• Những mẫu gương sáng ngời<strong>-</strong> LM Phạm Thanh Liêm
  • Phần tốt nhất-Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  • Phục vụ chu đáo-Am Trần Bình An
  • Bài học khiêm hạ-Huệ Minh
  • Sống trọn vẹn đức ái-Huệ Minh
  • LẮNG NGHE VÀ ĐÓN NHẬN LỜI CHÚA LÀ NGƯỜI KHÔN NGOAN-Jos. Vinc. Ngọc Biển
  • Lời Chúa<strong><em>-</em></strong> Lm. Giuse Trần Việt Hùng
  • Hai Suy Tư-Mai Tá
  • SAI LẦM CỦA NGƯỜI THẦU KHOÁN-<span class=
  • Rước Chúa vào nhà-Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
  • Ơn Gọi-Lm Vũđình Tường
  • Cần kết hợp giữa hoạt động và cầu nguyện-Lm. Anthony Trung Thành

NHŨNG MẪU GƯƠNG SÁNG NGỜI

LM Phạm Thanh Liêm

Ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay cho thấy những tấm gương sống Lời Chúa trong những hoàn cảnh khác nhau: Abraham, Maria và Phaolô.

Chọn điều tốt nhất

Đức Giêsu trên đường rao giảng, ghé vào một gia đình rất quý mến Ngài.  Đó là gia đình của Martha, Maria và Lazarô.  Cô Martha lo làm đồ ăn đãi khách.  Có lẽ có cả các tông đồ cùng ở với Đức Giêsu, vì thế Martha một mình làm bếp cho mười sáu người ăn.  Với gia đình này, Đức Giêsu và các tông đồ là những vị khách quý, nên có thể đây là bữa tiệc.  Biết bao việc phải làm, thế mà Maria vẫn ngồi bên chân Đức Giêsu và nghe Ngài giảng dạy.  Chắc Martha đã ra hiệu hoặc nói với Maria giúp mình, nhưng Maria vẫn giữ lập trường: Ngồi tiếp chuyện Đức Giêsu, ngồi nghe Ngài giảng dạy.  Không thể chịu nổi nữa, Martha đã xin Đức Giêsu can thiệp: “Em con để một mình con với bao nhiêu việc, xin thầy bảo nó giúp con một tay.”

Theo nhiều người, Martha hoàn toàn có lý.  Cả Maria lẫn Đức Giêsu đều không được tế nhị lắm. Có lẽ Martha không chỉ trách Maria, mà trách cả Đức Giêsu như thể Đức Giêsu vô tình không để ý đến vất vả của Martha.

“Martha, chị lo lắng về nhiều chuyện quá.  Chỉ cần một điều thôi.  Maria đã chọn phần tốt nhất và không ai cướp đi được.”  Trên đời có nhiều điều có thể làm, phải chọn điều nào quan trọng và cần thiết để làm.  Trong trường hợp này, không cần phải làm nhiều món để đãi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài.  Không cần phải vất vả như vậy.  Tại sao lại phải làm nhiều món, và điều đó lại là không quan trọng (đối với Đức Giêsu), để rồi phải càm ràm oán trách người khác.  Maria đã chọn nghe Lời Chúa, và cũng sẵn sàng chấp nhận bị chị càm ràm, và cả người đời càm ràm chê trách, như thể là người lười, như thể là người không tế nhị và không biết giúp đỡ chị nữa.

Không có một bản lĩnh và một chọn lựa dứt khoát, không thể hành xử như Maria được.  Trong cuộc sống, tôi đã chọn điều gì là quan trọng?

Niềm nở ân cần tiếp đón tha nhân

“Đang ngồi hóng mát, nhìn lên Abraham thấy “ba vị” đang đứng gần.  Abraham chạy lại, cúi mình chào các vị, mời các vị khách rửa chân cho thoải mái trong một môi trường nóng bức, và dùng bữa.”  Với Abraham, đây không phải là những người quen thường gặp, thế nhưng Abraham đã tiếp đón rất ân cần tử tế.  Thái độ hiếu khách của Abraham đã làm tương quan giữa Abraham và khách trở nên rất tốt, đến độ các vị khách đã “tỏ mình” cho Abraham.

Thái độ hiếu khách của Abraham đặt vấn đề cho con người ngày nay.  Thái độ sống của tôi đối với những người tôi gặp gỡ như thế nào?  Abraham đã đón tiếp tha nhân, và cuộc đón tiếp này đã trở thành cuộc đón tiếp Thiên Chúa.  Đức Giêsu cũng đã đồng hóa mình với những người nghèo, đến độ ai đón tiếp người nghèo là đón tiếp Chúa, ai cho người nghèo ăn là cho Chúa ăn, ai đi thăm và giúp đỡ người nghèo là đi thăm và đón tiếp Chúa (Mt.25, 31tt).  Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa.

Rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô

Cả cuộc sống của Phaolô sau khi trở lại, là rao giảng, phục vụ Tin Mừng.  Ngài được gọi để được sai đi rao giảng, và Ngài đã thực hiện sứ mạng của Ngài trong mọi hoàn cảnh, bất chấp những khó khăn và nguy hiểm.  Ngài rao giảng cả khi ở trong tù, cho cả người Do Thái lẫn người ngoại, cho người đời bình thường cũng như cho những người có địa vị và thế lực.  Ngài vui ngay cả trong những khổ đau, và Ngài muốn “hoàn tất” những gì còn thiếu trong thân thể Giáo Hội.  Với Phaolô, Ngài “học no học đói,” Ngài làm tất cả để Chúa được tôn vinh hơn.

Với Phaolô, Đức Giêsu là Tin Mừng.  Đức Giêsu là mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, nay được mặc khải cho con người.  Đức Giêsu Kitô là tất cả đối với Phaolô, Ngài sẵn sàng bỏ tất cả để được Đức Giêsu Kitô.

Phaolô trở thành con người tuyệt vời, nhờ thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng.  Ước gì mỗi người không mắc cỡ nhưng can đảm tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Tin Mừng.  Chính nhờ Đức Giêsu Kitô mà mỗi người Kitô hữu trở thành người tuyệt vời.

PHẦN TỐT NHẤT

Lm. Antôn Nguyễn Văn ĐộAntonius-Do300

Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XVI Năm – C

(Lc 10, 38-42)

Khung cảnh gia đình

Hôm nay, thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta chuyện gia đình của Matta và Maria. Hàng ngày gia đình của họ ra sao chúng ta không hay biết, chỉ khi cô chị Matta rước Chúa Giêsu vào nhà và tất bật làm cơm thiết đãi Chúa, còn cô em thì ngồi bên chân Chúa và nghe lời Người chúng ta mới có chuyện (x. Lc 10,38-42). Gia đình Matta và Maria còn có cậu em trai là Lazarô không thấy nói tới.

Chúng ta cùng tưởng tượng cảnh diễn ra trong nhà này : người chị chạy lên chạy xuống, còn người em ra như bị lôi cuốn vào việc chuyện trò với Khách. Một lúc sau, người chị Matta, chắc cảm thấy mệt nhọc, nên đã lên tiếng nói với vị Khách: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình, mà không quan tâm sao sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với?” (Lc 10,40). Xem ra cô chị Matta không những bất bình với cô em là Maria mà còn cả với Khách mời nữa.

Thái độ cần phải có

Chính câu nói này của Chúa Giêsu làm nảy sinh những khuynh hướng khác nhau. Có người cảm thấy tiếc cho Matta, vì Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Matta, trong lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giêsu, khi Matta đến phàn nàn, Chúa Giêsu lại nói: “Matta, Matta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất” (Lc 10,41-42). Vậy là việc cô làm chưa phải là tốt nhất.

Khuynh hướng khác cho rằng, Chúa Giêsu không có ý phê phán thái độ hiếu khách của Matta khi Người nêu bật hành vi của Maria “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người.” Tuy nhiên, khi phải chọn lựa thì Chúa Giêsu vẫn thích kẻ “nghe” lời Người hơn là loay hoay chuyện cơm nước…Người cũng cho biết đây là “phần tốt nhất.”

Hẳn Chúa Giêsu không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Matta tất bật với việc tiếp đãi Khách, và một của Maria ngồi bên chân Khách để trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên tâm sự. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Matta. Chúa không chê hoạt động, lại càng không trách sự tiếp đón quảng đại, Người chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria để nói lên thái độ cơ bản con người phải có đối với Thiên Chúa là lắng nghe lời Chúa. Lời Chúa thì vững bền và mang lại ý nghĩa cho các hoạt động hằng ngày của chúng ta.

Gương của Matta và Maria

Matta và Maria trong Tin Mừng hôm nay nêu gương cho chúng ta và bảo chúng ta rằng nhân đức không chỉ có một mặt, vì trong việc tông đồ, người này làm việc tích cực, hết sức mình, người kia quan tâm đến việc rao giảng Lời Chúa. Nếu sự quan tâm này kết hợp sâu xa với đức tin, thì sẽ rất tốt cho công việc.

“Maria đã chọn phần tốt nhất”. Chúng ta cũng thế, chúng ta cần phải cố gắng, để có được điều mà không ai lấy mất được, nên cần phải lằng nghe. Lắng nghe ở đây không phải là đãng trí, nhưng là chú ý ; vì ngay cả hạt giống lời Chúa từ trời xuống cũng bị lấy mất, nếu hạt giống đó gieo bên vệ đường, không được gieo vào đất tốt, tức là nghe nhưng không được đón nhận (x. Lc 8, 5.12)

Lắng nghe lời Chúa như cô Maria là khôn ngoan, vì đây là việc làm cao cả và hoàn hảo nhất. Lo lắng phục vụ là cần thiết, nhưng làm sao để những lo lắng phục vụ không cản trở ta đón nhận Lời Chúa từ trời xuống. Hãy khoan đừng có chỉ chích phê bình hay kết án những sự nhàn rỗi, những người mà chúng ta sẽ thấy họ làm việc tất bật để có được sự khôn ngoan, như Salomon, một con người hiền hòa, đã nài xin Chúa gửi Đức khôn ngoan của Ngài tới cự ngụ nơi nhà ông, khi thưa : “Lạy Chúa, xin gửi Đức không ngoan Ngài tới, để phù trì và đồng lao cộng khổ với con ” (Kn 9, 10). Tuy nhiên đấy không phải là lời trách móc những việc Matta làm : Maria được Chúa Giêsu thích hơn vì Maria đã chọn phần tốt nhất. Người là Đấng giầu có, và Người trao ban cho cả Matta và Maria cách quảng đại ; Maria là người nữ khôn ngoan, vì cô biết nhận ra và chọn lựa điều quan trọng nhất.

Các Tông Đồ cũng cho rằng : “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải” (Tđcv 6,2). Khi đứng giữa hai điều, một là rao giảng Lời Chúa, hai là phục vụ, tất cả đều là việc khôn ngoan : Stêphanô cùng với Philipphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, đã chọn việc phục vụ, với tư cách là thầy phó tế, và các ngài đã hoàn thành cách thật khôn ngoan (Tđcv 6,5.8)… Như thế, Giáo hội là một thân thể, các bộ phận tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể : “Vậy mắt không có thể bảo tay: “Tao không cần đến mày”; đầu cũng không thể bảo hai chân: “Tao không cần chúng mày” (1 Cr 12, 21)… Nếu có một vài chi thể quan trọng nhất, thì các bộ phận khác cũng không kém phần quan trọng. Sự khôn ngoan ở trong đầu, còn hoạt động thể hiện nơi những bàn tay.

Lời Chúa trong cuộc đời

Con người đang đánh mất dần ý thức về sự thánh thiêng, trong một thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất. Người Kitô hữu phải lấy việc lắng nghe Lời Chúa là điều quan trọng nhất. Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa, bằng cách suy niệm Kinh Thánh với đức tin, bằng cách tĩnh tâm cầu nguyện riêng cá nhân cũng như cộng đoàn, bằng việc im lặng mặc niệm trước Thánh Thể; từ Nhà Tạm, Chúa Kitô nói với chúng ta về tình yêu của Người. Ðặc biệt vào ngày Chúa Nhật, những người kitô được mời gọi đến gặp gỡ và lắng nghe Chúa. Ðiều này được thực hiện cách trọn vẹn, nhờ qua việc tham dự vào Thánh Lễ, trong đó Chúa Kitô dọn ra cho các tín hữu bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Bánh ban sự sống. Tuy nhiên, những giây phút cầu nguyện và suy tư, những giây phút nghỉ ngơi và sống tình huynh đệ, cũng có thể góp phần hữu ích vào việc thánh hóa ngày của Chúa.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, xin Mẹ giúp chúng con gắn bó cùng Chúa cho đến trọn đời. Amen.

PHỤC VỤ CHU ĐÁO

Am Trần Bình An an2

Chia sẻ Tin Mừng CN 16 TN NC 2016 (Lc 10,38-42)

Sau một hành trình dài dằng dặc như  địa ngục trong xe chở gia súc từ  Singapore – nơi họ đã trải qua 8 tháng tù trước đó – Đại tá Philip Toosey (1904-1975) cùng với 690 tù nhân thuộc Lữ đoàn 135, quân đội Anh, đã đến trại giam Tamarkan, Thái Lan, nằm trong một khu rừng cách Bangkok 120 km về phía tây, gần sông Kwai Yai. Sang ngày hôm sau, số tù nhân tăng vọt lên 1.000. Các sĩ quan nhất trí bầu chọn Toosey làm sĩ quan cấp cao. Sự bình chọn này được Trung úy Nhật Kosakata, chỉ huy trại, công nhận.

Kosakata báo cho Toosey biết nhiệm vụ của các tù nhân là xây dựng 2 chiếc cầu bắc qua sông Kwai: một chiếc cầu gỗ dài 100m cho các phương tiện giao thông nhẹ; một chiếc cầu thép dài 300m, dựng trên 11 cột chống bêtông, với 2 km bờ đê hai bên, là đường ray trọng điểm dẫn đến phòng tuyến tiếp tế của Nhật. Thời gian hoàn thành là từ 9 tháng – 1 năm. Một ngày làm việc bắt đầu từ lúc trời vừa hửng sáng. Sau khi được phát cơm và canh, các tù nhân được điểm danh, chia thành từng nhóm, bước lên nhận cuốc, xẻng, điểm danh lần nữa, rồi tiến vào rừng. Nguyên tắc là công việc của ngày phải được hoàn thành, và không có nhóm nào được phép về trước. Tù nhân làm việc chân đất dưới ánh nắng mặt trời gay gắt từ 7h sáng đến 7-8h tối.

Cầu được xây toàn bằng sức lực con người. Tù nhân liên tục bị hành hạ và trừng phạt bởi những lỗi lầm nhỏ bé nhất, nhưng Toosey ra lệnh, rằng bất cứ hành động phi nhân tính nào của bọn lính gác, cũng cần phải được báo cáo lên ông ngay lập tức. Đến tháng 12/1942, chiếc cầu gỗ gần hoàn thành. Các tù nhân rất vui sướng khi thấy nước sông dâng lên cao bất ngờ và cuốn trôi chiếc cầu. Nhưng niềm vui ngắn ngủi tan biến ngay lập tức, bởi họ phải làm việc cực nhọc hơn để xây dựng lại nó, với chỉ tiêu hoàn thành là từ tháng 12 cho đến tháng 8. Toosey biết rằng, quân Nhật sẽ xây đường xe lửa bằng bất cứ giá nào vì vậy, ông nói với các tù nhân rằng, kỷ luật lao động là điều quan trọng.

Toosey từ chối học tiếng Nhật, để ông luôn luôn có thể nói câu: “Tôi không hiểu”. Ông may mắn có được sĩ quan phụ tá David Boyle, có thể nói được tiếng Nhật bồi và làm phiên dịch cho ông cho đến hết cuộc chiến. Dần dần, quân Nhật cũng hiểu ra, rằng nếu như ông nói không, thì có nghĩa là ông sẽ khăng khăng như vậy cho đến khi chúng bắn chết ông thì thôi.

Chẳng bao lâu, ông đã thuyết phục được chúng bàn giao lại cho ông những vấn đề về xử lý công cụ và phân công lao động. Các sĩ quan phụ trách công việc được giao nhiệm vụ làm giám sát công trình thay cho bọn lính canh. Và nếu như các kỹ sư Nhật bàn giao mục tiêu của ngày hôm sau cho ông, thì ông sẽ cùng mọi người nghĩ ra cách nào tốt nhất để hoàn thành công việc vào đầu giờ chiều, khiến nhiều tuần trôi qua, mà không có ai bị đánh đập cả.

Vệ sinh là nỗi ám ảnh của Toosey, vì rất nhiều căn bệnh của khí hậu nhiệt đới đi kèm với ruồi. Ông thường xuyên kiểm tra lều chòi, nhà bếp, bắt tù nhân phải cạo râu, cắt tóc, vì đấy là nơi trú ẩn của chấy rận. Những nỗ lực của ông đã được đền bù. Chỉ có 9 người chết trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 5.

Những phần cơm canh nghèo nàn được bổ sung bằng trứng, thịt, trái cây, bắp mua được từ các dân buôn địa phương, mỗi khi các nhóm làm việc được ra ngoài. Toosey cương quyết với yêu cầu 1/3 số tiền được trả cho các sĩ quan, phải được dùng để mua thực phẩm và thuốc men cho người bệnh. Ông đã thuyết phục tên chỉ huy trại cho phép mở một trang trại nuôi vịt và heo, sau khi biết được có một sĩ quan từng là nông dân chăn nuôi gia cầm.

Đích thân ông còn là người bắt mối liên lạc đầu tiên với một tổ chức bí mật, để cung cấp thuốc men và tiền bạc cho nhiều trại giam, cứu thoát mạng sống của hàng trăm người. Toosey rời trại giam Tamarkan vào năm 1943 và nó trở thành nhà tù nhốt các phạm nhân về sau này. Cuối cùng, các cây cầu đã bị phá hủy, không phải do lính biệt kích như trong phim mô tả, nhưng là do quân Anh, Mỹ ném bom. Đại tá Toosey được công nhận là người anh hùng, theo tiêu chí mà con người của thế giới ngày nay có thể làm được. Đó là hiểu biết những điều kiện cần thiết của hoàn cảnh để tồn tại! (Thuý Hân, theo Reader’s Digest) 

Đại tá Philip Toosey đã công khai phục vụ chu đáo, giúp đỡ, chăm lo các bạn tù, nhưng vẫn bị Hollywood bôi nhọ qua bộ phim Cầu Sông Kwai (1957) của đạo diễn David Lean, với tài tử Alec Guinness đóng vai Đại tá Nicholson, hợp tác với quân Nhật, đày đoạ đồng hương. Trong Tin Mừng thánh Luca Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu ghé thăm nhà chị em Mácta, Maria và Lazarô, được phục vụ qua cung cách khác nhau của hai chị em.

Cô Mácta một mình bận rộn bếp núc, lo phục vụ chiêu đãi Đức Giêsu và các môn đệ. Trong khi đó, cô em Maria phục vụ đón tiếp. Thấy cô em cứ mải trò chuyện, Mácta bất bình, thưa cùng Người: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !” Cô đâu biết rằng Maria cũng đang hết sức bận rộn phục vụ Lời Chúa, quan trọng, cao quý và cấp bách vô cùng. Vậy để việc phục vụ đúng đắn, hiệu quả, hữu ích cho tha nhân và nhất là để làm sáng danh Thiên Chúa, thì phải cần thiết nhờ Chúa, với Chúa và trong Chúa.  

Nhờ Chúa  

Cần luôn biết ơn, cảm tạ, ca ngợi Chúa. Rồi chăm chú lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu Thánh Ý Chúa trong từng phút giây hiện tại, cùng chân thành tâm sự với Người. Dốc hết tâm can, niềm vui lẫn nỗi buồn, thành công hay thất bại, bối rối ứng xử, chọn lựa theo Chúa hay theo thế tục. Nguyện xin Người chỉ bảo, hướng dẫn đi trong ánh sáng đường ngay nẻo chính, trong chân lý và sự thật. Đó chính là cầu nguyện, một bí quyết quan trọng, thiết yếu của người môn đệ, thực sự muốn phục vụ Chúa và tha nhân.

Khi được hỏi về bí quyết để can đảm dấn thân, tích cực phục vụ những người hấp hối, bệnh hoạn, phong hủi, Mẹ Têrêsa chỉ vắn tắt, đơn sơ trả lời: “Bí quyết của tôi rất đơn giản: cầu nguyện.” 

Mẹ Têrêsa luôn cầu nguyện trước khi bắt tay phục vụ. Mỗi ngày nhà dòng Mẹ dành nguyên một giờ chầu Mình Thánh Chúa trước khi săn sóc những người nghèo khổ, hoặc đi vào trong các “nhà hấp hối,” giúp những người sắp chết được an nghỉ trong Chúa. Cầu nguyện để đón nhận sức sống, lòng can đảm, hy sinh, nghị lực chịu đựng, để dấn thân phục vụ. Mẹ Têrêsa đã trở nên thân tộc của Đức Giêsu khi thực hiện lời dạy: “Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).

Với Chúa

Cùng với Chúa phục vụ quảng đại, cởi mở, thân thiết thắm tình huynh đệ, không phân biệt đối xử, chẳng kể giầu nghèo, sang hèn, thân hay sơ, thành viên hay cảm tình viên. Không cần biết đồng đạo hay khác đạo, chẳng quan tâm đồng bào hay ngoại kiều, chẳng hề chấp nhất phe ta hay phe địch.

Hơn nữa, cùng với Chúa đặc biệt quan tâm đến những thân phận thấp hèn, nghèo túng, cô quả, đau yếu, bênh hoạn, sống bên lề xã hội. “Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu!… Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9, 12-13)

Cụ thể hôm nay, Đức Giêsu ân cần an ủi, nhắc nhủ cô Mácta, khi thân thương hai lần xướng gọi tên cô: “Mác-ta! Mác-ta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!” Người mời gọi Mácta thoát ra khỏi thói đời, bận rộn, lo toan, quá quan tâm đến vật chất, đến lương thực mau hư nát, mà vô tình quên đi lương thực trường sinh là Lời Chúa, là Thánh Ý Chúa. “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy đi”.

Ngài muốn giải phóng Mácta khỏi thói đố kỵ, ganh tương, so bì, hơn thiệt, tự tôn, tự đại khi phục vụ. Thường con người hay có khuynh hướng kiêu căng, vị kỷ, dẫu đang phục vụ, cũng muốn được phục vụ lại chính mình, muốn được nhìn nhận công nhận công trạng, cống hiến. Chứ không muốn âm thầm cho đi, lặng lẽ khiêm tốn phục vụ, vì lo áo gấm đi đêm, liệu có ai hay biết chăng. Vì thế, Đức Giêsu đã phải tha thiết cảnh báo: “Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Ðấng ở trên trời…” (Mt 6, 1)

Trong Chúa  

Phục vụ trong Chúa thì luôn sẵn sàng bỏ mình, vác thập giá mà theo Người. Ngay trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã quỳ xuống, cúi mình rửa chân cho 12 môn đệ, dẫu rằng Người biết các ông sẽ lìa bỏ Người chịu cô đơn chống chọi giữa bầy sói, thậm chí Người còn biết cả kẻ phản bội, chối Người và bán Người cho quân dữ. Nhưng Người vẫn không hề phân biệt đối xử, không giận dữ, cũng không hề chua chát than thở, hay trách móc, mà vẫn chu đáo, vui vẻ rửa chân cho tất cả. Một thái độ từ bỏ mình tuyệt đỉnh dành cho những ai muốn theo Người, noi theo đến muôn đời.

Hơn nữa, khi phục vụ mà chịu thử thách, chịu đau khổ, chịu hành hạ, xách nhiễu, thì càng được nhiều phúc lành, như đệ bát phúc xác nhận: “Phúc thay anh em khi vì Thầy  mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh  em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh  em ở trên trời thật lớn lao.” (Mt 5, 11-12)

“Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi kẻ khác dâng hiến, đó là cách con phục vụ họ tốt đẹp hơn cả; con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô.” (Đường HY Vọng, số 611)  

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn kết hiệp với Lời Chúa, nguồn sống dồi dào sung mãn. Đồng thời xin cũng dạy chúng con luôn sống quảng đại, luôn biết cho đi, dấn thân phục vụ tha nhân, như Chúa luôn yêu thương trao ban. Nhất là xin dạy chúng con biết từ bỏ bản thân, để chấp nhận khổ giá khi theo Chúa.

Khấn xin Mẹ Maria an ủi, cầu bầu và dìu dắt chúng con luôn biết cân bằng đời sống cầu nguyện và đời sống phục vụ, để chúng con có thể kín múc nguồn lực dồi dào từ Đức Giêsu Kitô, cung ứng dư đầy cho các hoạt động phục vụ Nước Chúa. Amen.

BÀI HỌC KHIÊM HẠ

Huệ Minh

Thời Chúa Giêsu, đế quốc La Mã đô hộ Giêrusalem và chiếm đóngtất cả các làng mạc, thành phố vùng Palestine. Người La Mã đã áp lực các loại thuế rất lớn trên những người người Do Thái nghèo.

Trang Tin Mừng hôm nay nhắc đến những kẻ vất vả mang gánh nặng nề. Những kẻ được gọi là nặng nề này được các nhà chú giải hiểu là những con người đơn sơ khiêm tốn, sẵn sàng để Thiên Chúa dạy dỗ hướng dẫn, như được nói đến trong đoạn Tin Mừng trước đó. Với tâm tình khiêm tốn, tâm hồn họ đã sẵn sàng và rồi Chúa Giêsu mời gọi họ đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ bổ sức cho; hay nói theo một bản dịch Kinh Thánh khác: để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng.

Gánh nặng mà họ được giải thoát, được Chúa Giêsu đề cập đến đó chính là gánh nặng của lề luật mà các nhà thông thái chất trên vai những con người đơn sơ, hèn mọn. Những nhà thông thái và làm luật bó gánh nặng đặt lên vai người khác, còn chính họ thì không muốn động ngón tay vào, như lời Chúa trách cứ thái độ giả hình của những người Biệt Phái. Tinh thần vụ luật, vụ hình thức đã làm cho những vị lãnh đạo Do Thái giáo không còn quả tim để thông cảm nữa.

Một bộ luật nặng nề và không hồn đã trở thành nhẹ nhàng nhờ có linh hồn là tình yêu thương. Đó là cuộc cách mạng vĩ đại nhất của Chúa Giêsu, cuộc cách mạng của tình thương. Chỉ có tình thương mới là khí giới lật đổ được bất công, và xây dựng được một xã hội công bằng thật sự. Chỉ có tình thương mới thực sự giải phóng con người khỏi mọi áp bức.

“Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”, lời mời gọi tha thiết mà không ồn ã, chắc chắn mà không vênh vang này có đủ sức để níu kéo, để hấp dẫn lòng người tìm đến suối nguồn của hạnh phúc, tìm đến Vị Ngôn Sứ duy nhất, vị thầy duy nhất mở lối cho họ tiến vào vương quốc của Khôn Ngoan thực sự. Với tất cả những điều đó, lời mời gọi này cũng chính là bí quyết của Khôn Ngoan.

Thật vậy, học với Chúa Giêsu là học có lòng hiền hậu và khiêm nhường như Ngài; và mang gánh của Ngài chính là sống theo luật yêu thương mà Ngài đã gọi là Luật Mới. Va như thế, so với cộng đoàn của Matthêu, gánh và ách của Chúa Giêsu là điều hoàn toàn mới mẻ so với hằng hà sa số những luật lệ mà các kinh sư Do thái bày ra cho dân vác. Gánh nặng của luật cũ làm oằn vai dân ; làm lụi tàn cuộc sống của họ vì luật không dựa trên tình yêu.

Quả vật, thời nào ta cũng thấy rằng nếu người ta cai trị dân bằng thứ luật của lợi nhuận và thu tích quyền lợi, dân sẽ khổ; nếu người ta truyền dạy những bài học không đặt nền trên tình yêu và sự khiêm tốn, dân sẽ chết.

Chúa Giêsu mời gọi dân chúng đến với Ngài để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng và được nâng đỡ bổ sức. Chống lại những người Biệt Phái, Chúa Giêsu đề ra một cái ách mới cho những ai chấp nhận Ngài. Ðây chẳng phải là không còn lề luật, bởi vì giáo huấn của Chúa Giêsu đòi hỏi không thua gì lề luật của Môsê. Nhưng đối với Chúa Giêsu, những kẻ tuân giữ luật Chúa được sức mạnh tinh thần nâng đỡ ủi an, đó là sức mạnh của Thánh Thần mà Ngài đã ban cho các môn đệ để họ tuân giữ luật Chúa, và như vậy luật Chúa trở nên nhẹ nhàng, dễ chu toàn.

Với trang Tin Mừng này, một lần nữa tự đáy lòng ta, ta cảm nhận tình yêu thương vô bờ và sâu nặng của Thiên Chúa qua Con Một Người. Chúa Giêsu đến trần gian không phải để phô trương, huyênh hoang, cũng không ăn thua đủ với những kinh sư biệt phái thời Ngài. Chúa Giêsu đến bằng tình yêu và đi trên con đường khiêm hạ. Tình yêu giúp Ngài luôn hướng trọn trái tim cho người nghèo, cho những người phận nhỏ. Sự khiêm hạ cho Ngài sức mạnh giúp những mảnh đời khốn khổ vươn cao, vươn xa trong Sự Khôn Ngoan đích thực, để đạt đến Hạnh Phúc Vĩnh Cửu.

Ở trường học Giêsu, Ngài không dạy “kỹ năng” làm phép lạ hay trừ quỷ mà chỉ dạy về đức khiêm nhường và sự hiền hậu. Bài học chủ đạo này chính là lối sống của thầy Giêsu truyền đạt cho các môn hạ. Khuôn mẫu cho bài học là con người Chúa Giêsu: nhân cách khiêm nhường và hiền hậu của Ngài thu hút các ông. Vì yêu mến Ngài, các ông nỗ lực học theo hai nhân đức ấy.

Xin cho ta biết lắng nghe lời mời gọi đến với Chúa, tin tưởng vào Chúa và lấy tình yêu đáp trả tình yêu để “ách Chúa trở nên êm ái và gánh Chúa trở nên nhẹ nhàng” cho ta. Ta hãy đến với Giêsu cùng những gánh nặng ấy, để trong Ngài chúng ta được nghỉ ngơi, được đổ đầy yêu thương, đổ đầy sức mạnh của niềm tin để lấy lại sức mạnh và hy vọng cho cuộc đời.

THẦY ĐÂY ! ĐỪNG SỢ !-Huệ Minh

Con người thường sợ hãi trước dư luận, sợ mất danh dự, sợ mất quyền lợi, sợ mất mạng sống. Vấn đề đặt ra vẫn là chúng ta sợ hay tin, vì ở đâu có sợ, ở đấy chưa có tin. Ở đâu còn nghi ngờ về tương lai, ở đấy còn ngờ vực Thiên Chúa không quan tâm đến chúng ta. Không sợ có nghĩa là vững tin giữa cơn phong ba cuộc đời. Dù bản chất ta yếu đuối nhát sợ, ta vẫn có chỗ trong công việc truyền giáo. Loan báo Tin Mừng đòi ta can đảm và biết kín múc sức mạnh từ nơi Thiên Chúa.

Và rồi nỗi sợ hãi làm con người không dám nhìn nhận sự thật, đối diện với sự thật và nói sự thật. Chẳng hạn, sợ bị kỳ thị, nhiều Kitô hữu không dám nhìn nhận căn cước của mình; sợ bị mất chức quyền, nhiều Kitô hữu không dám công khai sống đạo; sợ phải sống như lời Chúa dạy, nhiều Kitô hữu không dám đọc và suy niệm Lời Chúa, không dám dấn thân, không dám chịu thiệt thòi.

Trang Tin Mừng hôm nay ở trong bối cảnh sứ vụ cứu độ của Chúa Giêsu. Sau khi tuyển chọn các môn đệ, Chúa sai họ đi với định hướng duy nhất là loan báo Nước Trời đã đến gần trong thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Chúa cũng tiên báo cho họ về những cuộc bách hại họ sẽ phải trải qua như bị nộp, bị thù ghét vì danh Chúa và họ sẽ đồng số phận bị loại bỏ như Chúa. Chúa biết điều đó làm cho các ông rất sợ hãi nên Chúa đã trấn an và khuyến khích: “Đừng sợ!” vì Chúa luôn hiện diện bên họ. Chúa trấn an họ: một khi đã đặt niềm tin vào Chúa, họ sẽ được yêu thương chăm sóc vì mạng sống con người còn quí hơn chim trời và hoa cỏ đồng nội.

“Đừng sợ!”, là lời Thiên Chúa đã nói hơn 365 lần trong Thánh Kinh để trấn an dân Chúa trong lịch sử cứu độ; và cũng là lời Chúa Giêsu liên tục củng cố niềm tin cho các môn đệ của Người. Vì thế, là những Kitô hữu trong ơn gọi bước theo sứ mạng của Chúa Giêsu giữa lòng thế giới đầy tràn những biến động hiện nay, chúng ta hãy tin rằng: Chúa Giêsu cũng đang nói với mỗi người chúng ta: Đừng sợ! “Lòng anh em đường xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (Ga 14,1). Đây là một lời trấn an rất cần thiết và có sức nâng đỡ tuyệt vời nhất cho thân phận yếu hèn của mỗi người chúng ta.

Chúa Giê-su bảo chúng ta “đừng sợ”, bởi không gì có thể che giấu sự thật, mà sự thật lớn lao nhất là sự hiện diện của Chúa. Theo thánh Gioan, sở dĩ người ta sợ hãi không dám nhìn nhận sự thật, bởi người ta thiếu tình yêu  Chúa. “Tình yêu thì không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi” (1Ga 4,18). Một khi tin yêu Chúa, Kitô hữu sẽ mạnh dạn xác nhận căn cước Kitô hữu của mình, sẽ can đảm sống lời Chúa dạy và sẽ dùng đời sống của mình minh chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa.

Vì Thiên Chúa là Cha yêu thương, luôn quan tâm săn sóc đến các tạo thành của Ngài, ngay cả những sinh vật nhỏ bé như  chim sẻ và hoa đồng nội. Đây là một điểm giáo lý quan trọng nên Chúa Giêsu thường nhắc lại với các môn đệ trong những tình huống cụ thể. Như khi các ông hoảng sợ vì biển động, Chúa đã đến trấn an: “Chính Thầy đây đừng sợ!” (Ga 6,20); hoặc trong bài diễn từ sau bữa tiệc ly, Chúa cũng nói với các ông: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian.” (Ga 16,33).

Nhờ sự trấn an, khích lệ của Chúa để rồi các môn đệ đã trung thành theo Chúa và sẵn sàng làm chứng cho Chúa đến hơi thở cuối cùng. Mặc dầu đức tin của các môn đệ ban đầu xem ra bị thử thách khi Chúa đi vào cuộc khổ nạn. Và rồi, chính trong hoàn cảnh bi đát của cuộc đời, Chúa vẫn tỏ cho các ông tình yêu thương xót, cảm thông, tha thứ của Thiên Chúa và tiếp tục tín nhiệm ban sức mạnh Thánh Thần cho các môn đệ và sai các ngài đi làm nhân chứng cho Chúa.

Hẳn ta còn nhớ hình ảnh hay nói đúng hơn tâm tình hết sức dễ thương khi đăng quang trong ngôi vị giáo hoàng, cả hai Đức Thánh Cha: Gioan Phaolô II và Bênêđitô XVI đều nhận lãnh sứ vụ trong thái độ nương tựa vào lời Chúa: “Đừng sợ!”

Ta thấy chính niềm xác tín vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Giáo Hội như Đầu nhiệm thể của Người, mà Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trở nên một nhân vật xây dựng hòa bình được toàn thế giới mến phục và Đức Bênêđictô XVI mới dám can đảm nhận chức Giáo Hoàng khi đã cao niên. Qua kinh nghiệm rất thực tiễn trong cuộc sống, ta thấy được trong vai trò đại diện cho Chúa Kitô, các ngài lại tiếp tục trấn an các tín hữu: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô” (ĐTC GP II), và “Hãy mở rộng ra những cánh cửa cho Chúa Kitô, và các con sẽ tìm thấy sự sống thật.” (ĐTC Bênêđictô XVI).

Xin Chúa cho ta thực sự được củng cố niềm tin qua trang Tin Mừng hôm nay. Hy vọng, mỗi khi phải đối diện với những đau khổ và thách đố trong sứ vụ làm chứng giữa đời, Chúa luôn ở bên cạnh ta và cho ta luôn cảm nhận được sự hiện diện của Chúa ở ngay bên ta với lời trấn an “Thầy đây. Đừng sợ! ”

CỬ CHỈ ĐẸP CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA

Huệ Minh

Ngày mỗi ngày trên và qua các phương tiện truyền thông xã hội, chúng ta đọc được nhiều bản tin. Nhiều bản tin chúng ta vừa xem và vừa tức như hai chữ “tin tức” ghép lại. Nhiều khi tức vì chẳng hiểu sao con người này hôm nay tỏ ra vô cảm trước những khổ đau, hoạn nạn của người khác đến như vậy.

Dụ ngôn người Samari nhân lành trong Tin Mừng hôm nay (Lc 10,25-37) chúng ta thấy thầy Tư tế và thầy Lêvi tuy là những người đạo đức của đạo Dothái nhưng lại là những người vô cảm trước người bị cướp đánh dọc đường.

Chúa Giêsu muốn cảnh báo chúng ta đừng bắt chước hai con người ấy, mà hãy làm như người Samari nhân lành, tuy là người ngoại đạo nhưng lại cứu giúp người gặp hoạn nạn trên đường. Người Samari nhân lành lành chính là mô hình mẫu của mọi Kitô hữu.

Thật vậy, với tất cả tâm tình đó, Tin Mừng hôm nay chỉ muốn làm nổi bật cái tư cách dễ thương của người Samari nhân hậu.

Ta thấy hình ảnh rất đẹp khi ông ta xuống ngựa và đến cúi xuống trên con người đang nằm quằn quại trên vệ đường. Ông chẳng để ý xem kẻ bất hạnh đây là ai? Là người Giuđa hay Samaria. Hai dân này vẫn coi nhau như cừu địch. Ông chỉ thấy đây là một kẻ bất hạnh, một con người như mình mà lại không được như mình. Và ông thấy bổn phận phải yêu thương người ấy như chính mình. Thế nên ông đổ dầu, đổ rượu vào các vết thương, băng bó mau lẹ, vực người ấy lên ngựa, phóng mau đến quán trọ gần nhất. Sau khi thuốc thang cho người ấy đỡ, ông giao lại cho chủ quán săn sóc và dặn rằng khi trở về ông sẽ trang trải mọi phí tổn.

Như vậy ai là kẻ cận thân, gần gũi với người bị nạn, nếu không phải là người Samaria nhân hậu này, mặc dù ông ta không cùng nòi giống và tôn giáo với người kia? Ðang khi hai thầy tư tế và Lêvi vừa là người Do Thái vừa là bậc dạy đạo đức lại coi kẻ đồng đạo, đồng bào là kẻ xa lạ… Chính những hành vi bác ái làm chứng ai thật là kẻ có lòng nhân? Ai là người nhân hậu? Ai mang bản tính nhân loại trong mình? Ai là người thật vì đã cư xử xứng đáng với nhân phẩm? Thế nên Chúa Giêsu kết luận: hãy đi và làm như vậy. Và tác giả Luca còn ngầm nói rằng: và như vậy rõ ràng Chúa không ưa lễ dâng, nhưng tìm lòng thương xót; và chính tình thương sẽ xóa bỏ được hận thù để làm cho những kẻ trước đây xa lạ trở nên cận thân và gần gũi.

Giáo huấn của Chúa Giêsu không khác Luật của Cựu Ước… và luật của mọi tôn giáo lớn. Sứ điệp của Đức Giêsu nhân bản một cách sâu xa. Yêu thương là luật nền tảng của con người.

Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu cho câu hỏi: “Ai là người thân của của tôi?” sẽ hướng chúng ta về cái mới mẻ thật sự có tính cách mạng của Tin Mừng. Đây là một tình yêu phổ quát, yêu thương cả “kẻ thù” mình.

Tác giả làm cho cuộc đối thoại nên phức tạp hơn, vì không đặt trực tiếp câu trả lời trên môi Chúa Giêsu, nhưng lại để Người trả lời bằng hai câu hỏi, với mục đích kéo người đối thoại vào trong cuộc. Cách đối thoại này diễn tả rất tốt khung cảnh của một dụ ngôn, là nhắm giúp triển khai tiệm tiến cuộc đối thoại và đào sâu việc giải thích điều răn.

Vị thông luật không hỏi để biết điều mà hẳn là ông không biết, nhưng hỏi để kiểm tra  ý kiến của Chúa Giêsu. Thế nhưng vị Thầy lại chuyển trả lại câu hỏi, đưa ông ấy đến chỗ phải diễn tả rõ ra tư tưởng của ông. Ông liền trích dẫn hai đoạn Lề Luật, tức là Ngũ Thư. Đoạn thứ nhất, là Đnl 6,5, thuộc về lời kinh Do Thái cổ điển được coi như một lời tuyên xưng đức tin căn bản (“Nghe đây, Israel”: Đnl 6,4-9); trái lại, bản văn thứ hai, lấy từ Lv 19,18, dẫn xuất từ một hợp tuyển các điều răn bên trong “Bộ Luật tư tế về sự thánh thiện” (Lv 17–26).

Đặt hai điều răn này bên nhau (Mt 22,38-39 nhấn mạnh thêm) là do truyền thống Kitô giáo, nhưng tác giả Lc đặt ngay trên môi vị thầy Do Thái với ý cho thấy ông rất chuyên về lý thuyết. Phản ứng của Đức Giêsu là một lời bình tích cực, chuẩn nhận cách “đọc” bản văn Kinh Thánh như thế, nhưng Người thêm một lệnh thực tiễn: “Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (c. 28). Để được thừa hưởng sự sống đời đời, biết lý thuyết mà thôi thì không đủ; điều cần thiết là bền chí thực hành lý thuyết ấy mãi mãi.

Chúa Giêsu đã cố tình chọn một người Samari làm kiểu mẫu. Hạng người lạc đạo ấy, không hể có kiến thức của nhà luật học, cũng không có phẩm cách của vị tư tế hay thầy Lêvi, lại tỏ ra hết sức nhân ái và đạo đức. Ông đã thực hành hai điều răn lớn của Cựu Ước về dức mến. Do đó, chính ông mới đáng được gọi là người Israel chân chính.

Chúa Giêsu cho thấy rằng trong vấn đề yêu thương, không thể vạch ra một giới hạn chính xác. Người không nêu ra những tiêu chí, xác định một con số giới hạn gồm những kẻ mà ta phải yêu thương. Như trong những trường hợp khác, Người thay đổi hướng nhìn, mở rộng chân trời. Vị thông luật hỏi: “Ai là người thân cận của tôi, kẻ mà tôi phải yêu thương?”. Đức Giêsu đảo ngược câu hỏi: “Ai đã tỏ ra là [ai đã trở thành] người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Như thế, Người đã thay đổi tầm nhìn. Dụ ngôn và câu hỏi cuối cùng của Đức Giêsu hoàn toàn trả lời cho câu hỏi đầu tiên của vị thông luật: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (c. 25).

Những lời cuối cùng của Chúa Giêsu gặp lại lời “Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (c. 28) và tóm tắt sứ điệp của Người: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37). Hãy trở thành người thân cận đối với kẻ đang có nhu cầu và bạn sẽ “được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (c. 25).

Tất cả các lề luật đều quy về giới luật yêu thương. Luật yêu thương là căn cốt của tất cả cuộc sống. Sống để yêu và yêu để sống. Luật đó đã được in ghi sâu tận tâm can của mọi loài thụ tạo. Luật ở tại tâm: “Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành.” (Đnl 30,14).

Chúng ta không phải tìm kiếm đâu xa, tâm yêu thương ở sẵn trong lòng ta. Hạt giống yêu thương đã được Thiên Chúa gieo trong lòng mỗi người. Chúng ta có bổn phận tưới gội, chăm sóc và làm cho hạt giống sinh xôi nảy nở. Trái tim yêu thương cần mở rộng để cho đi và đón nhận. Yêu như dòng nước luôn chảy, có ra có vào và có lên có xuống. Tình yêu như dòng nước nếu bị đóng khung khép kín, tình yêu sẽ cô đơn, lẻ loi và giá lạnh.

Thánh Gioan đã tuyên xưng: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa vì Thiên Chúa là Tình Yêu.” (1 Ga 4,8). Vì muốn chia sẻ tình yêu, Thiên Chúa tạo dựng mọi kỳ công trong vũ trụ. Mọi vật và mọi loài được hiện hữu trong tình yêu của Thiên Chúa. Dấu ấn tình yêu được lan tỏa khắp cùng vũ trụ. Thiên Chúa đã quan phòng mọi sự theo thánh ý. Tình yêu có những cách thể hiện khác nhau giữa muôn loài. Cảm súc tình yêu được bày tỏ qua sự sống. Từ những loài có sự sống đơn sơ đến phức tạp đều được ngụp lặn trong biển tình của Thiên Chúa. Sống để yêu và được yêu. Kinh Thánh đã nói 686 lần về tình yêu ‘Love, loved, loving, loves, lover’, yêu Chúa và yêu người.

Trong lãnh vực yêu thương người thân cận, người ta không được nghĩ từ bản thân, nhưng phải khởi đi từ nhu cầu thực tế của bất cứ người nào ta gặp trên đường ta đi. Chỉ khi đó, đời sống ta mới trở thành con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu. Vị thông luật tưởng có thể giữ cuộc tranh luận trên bình diện lý thuyết, nào ngờ Đức Giêsu đã đưa được ông về bình diện những thực tại sống động và đặt ông trước một chọn lựa: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37). Ông không bao giờ ngờ được rằng đời thường có thể đặt ông trước những chọn lựa éo le không sao tránh né được!

Câu chuyện hôm nay đẹp. Bài học này cần được suy nghĩ. Nhưng cẩn thận, nếu chúng ta chỉ dừng lại trong lãnh vực tư tưởng thì sẽ không đạt được ý của tác giả. Thánh Luca muốn chúng ta phải sống đạo chứ không phải chỉ hiểu đạo; phải thi hành lòng thương xót, chứ không phải chỉ biết đạo dạy mến Chúa yêu người.

SỐNG TRỌN VẸN ĐỨC ÁI

Huệ Minh

Chương 5 trong Tin Mừng Matthêu có chủ đề là Bài giảng Trên núi, chương này gồm những chủ đề nhỏ nhằm giáo huấn các môn đệ, những sứ giả của Tin Mừng. Không phải cùng một lúc hay trong một thời điểm mà Chúa Giêsu giảng dạy các điều này, nhưng ý tác giả muốn thu gom và dàn dựng toàn bộ lời nói của Chúa Giêsu  để giúp cho đời sống Cộng đoàn của Ngài.

Trang Tin Mừng hôm nay nằm trong phần chính của Bài Giảng trên núi… Trước mỗi lời dạy, Thánh sử Matthêu luôn có câu mở đầu “Anh em đã nghe luật dạy rằng mắt đền mắt, răng đền răng, còn Thầy, Thầy bảo anh em đừng chống cự người ác…” Ý muốn nói : sự công chính của các môn đệ phải vượt lên trên cả cách giải thích lề luật theo lối truyền thống, nghĩa là  luật mới, luật của Chúa Giêsu khác xa hẳn luật cũ và có thể gọi là đi ngược lại những gì mà thế gian cho là khôn ngoan, là công bằng.

Ta thấy con người thường đối xử với nhau theo kiểu “ơn đền, oán trả” nhưng hôm nay ta được suy gẫm tinh thần tha thứ, bác ái.

Theo Chúa Giêsu tinh thần tha thứ phải đi đôi với yêu thương. Vì chính Chúa Giêsu là mẫu gương quảng đại tha thứ cho chính kẻ thù đã bách hại mình.

Chúa cũng dạy cho các môn đệ hãy sống bác ái với chính kẻ thù như chính Ngài đã từng là mẫu gương cho lời dạy của mình. Cũng thế để thăng tiến trên con đường nhân đức, bác ái yêu thương và tha thứ, thì mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy nhìn và sống theo mẫu gương của Thầy Giêsu, Người Thầy đầy yêu thương và bác ái.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống theo, có thể nói, sự điên rồ của tình yêu. Bởi vì, sức mạnh của sự dữ không thể bị chặn đứng bởi Lề Luật, nếu có thì chỉ tạm thời mà thôi, nhưng chỉ bị chặn đứng và bị đánh bại bởi một sức mạnh khác, đó là sức mạnh tình yêu. Và nhất là khi sống như thế, chúng ta mới sống đúng căn tính của mình là hình ảnh của Thiên Chúa, là con Thiên Chúa, như Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu nói với chúng ta ” đừng mặc hai áo, đừng đi giày hay cầm gậy” khi chúng ta phục vụ Ngài (Mt 10, 10), vì vậy Ngài sẽ có trách nhiệm ban cấp chiếc áo khác cho chúng ta nếu cần, vì vậy chúng ta có thể tiếp tục phục vụ Ngài mà không cần lo lắng về vật chất (Mt 6, 30, 10, 9). “Ðấng kêu gọi anh em là Ðấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó.” (1 Thes 5, 24).

“Nếu ai tát má bên phải …hãy đưa cả má bên trái… Ai lấy áo trong…. cho lấy cả áo ngoài. Ai muốn đi với họ một dặm…. hãy đi hai dặm. Nghĩa là hãy “làm hơn” những gì mà người khác muốn ta làm hay người khác đã làm cho ta. Thái độ mà Chúa Giêsu đã nêu ra ở trên, khiến chúng ta tưởng lầm có vẻ khiêu khích, thách thức khi “ đưa cả má bên trái”, hay có vẻ dở hơi khi “ cho cả áo ngoài”, thậm chí lại làm dư thừa điều người khác yêu cầu “đi hai dặm”. Thật ra nếu để ý kỹ, chúng ta thấy những hành vi ấy mang đậm tính hiền lành, chỉ muốn bình an, hạnh phúc cho người khác. Đấy là thái độ mà Chúa Giêsu đã có trong đời sống rao giảng Tin Mừng của Ngài. Đặc biệt trên cây Thánh Giá, Ngài đã đón nhận tất cả không một lời oán giận, lên án người khác mà chỉ một niềm tha thứ “Xin tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết việc chúng làm” (Lc 23, 34)

“Ai xin … hãy cho. Ai vay mượn … đừng ngoảnh mặt” (c. 42) nói lên tinh thần bác ái đối với anh em đồng loại. Đừng làm ngơ trước những nhu cầu của người anh em, nếu được người anh em nài xin. Thái độ “cho” mang đậm chất sự sẵn sằng mau mắn thi hành đức ái, như một sự dứt khoát cho đi mà không cần đền đáp, ghi ơn.

Thái độ “đừng ngoảnh mặt” ý nói rằng chớ thờ ơ, lạnh nhạt hoặc làm ngơ phớt lờ trước những bất hạnh, đau khổ của người khác. Cần quan tâm giúp đỡ. Ta được mời gọi cần mở rộng tấm lòng nhân hậu, đại lượng đối với người nghèo khổ.

Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta không còn muốn trả đũa hay hơn thua với kẻ thù và những kẻ bắt bớ, bach hại chúng ta. Nhưng thay vào đó, cuộc chiến của chúng ta là chống lại vương quốc của ma quỷ, của sự dữ. (Ep 6, 12) và mục tiêu của chúng ta là giành lại các linh hồn đã bị đánh cắp và khôi phục các linh hồn ấy để họ được vào hưởng thiên quốc với Ngài. Mục đích của chúng ta là hãy chinh phục các linh hồn cho Chúa, bằng cách cư xử tốt với mọi người và tránh xa những sự ác đức và gian tà (Rm 12, 21).

Giản đơn vì đây chính là mục tiêu chính của chúng ta, “Tại sao anh em chẳng thà chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi?” (1 Cr 6, 7) chẳng có vấn đề nếu chúng ta phải đi  thêm một  dặm đường hay làm thêm việc mà không cần có điều kiện ? Nếu ai muốn lấy áo trong của anh em, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài (Mt 5, 40)

Trang Tin Mừng này như một phần nào của bài ca Đức Ái. Đức ái này được xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa. Xin Chúa mỗi người chúng ta một lòng sống trọn giới răn yêu thương mà Chúa đã truyền dạy, để ta trở nên hoàn hảo như Cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện vậy.

KHÔN NHƯ RẮN – ĐƠN SƠ NHƯ BỒ CÂU

Huệ Minh

Điều mà ai ai cũng thấy rằng việc theo Đức Kitô không thật sự hứa hẹn những đãi ngộ đặc biệt. Thật thế, những gì ta nghe trong bài Tin Mừng là một bảng liệt kê của những sự bách hại mà những môn đệ trung tín của Đức Kitô phải sẵn sàng đương đầu. Đây là thực tế của việc đi theo Đức Kitô trong hoàn cảnh của thế giới ngày nay. Khi tiến bước theo chân Đức Kitô, chúng ta không được hứa hẹn sẽ được đón tiếp bằng những thảm bông hồng tươi, mà ngược lại là sự bách hại và những đau khổ.

Trang Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết trước trong khi thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng Nước Trời. Khi loan báo Tin Mừng Nước Trời, các môn đệ sẽ gặp bách hại, thất bại, ghen ghét và chống đối. Sự chống đối này không chỉ xảy ra bên ngoài mà còn xảy ra ngay trong gia đình nơi thân thương gần gũi với mình. Thế cho nên Chúa Giêsu không những trấn an các ông đừng lo sợ vì có Thiên Chúa ở cùng nâng đỡ mà còn dạy các ông cần phải biết cách sống.

Ta thấy Chúa Giêsu đã tiên báo về các bách hại đó. Những gì Ngài phải chịu thì các môn đệ cũng sẽ phải chịu, vì tôi tớ không hơn chủ, môn đệ không hơn thầy. Hãy để ý đến những động từ nói lên nỗi thống khổ của các Kitô hữu: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra nơi hội đường và trước mặt vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết, có khi bởi người nhà (c. 21).

Với tất cả những gì Chúa Giêsu nói, không chỉ là nói suông nhưng những điều này Chúa Giêsu đều trải nghiệm ngay trong chính cuộc đời của Ngài. Mọi sự họ chịu đều “vì Đức Giêsu”, “vì Danh Đức Giêsu” (cc. 18. 22). Nơi tòa án, có sự hiện diện gần gũi của Thiên Chúa Ba Ngôi.“ Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ nói trong anh em” (c. 20), để giúp anh em can đảm tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Cha.

Bởi đó người Kitô hữu ra tòa mà lòng rất bình an, chẳng lo gì (c. 19). Họ được Thiên Chúa dạy điều phải nói và Thần Khí nói qua miệng họ. Với sự nâng đỡ đặc biệt ấy, họ có thể bền chí đến cùng và sẽ được cứu độ.

Kitô hữu vẫn còn và sẽ còn bị bách hại đến tận thế. Họ không phải là những người thích tỏ ra mình anh hùng, đòi tử đạo. Nhưng họ là những người khiêm tốn, khôn ngoan, biết trốn đi thành khác khi bị bắt bớ ở thành này (c. 23). Chịu bách hại là điều nằm trong ơn gọi của người Kitô hữu, là cái giá phải trả để sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Ngay cả ở những quốc gia tây phương tự hào là có tự do tôn giáo, vẫn có những kiểu bách hại ngấm ngầm và tinh vi, khác với kiểu đòi bước qua thánh giá thời vua Minh Mạng, Tự Đức.

Quả thật, thời nào cũng có những cuộc bách hại gây khó khăn cho người môn đệ. Nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại đầy dẫy những bất công, con người chỉ muốn sống tự do, hưởng thụ an nhàn tự tại cho riêng mình.

Thời đại mà người công chính, lương thiện, người bênh vực chân lý thì mất dần tiếng nói trong xã hội, trong các công sở. Nếu  không khôn ngoan như con rắn để phân định sự kiện. Nếu không đơn sơ như chim câu mở rộng tâm hồn đón nhận sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và trung thành, tín thác vào tình yêu của Chúa. Người môn đệ dễ bị chán nãn thất vọng trước nhựng thất bại, chống đối ghét ghen, phản bội, kết án của xã hôi, bạn bè và ngay cả chính những người thân trong gia đình.,

Các tín hữu được Chúa sai đi vào một môi trường không phải lúc nào cũng thuận tiện cho việc truyền giáo; các Kitô hữu phải đối mặt với  tình huống của “một con chiên ở giữa bầy sói”, bầy sói nghi kỵ đang giương vuốt hầm hừ đe doạ đức tin, bầy sói tục hóa đang nhe nanh rú hét làm thất đảm những ai muốn sống thánh thiện….

Đứng trước bối cảnh của bầy sói như vậy, làm sao để người Kitô hữu sống và loan báo Tin Mừng ? Chúa Giêsu cho ta khuôn vàng thước ngọc là “hãy khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu”.

Khôn như rắn là biết vận dụng những phương pháp mới thích hợp để đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của thời đại trong các lãnh vực văn hóa, xã hội và kỹ thuật; khôn như rắn là biết dùng những cách diễn tả mới để con người hôm nay có thể hiểu và đón nhận Tin Mừng Chúa Giêsu. Và rồi người Kitô hữu còn phải đơn sơ như bồ câu, đó là có một nhiệt tình mới nhưng đơn sơ và trong sáng dựa vào Tin Mừng. Phương pháp và lối diễn tả mới cần nhiệt tình mới và ngược lại.

Có lẽ ai trong chúng ta cũng biết, rắn là loài vật luồn lách rất giỏi, tinh ranh và khôn ngoan, quỷ quyệt (St 3).  Nó có thể cắn chết người (rắn lửa trong sa mac) và cứu người (con rắn đồng của Môsê). Xưa cũng như nay, người ta còn dùng rắn để chữa nhiều bệnh. Chúa Giêsu mượn hình ảnh con rắn để dạy các môn đệ cũng như những ai muốn làm môn đệ Ngài khi thi hành sứ vụ phải biết khôn ngoan cẩn trọng nhưng không quỷ quyệt, luồn lách, thâm độc. Sự khôn ngoan này phải xuất phát từ tấm lòng từ bi chân thành, ngay thẳng, đơn sơ như chim bồ câu.

Nói đến chim câu là nói đến sự trung thành (St 8, 8-12), hiền lành, trong trắng , đơn sơ   là biểu tượng của Chúa Thánh Thần, của hòa bình, an lành. Chúa Giê su dùng hình ảnh này không những để khuyến khích các tông đồ mà cả chúng ta nữa, những người muốn theo Chúa, làm môn đệ Chúa phải luôn thành thưc, tín trung và phó thác vào tình yêu Chúa trong bất kỳ mọi hoàn cảnh của cuộc sông.

Các tông đồ đã được loan báo cho biết trước để cảnh giác: họ sẽ như chiên hiền lành bị trao nộp vào vòng tay hung tợn của địch thù, chẳng khác chi bầy sói dữ. Nước Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự hèn yếu của các sứ giả của Chúa Giêsu. Lịch sử Giáo Hội cũng đầy dẫy những sự thật này: chính những con người bé mọn khiêm tốn lại là những tác nhân Chúa dùng để thực hiện những công trình vĩ đại. Hẳn ta còn nhớ hình ảnh bé mọn, kém cỏi của cha sở họ Ars Gioan Vianey, Thiên Chúa đã dùng Ngài để thể hiện những công việc lớn lao lạ lùng cho Giáo Hội

Xin Chúa ban cho ta đức tin đủ mạnh để dù gặp khó khăn thử thách dù bị thiệt thòi trong cuộc sống, ta vẫn bền đỗ yêu Chúa, tín thác vào Chúa đến cùng và không ngừng gắn bó với Chúa. Có như vậy ta mới chu toàn bổn phận là người Kitô hữu, người môn đệ Chúa và đáng hưởng phần thưởng Chúa ban cho cả đời này và đời sau.

SÁM HỐI THẬT LÒNG

Huệ Minh

Tưởng chừng tiến bộ trong cuộc sống, con người sẽ sống khá hơn, tốt hơn nhưng thực tế nhìn thấy càng bi đát. Khi cuộc sống càng văn minh càng tiến bộ, càng lôi kéo con người đến sa đọa và hủy hoại nền tảng gia đình và xã hội.

Trở lại với những ngày xa xưa, các ngôn sứ trong Cựu Ước đã thấy được hiểm họa ấy. Việc chúc dữ các đô thị là một trong những đề tài nổi bật trong lời rao giảng của các ngài. Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn là đối tượng của những lời rủa xả nặng nề nhất của các ngôn sứ. Những đô thị này không những là nơi phát sinh những sa đọa luân lý, mà còn là biểu tượng của óc tự mãn, sự tôn thờ ngẫu tượng của con người.

Chúa Giêsu đã đến trần gian loan báo Tin mừng tình thương và Ngài mời gọi con người “Hãy sám hối và tin vào Tin mừng.” Bản thân Ngài chính là tin mừng cứu độ, là nguồn ơn giải thoát. Để củng cố cho lời rao giảng, Ngài đã thực hiện nhiều phép lạ chữa lành, xoa dịu nỗi khổ đau của chúng sinh.

Chúa Giêsu cũng tiếp tục truyền thống ngôn sứ trong Cựu Ước khi Ngài lên tiếng chúc dữ một số thành phố như Corazin, Betsaida. Cuộc sống vật chất sung túc làm cho con người sa đọa, đồng thời chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa. Con người được tạo dựng không phải để sống đơn độc một mình; chính trong tương quan với tha nhân mà con người nên thành toàn hơn, do đó gia đình và xã hội là nhân tố thiết yếu cho sự phát triển toàn diện con người.

Đáng tiếc thay con người với bản tính ích kỷ, lòng dạ kiêu căng đen tối không đón nhận Tin mừng Ngài đem đến đã khiến Ngài phải nặng lời quở trách: “ “Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin ! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtxaiđa ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđôn, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối….” Khoradin, Bếtxaiđa, Caphácnaum là những thành phố ven biển hồ Galilê khá phồn thịnh và có trình độ văn hóa; Là những nơi đã in nhiều dấu chân rao giảng của Chúa Giêsu, đã chứng kiến phần lớn những phép lạ người làm. Nhưng có lẽ sự kiêu căng và tự mãn bởi giàu sang và tri thức đã khép lòng họ, khiến họ không thể mở lòng đón nhận Tin mừng của Ngài để sám hối và canh tân.

Chúa Giêsu lấy ba thành này để so sánh với Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum để làm nổi bật sự cứng lòng của họ. Ba thành kia bị liệt kê là xấu, thế nhưng nếu họ được chứng kiến các phép lạ đã xảy ra ở Corazain, Bethsaiđa và Capharnaum thì họ ăn năn sám hối chứ không như dân của ba thành cứng lòng này.

Muốn sám hối người ta phải có lòng khiêm tốn biết mình, nhận ra ân huệ và tình thương Chúa dành cho mình trong cuộc sống, nhận ra tội là sự xúc phạm đến Thiên Chúa và tình thương yêu của Người, nhận ra những sai trái lầm lỗi của mình, thật lòng thống hối và quyết tâm sửa chữa.

Chúa Giêsu mời gọi sám hối – Ngài đã thiết lập bí tích hòa giải, hay còn gọi là bí tích sám hối như một phương thế để người Kitô hữu có điểm dừng, có hồi tâm xét mình để biết mình, để hoán cải sửa chữa những lầm lỗi. Thế nhưng có được bao người Kitô hữu lãnh nhận bí tích hòa giải trong tinh thần sám hối thực sự, hay coi đó chỉ như hành vi đi “đổ rác”, hoặc để giữ luật, hoặc chỉ vì gượng ép…. Vì thế mà tội xưng xong thì “mèo lại vẫn hoàn mèo” – Không có gì đổi mới, không có gì canh tân.

Lời quở trách của Chúa Giêsu hôm nay đối với Khoradim, Bếtxaiđa và Caphácnaum có nhắc nhở tôi điều gì? Có thúc bách mỗi người chúng ta sám hối không, hay ta cứ an nhiên tự tại, xem lời ấy như của quá khứ, không dính dáng đến ta. Hãy nhớ Lời Chúa luôn dành cho hiện tại, luôn là cho hôm nay: “Hôm nay nếu anh em nghe tiếng Chúa chớ đừng cứng lòng” (x. Tv. 94, 8)

Lắng nghe Lời Chúa, đó là bí quyết để xây dựng cuộc sống xã hội, thắt chặt quan hệ với tha nhân và trở nên thành toàn. Ðó là điều Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: con người không thể xây dựng một xã hội tốt đẹp, nếu loại bỏ Thiên Chúa và những giá trị thiêng liêng ra khỏi cuộc sống.

Nguyện cho Lời Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta trong cuộc sống, để khi mưu sinh và xây dựng xã hội, chúng ta biết đặt Thiên Chúa vào trọng tâm cuộc sống, đeo đuổi những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người.

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta khiêm tốn nhìn nhận bản thân mình yếu đuối, cần sự giúp đỡ của Chúa. Xin giúp chúng ta nhận ra những dấu chỉ Chúa gởi đến cho chúng ta để chúng ta biết thay đổi cuộc sống của mình mỗi ngày tốt hơn.

LẮNG NGHE VÀ ĐÓN NHẬN LỜI CHÚA LÀ NGƯỜI KHÔN NGOAN

Jos. Vinc. Ngọc Biểnbien1a

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN, C

(St 18,1-15; Cl 1,24-28; Lc 10,38-42)

Trong truyền thống Việt Nam, văn hoá ứng xử qua việc giao tiếp là quan trọng. Điều này đã được cha ông chúng ta rất đề cao. Qua việc đón tiếp khách, người ta đánh giá được sự hiếu khách hay thờ ơ của gia chủ; đồng thời nó cũng thể hiện sự văn minh và nền giáo dục của gia đình đó như thế nào!

Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu ghé thăm gia đình của Martha. Nơi đây, Ngài nhận được sự đón tiếp nồng nhiệt của hai chị em trong gia đình này. Hai cách đón tiếp khác nhau, nhưng đều thể hiện sự kính trọng, yêu mến mà hai cô dành cho Đức Giêsu. Tuy nhiên, kết quả lại khác nhau, bởi vì hệ tại ở hành vi lựa chọn.

1.Cần lắm một lựa chọn đúng đắn

Kinh nghiệm trong cuộc sống cho chúng ta thấy: có rất nhiều điều cần phải “lựa”“chọn”.  Khi còn nhỏ, cha mẹ lựa chọn cho con cái trường nào tốt để gửi vào học; khi lớn lên một chút, ta lựa chọn bạn để chơi, lựa chọn thầy để học; lựa chọn nghề để mưu sinh, lựa chọn người yêu để cưới; lựa chọn một cung cách, một lập trường, một lý tưởng để sống… Nhưng có lẽ điều cần thiết nhất vẫn là lựa chọn một chân lý để làm chủ đạo cho cuộc đời.

Như vậy, có biết bao điều cần phải lựa chọn. Lựa chọn cái tốt, tốt vừa, tốt hơn, hay tốt nhất? Đây chính là điều đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ, đắn đo trước khi chọn.

Nếu lựa chọn trong đời thường là lọc ra những thứ không cần thiết và chọn cho mình những thứ cần dùng. Thì lựa chọn theo Kinh Thánh chính là lắng nghe tiếng Chúa và thực thi điều mình đã tiếp nhận.

Chọn lựa được coi là “đích đến”“bánh lái” cho cuộc đời nếu lựa chọn đó là tốt, là đúng. Còn nếu lựa chọn sai thì sẽ bị tác hại khôn lường.

Hôm nay, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy: Martha lựa chọn phục vụ Đức Giêsu qua việc nấu nướng để thiết đãi Ngài một bữa ăn thịnh soạn. Còn Maria thì lựa chọn việc ngồi để lắng nghe Đức Giêsu dạy bảo. Hai thái độ đều tốt. Một bề ngoài. Một bề trong. Nhưng giá trị thì lại khác nhau. Bởi vì Maria đã chọn phần tốt nhất, còn Martha có thể đã chọn phần tốt hoặc tốt hơn chứ chưa phải là tốt nhất.

2.Lắng nghe và đón nhận Lời Chúa là người khôn ngoan

Thật vậy, lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành phải là điều quan trọng nhất, bởi vì: mọi sự sẽ qua đi, nhưng Lời Chúa vẫn luôn tồn tại.

Tác giả sách Isaia đã nhắc lại lời Đức Chúa phán với dân của Người như sau: “Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh của Ta, thì sự bình an của ngươi chan chứa như dòng sông, sự công chính của ngươi sẽ dạt dào như sóng biển, tên của ngươi sẽ chẳng bao giờ bị huỷ diệt, chẳng bao giờ bị xoá bỏ khỏi mắt Ta” (Is 48,18-19b).

Chính vì điều này mà cô Maria đã lựa chọn điều tốt nhất là được ở bên Đức Giêsu (x. Lc 10,42) và nghe lời Ngài dạy (x. Lc 10,39). Cô đã chọn cho mình phần phúc Nước Trời, bởi lẽ, Đức Giêsu chính là nội dung của Tin Mừng, là hiện thân của Nước Hằng Sống. Vì thế, có Đức Giêsu ở cùng là được cả Nước Trời. Nghe được Lời Ngài nói với mình và đem ra thực hành thì được ví như “… người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá ” (Mt 7, 25). 

Bởi vì, Đức Giêsu là kho tàng quý giá mà Thiên Chúa Cha đã đem trồng vào trong mảnh vườn nhân loại. Sống trong Ngài là được trở nên nghĩa thiết với Ngài và được Ngài yêu thương, để Ngài ở đâu, chúng ta cũng sẽ được ở đó với Ngài. Cô Maria trong bài Tin Mừng hôm nay đã hội đủ các yêu tố trên, nên cô đáng được Đức Giêsu khen là người có phúc khi nói: “Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”.

3.Sứ điệp Lời Chúa

Giáo Hội được Đức Giêsu thiết lập để lưu truyền Lời Chúa cho con người. Lời đó là Lời Chân Lý, Lời Hằng Sống. Chính Lời Chúa đã nuôi sống Giáo Hội qua mọi thăng trầm của lịch sử. Vì thế, “Giáo Hội luôn tôn kính Lời Chúa như chính Thân Thể Ngài”. 

Khi dành cho Lời Chúa một vị trí quan trọng và ngang hàng với chính Chúa như thế, Giáo Hội muốn xác tín niềm tin của mình vào sức mạnh vạn năng của Lời Chúa. Điều này đã được Công Đồng Vaticanô II khẳng định: “Lời Chúa có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội” (x. DV., số 21).

Nhưng, tiếc thay, vì quen lối sống đạo xưa kia, nên chúng ta nhiều khi chỉ thuộc kinh mà không mấy coi trọng Lời Chúa! ngược lại, nhiều gia đình lại coi cuốn Lời Chúa như một vật trang trí hay kính trọng theo kiểu “kính nhi viễn chi”.

Khi nói như thế, chúng ta không có ý phủ nhận lối sống đạo bình dân của cha ông, vì trên thực tế, đời sống đạo truyền thống này đã sinh ra cho Giáo Hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, và hôm nay, chúng ta được kế thừa niềm tin cũng nhờ cung cách sống đạo bình dân đó.

Tuy nhiên, chúng ta quên mất rằng, mọi lời Giáo Huấn hay Truyền Thống của Giáo Hội cũng như mọi lời kinh từ bao thế hệ đều được bắt nguồn và suy tư từ Lời Chúa. Nếu chúng ta am tường và hiểu biết Lời Chúa càng nhiều, thì đời sống đạo của chúng ta càng sống động và sâu sắc. Chính thánh Giêrônimô đã nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Vì thế, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã gợi lên cho chúng ta giá trị của Lời Chúa khi viết: “Đọc Lời Chúa không những để hiểu về Chúa mà còn để tìm hướng đi cho cuộc đời” (x. Thư Chung 1980, số 8).

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm hình ảnh, thái độ của Maria, nhất là hãy cảm nghiệm lời chúc phúc của Đức Giêsu dành cho cô, từ đó, rút ra cho mình một thái độ tích cực với Lời Chúa như:

Chăm chỉ đọc, suy gẫm Lời Chúa cách yêu mến; đồng thời biết thinh lặng, nhạy bén để khám phá ra sứ điệp của Lời Chúa và đem ra thực hành. Đây chính là thái độ của người khôn ngoan khi xây dựng ngôi nhà cuộc đời mình trên nền tảng Lời Chúa. Để mưa xa, bão táp, phong ba có dồn dập tư bề, thì nhà ấy vẫn vững vàng.

Ngược lại, nếu chỉ đọc Lời Chúa cách hời hợp, qua lần chiếu lệ, thì Lời Chúa không những không tác sinh trong tâm hồn, mà nhiều khi lại còn bị chúng ta bóp méo và uốn nắn theo thiển ý của chính mình. Từ đó, sinh ra lối sống đạo hình thức, hời hợt bên ngoài hay chỉ là người mang danh và đeo cái mác Công Giáo, chứ thực ra không phải là người mang Đạo trong mình.

Ước gì Lời Chúa khen ngợi cô Maria khi xưa vì đã biết chọn phần tốt nhất cũng là lời tác phúc cho mỗi chúng ta hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết chọn Chúa làm lý tưởng và lẽ sống cho cuộc đời.  Xin cho chúng con biết yêu mến và lắng nghe Lời Chúa bằng thái độ của người môn đệ. Và, xin cho chúng con biết đem Lời Chúa ra để thực hành trong cuộc sống hiện tại. Amen.

 

SUY NIỆM CÁC NGÀY TRONG TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN

Jos. Vinc. Ngọc Biển

 

THỨ HAI

PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN-(Mt 12, 38-42)

Người Việt Nam chúng ta thường có câu: “Bụt chùa nhà không thiêng”. Câu nói đó hàm ý rằng: những người ở gần và sống bên cạnh chúng ta, dù họ có tốt và làm được nhiều chuyện lành thánh thế nào thì cũng chẳng có gì phải quan tâm và những lời họ nói cũng chẳng cần phải tin. Một lý do đơn giản là: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”.

Hôm nay, thánh Mátthêu trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu khiển trách những Kinh sư và Pharisêu cứng lòng không chịu tin vào những lời giảng và những việc Ngài làm. Lòng họ đã trở nên trai cứng. Trái tim họ đã hóa đá. Trước mắt họ, Đức Giêsu cũng chỉ là con Bác Thợ Mộc. Vì thế, họ thách thức Đức Giêsu phải làm một dấu lạ để họ trông thấy thì họ mới tin.

Tại sao vậy? Thưa! Đòi hỏi dấu lạ là đặc trưng của người Dothái, nhất là giới lãnh đạo. Trước mắt và tâm thức của những người này khi nhìn về Đấng Cứu Thế  phải là một con người oai hùng lẫm liệt. Đấng ấy phải là người đánh đông dẹp bắc. Phải là người đưa dân Dothái đến bến bờ tự do và bá chủ mọi quốc gia. Và, như một sự tất yếu, Đấng ấy phải làm được dấu lạ. Nếu không đáp ứng sự hiếu tri của họ thì họ không tin.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không đi theo con đường mà họ thách đố. Con đường cứu thế của Ngài là khiêm tốn và tự hạ, con đường của hiền lành và nhân hậu, chứ không phải con đường của thách thức, kiêu ngạo, khoe khoang… Vì thế, Ngài sẵn sàng làm những dấu lạ để cứu giúp và củng cố niềm tin của người đương thời, nhưng nếu vì thách thức, đi ngược lại với sứ mạng và ích lợi cho phần rỗi của con người thì không bao giờ Đức Giêsu làm.

Lời Chúa hôm nay muốn dạy cho chúng ta rằng:

Thứ nhất, tìm những dấu lạ để tin cũng được, nhưng đây không phải là đức tin trưởng thành. Đức tin trưởng thành là đức tin của những người không thấy mà vẫn tin. Bởi vì Đức Giêsu đã nói với Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.

Thứ hai, không nên thuần lý để thách thức Thiên Chúa như những người Dothái. Cần tránh cho xa ý tưởng bắt Thiên Chúa phải làm theo ý của mình.

Cuối cùng, tin Chúa thì phải hành động. Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Thật vậy, Ma Quỷ nó cũng tin có Thiên Chúa, nhưng nó không hề hành động theo điều nó đã tin, tức là tôn thờ Người.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một đức tin trưởng thành. Xin cũng ban cho chúng con lòng yêu mến Chúa tha thiết. Biết khiêm tốn để nhận ra thánh ý Chúa và thi hành. Amen.

 

THỨ BA

MẸ VÀ ANH EM CỦA ĐỨC GIÊSU

(Mt 12, 46-50)

Xem lại thứ Ba tuần 3 TN

Trong cuộc sống, vì nhiều hoàn cảnh, các thành viên trong gia đình nhiều khi phải phân tán để ra đi đến nơi xa lạ nhằm kiếm miếng cơm manh áo hay học hành hoặc vì sứ vụ… Nỗi lòng nhớ quê hương và người thân hẳn không bao giờ vơi đi trong lòng người xa quê! Như vậy, nếu may mắn có cơ hội gặp được người thân nơi đất khách quê người thì thật là hạnh phúc, nhất là người đó lại là cha mẹ hay anh chị em thân thiện với mình.

Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy phản ứng ngược lại tình cảm tự nhiên của Đức Giêsu. Khởi đi từ việc Mẹ Maria và anh em của Đức Giêsu đến gặp Ngài. Khi được tin báo, thay vì hồ hởi, tay bắt mặt mừng để ra chào đón Mẹ và anh em của mình, thì Đức Giêsu lại chỉ tay vào các môn đệ và những người đang nghe giảng mà nói: “Đây là mẹ và anh em của ta”. Phải chăng có phũ phàng quá không???

Thực ra, qua câu nói này của Đức Giêsu không có ý hạ thấp, giảm nhẹ vai trò Đức Maria là thân mẫu của mình, cũng như không hề phủ nhận tình nghĩa anh em trong dòng họ. Nhưng mặt khác, Ngài muốn đề cao Đức Mẹ và anh em mình cách cụ thể, bởi vì chính các ngài là những người đã vâng theo thánh ý Chúa cách triệt để. Cũng qua câu nói này, Đức Giêsu đã đưa dân chúng đến một quan hệ khác còn quan trọng hơn tình mẫu tử và tình anh em ruột thịt, đó là những người nghe và mau mắn thi hành Lời Chúa thì đáng được gọi là mẹ hay anh chị em của Ngài hơn.

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy biết lắng nghe và mau mắn thi hành Lời Chúa trong đời sống hằng ngày, để trở thành thành viên trong đại gia đình của Chúa thực sự. Chỉ những ai được tháp nhập vào trong đại gia đình này mới là những người được ơn cứu độ, vì con cái thì mới được ở trong nhà.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban ơn thánh của Chúa xuống trên chúng con, để chúng con trở nên những con chiên ngoan ngoãn nhờ biết mau mắn thi hành Lời Chúa. Amen.

 

THỨ TƯ

HÃY LÀ THỬA ĐẤT TỐT-(Mt 13, 1-9)

Xem lại CN 15 TN A

Hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn “người gieo giống” để giúp cho những người đương thời nhận ra mình đang thuộc thành phần nào trong dụ ngôn, qua đó cần có một thái độ phù hợp với Tin Mừng.

Trước tiên, Đức Giêsu nói: “Có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất”. Hình ảnh này cho thấy có nhiều kẻ đón nhận Lời Chúa, nhưng Lời ấy không sinh ích lợi cho họ vì sự hời hợt chóng qua, nên Lời Chúa không thấm nhập gì trong lòng, khiến những thứ tội lỗi sớm chiếm hữu tâm hồn họ.

Rồi:“Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên nó khô héo”. Thật vậy, có người đón nhận theo trào lưu, theo sở thích hay hiệu ứng đám đông, chứ không có chiều sâu. Vì thế, khó khăn xảy đến, họ là những người cao chạy xa bay vì sợ liên lụy, không dám can đảm để chấp nhận mình là người thuộc về Chúa nữa. Tâm hồn họ sẽ héo dần theo năm tháng vì không có Chúa ở cùng.

Và: “Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt”. Trong đời sống của con người hiện nay cũng vậy, họ có quá nhiều sở thích, đến nỗi cái chính yếu lại trở thành phụ thuộc, cái bên lề lại đưa vào chính diện. Tin Chúa, nhưng đồng thời cũng tin đủ thứ, đời sống đức tin của họ thuộc dạng người thiếu lập trường, nên: Gió chiều nào thì ngả theo chiều đó”.

Cuối cùng: “Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả… ”. Tuy nhiên, để trở thành thửa đất tốt theo tinh thần Tin Mừng, mảnh vườn tâm linh của con người phải là một mảnh vườn đơn sơ, chân thành để hạt giống một khi được gieo vãi, thì sẽ có cơ hội phát triển và trổ sinh bông hạt dồi dào.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con là hạt giống tốt và thửa ruộng màu mỡ, để Lời Chúa được lớn lên trong tâm hồn chúng con và được phát triển qua hành động tốt chúng con làm hằng ngày. Amen.

 

THỨ NĂM

XIN ĐƯỢC BIẾN ĐỔI-(Mt 13, 10-17)

Xem lại CN 15 TN B

Đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe xem ra có vẻ khó hiểu. Vì khó hiểu,  nên các môn đệ đã hỏi Đức Giêsu: “Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?”.  Sự khó chịu và thắc mắc này đã được chính Đức Giêsu trả lời cho các ông biết nguyên do:

Nghe mà không chú ý, suy gẫm; nghe mà không cảm thấy Chúa nói với mình để mà sám hối, sửa sai, thì cũng như người có tai mà không nghe.

Thật vậy, có nhiều người miệng thì đọc “lỗi tại tôi mọi đàng”, nhưng tay thì lại “đấm ngực người khác”. Những người như thế thì chẳng khác gì: “Vịt nghe sấm”; hay “nước đổ lá khoai”, nên có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Họ là những người không hề có thiện chí để cho Lời Chúa soi chiếu và hướng dẫn mình. Lời Chúa đến rồi lại đi như “khách bộ qua đường”,  không để lại nơi tâm hồn họ điều gì cả, nên họ đâu có thấy điều gì sai lỗi mà phải sửa! Vì thế, chúng ta không lạ gì vẫn còn đó những người: “Bên ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.

Thái độ đón nhận Lời Chúa như thế, hẳn không bao giờ và không thể nhận ra Lời Chúa như là vị mật ngọt ngào hay như dòng suối mát cho tâm hồn. Ngược lại, họ coi Lời Chúa như một cái gì đó khó ưa, khó dùng, khiến tâm hồn không thể đón nhận, chỉ “vì lòng dân này đã ra chai đá”, nên không còn có chỗ cho Thiên Chúa ngự trị.

Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn mặc khải rằng: Nước Trời chỉ dành cho những người đơn sơ, chân thành và yêu mến. Vì họ là những người bé mọn, đơn thành nên đã có thì lại được đầy dư. Còn kẻ không có nghĩa là không tin như Kinh sư và Pharisêu, thì những cái đang có tức lòng tin truyền thống của họ cũng sẽ bị lấy đi, và mọi việc họ làm đều trở nên vô ích.

Với nhiều người ngày nay, có lẽ đức tin không đến nỗi quá cứng lòng như những Kinh sư và Pharisêu! Nhưng con người đang rơi vào tình trạng thờ ơ, dửng dưng, vô cảm với chính Lời Chúa và những nghĩa vụ liên quan đến đức ái qua anh chị em đồng loại. Đây có lẽ là điều nguy hiểm không nhỏ đến ơn cứu độ, bởi vì có thể nói: đây là căn bệnh “ung thư” thời đại mới nơi tâm hồn rất nhiều người.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho tâm hồn chúng con được trở nên đơn sơ, bé nhỏ để đáng được hiểu Lời Chúa mặc khải cho chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến Lời Chúa và mau mắn thi hành để đáng được hưởng ơn cứu độ. Amen.

 

THỨ SÁU

TRỞ NÊN THỬA ĐẤT NÀO CHO HẠT GIỐNG?-(Mt 13,18-23)

Xem lại CN 15 TN A

Đức Giêsu thường dùng dụ ngôn để giảng dạy một chân lý nào đó. Tuy nhiên, dụ ngôn người gieo giống hôm nay không những được Đức Giêsu kể, mà chính Ngài còn đích thân giải thích ý nghĩa của nó. Khi giải thích dụ ngôn, Đức Giêsu nhắm vào trọng tâm các đối tượng trong việc lắng nghe Lời Chúa.

Đức Giêsu đã dùng hình ảnh các thứ đất và số phận của những hạt giống, để nói lên sứ điệp cho các môn đệ và những người nghe giảng cũng như cho mỗi chúng ta hôm nay.

Hạt giống rơi bên vệ đường, chính là ám chỉ đến những người nghe mà chẳng hiểu, hay dửng dưng với Lời Chúa, hoặc tách biệt Lời Chúa ra khỏi cuộc sống.

Hạt giống rơi vào sỏi đá là dấu hiệu của một tâm hồn nông nổi, rất vui vẻ, sẵn sàng đón nhận Lời. Nhưng không có chiều sâu nội tâm, nên khi ra khỏi nơi chốn, vị trí hay với thời gian là quên hết, họ không quan tâm lưu giữ và thực hành Lời Chúa.

Hạt rơi vào bụi gai chính là những người có quan tâm đến Lời Chúa. Nhưng họ đã để cho sự đời chèn ép, chiếm thế. Nền kinh tế thị trường đã làm cho họ không còn chú trọng đến Lời Chúa, vì Lời Chúa làm cho họ phải đi ngược dòng với con người và xã hội.

Cuối cùng là hạt rơi vào đất tốt. Ấy là những người có lựa chọn ưu tiên cho Lời Chúa chiếm vị trí quan trọng trong mọi chiều kích của cuộc đời họ. Họ để cho Lời Chúa trở thành kim chỉ nam hướng dẫn mọi hành vi, vì thế, hệ quả chính là được một vụ mùa bội thu…

Mong sao, Lời Chúa hôm nay là dịp để chúng ta xác định lại chiều kích sống đạo của mình, nhằm hiệu chỉnh trong cuộc sống. Đừng vì hình thức, vụ luật như hạt rơi bên vệ đường. Hay hời hợt, giỗng tuếch như hạt rơi vào sỏi đá. Hoặc đừng để những lợi lộc trần gian, ăn chơi trác táng mà quên phần thưởng Nước Trời như hạt rơi vào bụi gai. Nhưng hãy như thửa đất tốt để Lời Chúa trở nên phong phú và đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Amen.

 

THỨ BẨY

LÚA VÀ CỎ LÙNG MỌC CÙNG LÚC-(Mt 13, 36-43)

Xem lại CN 16 TN A

Sự bất nhân và không bao dung đã là cha đẻ sinh ra tính ích kỷ, óc bè phái nơi con người. Thật thế, con người luôn tìm dịp để trả thù nhau… Chính vì sự hẹp hòi này mà cái ác đã thắng cái thiện, sự tội đã thắng lẽ công chính! Vì thế, dù đối phương có tốt thế nào, thì trước con mắt của những kẻ muốn trả thù, họ đều là xấu xa.

Quan điểm này hoàn toàn ngược lại ý hướng và mục đích của Thiên Chúa qua hình ảnh ông chủ trong dụ ngôn cỏ lùng hôm nay.

Câu chuyện khởi đi từ việc gia nhân thắc mắc xem tại sao có cỏ lùng trong ruộng??? Tuy nhiên, ông chủ đã khẳng định rõ rằng: đó là do kẻ thù gieo trộm vào nên mới có! Sau đó, gia nhân đã không kiên trì nổi, nên xin ông chủ cho họ đi nhổ cỏ lùng kẻo nó lấn át lúa! Tuy nhiên, ông chủ đã không đồng ý và đưa ra lý do: “Đừng! Sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi”.

Qua dụ ngôn trên, chúng ta thấy toát lên lòng nhân từ, bao dung và kiên nhẫn của Thiên Chúa. Ngài luôn yêu thương người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Vì thế, đã có lần chính Đức Giêsu tuyên bố: “Ngài đến để cứu chuộc những người tội lỗi chứ không phải những người công chính”.

Trong cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta nóng vội và bất nhân khi chỉ nghĩ đến lỗi người khác và mong muốn loại trừ họ. Sẵn sàng làm mất thanh danh, tiếng tốt nơi anh chị em mình bằng những lời chửi bới hay dèm pha… chỉ vì họ không làm theo ý chúng ta.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên nhẫn chờ đợi như ông chủ. Hãy tạo cơ hội cho anh chị em mình làm lại cuộc đời. Nếu họ không trở lại mà sám hối ăn năm thì hậu quả ắt sẽ đến với họ là bị quăng vào lửa không hề tắt… Đồng thời, cần xác tín rằng: ai cũng là kẻ có tội, vì thế, chính bản thân mỗi người hãy khiêm tốn để trở về với Chúa khi còn có thể. Nếu không, số phận của cỏ lùng trong ngày sau hết cũng là số phận của mỗi chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết yêu thương, nâng đỡ nhau trong cuộc sống, để mọi người được hưởng ơn cứu chuộc của Chúa. Amen.

LỜI CHÚA

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN. C

LỜI CHÚA-(Luca 10: 38-42)

Phúc ai được Chúa ghé thăm,

Gia đình êm ấm, tháng năm mong chờ.

Mar-tha đón Chúa đơn sơ,

Nấu ăn bận rộn, chẳng nhờ được ai.

Ma-ri-a mải ngồi dai,

Kề bên chân Chúa, mở khai tâm hồn.

Lắng nghe Lời Chúa học khôn,

Mải mê hầu chuyện, kính tôn vua trời.

Mar-tha kêu cứu đôi lời,

Xin Thầy nhắc bảo, kêu mời giúp cho.

Chúa rằng mọi việc đừng lo,

Của ăn đích thực, là kho ân tình.

Lặng ngồi nghe Chúa một mình,

Ma-ry hiếu thấu, tâm tình tri ân.

Chúa thương chỉ dậy ân cần,

Tình yêu cao quý, tinh thần phó dâng.

Chọn phần tốt nhất xin vâng,

Cậy nhờ ơn Chúa, đỡ nâng suốt đời.

Chúa ban ân huệ cao vời,

Thực hành lời Chúa, tuyệt vời biết bao.

Chúa Giêsu đến thăm gia đình Martha và Maria. Thật vui khi được Chúa ghé thăm. Chị thì lo việc bếp núc và người em thì lo ngồi hầu chuyện với Chúa. Mỗi người một bổn phận và một cách tỏ lòng hiếu khách. Chúa Giêsu lại có cơ hội dạy cho chúng ta một bài học. Mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh, Chúa Giêsu luôn dậy chúng ta những bài học liên quan đến sự khao khát Nước Trời.

Chúa đến nhà, Martha quá vui, bà tất bật lo cơm nước tiếp đãi Chúa. Đây là việc rất tốt. Bà Martha quá bận bịu và bà cũng hơi ganh tị với Maria, nên bà nhờ Chúa nhắc khéo, bà nói: Lạy Thầy, em tôi để tôi hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Lời trách cứ rất dễ thương. Chúa Giêsu lại không bênh đỡ Martha mà Chúa lấy dịp này đưa ra một lời khuyên. Chỉ có một sự cần, Maria đã chọn phần tốt nhất. Phần đó chính là ở bên Chúa và lắng nghe lời Chúa.

Có Chúa, chúng ta sẽ có tất cả. Mấy khi chúng ta được ở bên Chúa thực sự. Có khi nào chúng ta đến gần bên Chúa trong Nhà Tạm để tâm sự với Chúa không? Bao lâu chúng ta qùy trước Chúa Giêsu Thánh Thể mỗi ngày, mỗi tháng hay mỗi năm? Chúng ta thường đến với Chúa như là khách vãng lai, mau mau thi hành xong bổn phận buộc giữ ngày Chúa Nhật là chúng ta ra về ngay. Nhiều khi chúng ta không biết Nhà Tạm ở nơi đâu để kính viếng.

Maria đã chọn phần tốt nhất. Maria đã chăm chú lắng nghe lời Chúa dậy. Chúng ta nghe lời Chúa hàng tuần nhưng mấy khi chúng ta thực sự lắng nghe. Chúng ta đến nhà thờ để nói cho Chúa  nghe nhiều hơn là lắng nghe tiếng Chúa. Chúng ta đâu cho Chúa cơ hội nói truyện riêng với chúng ta. Chúng ta lo đọc kinh, hát xướng và tham dự thánh lễ chung và kết thúc ra về. Chúng ta nghĩ rằng đó là đã xong bổn phận kính thờ Thiên Chúa.

Truyện kể: Có một ông phú hộ đón Chúa vào nhà. Ông dành cho Chúa một phòng tiện nghi. Trao chìa khóa phòng. Đêm thứ nhất, phú hộ nghe có tiếng đập cửa, ông bước xuống, thấy ba anh qủy muốn vào. Ông đã xua đuổi chúng đi. Đêm thứ hai cũng thế, mấy anh qủy lại đến quấy rầy, ông nghĩ tại sao Chúa không giúp ông? Ông đã dành cho Chúa một phòng ngủ mà. Sao Chúa làm ngơ. Ngày hôm sau, ông quyết định gặp Chúa và trình bày sự việc. Chúa nói: Ông đón tôi vào nhà và trao cho tôi một phòng, còn các phòng khác khóa cửa. Tôi đâu có quyền trong nhà. Ông nói: Lậy Chúa, xin tha cho con, giờ đây con trao cho Chúa tất cả. Đây là chìa khóa căn nhà. Đêm kế, lại có tiếng đập cửa. Chúa và ông xuống, qủy nhìn thấy Chúa và nói: Xin lỗi, chúng tôi đến nhầm nhà.

Hãy lắng động tâm hồn tìm về bên Chúa. Ngài sẽ nâng đỡ bổ sức cho chúng ta. Về bên Chúa là về với nguồn suối mát và chỗ nghỉ ngơi. Lạy Chúa xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn đón Chúa vào nhà chúng con. Xin Chúa ở lại với chúng con vì trời đã tối rồi.

THỨ HAI, TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN

DẤU LẠ(Mt 12, 38-42).

Xin Thầy dấu lạ chứng minh,

Mấy người Luật Sĩ, đinh ninh việc đời.

Các thầy Biệt Phái dụ khơi,

Muốn xem phép lạ, trò chơi tò mò.

Trả lời thẳng thắn chẳng cho,

Sa lầy thế hệ, một lò gian dâm.

Không ban dấu lạ tà tâm,

Ngoại trừ một dấu, cá ngầm Gio-na.

Ba đêm bụng cá chìm xa,

Đưa vào vùng đất, nhả ra loan truyền.

Kêu mời sám hối một miền,

Ăn chay áo nhặm, tội khiên xin chừa.

Toàn dân răm rắp xin thưa,

Thứ tha tội lỗi, ngăn ngừa thói hư.

Bậc Thầy cao trọng ân sư,

Xuất thân rao giảng, đến từ trời cao.

THỨ BA, TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN

ANH EM(Mt 12, 46-50).

Anh em tìm cách gặp Thầy,

Ước mong của Mẹ, xum vầy cùng con.

Biết bao ngày tháng mỏi mòn,

Chúa đang giảng dậy, quây tròn đám dân.

Tin mừng xuất khẩu thiện chân,

Ai là cha mẹ, công dân Nước Trời.

Cùng anh cùng chị vào đời,

Lắng nghe chăm chú, những Lời Chúa đây.

Trở thành môn đệ hằng ngày,

Thực thi ý Chúa, đây này mẹ cha.

Anh em cùng ở một nhà,

Yêu thương gắn bó, thật là mẹ Ta.

Hễ ai theo ý Cha Ta,

Họ là anh chị, cũng là bà con.

Phúc âm Chúa dạy sắt son,

Thực hành tuân giữ, làm con Chúa Trời.

THỨ TƯ, TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN

GIEO GIỐNG(Mt 13, 1-9).

Ngồi ven bờ biển truyền rao,

Nhóm người đông đảo, khát khao ơn lành.

Xuống thuyền xa cách chẳng đành,

Thương đoàn dân chúng, tranh dành đứng chen.

Dụ ngôn Chúa giảng bên ven,

Người đi gieo giống, muối men giữa đời.

Tung bay hạt giống khắp nơi,

Hạt rơi xuống vệ, chim trời tha đi.

Hạt gieo đá sỏi đường đi,

Nơi mà ít đất, lấy gì mọc lên.

Mặt trời nắng gắt ở trên,

Mầm non chớm nở, héo nền cháy khô.

Bụi gai hạt giống trong mồ,

Um tùm chết ngạt, chết khô mỏi mòn.

Hạt rơi đất tốt đồi non,

Sinh ngàn bông trái, hạt ngon chín vàng.

THỨ NĂM, TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN

MẦU NHIỆM(Mt 13, 10-17).

Dụ ngôn mầu nhiệm Nước Trời,

Đơn sơ sâu thẳm, mọi thời mọi nơi.

Thánh Thần linh ứng rạng ngời,

Loan truyền chân lý, sống đời thần thiêng

Khởi từ thượng giới thiêng liêng,

Hạ thân giáng thế, Chúa Chiên tỏ bày.

Tiên tri ứng nghiệm lời này,

Nước Trời hạt giống, tràn đầy khắp nơi.

Mở lòng mở trí đón mời,

Lắng tai nghe thấu, đổi đời thiện nhân.

Cứng lòng chai đá thế trần,

Nghe mà không hiểu, người đần kẻ ngu.

Bịt tai nhắm mắt tối mù,

Chối từ ánh sáng, gây thù dối gian.

Phúc thay lòng trí lạc an,

Dụ ngôn thấu tỏ, chứa chan phúc lành.

THỨ SÁU, TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN

SỐNG ĐẠO(Mt 13, 18-23).

Dụ ngôn gieo giống lòng người,

Nước Trời ẩn dấu, trong đời thế gian.

Người nghe không hiểu lời ban,

Quỷ ma cướp mất, phá tan hạt mầm.

Vui lòng chấp nhận tiểu tâm,

Cuộc đời nông nổi, rễ đâm sơ sài.

Gian nan bách hại nay mai,

Chiều theo vấp ngã, phôi phai cuộc đời.

Ham mê của cải trần đời,

Niềm tin chết ngạt, chơi vơi lữ hành.

Việc đời lo lắng tranh dành,

Buông tay mất hết, ơn lành Chúa ban.

Kẻ nghe lời giảng kiên gan,

Sinh hoa kết qủa, vô vàn thánh ân.

Thành tâm nhân đức vọng ngân,

Trung thành sống đạo, tinh thần thảnh thơi.

THỨ BẢY, TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN

CỎ LÙNG(Mt 13, 24-30).

Nước Trời giống tốt tung gieo,

Kẻ thù ghen ghét, lừa gieo cỏ lùng.

Cỏ lùng giữa lúa mọc chung,

Cả hai phát triển, cỏ lùng lộ ra.

Trổ bông kết hạt hoang tà,

Thương cho đám lúa, chủ nhà buồn lo.

Thợ vườn xin chủ nhổ cho,

Không nên nhổ cỏ, sợ kho lúa vàng.

Đợi khi thu hoặch mùa màng,

Cỏ lùng nhổ trước, lúa vàng thu sau.

Thu gom cỏ dại đốt mau,

Lúa thu kho lẫm, ngày sau hưởng dùng.

Con người sống đạo tín trung,

Trổ sinh nhân đức, kết cùng vinh qui.

Chuyên cần cầu nguyện gẫm suy,

Tôn thờ Thiên Chúa, phát huy tín thành.

Bronx, New York

HAI SUY TƯ

Mai Tá

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 16 thường niên năm C 17/7/2016

Tin Mừng (Lc 10: 38-42)

Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Martha đón Ngài vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy. Còn cô Martha thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói:

Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!

Chúa đáp:

“Martha! Martha! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.”

“Nào những ai đâu bạn của đời?

Sao mà bỏ vắng ít ra chơi?

Chớ ai chờ mãi, chờ đâu tá?

Hay ngán cho đời chẳng muốn chơi?

(Dẫn từ thơ Tản Đà)

Với Tản Đà, niềm vui cuộc đời có nhiều thứ. Nhiều thứ vui hưởng, để mà chơi! Chơi, với thơ văn, giấy bút; chơi, với trăng sao “lộng hoành”, một đời thơ.

Niềm vui nhà Đạo hôm nay, được diễn-tả nơi bài đọc bằng sự-kiện nói lên việc yêu-cầu đón-tiếp khách lạ, đến đỗ nhờ.

Ở bài đọc 1, Abraham vui vẻ tiếp 3 người khách lạ, mà ông tin chắc là người của Chúa gửi. Ở bài đọc 2, thánh Phaolô có được niềm vui lây qua kinh-nghiệm một đời làm tôi Hội-thánh, trên cương-vị của người rao-truyền sứ-điệp Chúa gửi đến khắp nơi nơi.

Với trình thuật Tin Mừng, niềm vui hiếu khách còn nằm ở điều mà các thánh gọi là: đón tiếp những người cần quan tâm, giúp đỡ suốt mọi thời.

Với người Âu Mỹ, ý niệm đón khách đỗ nhờ, chỉ là chuyện xảy ra ở miền sâu/miền xa, thiếu tiện nghi hoặc chẳng đủ phương tiện. Nhưng với văn hóa Trung Đông, hiếu khách là việc hệ trọng, rất nên làm. Nên, là bởi điều kiện sinh sống vùng sa mạc, quá khắc nghiệt.

Thế nên, hiếu khách không chỉ là hành vi lịch duyệt, mà còn là chuyện cốt tủy cần có ở các xứ sở, rất tương tự.

Chủ đề hiếu khách đặt cho phụng vụ hôm nay đạt đỉnh cao chót qua trình thuật về việc Chúa ghé nhà chị em Martha, Maria và Lazarô. Việc chị em Martha đón tiếp Chúa là ảnh hình rõ nét về những hành xử mà Chúa muốn dân con nhà Đạo, hãy nên làm.

Chính vì tính hiếu khách của chị em nhà Martha, mà Chúa thấy thoải mái đến ghé thăm/đỗ nhờ, sau hành trình giảng rao mệt nhoài, quãng đường dài.

Hiếu khách nơi truyện kể, được thể hiện ngay sau dịp Chúa nói về dụ ngôn người Samari tốt bụng, ở tuần trước. Dưới ngòi viết của thánh Luca, hai trình thuật trên đều có chung một lời bình chú giải, khá tương tự. Truyện dụ ngôn tuần trước, khởi đầu bằng ý niệm linh thiêng cần có, về thương yêu người đồng loại. Dù, người ấy ở ngoài nhà Đạo.

Truyện kể hôm nay cho thấy: Martha là người năng nổ luôn quan tâm phục vụ yêu cầu khẩn thiết của khách viếng. Cũng có thể, Đức Kitô dẫn theo Ngài vài môn đồ thân cận, nên đã khiến cho nhà chủ phải bận rộn, hơn mọi lúc.

Người đọc nào bận bịu với đủ mọi công chuyện, hẳn sẽ dễ cảm thông với Martha, hơn em cô. Bởi cô ta, biết chọn công việc dành cho tuổi trẻ, chưa biết quán xuyến chuyện trong nhà. Mục đích hai trình thuật nhắm đến, là: lối sống hiện thực cần phải có, trong tương quan với Đức Chúa.

Thực tại cuộc sống, nhiều lúc làm ta chú tâm đến phần năng nổ trong công tác phục vụ người có nhu cầu mà thôi; nên bỏ quên những đòi hỏi cốt thiết cần chiêm nghiệm cả vào lúc mình đang phục vụ người đồng loại, nữa.

Nghĩa là, dù sinh hoạt bận rộn, ta vẫn nên hiệp thông chiêm niệm, hầu kết hợp mật thiết với Chúa nhiều hơn. Đó mới là nhu cầu cấp thiết hơn hết mọi sự.

Ở nhiều chương đoạn trong Tin Mừng Nhất Lãm, các thánh sử thường nhắc đến yêu cầu “lắng nghe Lời Chúa, như lời khẳng định này: “Mẹ và anh em Ta là những người biết nghe Lời và tuân giữ”; “Phúc hơn cho ai biết nghe Lời và giữ lấy.”

Ở trình thuật hôm nay, phần việc của Maria chọn “lắng nghe Đức Kitô nói Lời của Chúa”, mới khôn ngoan. Bởi, những ai biết nghe và nhớ Lời Chúa, mới biết cách hành xử theo đường lối Ngài dạy.

Chính vì không biết lắng nghe Lời Chúa, người người dễ có khuynh hướng không biết gì về việc vui sống hài hòa với mọi người. Từ đó, sẽ bước khỏi công cuộc tạo dựng, Chúa thực hiện.

Thành thử, hiếu khách không là trạng thái biết tiếp đón và phục vụ bữa ăn cho khách mà thôi; nhưng còn phải biết lắng nghe xem khách muốn gì. Khách viếng, có thể là quà tặng Chúa gửi, để nhắc nhở mọi người về bổn phận “lắng nghe” và nhớ Lời Chúa. Lời Ngài luôn còn đó, ở Thánh Kinh.

Tham dự tiệc lòng mến mỗi tuần, là cơ hội để con dân Đức Chúa có dịp lắng nghe và “bẻ bánh” Lời Ngài trong trạng thái rất nhân hiền. Không lăng xăng, như thái độ của Martha; nhưng, biết chọn phần hay phần tốt, như Maria được nói đến nơi trình thuật.

Trong tinh-thần hăng say đón-nhận Lời của Chúa để lắng nghe và chiêm-niệm, ta cũng nên hợp cùng người nghệ-sĩ hôm nào hát lên lời ca rất tươi vui mà cất tiếng hát rằng:

“Hãy lắng tiếng nói vang trong hồn mình người ơi!

Con tim chân-chính không bao giờ biết đến nói dối.

Tôi đi chinh-chiến bao năm trường miệt-mài,

Và, hồn tôi mang vết thương, vết thương trần ai…”

(Lê Minh Bằng – Đêm nguyện cầu)

Vâng. Hãy cứ luôn lắng nghe tiếng nói trong tâm-hồn, hỡi bạn tôi. Bởi, Đức CHúa vẫn còn nói với ta rất nhiều Lời. Ngài nói trong con tim. Nói, vào thời chinh-chiến. Nói cả vào những lúc chúng ta mang hằn vết thương, rất trần-ai, của cuộc đời. Một đời người có nhiều tiếng nói, nhưng lại ít có dịp để lắng nghe, và thực-hiện.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn  

Mai Tá lược dịch.

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 16 mùa thường niên C 17/7/2016

 

“Em ơi! quên đi bao nhiêu xót xa”, Những chiều thiết tha bên nhau Em ơi! xin em, xin em nói yêu đương đậm đà Để rồi ngày mai cách xa.”

(Lê Uyên Phương – Lời Gọi Chân Mây)

(Mt 6: 22-23) Quên đi ư? Quên để làm gì? Phải chăng để cứ thế mà yêu-đương như đương yêu chứ? Và rồi, để “ngày mai cách xa” ư? Điều đó, có là chuyện mê say, mê mệt và mê-tín không thế?

Bạn đọc chuyện phiếm của bần-đạo, một hôm sau nhiều ngày theo dõi các câu chuyện phiếm rất Đạo/đời, lại có lời phản-hồi rất như sau: “Anh viết Chuyện Phiếm Đạo Đời hay Đạo vào đời gì đó, mà sao toàn viết về chuyện Đạo nhiều hơn chuyện đời, vậy?”

Nghe hỏi, bần đạo bầy tôi đây, chả biết nói năng sao cho phải đạo làm người đi Đạo. Bởi, đối với bần-đạo, chuyện đi Đạo hoặc giữ Đạo vẫn cứ là “tin” vào Đạo. Thứ Đạo của tình thương-yêu vào đời, nhiều lúc cũng rất mê và rất tín.

Hôm nay, bần đạo xin được mạn phép nói về chuyện đời nhiều hơn  Đạo. Hoặc, cũng sẽ bảo: đi Đạo còn là và sẽ là: đi vào thứ Đạo rất mê và rất tín. Nói khác đi, như thế có nghĩa: “mê” say chuyện “tín” thác cho Đạo và vì Đạo. Bởi, Đạo của tôi và của bạn, lại là Đạo rất đáng mê/mệt chuyện tín-thác, rất tin-tưởng vào Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu rất mực và cũng rất mê-ly chuyện tin-tưởng, nên như thế.

Nói về chuyện “mê” và “tín”, hoặc những mê rồi sẽ tín-thác/tin-yêu trong đời người, bần đạo nhớ nhiều đến các sự hoặc các công việc mà người đời đi Đạo gọi là “mê-tín”. Mê-tín, có thể là chuyện tin và tưởng cách mê say, mê như điều-đổ. Mê, đến chết đi được. Hoặc, sống cho đến chết vẫn còn mê. Rất mê và cũng rất mệt vì Đạo.

Còn nhớ, khi xưa học chữ-nghĩa Tây/ta và tướng-mạo-học, các cụ thời ấy vẫn bảo: “Les yeux, mirroir de l’âme.” Tạm dịch là: “Con mắt, là cửa sổ của linh-hồn”. Và từ đó, các cụ còn đi xa hơn, đã nhập cuộc sự việc đầy những chuyện trời-trăng-mây-nước về dung-nhan, diện-mạo hoặc “tướng-mạo”, gì gì nữa.

Để tìm hiểu, học-hỏi hoặc nghiên-cứu dung-mạo của người đời, để rồi ta lại sẽ học và hỏi những chuyện về thần hồn, tưởng cũng nên tạt qua một số châm-ngôn/lời bàn của người xưa, để xem sao. Trước nhất, ta cũng nên đi vào với lời vàng ở Kinh/Sách có những câu, như:

“Đèn của thân thể là con mắt.

Vậy nếu mắt anh sáng,

thì toàn thân anh sẽ sáng.

Còn nếu mắt anh xấu,

thì toàn thân anh sẽ tối.

Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối,

thì tối biết chừng nào!”

(Mt 6: 22-23)

Xem thế thì, “mắt” là bộ-phận thanh-tao, lịch-lãm nói lên nhiều đặc-trưng/đặc-thù nơi tâm-thân/linh-hồn của con người. Về mắt, ta có: mắt láo-liên, mắt đỏ, mắt vàng, mắt bồ câu/lá liễu, mắt tinh-khôn lờ-đờ, hoặc “lờ-tờ-mờ” đủ mọi bộ. Thôi thì, có đến triệu triệu con mắt. Có, cả 7 tỷ cặp mắt trên thế-gian này, mà chẳng cặp nào giống cặp nào, hết!

Nhưng, vấn-đề là bảo rằng: con mắt hay cặp mắt, giúp ta được gì trong quá-trình đi Đạo và sống Đạo, đây? Ta có nên giữ con mắt như giữ cửa sổ của thần-hồn cho kỹ, không? Và, mắt là cái gì mà ghê-gớm thế vậy?

Câu hỏi về mắt, đặt ra thì nhiều. Nhưng lời đáp, chắc cũng không thiếu. Vâng. Mời bạn/mời tôi, ta đi vào chốn mê-hồn-trận có con mắt trần-gian vẫn đưa ta và mọi người vào chốn mê-say, mê-sảng, hoặc rất mê và rất tín, như tác-giả ở dưới đây, từng viết lên:

“Hẳn mọi người đều biết, khi xưa đã có sự hòa-trộn giữa ngoại-giáo và Đạo Chúa để rồi trở-thành Đạo Công-giáo La Mã. Người ngoài Đạo nguyện-cầu/thờ-phượng với mẫu-thần, nên giáo-hội của ta vừa thiết-lập lại đã du-nhập việc phụng-thờ mẫu-thần dưới tên gọi là: Đức Mẹ. Người ngoài Đạo đều đã có thần-linh, nữ-thần thuở trước nối-kết với tháng/ngày, nghề-nghiệp và nhiều sự-kiện trong cuộc sống thường-nhật.

Hệ-thống tín-ngưỡng này đã tháp-nhập và các “thần-linh” thánh-ái được gọi là “thánh-nhân”. Người ngoại-giáo sử-dụng các tượng đúc hoặc ngẫu-thần của họ đưa vào nghi-lễ phụng-thờ, và cũng thế Đạo mới lập cũng làm hệt như thế bằng cách gọi các đấng-bậc ấy bằng tên gọi khác nhau.

Vào thời cổ, thập-giá được dựng theo nhiều hình-thức khác-biệt cũng đã du-nhập vào đạo mới theo nhiều đường-lối cũng mê-tín/dị-đoan. Một số ý-tưởng được du-nhập lại đã phối-kết với thập-giá gỗ tượng-niệm cái chết của Đức Kitô, ở trên đó. Và kể từ đó, thập-giá trở-thành hình-ảnh được tôn-sùng cả ở bên ngoài, nhưng sự hy-sinh thực-sự của thập-giá đã “hoàn-tất” lại bị mờ-khuất do nghi-thức của lễ Misa có sự hóa-bánh và rượu, bi-kịch nhiệm-mầu và có nguyện cầu cho người đã chết, nữa.” (X. Ralph Woodrow, Babylon Mystery Religion, Ralph Woodrow Evangelistic Association, Inc. 1981, tr. 156)

Nói theo nhà Đạo hoặc những người có niềm tin vào đạo-giáo, thì như thế. Nói theo nghệ-sĩ ở đời, lại vẫn nói và hát theo thi-ca, âm-nhạc như sau:

“Anh ơi! bao nhiêu tang thương 

mỗi khi đã rời giấc mơ yêu đương. 

Anh ơi! xin anh,

xin anh cúi trên cơn mộng dài, 

Để chờ ngày mai lên nắng.

(Lê Uyên Phương – bđd)

 Như có hẹn ở đầu bài, hôm nay bần đạo đề-nghị: ta nói nhiều về chuyện đời hơn chuyện đạo. Chuyện đời về cái-gọi-là mê-tín hoặc tin vào tướng số, dung-mạo của thể xác, được người đời xác-định như sau:

“Một câu hỏi gắn liền với đời sống nhân-loại ngay từ khi loài người nhận thấy sự thọ/yểu của mỗi sinh-mệnh. Nói lại càng gây thắc-mắc hơn khi con người sống tụ thành xã-hội và nhận thấy lẽ cùng thông trong đời sống.

Phải chăng cùng thông thọ/yểu, là do sự an-bài của Đấng Tối-linh Trời, Phật, Thượng-Đế như các tín-ngưỡng/tôn-giáo từng lập-luận. Hoặc, ngược hẳn lại, theo triết-lý nhân-văn, khoa-học, phương-pháp học, ý-chí quyền-lực, tất cả là do con người định. Vũ-trụ quanh ta, không chống lại ta mà cũng không ban ân-huệ gì cho ta. Nó quay cuồng, đảo lộn, không hề có mưu-định gì cả. Trong quay cuồng đảo lộn, chính con người tự điều-khiển, tự cai-quản, vượt mọi trở-ngại để chiến thắng…(X.Vũ Tài Lục, Tướng Mệnh Học Khảo-luận, ấn-bản in lại ở nước ngoài tr. 7)

Hát và nói sơ qua về tướng-học diện-mạo như thế xong, tưởng cũng nên hát thêm đôi ca-từ rất để đời rằng:

“Nhớ đến ngày còn gần nhau. 

Nước mắt rơi khóc phút không ngờ. 

Nhớ thương ngậm ngùi cách xa, 

Biết đến bao giờ.

Em ơi! chim bay mang theo chút hơi nắng tàn giấu trong tim son. Em ơi! xin em,

xin em dấu trong cơn nghẹn ngào. Những chiều buồn mưa lẻ loi. 

Anh ơi! như chim say mê có khi rã rời cánh nhung thôi bay Anh ơi! xin anh,

xin anh lúc chân mây mệt nhoài, Trở về lồng êm thân ái…

Em ơi! quên đi bao nhiêu xót xa Những chiều thiết tha bên nhau Em ơi! xin em,

xin em nói yêu đương đậm đà Để rồi ngày mai cách xa Để rồi ngày mai .. cách xa”

(Lê Uyên Phương – bđd)             

Về những gì, mà người nhà Đạo nhận-định rằng: người đời chỉ những dị-đoan/mê-tín cả trong môn tướng-mệnh-học, tác-giả họ Vũ ở trên, đã chẳng kể gì đến những lời phê-bình/bàn-luận về mê và tín, lại có thêm lời bình rải-rác bằng khẳng-định như đinh đóng cột, về “mắt”, như sau:

-Mắt đong đưa, đàn bà con gái dễ bị khêu gợi.

-Hai mắt trắng đen phân-minh, không tà-thị, nõn-nà nhưng vẫn có uy…

-Mắt đỏ, mắt vàng, mắt cực lớn, mắt tròn, mắt lồi, mắt bốn phía tròng trắng, mắt hình tam-giác, dưới mắt da thịt khô, dưới mắt có vết như tấm lưới… đều là tướng khắc-phu.

-Mắt có hung-quang, mắt nhỏ tí hí, lá dăm…, là tướng hung-hãn…

-Mắt dài, mi thanh mục tú, là tướng trợ-phu.

-Mi đầu giao nhau. Mắt như khiếp sợ,… là tướng không biết quản-cai gia-đình…

-Mắt lộ bốn phía tròng trắng, hung-hãn, vụng dại… đều là ác-tướng với đàn bà…” (X.Vũ Tài Lục, Tướng Mệnh Học Khảo-luận, ấn-bản in lại ở nước ngoài tr. 7)  

Khẳng-định về kinh-nghiệm sống rất thực ở đời, ai cũng muốn làm được như thế. Lại có vị, tuy không khẳng-định về bất cứ trải-nghiệm nào hết, nhưng vẫn thích đi vào vùng trời truyện kể để nói lên điều gì đó, rất đời thường, như sau:

“Nếu như nói học vị, chức vụ đại biểu cho thân phận một người… thì tu dưỡng và thói quen, chính là thân phận thứ hai của người đó. Và điều này cần được ươm mầm từ những chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc sống. Anh Nam du học từ Anh quốc trở về, mấy người bạn chúng tôi đã tổ chức một buổi tiệc ‘tẩy trần’ chào đón anh. Trong bữa tiệc, lời lẽ khiếm nhã của một người bạn khiến anh ấy cảm thấy không vui, mấy lần thể hiện rõ ra sự chán ghét. Tiệc tan, trên đường tiễn Nam về nhà, tôi thay người bạn kia giải thích, thay người bạn kia giải thích, nói rằng những lời lẽ đó bất quá chỉ là nói quen miệng thôi, không ám chỉ đến ai, nghe quen rồi cũng không cảm thấy gì.

Nam im lặng một lúc rồi nói: “Mình sẽ kể cho cậu một chút về kinh nghiệm mà mình học hỏi được từ lúc mới đến Anh”.

Cũng như đại đa số du học sinh khác ở Bristol, mình cũng ở nhờ một hộ dân cư nơi đó, vừa tiết kiệm, điều kiện đời sống cũng tốt.Chủ nhà tên là Campbell, là một đôi vợ chồng già. Vợ chồng họ đối xử với mọi người nhiệt tình, hào phóng, họ chỉ thu của mình mấy Bảng Anh coi như tiền cho thuê nhà, họ còn kiên quyết “đoạt” mình khỏi tay nhà hàng xóm về nhà của họ. Có một du học sinh ngoại quốc ở trong nhà, đối với họ mà nói là một sự việc rất đáng tự hào. Họ không chỉ nói cho cả cộng đồng ở đó biết, mà còn gọi điện báo cho con gái xa ở Manchester và London.

Để mình thực hiện được giấc mơ xuất ngoại du học, cha mẹ đã mắc khoản nợ mấy trăm triệu. Mình đương nhiên vô cùng quý trọng cơ hội học tập không dễ gì mà có được này. Ngày nào cũng vậy, buổi tối ở thư viện một mạch cho đến khi thư viện đóng cửa mới chịu quay về.

Cũng may là gặp được chủ nhà tốt bụng, mình có thể tập trung tinh thần học tập, không phải lo lắng nhiều tới cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Mỗi ngày mình về “nhà”, những món ăn ngon lành đang chờ đợi mình; cách bốn năm ngày, bà Campbell bắt mình thay quần áo, sau đó đem quần áo bẩn đi giặt ủi sạch sẽ. Có thể nói, họ đối đãi với mình giống như con cái trong nhà vậy.

Thế nhưng, không lâu sau, mình cảm thấy ông Campbell đối với mình có chút lạnh nhạt, ánh mắt nhìn mình có chút khác thường. Nhiều lần ăn cơm, ông Campbell dường như muốn có lời gì muốn nói với mình, nhưng khi nhìn vợ, ông lại nuốt những lời ấy vào trong. Lúc đầu mình đoán rằng, họ có phải là chê tiền thuê nhà của mình quá ít, muốn tăng thêm nhưng ngại không biết nói sao.

11 giờ một đêm nọ, mình từ trường học trở về, rửa mặt xong vừa định thay đồ đi ngủ, ông Campbell rón rén bước vào phòng mình. Sau khi hỏi chuyện đôi ba câu, ông Campbell ngồi vào ghế, trong tư thế nói chuyện có vẻ nghiêm túc. Xem ra rốt cục ông ấy cũng muốn nói những lời cất giấu trong lòng. Trong đầu mình đã sớm có sự chuẩn bị, chỉ cần mình có thể chấp nhận được, ông ấy tăng tiền thuê nhà lên mình cũng đồng ý, dù sao người chủ nhà như vậy cũng không phải dễ mà tìm được.

“Con trai“, ông Campbell bắt đầu nói, “Ở nhà con bên kia, lúc con nửa đêm về nhà, mặc kệ cha mẹ con có ngủ hay không, con đều dùng sức mà đóng cửa ầm ầm và cất tiếng ho lớn tiếng sao?”

Mình ngẩn cả người, chẳng lẽ đây là những gì nghẹn trong lòng ông ấy muốn nói sao?Mình nói: “Con không rõ, có lẽ…”

Thật sự, lớn nhường này chưa từng có người nào hỏi mình vấn đề như vậy, chính mình cũng không chú ý những “chi tiết” này.

“Ta tin là con không cố ý”, ông Campbell mỉm cười nói, “Vợ ta có chứng mất ngủ, mỗi buổi tối con đi về nhà đều đánh thức bà ấy, mà bà ấy một khi tỉnh lại sẽ rất khó ngủ tiếp; vì vậy, về sau nếu con có về trễ như thế, nếu như có thể chú ý nhẹ nhàng một chút, ta sẽ rất vui”.

Ông Campbell dừng lại một chút rồi nói: “Kỳ thực, ta đã muốn sớm nhắc nhở con chú ý, chỉ là vợ ta sợ sẽ làm con tự ái, một mực không cho ta nói; con là một người hiểu chuyện, con sẽ không vì thiện ý nhắc nhở của ta mà thấy tổn thương chứ?”

Mình miễn cưỡng gật đầu. Không phải là mình thấy ông ấy nói không đúng, cũng không phải là mình tự ái, mà chỉ là cảm thấy ông ấy có chút tính toán chi li nhỏ nhặt. Mình sống cùng cha mẹ hơn 20 năm nay, họ chưa bao giờ so đo với mình chuyện này. Nếu như vì vậy mà mình quấy rầy họ, họ cũng sẽ nhất định dễ dàng bỏ qua, nhiều nhất cũng đóng chặt cửa phòng ngủ của mình mà thôi. Trong lòng mình nghĩ: Rốt cục cũng không phải nhà của mình!

Đương nhiên, cho dù trong lòng mình có chút bực tức, nhưng mình vẫn tiếp nhận lời nhắc nhở của ông Campbell, mỗi buổi tối trở về đều rất chú ý nhẹ nhàng mọi thứ.

Thế nhưng, một buổi chiều không lâu sau, khi mình từ trường học trở về, vừa vào đến chỗ của mình, ông Campbell lại bước vào. Mình chú ý thấy mặt ông ấy có chút sa sầm.

“Con trai, có lẽ con không vui, nhưng mà ta vẫn phải hỏi; lúc con đi tiểu, có phải là không nhấc cái đệm lót bồn cầu lên không?”

Trong lòng mình “lộp bộp” một tiếng. Mình thừa nhận, có lúc mình đi tiểu gấp, hoặc là lười biếng, khi tiểu cũng có không xốc miếng đệm lót bồn cầu lên”.

“Dạ… thỉnh thoảng…” mình lúng túng.

“Như vậy sao được?” ông Campbell lớn tiếng nói, “Chẳng lẽ con không biết như vậy sẽ làm nước tiểu văng tung tóe lên đệm sao? Cái này không chỉ là vệ sinh, mà còn là không tôn trọng người khác, nhất là đối với người phụ nữ”.

Mình giải thích: “Con hoàn toàn không có ý không tôn trọng người khác, chỉ là không…”

“Ta đương nhiên là tin tưởng con không có ý đó, nhưng điều này không nên trở thành một lý do như vậy”.

Nhìn ông Campbell đỏ mặt lên, mình lầm bầm: “Chuyện nhỏ như vậy, không đến nỗi làm cho ông tức giận như vậy”.

Ông Campbell càng thêm kích động: “Nghĩ cho người khác, để trong tâm và tôn trọng người khác, đây là điều tu dưỡng tối thiểu nhất, mà chân chính của việc tu dưỡng là thể hiện từ việc nhỏ nhất.

Con trai, thi đậu học vị hay có một chức vị gì đó tuy trọng yếu, nhưng những thói quen tu dưỡng khi ở cùng người khác cũng vô cùng quan trọng. Nếu như nói học vị, chức vụ đại biểu cho thân phận một người… thì tu dưỡng và thói quen, chính là thân phận thứ hai của người đó, cũng như thế, mọi người sẽ từ đó mà phán đoán một con người”.

Mình không thể nào kiên nhẫn lắng nghe, tiện tay cầm một quyển sách lật lung tung cả lên. Mình cảm thấy ông Campbell vô cùng hà khắc, việc này nếu như là ở trong nước, cũng có thể bị để tâm đến như vậy sao?

Buổi tối, nằm trên giường, mình cân nhắc rất lâu và quyết định rời khỏi nhà của ông Campbell. Họ đã không vừa mắt với mình, thì mình tìm một nhà khác có thể “khoan dung” hơn mà ở.

Ngày hôm sau, mình liền nói lời từ biệt với vợ chồng ông Campbell, hoàn toàn không để ý rằng họ cực lực muốn giữ mình lại. Thế nhưng, chuyện xảy ra tiếp sau đó làm cho mình chuẩn bị không kịp.

Mình liên tiếp đi đến 5, 6 gia đình, họ đều tiếp đãi mình với một câu hỏi giống nhau: “Nghe nói cậu lúc đi tiểu không xốc cái đệm bồn cầu lên phải không?”

Cái khẩu khí ấy, thần sắc ấy…Mình đâu thể nào tưởng tượng nổi sự việc này lại nghiêm trọng đến như vậy đối với bọn họ. Cuối cùng, mình chỉ biết xấu hổ đầy mình mà bỏ đi.

Đến tận giờ, mình mới hiểu được lời của ông Campbell nói: “Thói quen và tu dưỡng là thân phận thứ hai của một con người”.

Trong mắt mọi người, mình chính là đang tiếp thụ trình độ giáo dục cao đẳng, vậy mà lại nông cạn, thiếu khuyết tu dưỡng hàng ngày.

Mình tuyệt nhiên không trách vợ chồng ông Campbell đã đem “thói xấu” của mình truyền khắp nơi, trái lại, lâm vào tình cảnh như vậy, đối với mình, oán giận lại biến mất, thậm chí còn vô cùng cảm kích. Nếu như không có họ, không có đoạn kinh nghiệm xấu hổ kia, mình cũng không thể biết được làm như vậy sẽ khiến người ta khó chịu đến thế. “Không câu nệ tiểu tiết”, câu này ngoài miệng có vẻ là tốt nhưng cũng cần chú ý biết chừng nào.

Kể xong câu chuyện, Nam trầm mặc một lúc… Bồi dưỡng những sinh hoạt tập quán hàng ngày… những điều này vốn nên nằm trong chương trình học tập của thiếu niên thời đại này, nhưng tại sao lại để đến lúc trưởng thành về sau, khi đến một quốc gia khác tha hương mới học được chứ? Thậm chí, nếu như Nam không nghe được những lời của ông Campbell thì cả đời cũng không học được những thứ “nhỏ nhặt” ấy. Giáo dục bên trong chúng ta, quả là thiếu thốn biết bao nhiêu thứ!” (Mai Mai, dịch từ kannewyork)

Bàn về “con mắt, là cửa sổ của linh-hồn” mà lại cứ tản-mạn về những điều xảy ra ở ngoài đời và do người đời nói lên, như thế cũng đã đủ. Nay hỏi rằng, người nhà Đạo hiểu thế nào về: con mắt người đời?

Về con mắt trần-gian, lời vàng kinh thánh có nói rõ về mắt như sau:

“Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã,

thì hãy móc mà ném đi;

thà chột mắt mà được vào cõi sống,

còn hơn là có đủ hai mắt

mà bị ném vào lửa hoả ngục.”

(Mt 18: 9)

“Mắt là cửa sổ của linh-hồn”, mà lại ném vào lửa hỏa-ngục, tức vào những chỗ chỉ gây hận-thù đằng đằng, mất yêu-thương, thì cũng đáng. Bởi, “cửa sổ của linh-hồn” nay chỉ làm cớ cho mình sa-ngã, thì còn gì là đời sống, rất sáng chói làm đèn soi cho mọi người.

Nhà Đạo hôm nay, xảy ra rất nhiều tình-trạng có đấng bậc vị-vọng sử-dụng không được “sáng-suốt” cho lắm nên đã dẫn đưa các vị ấy vào với “lửa hỏa-ngục” của ghét ghen, hận thù, khổ đau.

Xem thế thì, cũng nên quay về với thi-ca âm-nhạc có những lời ca tiếng hát bàn về “con mắt trần-gian” để bạn và tôi ta suy-nghĩ thêm về chuyện “con mắt là cửa sổ của linh-hồn” rồi từ đó, tự định-đoạt cho đường-lối của chính mình. Lời ca ấy như thế này:

“Những con mắt tình nhân, Nuôi ta biết nồng nàn. Những con mắt thù hận, Cho ta đời lạnh câm. 

Những mắt biếc cỏ non, Xanh cây trái địa đàn. Những con mắt bạc tình, Cháy tan ngày thần tiên. 

Ngày ra đi với gió, Ta nghe tình đổi mùa. Rừng Đông rơi chiếc lá, Ta cười với âm u. Trên quê hương còn lại. Ta đi qua nửa đời, Chưa thấy được ngày vui. Đường trần rồi khăn gói, Mai kia chào cuộc đời, Nghìn trùng con gió bay. 

Những con mắt trần gian, Xin nuôi vết nhục nhằn. Những con mắt muộn phiền, Xin cấy lại niềm tin…”

(Trịnh Công Sơn – Những Con Mắt Trần Gian)

Cuối cùng còn một câu hỏi, vẫn bảo rằng: “những con mắt trần-gian” như thế có phải và có còn là “cửa sổ của linh-hồn” của mỗi người? Cả người đi Đạo lẫn ngoài đời? Câu trả lời xin dành để cho bạn, và cho tôi, trong đời người, rất hôm nay.

Trần Ngọc Mười Hai.

Cũng có lần

đặt ra cho mình và cho người

những câu hỏi

rất như thế.

SAI LẦM CỦA NGƯỜI THẦU KHOÁN

Cha Mark Link, S.J.

Chủ đề: “Trong cuộc đời, chúng ta cần thời gian thinh lặng cầu nguyện nếu chúng muốn quân bình và biết nhìn xa”

Vào buổi tối kia, một người cha đến dự phiên họp giữa thầy cô và phụ huynh trong một trường trung học ở Chicago. Trong bài nói chuyện của một thầy giáo, người cha này đã bật khóc nức nở.

Sau khi lấy lại bình tĩnh, người cha xin lỗi và nói: “Con tôi không còn sống với tôi nữa. Nhưng tôi vẫn yêu thương cháu và tôi muốn biết việc học hành của cháu như thế nào.”

Sau đó người cha cho biết vợ ông và bốn đứa con đã bỏ ông chiều hôm đó.

Ông là một thầu khoán xây cất và nhiều khi làm việc đến 16 giờ một ngày. Đương nhiên, ông ít gặp gia đình hơn, và dần dà họ càng xa ông hơn nữa.

Sau đó người cha nói lên một điều thật buồn thảm. Ông nói: “Tôi muốn mua cho vợ con tôi những gì mà tôi hằng mơ ước mua cho họ. Nhưng rồi tôi quá bận tâm làm ăn đến độ tôi quên đi điều mà gia đình tôi cần đến nhất: đó là một người cha có mặt trong gia đình hằng đêm để yêu thương và nâng đỡ vợ con.”

Câu chuyện có thật này cho thấy điểm quan trọng của bài phúc âm hôm nay. Đó là:

Chúng ta có thể quá bận tâm làm việc đến độ quên đi lý do tại sao chúng ta làm việc. Chúng ta có thể quá bận tâm đến đời sống đến độ quên đi mục đích của đời sống. Chúng ta có thể quá bận tâm theo đuổi những gì có thể mua được bằng tiền bạc mà quên đi những gì tiền bạc không thể mua được.

Đó là một loại sai lầm mà cô Máctha đã vấp phạm trong bài phúc âm hôm nay. Cô quá bận tâm đến việc nấu nướng cho Chúa Giêsu đến độ cô quên đi lý do tại sao Chúa đến nhà cô. Người đến không vì miếng ăn; Người đến vì tình bạn.

Giả như khi chúng ta còn nhỏ, sống với cha mẹ và nếu Đức Giêsu cho biết Người sẽ đến thăm gia đình, chúng ta biết các bà mẹ sẽ làm gì. Họ sẽ động viên toàn thể nhân lực trong gia đình từ nhiều ngày trước để dọn dẹp, lau chùi nhà cửa. Họ sẽ sai con cái đi chợ mua thứ này thứ kia. Nói tóm, họ sẽ hành động giống như cô Máctha.

Nhưng mẹ chúng ta cũng giống như cô Maria. Họ luôn dặn dò để biết chắc là con cái ăn mặc đàng hoàng tử tế, đến ngồi chung quanh Đức Giêsu, chú ý đến những gì Người nói. Mẹ chúng ta sẽ quân bình giữa sự lưu tâm đến miếng ăn cho Đức Giêsu và lưu tâm đến tình cảm mà gia đình dành cho Người.

Đó là những người mẹ có tài giữ quân bình mọi sự, từ việc cơm nước trong nhà đến việc giặt giũ lau chùi. Nhưng các bà mẹ còn cần đến các người làm cha có khả năng quân bình mọi sự, từ việc kiếm tiền cho đời sống vật chất đến việc giáo dục con cái, nâng cao giá trị tinh thần của đời sống.

Ngày nay, không may, chúng ta sống trong một thế giới thật khác biệt.

Thật dễ để đánh mất sự quân bình trong thế giới ngày nay. Thật dễ để đánh mất cái nhìn xa trông rộng. Thật dễ để xáo trộn những gì là ưu tiên. Thật dễ để đánh mất khả năng nhận ra những gì cần làm và tại sao chúng ta làm công việc ấy.

Trong Thế Chiến II, một người lính trẻ trấn đóng ở hòn đảo Saipan thuộc Nam Thái Bình Dương cho biết trong thời gian nghỉ ngơi, anh và bạn hữu đến bơi ở một chỗ vắng vẻ kín đáo, ngay ở mé hòn đảo. Đó là một nơi thật đẹp có núi đá bao quanh.

Khi đến nơi, họ thấy nước thật trong đến nỗi có thể nhìn thấy cá bơi lội sâu dưới nước cả 10 feet. Tuy nhiên, sau khi họ bơi lội chừng một tiếng đồng hồ, nước trở nên đục ngầu vì cát bị khuấy động, họ không còn thấy được dưới đáy dù chỉ cách có một feet.

Nhưng hôm sau, khi họ trở lại, cát đã lắng đọng. Nước lại trong trẻo như trước.

Tâm trí chúng ta cũng như vũng nước đó. Nó cũng có thể vẩn đục vì những biến động trong cuộc sống hằng ngày khiến chúng ta không còn nhìn thấy rõ ràng. Chúng ta mất khả năng nhìn thấy mọi sự: quan điểm của chúng ta trở nên mù mờ; những ưu tiên của chúng ta trở nên hỗn độn; sự quân bình của chúng ta đã bị mất.

Khi điều này xảy ra, điều chúng ta cần thi hành là tạm ngừng và để nước đục của tâm trí trở nên trong trẻo lại. Chúng ta cần thi hành điều mà cô Maria đã làm trong bài phúc âm hôm nay. Chúng ta cần ngồi dưới chân Đức Giêsu trong sự thinh lặng cầu nguyện. Chúng ta cần để Người dạy chúng ta biết điều gì là quan trọng và điều gì không đáng kể.

Bài phúc âm hôm nay là một lời mời gọi chúng ta mỗi ngày hãy dừng lại ở dưới chân Đức Giêsu trong sự cầu nguyện, cũng như cô Maria đã làm trong phúc âm.

Điều này nêu lên một câu hỏi. Nếu chúng ta quá bận rộn đến độ mất cả thói quen cầu nguyện thì sao? Nếu chúng ta không biết thinh lặng cầu nguyện dưới chân Đức Giêsu thì sao? Chúng ta có thể làm gì để biết cách cầu nguyện?

Thật may mắn là có chúng ta có thể thi hành vài điều gì đó. Và chúng ta có thể bắt đầu ngay tối nay. Chúng ta có thể áp dụng phương pháp cầu nguyện đơn giản đã từng giúp đỡ nhiều người như chúng ta làm lại thói quen cầu nguyện và biết được nghệ thuật cầu nguyện.

Mỗi đêm trước khi đi ngủ, chúng ta cần ba phút để làm ba điều.

Thứ nhất, chúng ta thinh lặng và nhớ lại những gì xảy ra trong ngày. Chúng ta nhớ đến các điều tốt đẹp khiến chúng ta vui sướng, tỉ như nhận được thư của người bạn cũ. Sau đó, chúng ta thành thật nói với Đức Giêsu về điều đó. Sau cùng, chúng ta cảm tạ Đức Giêsu vì lá thư ấy.

Trong phút thứ hai, chúng ta cũng nhớ đến những gì xảy ra trong ngày. Lần này, chúng ta nhớ đến điều không tốt, những điều làm chúng ta hối hận, tỉ như la hét cha mẹ, vợ chồng hay con cái. Chúng ta nói với Đức Giêsu về khuyết điểm này và xin Người tha thứ, chữa lành cho chúng ta.

Sau cùng, trong phút thứ ba, chúng ta nhìn đến ngày hôm sau, nghĩ đến một số điều quan trọng phải thi hành, tỉ như việc nói chuyện ôn hòa với cha mẹ, vợ chồng hay con cái về một vấn đề đã xảy ra. Chúng ta nói với Đức Giêsu về điều đó và xin Người soi sáng, thêm sức để chúng ta có thể thi hành cách tốt đẹp.

Phương cách cầu nguyện đơn giản này đã giúp nhiều người lấy lại thói quen cầu nguyện và học được nghệ thuật cầu nguyện. Điểm tuyệt vời của phương cách cầu nguyện này là không những giúp chúng ta quan hệ đến đời sống thực tế mà còn giữ liên lạc với Đức Giêsu.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng quá bận tâm đến đời sống mà quên đi lý do tại sao Ngài đã ban sự sống cho chúng con. Xin giữ chúng con quá bận tâm đến đời sống mà quên đi mục đích của nó. Xin giữ chúng con đừng quá theo đuổi những gì mà tiền bạc có thể mua được rồi quên đi những gì tiền bạc không thể mua được.

RƯỚC CHÚA VÀO NHÀ

Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Chủ Ðề: Rước Chúa vào nhà. “Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy”(Lc 10, 39)

CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện hai chị em Matta và Maria rước Chúa Giêsu vào nhà mình. Matta thì ân cần lo việc phục vụ, còn Maria thì ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài. Trong Thánh lễ này, chúng ta có dịp làm điều mà Maria đã làm, là ngồi bên chân Chúa để lắng nghe Lời Ngài. Xin Chúa cho chúng ta được thân thiết với Chúa ngày một hơn.

II. Gợi ý sám hối

-Chúng ta quá lo lắng những việc trần gian mà ít quan tâm đến việc Chúa.

-Chúng ta dành thời giờ cho Chúa mỗi ngày quá ít.

-Chúng ta chưa quan tâm đủ đến việc ở bên Chúa và lắng nghe tiếng Chúa.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (St 18, 1-15)

Câu chuyện này làm nổi bật lòng hiếu khách của tổ phụ Abraham: Ông đang ngồi trong lều giữa trưa nóng bức thì thấy bên ngoài có 3 người đàn ông. Abraham vội vàng mời 3 người vào lều mình, lấy nước cho họ rửa chân, lấy bột làm bánh, bắt một con bê tốt nhất làm thịt để tiếp đãi họ. 3 người này chính là sứ giả của Thiên Chúa.

Đáp lại lòng hiếu khách của Abraham, Thiên Chúa đã cho bà Sara vợ ông có được đứa con trai đầu lòng mặc dù cả hai ông bà đều đã già quá tuổi sinh con.

2. Đáp ca (Tv 14)

Tv này thuộc loại giáo huấn, nhằm trả lời cho câu hỏi “Ai được Thiên Chúa tiếp đón vào cư ngụ trong nhà Ngài?” Tác giả trả lời: đó là người sống thanh liêm và thực thi công chính.

3. Tin Mừng (Lc 10, 38-42)

Câu chuyện có 3 vai: vai chính là Chúa Giêsu, hai vai phụ là Mác-ta và Maria mỗi người phục vụ Chúa một cách khác nhau:

-Mác-ta lăng xăng lo cơm nước, giường chiếu v. v.

-Maria “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy”

Mác-ta khó chịu xin Chúa Giêsu bảo Maria tiếp mình. Nhưng Chúa Giêsu nói: “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”, đó là việc Maria đang làm, tức là ngồi bên chân Chúa đề lắng nghe lời Chúa.

4. Bài đọc II (Cl 1, 24-28) (Chủ đề phụ)

Thánh Phaolô tỏ ý sung sướng vì được chịu khổ trong khi thi hành sứ vụ tông đồ. Sở dĩ những đau khổ ấy trở thành niềm vui vì Phaolô ý thức rằng nhớ đó mà ông bổ khuyết nơi thân xác mình những gì còn thiếu trong cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu Kitô.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Chọn phần tốt nhất

Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.

Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi: – Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ: – Thưa Thầy, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép Thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin!

Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn: – Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm?

Chàng sinh viên liền hỏi: – Thưa Thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?

Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời: – Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!

Chúa phán: “Macta, Macta ơi! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10, 41-42). Phần tốt nhất ấy chính là ở bên cạnh Chúa, lắng nghe Chúa nói, và cầu nguyện với Chúa.

Nhà bác học đại tài Ampère, với công việc nghiên cứu của ông về điện tử học, về nam châm điện đã đem lại biết bao lợi ích cho nền văn minh của nhân loại. Thế nhưng, ông không cho đó là vĩ đại, mà ông nói: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi”.

Mẹ Têrêsa Calcutta, một nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống “địa ngục Calcutta” để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào “nhà hấp hối” để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của Mẹ đã quì cầu nguyện trước Thánh Thể một tiếng đồng hồ để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ.

Hoạt động tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với anh em, tại sao chúng ta lại không kín múc nơi Chúa là suối nguồn yêu thương. Cho dù là hoạt động truyền giáo, hoạt động từ thiện bác ái, hay sinh hoạt hằng ngày theo bổn phận, chúng ta cũng đừng quên “chọn phần tốt nhất” này. Hãy nhớ lời Chúa: “Không có Ta, chúng con không làm gì được”.

Các triết gia phương Tây có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các triết gia phương Đông trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con người không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là: “Cầu nguyện và hoạt động”, Macta phải đi đôi với Maria. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. P. Graef có một câu nói rất thâm thuý: “Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt”.

Tuy nhiên, có một cám dỗ khiến chúng ta khó thoát khỏi. Đó là nhiều khi chúng ta tưởng mình phục vụ Chúa, nhưng hóa ra chúng ta phục vụ chính mình. Nhìn Mácta lăng xăng dọn bữa ăn, chúng ta thấy dáng dấp của chính mình. Chúng ta hoạt động để được tiếng khen, để gây chú ý: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay” (Lc 10, 40-41). Chúng ta mời gọi kẻ khác cộng tác, cũng là để phục vụ cho chương trình của chính mình.

Đôi khi chúng ta cầu nguyện cũng là để kéo Chúa về phe mình, xin Chúa ủng hộ để cá nhân mình sớm được vẻ vang. Chúng ta muốn mình luôn được thành công. Chúng ta không chấp nhận thất bại. Chúng ta mãn nguyện với những hoạt động tông đồ của mình. Chúng ta hài lòng với công cuộc từ thiện của chúng ta. Chúng ta đi tìm chính mình!

* 2. Chọn phần ưu tiên

Có thể xếp những việc chúng ta phải làm hằng ngày thành hai loại: việc cấp bách (urgent) và việc thiết yếu (essential). Những việc cấp bách thì rất nhiều, những việc thiết yếu thì rất ít.

Cũng như Matta, chúng ta thường dành ưu tiên cho những việc cấp bách. Còn việc thiết yếu thì chúng ta hoãn lại. Khi nào làm xong hết những việc cấp bách, ta mới nghĩ đến việc thiết yếu. Nhưng khi đó thì đã quá muộn, chúng ta làm việc thiết yếu đó một cách hấp tấp và hời hợt.

Đức Hồng Y Joseph Bernardin, Tổng giám mục giáo phận Chicago, khi hay tin mình bị ung thư đến giai đoạn cuối, đã nói: “Bây giờ tôi mới nhận thức ra rằng chúng ta thường bỏ rất nhiều thời giờ của cuộc sống để làm những việc phụ thuộc không mấy ý nghĩa”.

Việc thiết yếu nhất mà người ta thường hoãn lại không làm là gì? Thưa đó là việc mà Maria đã làm, đó là ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Chúa”. Chính Chúa Giêsu đã đánh giá đó là việc thiết yếu duy nhất và là việc tốt nhất phải làm (FM)

* 3. Một cách cầu nguyện

Đối với nhiều người, cầu nguyện là nói để xin.

Nhưng, xét theo một nghĩa nào đó, sự cầu nguyện đích thực chỉ bắt đầu khi ta ngừng nói. Cách cầu nguyện tốt nhất là ở bên chân Chúa, chẳng nói lời nào và cũng chẳng làm gì cả, như Maria vậy.

Có người nghĩ rằng làm việc là cách chứng tỏ cụ thể tình yêu của mình đối với Chúa, cho nên cứ ngồi im bên chân Chúa là mất giờ vô ích, nhất là khi ta còn nhiều việc phải làm. Có lẽ đúng. Nhưng nếu làm việc mà không cầu nguyện thì những việc làm kia dễ trở thành những việc làm vì mình và cho mình chứ không phải vì Chúa và cho Chúa; và cũng có thể chúng trở thành những việc của mình chứ không phải của Chúa. Kết quả là sau khi ngưng việc, ta cảm thấy lòng mình trống rỗng, con người mình rất hời hợt nông cạn.

Thoreau nói: “Đừng sợ đời mình kết thúc, nhưng hãy sợ đời mình chưa bao giờ bắt đầu”.

Nhà tâm bệnh học Thomas Moore nói: “Có người có thể chữa khỏi những rối loạn tâm thần chỉ cần bằng cách tự ban cho mình mỗi ngày một ít phút thinh lặng suy nghĩ”. Đối với sức khoẻ tâm thần mà đã là như thế, huống chi đối với sức khoẻ siêu nhiên.

4. Chuyện minh họa

a/ Một bà lão đến một Linh mục xin tham vấn: – Thưa cha, tôi đã cầu nguyện không ngừng suốt 14 năm qua, nhưng tôi chả cảm thấy sự hiện diện của Chúa gì cả. – Thế Bà có cho Chúa cơ hội để nói với Bà lời nào không? – À… không. Tôi cứ nói miết. Nhưng như thế không phải là cầu nguyện sao? – Không. Bây giờ tôi khuyên bà mỗi ngày bỏ ra 15 phút chỉ ngồi im trước mặt Chúa thôi.

Bà cụ đã làm theo lời khuyên đó. Chỉ vài ngày sau, Bà trở lại khoe: – Thật tuyệt diệu: Khi tôi nói với Chúa thì tôi chẳng cảm thấy gì cả. Nhưng khi tôi ngồi yên trước mặt Ngài thì tôi thấy như mình được sự hiện diện của Ngài bao phủ lấy tôi.

b/ Khi linh mục đang thống kê tình hình của xứ đạo, ngài hỏi một gia đình câu hỏi thường lệ: – Các con có thường cầu nguyện chung cả gia đình không?

Gia trưởng trả lời: – Thưa cha, chúng con không có thời giờ. – Giả như con biết một đứa con sẽ bị bệnh nếu chúng con không cầu nguyện, gia đình con có cầu nguyện không? – Ồ, con đoán chúng con sẽ cầu nguyện. – Giả sử con biết ngày nào đó khi gia đình lơ là việc cầu nguyện, một đứa con sẽ gặp tai nạn. Các con có cùng cầu nguyện không? – Tất nhiên chúng con sẽ cầu nguyện. – Giả sử mỗi ngày con quên cầu nguyện, giáo luật phạt 5 đôla. Các con có sao lãng việc cầu nguyện không? – Chắc chúng con sẽ cầu nguyện. Nhưng ý của những câu hỏi này là gì? – Vấn đề của con là không có thời giờ. Con có thể tìm được thời giờ. Con không nghĩ cầu nguyện chung gia đình là quan trọng như nộp phạt hay giữ sức khỏe cho con. Ơn ban của Chúa qua lời cầu nguyện quan trọng hơn bất cứ những gì con có thể nghĩ tới.

c/ Một ngư dân đưa một thanh niên lên thuyền của ông. Một bên mái chèo có viết chữ cầu nguyện và bên kia viết chữ làm việc. Anh thanh niên nói vẻ khinh miệt: “Này chú, chú lỗi thời quá. Ai muốn cầu nguyện làm gì, nếu như họ làm việc?”

Bác ngư phủ không nói gì, nhưng buông lỏng mái chèo có viết chữ cầu nguyện và chèo mái kia. Ông chèo và chèo mãi, nhưng chiếc thuyền chỉ quay tròn mà không tiến đi được.

Anh thanh niên hiểu ra rằng bên cạnh mái chèo làm việc, chúng ta cũng cần phải có mái chèo cầu nguyện.

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Lời Chúa hôm nay đặt cho mỗi người chúng ta một câu hỏi: Chúng ta đã đón tiếp Chúa như thế nào trong cuộc sống thường ngày? Với ước mong được đón tiếp Chúa thật xứng đáng, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

  1. Hội thánh là đại gia đình của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình này / luôn sống hiệp nhất và yêu thương nhau.
  2. Hiện nay có biết bao người không chốn nương thân / sống cảnh màn trời chiếu đất / không ai ngó ngàng gì đến họ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang sống không nhà không cửa / tìm được một chỗ ở xứng hợp với nhân phẩm của mình.
  3. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường dẫn lối cho người Kitô hữu trong cuộc lữ hành trần thế / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Lời Chúa soi sáng các Kitô hữu / để mọi việc họ làm đều phù hợp với chân lý và tình thương của Chúa.
  4. Hằng ngày trước mắt chúng ta / có biết bao người nghèo là hiện thân của Đức Kitô bị bỏ rơi / bị hất hủi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết quảng đại nâng đỡ những người bất hạnh trong xã hội.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, xin cho lòng chúng con trở nên thửa đất phì nhiêu, hầu đón nhận hạt giống lời Chúa và làm cho sinh hoa kết quả dồi dào. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Không lời cầu nguyện nào hay bằng lời kinh Lạy Cha do chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Vậy chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện bằng lời kinh Chúa dạy.

VII. Giải tán

Chúng ta đã ý thức rằng làm việc và cầu nguyện phải đi đôi với nhau, và chính sự cầu nguyện sẽ hỗ trợ cho những việc chúng ta làm. Anh chị em sắp trở lại với những việc làm hằng ngày. Đừng quên cầu nguyện để Chúa giúp anh chị em làm những việc đó tốt hơn.

ƠN GỌI

Lm Vũđình Tường

Có sự phân biệt giữa ơn gọi làm quản gia công trình Chúa tạo dựng chung cho mọi người và ơn gọi riêng cho từng cá nhân. Cả hai ơn gọi có những điểm tương đồng và điểm khác nhau. Khi tạo dựng con người Thiên Chúa ban cho con người tài năng khác nhau để cùng chung nhau xây dựng xã hội, bảo vệ môi sinh, bảo vệ công trình Chúa tạo dựng và giúp đỡ nhau chung sống hoà bình. Đây chính là ơn gọi chung của tất cả mọi người. Ơn gọi chung này là ơn gọi làm người quản gia của công trình Chúa tạo dựng. Vì thế mọi người đều có trách nhiệm liên đới với vũ trụ và với tha nhân. Ơn gọi làm quản gia mỗi người nhận tài năng khác nhau và có trách nhiệm phát triển tài năng Chúa ban làm nguồn sinh sống nuôi thân. Phát triển tài năng thành nghề chuyên môn, tiến thân và phục vụ tha nhân. Ngoài ơn gọi chung mỗi người còn có ơn gọi riêng. Đó là ơn gọi đặc biệt cho cá nhân. Để biết rõ ơn gọi cá nhân cầu nguyện là cách tốt nhất tìm hiểu ơn gọi đó.

Vì có điểm tương đồng giữa ơn gọi chung và ơn gọi cá nhân nên người ta thường lẫn lộn giữa hai ơn gọi. Ngày nay ảnh hưởng bởi kinh tế thị trường nên một số người còn lầm tưởng cả hai ơn gọi chỉ là một. Lầm lẫn này dẫn đến hậu quả một số người coi đời là gánh nặng. Để đơn giản ta phân biệt ơn gọi ngành nghể chuyên môn và ơn gọi riêng cá nhân. Ơn gọi riêng cá nhân có thể là ơn gọi đời sống gia đình, ơn gọi sống độc thân, ơn gọi sống đời tu sĩ.

Trước hết, tài năng Chúa ban giúp ta phát triển thành ngành nghề chuyên môn trong khi ơn gọi riêng là đáp trả lại lời Chúa mời gọi sống nhân chứng Tin Mừng và làm sáng danh Chúa. Lời mời gọi này phát xuất từ bí tích Thanh Tẩy chúng ta lãnh nhận và tuyên xưng làm con Chúa và coi tha nhân như chính anh chị em mình. Liên kết với Chúa nhiều hơn sẽ làm cho ơn gọi này rõ ràng hơn và chúng ta sẽ sẵn sàng, cởi mở hơn đáp lại lời mời gọi sống theo í Chúa. Ơn gọi giúp ta nhìn rõ mục đích cuộc đời là sống để làm sáng Danh Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân.

Thứ hai, chúng ta có thể nhiều lần thay đổi công ăn, việc làm cho phù hợp với hoàn cảnh sống; trong khi đó dù di chuyển, thay đổi nơi sống thì ơn gọi riêng cũng không thay đổi. Ơn gọi này được hiểu là sống suốt đời trong ơn gọi đó. Hầu như những ai cố tình theo í riêng thay đổi ơn gọi đều sống trong tâm trạng bất an.

Thứ ba, con người có thể được biết đến như là chuyên khoa trong ngành nghề của mình, trở thành những người chuyên môn nhưng không ai dám nói là chuyên môn trong ơn gọi mình bởi ơn gọi đến từ Thiên Chúa. Người khiêm nhường học cách đón nhận qua cầu nguyện và lắng nghe hướng dẫn từ Thánh Thần Chúa để sống ơn gọi tốt hơn. Thí dụ không ai dám tự hào trở thành chuyên gia trong đời sống gia đình, hay chuyên gia trong đời sống tu trì. Thứ tư, con người cần tham dự các buổi hội thảo hay học thêm để thăng tiến ngành nghề trong khi ơn gọi thì không thể thăng tiến qua các buổi hội thảo mà qua liên kết mật thiết với Chúa qua siêng năng cầu nguyện, chay tịnh và bác ái.

Thứ năm, hầu như không mấy khi bị cám dỗ về công việc chuyên môn nhưng ơn gọi bị cám dỗ triền miên vì thế cần phải liên tục phấn đấu chống lại cám dỗ.

Sự khác biệt trên cho chúng ta thấy nhận xét khác nhau giữa hai cô Maria and Martha. Maria không nói điều gì nên ta không thể đoán biết cô nghĩ gì. Chúng ta có thể biết khi Đức Kitô nói với Martha là Maria nhận phần tốt hơn. Martha tỏ ra sốt sắng trong việc nấu nướng phục vụ như thế có thể coi đó là tay nghề của cô. Maria chọn phần tốt hơn cả tay nghề. Phần tốt hơn đó chính là gì? Maria ngồi dưới chân, lắng nghe Lời Chúa. Cô trở thành người môn đệ biết lắng nghe. Điều chắc chắn là cả tay nghề lẫn ơn gọi đều quan trọng. Cần cả hai, không thể thiếu. Tay nghề giúp nuôi thân xác; ơn gọi giúp nuôi tâm linh. Cả hai hỗ trợ nhau. Câu nói ‘có thực mới vực được đạo’ không chính xác bởi rất nhiều trường hợp dư thừa lương thực con người đâm ra báng đạo. Hữu thực, vô đạo đời thành vô nghĩa bởi vui nhờ ăn uống không mang lại bình an. Chính ơn gọi tăng sức mạnh cho thân xác không phải thân xác mạnh khoẻ ban sức cho tâm hồn; mà tâm hồn an lành ban bình an cho thân xác. Lm Vũđình Tường TiengChuong.org

CẦN KẾT HỢP GIỮA HOẠT ĐỘNG VÀ CẦU NGUYỆN

Lm. Anthony Trung Thành

Suy Niệm Chúa Nhật XVI THƯỜNG NIÊN C

Cần Kết Hợp Giữa Hoạt Động Và Cầu Nguyện

Trong thực hành đạo hằng ngày, chúng ta có thể thấy ba thái độ sau đây nơi các kitô hữu: thái độ thứ nhất, là những người chỉ cầu nguyện chứ không hoạt động hay ít hoạt động; thái độ thứ hai, là những người chỉ hoạt động chứ không cầu nguyện hay ít cầu nguyện; thái độ thứ ba, là những người biết nối kết cả cầu nguyện và hoạt động.

1. Thái độ duy cầu nguyện

Mới đây có một người đàn ông phàn nàn với tôi về người vợ của mình, ông nói: “Thưa cha, xin cha giúp con với, vợ của con đạo đức quá.” Nghe ông ta nói vậy, tôi cảm thấy hơi lạ và nghĩ bụng rằng: Vợ đạo đức thì tốt chứ sao lại phàn nàn? Ông ta trình bày tiếp: “vợ con ăn rồi chỉ lo đọc kinh, lần chuỗi…Bà ấy đọc kinh trong gia đình chưa đủ còn tham gia đọc kinh ở nhà thờ, tại các nhóm và các hội đoàn khác nữa: nhóm lòng thương xót, nhóm cầu nguyện, hội Mân Côi, hội Lêgiô, gia đình Thánh Tâm, dòng Phan Sinh tại thế…Hầu như thời gian trong ngày bà ấy dành hết cho việc đọc kinh cầu nguyện. Chính vì vậy, bà ấy bỏ bê công việc nội trợ, không lo giáo dục con cái. Con góp ý nhiều lần mà bà ấy không nghe. Cho nên, hai bên thường to tiếng với nhau.”

Người đàn bà trong câu chuyện trên đây là đại hiện cho những người có thái độ duy cầu nguyện. Bà chỉ dành thời gian để cầu nguyện mà thôi, trong khi đó bỏ bê các bổn phận quan trọng khác. Đây là thái độ không chỉ bị chồng lên án mà chắc chắc không có ai đồng tình. Cầu nguyện là tốt, nhưng duy cầu nguyện để rồi bỏ bê công việc bổn phận thì không tốt chút nào. Những ai đang sống trong thái độ trên cần phải sắp xếp lại để có thời gian chu toàn các bổn phận khác của gia đình và xã hội. Vì thế, các bậc cha mẹ cần sắp xếp các giờ kinh nguyện trong gia đình thật phù hợp, làm sao thật ngắn gọn để mọi thành viên trong gia đình có thể tham gia đầy đủ. Các hội đoàn, các tổ liên gia cũng cần cố gắng sắp xếp thời gian đọc kinh và sinh hoạt hợp lý, vừa phải.

Tôi cũng luôn cố gắng sắp xếp các giờ kinh lễ ở nhà thờ cho phù hợp với công ăn việc làm của anh chị em: mùa đông, mùa hè, mùa các em đi học, mùa gặt, cấy cày… Thánh lễ ngày thường tôi cố gắng rút gọn trong vòng khoảng 35-40 phút. Thánh lễ Chúa Nhật và các ngày lễ trọng trong vòng khoảng 50-60 phút. Giờ kinh và giờ chầu buổi tối trong vòng từ 30-40 phút. Ngoài ra, các cuộc họp, các buổi sinh hoạt khác của hội đồng mục vụ giáo xứ, các giáo họ cần đúng giờ, đúng trọng tâm của chương trình đề ra, không kéo lê thời gian ảnh hưởng đến công việc của mọi người.

2. Thái độ duy hoạt động

Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy, khi Chúa Giêsu tới nhà thăm, cô Martha lo lắng soạn sửa nấu nướng để chuẩn bị bữa ăn cho Ngài và các môn đệ. Thực ra, việc Martha lo lắng soạn sửa để đón tiếp Chúa là điều hợp tình hợp lý. Vì việc làm đó nói lên tinh thần hiếu khách của cô. Người Việt Nam chúng ta thường hay nói: “Khách đến nhà không gà thì vịt.”

Bài đọc I hôm nay cũng ca ngợi lòng hiếu khách của ông Abraham. Khi thấy ba người khách lạ đang đứng ở ngoài lều. Abraham đã vội vàng mời họ vào nhà và tiếp đãi một cách rất nồng hậu: lấy nước cho họ rửa chân, lấy bột làm bánh, bắt con bê béo tốt làm thịt đãi khách. Ông không ngờ đây là ba vị sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại lòng hiếu khách và quảng đại của Abraham, ba vị sứ giả đã loan báo cho ông: Thiên Chúa sẽ ban cho ông một đứa con trai đầu lòng mà ông hằng mơ ước, mặc dầu hai ông bà đều già quá tuổi sinh con. (x. St 18, 1-10a)

Như vậy, việc Martha lo lắng soạn sửa bữa ăn cho Chúa Giêsu và các môn đệ không phải là xấu, mà đó là việc làm của lòng hiếu khách. Nhưng Thánh Luca kể, Martha thấy Maria ngồi bên Đức Giêsu, thì cô liền nói với Ngài rằng: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với” (Lc 10,40). Khi nói lên những lời này, nơi Martha có thể có hai thái độ: thái độ thứ nhất, cô muốn khoe với Chúa về công việc chuẩn bị bữa ăn của mình. Thái độ thứ hai, cô ghen tỵ với Maria, vì Maria không chịu giúp cô mà chỉ ngồi bên chân Chúa. Vì vậy, Chúa Giêsu sửa dạy Martha một cách khôn khéo rằng: “Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất” (Lc 10, 41- 42). Đức Giêsu không phủ nhận công việc phục vụ của Martha, nhưng Ngài muốn Martha hiểu rằng: khi phục vụ, cần phải có lòng yêu mến và sự khiêm tốn. Mặt khác, cần phải dành thời gian ở bên Chúa, nói chuyện với Chúa, nghĩa là phải kết hợp giữa hoạt động và cầu nguyện. Ngoài ra, khi cần phải chọn lựa giữa hoạt động và cầu nguyện thì phải ưu tiên việc cầu nguyện hơn. Phục vụ là tốt, nhưng cầu nguyện thì tốt hơn: “Maria đã chọn phần tốt nhất”(Lc 10,42).

Đôi khi trong cuộc sống, nhiều người trong chúng ta cũng giống như cô Martha, dễ vướng vào thái độ duy hoạt động. Họ chỉ lo hoạt động chứ không bao giờ cầu nguyện. Họ làm việc tất bật hằng ngày đến nỗi không còn thời gian để đi tham dự các giờ kinh lễ ở nhà thờ, không có thời gian để cầu nguyện chung với nhau trong gia đình hay cầu nguyện riêng. Nếu có cầu nguyện thì cũng cầu nguyện một cách sơ sài, chiếu lệ. Nhưng khi có một chút thành công thì họ muốn cho bề trên biết, nhằm khoe khoang tài năng của mình. Thậm chí, họ dựa vào thành công đó để phê phán, chỉ trích và coi thường người khác. Chúng ta cần tránh thái độ duy hoạt động.

3. Cần kết hợp giữa hoạt động và cầu nguyện

Con người cần lao động để có của nuôi sống phần xác. Học sinh cần phải học hành để biết đọc biết viết và để hiểu biết những kiến thức cần cho cuộc sống. Người cha người chồng cần phải lao động để có của nuôi sống gia đình. Người mẹ, người vợ cần phải lo công việc nội trợ gia đình. Người kitô hữu cần hoạt động để loan báo Tin mừng. Để nuôi sống phần hồn, người kitô hữu cần phải cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, lãnh nhận các Bí tích…

Nhưng người kitô hữu không chỉ dành thời gian riêng để cầu nguyện, làm việc thờ phượng Chúa hay lao động chân tay mà còn cần phải tập thói quen vừa làm việc vừa cầu nguyện. Có một thanh niên hỏi một linh mục: “Thưa cha, con có thể hút thuốc khi cầu nguyện không?”. Vị linh mục trả lời rằng: “không được, nhưng con có thể cầu nguyện khi hút thuốc”. Thật vậy, khi cầu nguyện, đọc kinh, xem lễ không cho phép chúng ta chia lòng chia trí vào các việc khác, nhưng khi chúng ta làm bất cứ việc gì chúng ta cũng có thể cầu nguyện. Học sinh có thể cầu nguyện khi đang học bài. Các bà mẹ có thể cầu nguyện khi đang làm việc nội trợ, buôn bán, đi chợ. Các ông có thể cầu nguyện khi đang xây nhà, cày cấy ngoài đồng ruộng. Nghĩa là, chúng ta có thể cầu nguyện trong mọi nơi và mọi lúc. Thánh Gioan Kim Khẩu nói : “Bạn có thể cầu nguyện thường xuyên và sốt sắng khi đang ở ngoài chợ hay đi dạo một mình, khi đang mua bán ở cửa hàng hay đang làm bếp.”

Cầu nguyện thì tốt và hoạt động cũng không phải là xấu. Nhưng nếu duy cầu nguyện hay duy hoạt động, cả hai cách đó đều khiếm khuyết. Chúa muốn chúng ta có cả tinh thần của Martha và Maria. Vì vậy, cách tốt nhất là kết hợp giữa hoạt động và cầu nguyện.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết sắp xếp thời gian trong ngày hợp lý để có giờ làm việc và giờ cầu nguyện. Đặc biệt, xin cho chúng con luôn biết kết hợp với Chúa trong mọi công việc hằng ngày. Amen.


[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*