng cả hai đều chung một thái độ. Đó là niềm tin vào quyền năng và tình thương của Chúa Giêsu sẽ cứu chữa họ. Nhờ thế, mà họ được chữa lành.
Ta để ý một chút đến thái độ của viên kỳ mục, ông ta “bái lạy” và thưa : “Con gái tôi vừa mới chết. Nhưng, xin Ngài đến đặt tay lên cháu là nó sẽ sống”. Ông khẳng định mạnh mẽ : Nó chết rồi, nhưng Ngài đặt tay, nó sẽ sống. Cùng với hành vi bái lạy và lời xác tín của ông cho chúng ta thấy đức tin của ông mạnh mẽ dường nào. Trước thái độ nài xin của ông, Chúa Giêsu không đòi hỏi niềm tin nào hơn nữa, thánh sử viết : Ngài đứng dậy đi theo ông.
Trên đường đến nhà ông, có một người đàn bà bị bệnh băng huyết. Nghĩa là máu trong người bà đã bị mất rất nhiều sau 12 năm bệnh hoạn. Chắc hẳn nhìn vào con người gầy còm, xanh xao ấy mọi người đều biết bà bị mắc bệnh và bệnh này người Do thái coi là ô uế, đối với người nào vô tình chạm vào bà hoặc bà đã đụng đến họ.
Qua một cơn bão táp sóng gió cam go của cuộc đời, những người có niềm tin đã nhìn vào sự sống sót của mình như một phép lạ của tình thương. Những giờ phút hãi hùng trong cuộc sống, những thử thách phải trải qua, những đau khổ phải gánh chịu, đó là những phách mạnh trong bản trường ca về tình yêu Thiên Chúa. Có trải qua những giờ phút ấy, chúng ta mới nhận ra được cánh tay đỡ nâng của Chúa.
Con người khao khát Thiên Chúa, hay đúng hơn Thiên Chúa đã tạo dựng con người, với nỗi khao khát vô biên ấy. Con người không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, hay đúng hơn chính Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với Ngài. Thiên Chúa yêu thương con người, tình yêu của Ngài vượt trên mọi thước đo, mọi dự đoán, mọi tưởng tượng của con người, đó là tất cả những gì Chúa Giêsu đã đến để mạc khải cho con người.
Thế giới ngày nay đang bị ác thần thống trị khắp nơi, nhưng con người không nhận ra hoặc thậm chí không cần nhận ra điều đó. Họ sẵn sằng làm nô lệ cho đồng tiền, danh dự, vinh quang, phú quý vinh hoa giả tạo. Lương tâm của họ bị che khuất. Cảm thức về tội lỗi bị chai lỳ, không còn sức hút nhạy cảm.
Thật ra, chúng ta là những người đáng thương hơn ai hết. Chúng ta bị ma quỷ thống trị mà chúng ta không biết mà còn cho đó là những vị thần cứu tinh của đời mình. Xin Chúa thức tỉnh lương tâm chúng ta. Xin Chúa khơi dậy trong tâm hồn chúng ta bản chất con người nguyên tuyền ban đầu mà Chúa đã dựng nên. Xin cho chúng ta dám trao cho Chúa cuộc đời của chúng ta. Xin cho chúng ta có niềm tin “mộc mạc” của người đàn bà băng huyết hay của ông kỳ mục … để Chúa cứu chúng ta.
Và, chúng ta xin Chúa cho chúng ta một đức tin sáng suốt để chúng ta không ngừng nhận ra tình yêu của Chúa và dâng lời cảm tạ Chúa.
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]