• video audio-thánh vịnh đáp ca
  • Thi ca 2 mùa chay, năm A-Lm. Giuse Trần Việt Hùng
  • Hiển dung hay biến hình<strong>-</strong>JM. Lam Thy ĐVD
  • Nghe Lời Người-Lm.Giuse Nguyễn Hữu An
  • Bày tỏ phẩm chất người con Thiên Chúa-Lm Trần Ngà
  • Thói đời-Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
  • Nghe Lời Chúa – Đến Với Tha Nhân-Lm Anton Nguyễn Văn Độ
  • Lên núi-Am Trần Bình An
  • Đau khổ và hạnh phúc-Trầm Thiên Thu
  • Trỗi dậy đi, đừng sợ ! (Mt 17 , 7 )-FX. Đỗ Công Minh
  • Dõi theo bước Chúa-R. Veritas
  • Chúa Hiển Dung–Radio Veritas Asia
  • Mắt đức tin, mắt của trái tim-ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
  • Bướng bỉnh-Trầm Thiên Thu
  • Biến hình-Lm Anthony Trung Thành
  • Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 2 mùa Chay năm A 12/3/2017-Mai Tá
  • Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui-Trần Ngọc Mười Hai
  • Từ lắng nghe đến vâng nghe Lời Chúa-Nguyễn Văn Nội

VIDEO AUDIO THÁNH VỊNH ĐÁP CA

Tamlinhvaodoi

Kính gởi quý vị – đặc biệt là quý ca trưởng

Lời dẫn và Đáp ca bằng Video

Chủ Nhật 2 Mùa Chay Năm A

https://www.youtube.com/watch?v=IGtcZRlht0o

Và bài Thánh ca của LM La Thập Tự

Rất quý mến

Tamlinhvaodoi

THI CA 2 MÙA CHAY, NĂM A

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY. A

(Mt. 17:1-9)

 

HIỂN DUNG

Chúa cùng môn đệ lên cao,

Ta-bo đỉnh núi, tuôn trào phúc ân.

Giê-su chí thánh thiện chân,

Biến hình dung mạo, tinh vân sáng ngời.

Mặt Người chiếu sáng mặt trời,

Áo Người trắng tuyết, cao vời đẹp thay.

Môi-sen xuất hiện nơi này,

Cùng Ê-li-á, trình bày ước mơ.

Phê-rô lên tiếng thỉnh nhờ,

Ba lều muốn dựng, mong chờ van xin.

Đám mây bao phủ đứng nhìn,

Ba Ngài ẩn bóng, niềm tin dạt dào.

Trời mây mở cửa đón chào,

Con Ta yêu dấu, thiên cao từ trời.

Các ngươi hãy nghe lời Người.

Tồng đồ sợ hãi, mây dời thoáng qua.

Tới gần an ủi cả ba,

Các con đừng sợ, ý Cha trên trời.

Hiển dung mầu nhiệm diệu vời,

Đồng lòng giữ kín, tới thời phục sinh.

Sự kiện Chúa biến hình trên núi là niềm hy vọng cho mọi kẻ tin vào vinh quang ngày sau. Một phút chốc tỏ hiện trong ánh quang, Chúa Giêsu đã củng cố niềm tin và hy vọng của các tông đồ. Chúa Giêsu đã mặc khải điều được ẩn dấu trong con người bình thường. Ngài hạ thân làm người như mọi người. Ngài đã lên núi cao bỏ lại đằng sau những vẩn đục của trần thế. Chúa biến hình có nghĩa là Chúa tỏ hiện bản tính Thiên Chúa trong con người của Ngài.

Ánh sáng thần tính soi dọi vào nhân tính đã đem lại cho chúng ta niềm hy vọng. Ánh sáng giúp chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa vẫn đang ẩn hình trong con người và vạn vật. Thật vậy, có nhiều cái hiện hữu mà chúng ta vẫn không nhìn thấy, vì giác quan bị giới hạn trong không gian và thời gian. Chúng ta không nhìn thấy gió và không thấy dòng điện.  Chúng ta chỉ thấy hậu qủa xảy ra khi cành cây rung động hay bóng đèn cháy sáng. Chúng ta cũng không thấy tình yêu, tình bạn hay tình mẫu tử. Chỉ cảm nghiệm được qua sự âu yếm, quan tâm của người khác, còn cốt lõi của tình yêu là vô hình.

Chúa Giêsu ẩn dấu vinh quang sáng lạng trong một thân xác nghèo hèn. Không ai có thể nhận ra thiên tính của Ngài ngay cả các môn đệ. Nay Chúa tỏ mình ra làm các môn đệ bỡ ngỡ và tràn ngập niềm vui. Thần tính của Chúa tỏ hiện: Diện mạo Ngài chói lọi như mặt trời và y phục của Ngài trở nên trắng tinh như tuyết.

Qua thị kiến biến hình, các tông đồ xác tín niềm tin vào Chúa Kitô và sứ mệnh của Ngài. Trong mọi lời giảng dạy, mọi cách xua trừ ma qủy, chữa lành bệnh tật và làm các phép lạ, Chúa đã tỏ ra uy quyền và thiên tính của Ngài nhưng nhiều người vẫn không nhận ra Chúa. Chúng ta cũng chứng kiến nhiều phép lạ qua việc chữa lành bệnh tật, qua các bí tích biến đổi tâm hồn, qua lời Chúa giảng dạy nhưng rồi chúng ta vẫn không nhận ra Chúa, lòng tin vẫn yếu kém.

Con đường vinh quang của Chúa là con đường thập giá. Chúa đã loan báo sự khổ nạn phải đi qua trước khi bước vào vinh quang đích thực.  Chúng ta hãy tháp nhập những khổ đau, gánh nặng và thánh giá hàng ngày vào với khổ đau của Chúa trên thánh giá. Vinh quang sẽ chói ngời.  Hạnh phúc đang chờ đón chúng ta nơi cuối đường. Con đường lữ hành trần thế sẽ qua đi và ánh quang phục sinh sẽ chiến thắng.

THỨ HAI, TUẦN 2 MÙA CHAY

(Lc 6, 36-38).

THA THỨ

Chúa luôn thương xót gian trần,

Nhân từ quảng đại, toàn dân kính thờ.

Thực hành đức ái nương nhờ,

Xin đừng xét đoán, nghi ngờ dối gian.

Cũng đừng kết án dở gàn,

Hằng mong thoát khỏi, muôn vàn tội khiên.

Kêu mời nhân đức dịu hiền,

Lãnh ơn tha thứ, ân thiêng diệu vời.

Trao ban rộng lượng ở đời,

Hồng ân chan chứa, rạng ngời tấm thân.

Đấu đầy hảo hạng muôn phần,

Dư tràn vạt áo, vạn lần thưởng công.

Công bằng bác ái hằng trông,

Yêu thương chan chứa, cảm thông phận người.

Chúa thương ban phúc bởi trời,

Gia ân phù trợ, một đời lạc an.

THỨ BA, TUẦN 2 MÙA CHAY

(Mt 23, 1-12).

THỰC HÀNH

Trên tòa Biệt Phái truyền rao,

Những điều họ nói, khát khao mong chờ.

Thực hành tuân giữ hưởng nhờ,

Đừng theo hình thức, mập mờ thực thi.

Không làm, mà nói điều chi,

Đặt vai gánh nặng, ai bì xả thân.

Không thèm lay thử cán cân,

Trình làng công việc, mong dân chúc mừng.

May dài tua áo lưng chừng,

Thẻ kinh nới rộng, không ngừng khoe khoang.

Chọn ngồi chỗ nhất huy hoàng,

Ghế đầu nhà hội, dân làng kính tôn.

Làm thầy lãnh đạo dạy khôn,

Tâm hồn trống rỗng, tự tôn lấp đầy.

Một người chỉ đạo là Thầy,

Giê-su chí thánh, tràn đầy quyền năng.

THỨ TƯ, TUẦN 2 MÙA CHAY

(Mt 20, 17-28).

SỨ MỆNH

Dọc đường chia xẻ đôi điều,

Thầy trò tiến bước, gặp nhiều khổ đau.

Con người bị nộp trước sau,

Nhóm đầu Thượng tế, cùng nhau vào hùa.

Các thầy Luật sĩ ganh đua,

Nhạo cười phỉ báng, nhạo vua đánh đòn.

Treo Người thập giá héo hon,

Cực hình hấp hối, chết mòn tấm thân.

Thứ ba sống lại thiện chân,

Vinh quang chiếu tỏa, nhân trần kính tôn.

Thương con, bà mẹ dủ hồn,

Khấn xin con cái, học khôn bên Người.

Chúa rằng chén đắng trong đời,

Các con dám uống, gọi mời bước lên.

Việc ngồi tả hữu ngay bên,

Cha Ta chuẩn bị, ai trên Nước Trời.

THỨ NĂM, TUẦN 2 MÙA CHAY

(Lc 16, 19-21).

BÁC ÁI

Một nhà phú hộ giầu sang,

Vận toàn gấm vóc, an khang gia đình.

Ngày ngày yến tiệc linh đình.

Vui chơi ăn uống, vô tình ngó xem.

Một người hành khất bên rèm,

Mình đầy ghẻ chốc, đói thèm miếng ăn.

Chó con liếm ghẻ hôi tanh,

Khổ thân tới chết, nằm lăn vệ đường.

Thiên thần đón tiếp yêu thương,

Đưa về hưởng phúc, tựa nương cõi trời.

Ông nhà phú hộ qua đời,

Cực hình hỏa ngục, một thời xa hoa.

Sống đời ích kỷ mù lòa,

Trần gian hưởng phúc, giờ xa thiên đàng.

Thực hành bác ái cưu mang,

Thưởng công nhân đức, dễ dàng qui thiên.

THỨ SÁU, TUẦN 2 MÙA CHAY

(Mt 21, 33-43. 45-56).

THỪA TỰ

Chủ ông trồng một vườn nho,

Đào hầm ép rượu, giao cho tá điền.

Phương xa lữ bước điền viên,

Đến mùa thu hoặch, lấy tiền làm thuê.

Ông sai đầy tớ đi về,

Thu phần hoa lợi, lời thề kết giao.

Tá điền phản phúc tự hào,

Giam cầm đánh đập, kéo rào vây quanh.

Chủ sai nhóm khác đồng hành,

Xua trừ đánh đuổi, tranh dành lợi thu.

Người làm thất tín gây thù,

Mong rằng chiếm đoạt, cả khu làm giầu.

Ông sai con một làm đầu,

Chúng liền giết chết, âu sầu khổ thân.

Chủ đành xử bọn ác nhân,

Trao vườn kẻ khác, chia phần phước ân.

THỨ BẢY, TUẦN 2 MÙA CHAY

(Lc 15, 1-3.11-32).

TRỞ VỀ

Dụ ngôn Chúa dậy hôm nay,

Cha già nhân hậu, ơn này không phai.

Yêu con chia cắt gia tài,

Người em thu nhặt, trên vai gánh gồng.

Ra đi thỏa chí tang bồng,

Tiêu xài hoang phí, mọi đồng cha cho.

Hết tiền, hết của trong kho,

Gặp cơn đói kém, lắng lo bội phần.

Xin vào giúp việc nơi cần,

Cám heo rau cỏ, nợ nần khổ đau.

Hồi tâm tự nhủ trước sau,

Xin cha thứ lỗi, quay mau về nhà.

Cha già trông ngóng từ xa,

Yêu thương ôm ẵm, thứ tha tội tình.

Người anh khó chịu em mình,

Cha đành êm dịu, dủ tình xót thương.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York

HIỂN DUNG HAY BIẾN HÌNH? (CN II MC-A)

Lam Thy ĐVD

Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN II/MC-A – Mt 17, 1-9) thánh sử Mat-thêu viết: “Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình.” (Mt 17, 1); thánh Mac-cô cũng viết: “Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình.” (Mc 9, 2); trong khi đó thánh Lu-ca lại viết: “Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê.” (Lc 9, 28). Tuy có khác nhau chút đỉnh về thời gian nhưng cũng có thể nói một cách chung là “Khoảng một tuần lễ sau” hôm Đức Giê-su Ki-tô lần đầu tiên nói cho môn đệ biết “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.” (Mt 16, 21)

Lời tuyên bố ấy khiến các môn đệ ngỡ ngàng, chẳng hiểu gì cả và cho là không thể xảy ra; thậm chí còn lên tiếng ngăn cản khiến Đức Ki-tô phải nổi nóng (“Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” – Mt 16, 22-23). Đức Giê-su không những khẳng định về mầu nhiệm Khổ nạn Thập giá và Phục sinh đối với bản thân Người, mà còn tuyên bố thêm: chính các môn đệ và những ai muốn theo Người cũng phải vác thập giá mình mà đi theo (Mt 16, 24). Thật là một chuyện lạ lùng khó hiểu, làm cho nhiều người suy nghĩ và buồn phiền. Thấy môn đệ chưa hiểu hết ý của Người (không phải Người chỉ nói về Tử nạn thập giá mà còn khẳng định sẽ Phục sinh vinh hiển), Đức Giê-su đã hứa cho họ được xem thấy vinh quang và quyền năng của Người (Mt 16, 27-28). Và thế là 6 ngày sau, ba môn đệ được đưa lên núi để được chứng kiến tận mắt vinh quang của Người trong lúc biến hình.

Về tiêu đề của bài Tin Mừng Chúa nhật II Mùa Chay các sách Tin Mừng cũng không ghi giống nhau (Mat-thêu và Lu-ca thì ghi là “Đức Giê-su hiển dung” – Mt 17, 1-9; Lc 9, 28-36; còn Mac-cô thì ghi là “Đức Giê-su biến đổi  hình dạng” – Mc 9, 2-8). Hiển dung là biểu lộ cái diện mạo thực (chân dung) ra một cách rõ ràng; còn biến hình là thay đổi hình dạng. Tuy có tiêu đề khác nhau, nhưng trong nội dung thì cả 3 sách Tin Mừng nhất lãm đều dùng cách viết “Đức Giê-su biến đổi hình dạng” để trình thuật biến cố lạ lùng này (“Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông.” – Mt 17, 1-2). Như vậy thì Đức Ki-tô hiển dung hay biến hình?

Thưc ra, vấn đề cũng không có gì là khúc mắc cả. Đức Giê-su biến đổi hình dạng thường ngày sang một hình dạng khác hẳn, rực rỡ hơn, chói loà hơn gấp bội, là Người muốn cho các môn đệ và mọi người biết ngoài bản tính loài người chứa trong thân xác phàm tục ra, Người còn một bản tinh nữa là bản tính Thiên Chúa. Chân tướng sự vịêc là điều Người muốn công nhiên mạc khải: Chân dung của Người chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa. Nói cách cụ thể, trong cùng một Con Người là Đức Giê-su Ki-tô có 2 bản tính: Dung mạo bình thường là bản tính loài người, còn chân dung (bản chất đích thực) của Người là bản tính Thiên Chúa. Nói Đức Giê-su biến hình là muốn nói Người đã biến đổi từ hình dạng bình thường của loài người sang hình dạng Thiên Chúa. Còn nói hiển dung là muốn nói – qua việc biến đổi hình dạng bên ngoài – Đức Ki-tô muốn biểu lộ chân dung đích thực của Thiên Chúa (Ngôi Lời nhập thể) vốn ẩn kín bên trong chàng thanh niên Giê-su Na-da-ret.

Khi ba môn đệ theo Đức Giê-su lên núi Ta-bo, thì các ngài vẫn thấy Thầy của mình với dung mạo bình thường như các ngài đã được chứng kiến, được “thực mục sở thị” trong suốt ba năm theo Thầy đi khắp đó đây. Nhưng đến khi Thầy cầu nguyện thì “… Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” (Mt 17, 2). Sự kiện Chúa Giê-su biến đổi hình dạng đã khiến các môn đệ – trong đó có thánh Phê-rô – hoảng sợ. Sự hoảng sợ lần này khác với lần được chứng kiến “Đức Giê-su đi trên mặt biển” (Mt 14, 22-32). Lần trước, thánh nhân cho là mình gặp ma, thì lần này thánh nhân đã tin Thầy mình đích thị là Thiên Chúa, và chỉ có như thế Thầy mình mới hội kiến, đàm đạo với ông Mô-sê và ông Ê-li-a (đã qua đời từ trước đó hơn 5 thế kỷ) được.

Từ hình dạng con người trần thế bình thường biến sang chân dung Thiên Chúa, Đức Giê-su muốn cho mọi người – thông qua các môn đệ thân tín của Người – hiểu rõ được Người chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, như Lời phán dạy của Thiên Chúa Cha từ trong đám mây sáng ngời bao phủ các môn đệ: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17, 5). Lời phán dạy của Thiên Chúa Cha lần này y hệt lần Đức Giê-su chiu phép rửa trên sông Gio-đan (“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” – Mt 3, 17). Nhờ thế, giúp củng cố đức tin, đồng thời cũng chính là giúp biến đổi con người các môn đệ và nói chung những kẻ đến với Đức Giê-su Ki-tô.

Một sự kiện minh họa lòng tin của các môn đệ còn chưa vững là khi Chúa Hiển Dung, thì “ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt” (Lc 9, 32); nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân vật đứng bên Người (là ông Mô-sê và ông Ê-li-a), thì “các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.” (Mt 17, 6). Rồi sau đó, tại vườn Ghết-sê-ma-ni, trong khi Thầy cầu nguyện đến độ đổ cả mồ hôi máu ra mà các ông vẫn ngủ ngon lành, khiến Người phải thốt lên: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” Cứ tưởng như vậy thì các môn đệ sẽ “tỉnh ngủ”, để hiểu ra rằng thời điểm đã cận kề, đây là lúc cần phải canh thức và sẵn sàng chờ đón mọi biến cố (Mt 24, 43-44); nhưng thật không ngờ các ngài lại tiếp tục ngủ, ngủ miết tới lúc Thầy phải đánh thức lần nữa: “Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!” (Mt 26, 40-46). Cái “thể xác yếu hèn” đó của các môn đệ vẫn chưa thèm chuyển động dù Thầy đã 5 lần bảy lượt cảnh báo!

Điều đó cho thấy sau biến cố Chúa Hiển Dung, các môn đệ có được củng cố lòng tin để vững bước cùng Chúa trên con đường thập giá hay không? Cứ xem khi Đức Giê-su bước vào cuộc Thương Khó thì đủ biết: Trong số 12 Tông đồ là những môn đệ thân tín nhất của Đức Giê-su, thì vị đứng đầu (Phê-rô) đã chối Chúa tới 3 lần trước một người tớ gái nhà Cai-pha, một Giu-đa It-ca-ri-ốt thì bán Chúa để lấy 30 đồng bạc, các vị còn lại thì bỏ Người mà chạy trốn hết, để một mình Chúa đơn độc đi vào cuộc Thương Khó. Duy chỉ có được một Gio-an là theo Thầy tới tận chân thập giá, nhưng cũng chỉ lẽo đẽo theo từ xa xa, đến độ khi Thầy yếu nhọc quá sức, quân dữ phải bắt một dân ngoại là Si-mon vác đỡ Thánh giá cho Người (“Đang đi ra, thì chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn; chúng bắt ông vác thập giá của Người.” – Mt 27, 32). Vậy đó!

Quả thật Chúa luôn luôn muốn củng cố lòng tin cho các môn đệ, nhưng vấn đề đặt ra là lòng tin ấy có thực sự được củng cố hay không, còn tùy thuộc vào chủ thể các môn đệ. Một cách cụ thể là nếu chủ thể không chịu mở cửa tâm hồn ra đón nhận, thì những ân sủng Thiên Chúa ban cũng chẳng khác gì “nước đổ đầu vịt, nước đổ lá môn” mà thôi. Vâng, “Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta mà không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Người không thể cứu rỗi chúng ta nếu chúng ta không ưng thuận.” (Thánh Au-gus-ti-nô). Và cũng chính vì quá rõ lòng dạ con người là như vậy, nên Đức Giê-su luôn dạy các môn đệ phải tỉnh thức và cầu nguyện (“Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.” – Mc 14, 38). Không những Người dạy dỗ, mà còn làm gương mẫu cụ thể nữa (Người luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha, nhất là những dịp Người chịu để ma quỷ cám dỗ như khi Người vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày, hoặc lần cầu nguyện đổ cả mồ hôi máu ra nơi vườn Ghết-sê-ma-ni).

Mùa Chay chính là thời gian để người tín hữu chọn lựa một hành động thiết thực: hoặc xé áo, hoặc xé lòng. Muốn xé áo thì dễ thôi, chỉ cần một động tác nhỏ là khoác lên mình bộ vó kiêu căng tự phụ, bộ áo lười nhác ích kỷ, không thèm đếm xỉa đến mọi người xung quanh. Tuy nhiên, để xé lòng thì không dễ dàng đâu, bởi phải quyết tâm không khua chiêng gõ mõ khi cầu nguyện, không méo miệng ngoẹo đầu rầu rĩ khi ăn chay, không biểu ngữ khoa trương khi làm từ thiện, không sáo rỗng màu mè khi an ủi anh em, không hứa lèo hứa cuội khi hoà giải, không mặc áo thày tu khi mình không phải là tu sĩ, không đánh trống bỏ dùi, tiền hậu bất nhất khi đòi đi theo Thầy Chí Thánh. Chỉ có như vậy, kèm theo sự sám hối chân thành, mới thực sự hoán cải, đổi mới con người của mình, để được biến đổi toàn diện (biến hình) theo Chúa.

Đúng là rất khó khăn để có thể làm được như thế. Khó, nhưng không phải là không thực hiện được, khi biết cậy dựa vào Thần Khí, “Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2 Tm 1, 7). Muốn tránh khỏi mưu ma chước quỷ hằng ngày cám dỗ, người tín hữu không thể ỷ vào sức mình vì “tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối” mà  phải cậy trông vào Thiên Chúa, cầu nguyện để Người ban Thánh Linh soi sáng và tăng thêm sức mạnh cùng lòng dũng cảm. Chỉ có như thế mới mong biến đổi con người của mình (như xưa Chúa đã biến hình trên núi Ta-bo).

Quả thực Tin Mừng về cuộc Hiển Dung của Chúa đặt trước mắt người Ki-tô hữu vinh quang của Đức Giê-su, báo trước cuộc phục sinh vinh hiển của Người. Từ đó giúp người tín hữu ý thức mình được dẫn lên núi cao (Mt 17, 1) như các Tông Đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, để tái đón nhận hồng ân được làm con Thiên Chúa trong Trưởng Tử Giê-su Ki-tô, qua Lời phán dạy: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 21, 6). Vâng, người Ki-tô hữu luôn được mời gọi cùng đi lên núi cao để được ngụp lặn trong hào quang vinh hiển của Thiên Chúa, ngõ hầu hoán cải, biến đổi toàn diện con người của mình sao cho ”trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” (Pl 3, 10). Trong tâm tình dìm mình vào mùa Chay thánh, thiển nghĩ không chỉ  riêng mình kẻ viết bài này, mà là tất cả những anh em chung một niềm tin, đang đồng hành cùng nhau trên hành trình tìm về chân lý, đều ước được như vậy. Amen.

NGHE LỜI NGƯỜI

Lm.Giuse Nguyễn Hữu An

 

CN 2 CHAY  A

Sau khi được tiên báo về cuộc Thương khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua, các môn đệ đã xuống tinh thần trầm trọng, thậm chí các ông còn ngần ngại đồng hành với Chúa lên Giêrusalem.

Tin mừng Nhất Lãm tường thuật lời loan báo về cuộc tử nạn. Chúa Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi lên Giêrusalem, dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ chỗi dậy” (Mt, 17-19).

Theo tin mừng Luca và Maccô, các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18,34); “Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (Mc 10,32).

Vì không hiểu nên sợ. Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc. Chúa trách mắng Phêrô, nhưng để giúp Phêrô cần có sự can thiệp của Chúa Cha. Vì thế, biến cố Biến Hình đã xảy ra (Mt 17,1-9).

Chúa đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn.

1-Núi Tabor

Tôi có dịp hành hương lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth, xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.

Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.

Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.

Theo sử gia Josephus thì nhóm Nhiệt Thành (Zelot) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66tcn. Năm 1634 các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ. Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây được Nhà thờ.

Nhà thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền nhà thờ lối kiến trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là hai nguyện đường nhỏ kính tổ phụ Môisen và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào quang rực sáng. Hai bên có Môisen trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.

2-Biến hình

Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.

Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).

Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.

Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.

Câu chuyện Chúa Biến Hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Thánh Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19), hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.

3-Nghe Lời Người

Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.

Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).

Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.

Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình. Ðời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ. Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá. Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình, tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa. Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.

Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này. Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con. Giờ đây tôi đã già nua và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con. Và ông kết luận: Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.

Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).

BÀY TỎ PHẨM CHẤT NGƯỜI CON THIÊN CHÚA

Lm Trần Ngà

(Suy niệm Tin Mừng Mat-thêu (17, 1-9) trích đọc vào Chúa Nhật 2 Mùa Chay)

Khi nhập thể làm người, Chúa Giê-su mang dung mạo con người, mang bản tính và khuôn mặt con người, hoàn toàn trở nên người phàm, ngoại trừ tội lỗi. Vì thế, người đồng hương Na-da-rét gọi Ngài là “Bác thợ” (Mc 6,3) hay là  “con Bác thợ Giu-se, con bà Maria” (Lc 4, 22, Mt 13, 55) Ngoài ra, hầu hết người Do-thái đồng thời với Chúa Giê-su chỉ nhìn thấy khuôn mặt nhân loại của Chúa Giê-su mà thôi nên cho rằng Ngài chỉ là người phàm.

Nhờ cuộc hiển dung trên núi, ba môn đệ mới nhận ra Đức Giê-su là Thiên Chúa

Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ biết Ngài sẽ lên Giê-ru-sa-lem để hiến thân chịu chết. Lời tiên báo nầy làm cho các môn đệ bấn loạn tinh thần.

Để củng cố tinh thần sa sút của các ông, Chúa Giê-su bộc lộ cho ba môn đệ thân tín thấy chân tướng của Ngài: Ngài là Con yêu dấu của Chúa Cha.

Sự kiện nầy được thánh sử Mat-thêu thuật lại như sau:

“Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an …tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, và y phục Ngài trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Ngài.” … “Chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Ngài. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài!”

Vậy là nhờ biến cố hiển dung nầy, các môn đệ không chỉ nhìn thấy Chúa Giê-su là người phàm mà còn biết Ngài là Thiên Chúa.

Tương tự như Chúa Giê-su, bên ngoài chúng ta mang thân xác phàm trần như bao nhiêu người khác, dung mạo bên ngoài của ta, những thói hư tật xấu của ta như một lớp vỏ bọc dày che khuất dung mạo người con Thiên Chúa nơi chúng ta. Trước mắt mọi người, chúng ta chỉ là người phàm không hơn không kém. Tuy nhiên, tự bản chất, chúng ta là những người con của Thiên Chúa. Tiếc rằng bản chất người con Thiên Chúa chưa được biểu lộ nơi ta.

Sự kiện hiển dung của Chúa Giê-su hôm xưa nhắc nhở mỗi người chúng ta nhớ rằng chúng ta không chỉ là thụ tạo thấp hèn, mà còn là con Thiên Chúa nữa. Vì thế, phẩm chất người con Thiên Chúa nơi chúng ta cần phải được hiển dung (được bày tỏ ra), để mọi người chung quanh có thể nhận ra những nét đẹp toả sáng trong đời ta, như ba môn đệ xưa thấy Chúa Giê-su toả sáng. Chính Chúa Giê-su cũng mời gọi chúng ta toả sáng: “Anh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5,16)

Ý thức mình là con Thiên Chúa để vươn lên

Một người thợ săn bắt gặp một ổ trứng phượng hoàng trong khu rừng nguyên sinh. Anh đem ổ trứng ấy về nhà, trộn chung vào ổ trứng của gà mẹ đang ấp. Mấy tuần sau, một chú phượng hoàng con xinh đẹp chào đời và được gà mẹ dẫn đi ăn chung với đàn gà con bé nhỏ.

Phượng hoàng con lớn lên bên cạnh những con gà khác, luôn nghĩ rằng mình cũng thuộc nòi giống gà như những con gà cùng lứa, cùng cào bới rác rến kiếm ăn như những con gà khác.

Cho đến một ngày kia, phượng hoàng mẹ từ trên cao thình lình đáp xuống khiến cả đàn gà hoảng hốt chạy tán loạn. Phượng hoàng mẹ tiến đến gần phượng hoàng con, tìm cách dạy cho nó biết nó không phải là chú gà tầm thường, nhưng thuộc giống nòi phượng hoàng oai phong lẫm liệt.

Thế là từ hôm đó, phượng hoàng con ngẩng cao đầu, vươn cao cổ, bắt đầu xoè cánh tập bay và chẳng bao lâu, nó xoải rộng đôi cánh, phóng mình vút lên, bay lượn giữa khung trời cao xanh lộng gió, trông thật oai hùng.

Ban đầu, phượng hoàng con không ý thức mình là phượng hoàng mà tưởng mình chỉ là gà, nên nó sinh hoạt như những con gà khác, suốt ngày quanh quẩn trong sân gà vịt, moi móc rác rến kiếm ăn, nhưng một khi nó phát hiện ra mình không phải là thứ gà tầm thường mà là thuộc nòi giống phượng hoàng oai vệ, thì nó từ bỏ góc sân gà vịt, từ bỏ việc moi móc bới rác để xoải cánh bay lượn trên khung trời cao rộng, thì chúng ta cũng cần phải phát hiện ra mình là người con Thiên Chúa, không để mình bị vùi dập bởi những thói hư tật xấu, không đắm mình trong lối sống ươn hèn, nhưng chuyên chăm tập rèn những đức tính tốt, trau dồi cho mình những phẩm chất cao đẹp, để sống xứng tầm với người con Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giê-su,

Khi Chúa tỏ cho các môn đệ thấy vinh quang sáng ngời của Chúa trong tư cách Người Con Thiên Chúa lúc ở trên núi cao, các môn đệ hết sức phấn khởi vui mừng và thêm vững tin vào Chúa.

Xin Chúa cho chúng con cố gắng tu thân sửa mình để cho dung mạo người con Thiên Chúa nơi chúng con được toả sáng, bằng đời sống bác ái huynh đệ, bằng hành vi phục vụ và yêu thương, nhờ đó, mọi người sẽ nhận ra chúng con tốt đẹp hơn, cao cả hơn, thánh thiện hơn, xứng với tầm vóc người con Thiên Chúa.

Lm Inhaxiô Trần Ngà

TIN MỪNG MAT-THÊU 17, 1-9

1 Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.2 Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.3 Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.4 Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”5 Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! “6 Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.7 Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ! “8 Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi. 9 Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông rằng: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy.”

THÓI ĐỜI

Lm Jos. Tạ Duy Tuyền

Chúa nhật 2 mùa chay, năm A

Người đời thường nói : “Qua gian nan mới biết ai là bạn”. Bởi người bạn thực sự sẽ không bỏ rơi ta trong lúc nguy nan. Người bạn thực sự sẽ đồng hành với chúng ta trong những thăng trầm cuộc sống. Người bạn thực sự sẽ ở lại bên ta dù ta trắng tay chẳng có gì đền đáp ân tình.

Nhưng dường như thế thái nhân tình có mấy ai tìm được người bạn sẵn lòng chia sẻ gánh vác với ta khi hoạn nạn? Thói đời vẫn bạc như vôi đến nỗi nhà thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng thốt lên:

“Thế gian biến đổi vũng nên đồi

Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi

Còn bạc, còn tiền còn đệ tử

Hết cơm, hết rượu hết ông tôi”

Dẫu biết rằng xưa nay đều trọng người chân thực. Ở đời vẫn ca ngợi những tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho nhau một cách vô vị lợi. Có khi còn dám hy sinh cả tính mạng để bảo vệ cho công lý, và sự thật.

Xưa nay đều trọng người chân thực

Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi

Ở thế mới hay người bạc ác

Giàu thì tìm đến khó tìm lui.

Thế nhưng, thói đời thường khi giầu thì có nhau khi nghèo lại dễ xa nhau. Con người đến với nhau luôn vì lợi ích bản thân nhiều hơn chân thành. Lợi thì tới. Thiệt thì lui. Ở đời đâu dễ tìm được người sẵn lòng hy sinh đồng cam cộng khổ vì chúng ta. Ở đời đâu dễ giữ trọn chữ tín để sẵn lòng ở bên nhau trong hoạn nạn gian truân!

Chúa Giê-su trong thân phận con người cũng trải qua những “Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi” của tình người. Ngài cũng được người đời có khi tán dương và có lúc tẩy chay. Ngài cũng được các môn đệ vây quanh khi thành công nhưng cũng chẳng còn ai khi bị kết án giữa công đường. Ngài cũng nếm cảnh trần tụi của tình người: “Giàu thì tìm đến khó tìm lui”. Khi hóa bánh ra nhiều thì có hàng vạn người tuôn đến với Ngài. Khi bị dẫn đến dinh Caipha thì hàng vạn người ấy lại giơ tay đòi đóng đinh Ngài vào thập giá.

Hôm nay trên núi Tabro Chúa cho các môn đệ được hưởng những giây phút vinh quang tràn ngập hạnh phúc bên núi Chúa, đồng thời cũng mời gọi các ngài hãy cùng Ngài uống chén đắng Chúa Cha trao. Chúa cho họ thấy vinh quang luôn gắn liền với thập giá. Thành công phải có gian nan. Càng gian nan thì thành công càng mỹ mãn. Theo Chúa phải chấp nhận cùng Chúa đi trên con đường thập giá hy sinh. Chấp nhận uống chén đắng cuộc đời nhưng sau đêm dài là ánh bình minh. Sau khổ đau là vinh quang phục sinh.

Đáng tiếc là các môn đệ đã không vượt qua nỗi sợ hãi khi đối diện sự dữ. Các ông đã bỏ Chúa một mình khi gian nan. Lời hứa cùng chết với Thầy chỉ là lời trên đầu môi chóp lưỡi. Chúa vẫn cô đơn trên con đường thập giá.

Dầu vậy, tình yêu Chúa luôn vượt thắng những ích kỷ của con người. Ngài vẫn yêu và yêu cho đến cùng. Chính tình yêu trung kiên ấy đã cho Phê-rô và các bạn cơ hội đền đáp tình yêu. Chính tình yêu bao dung ấy đã cho các môn đệ chuộc lại lỗi lầm bằng việc cùng uống chung chén đắng với Thầy.

Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những người bỏ Chúa vì một chút danh vọng. Họ bỏ Chúa vì theo Chúa phải hy sinh, phải đi vào con đường hẹp. Đôi khi còn thiệt thòi. Họ đâu hiểu rằng: Chúa mới là gia nghiệp cuộc đời. Có Chúa là có tất cả. Những thử thách gian truân đời này sẽ qua và vinh quang thiên quốc thì bất tử.

Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những vợ chồng lỗi lời thề khi họ bỏ mặc nhau trong nghèo khó, bệnh tật, tai ương. . . Họ đã không thể đi cùng nhau trong gian khó vì bản tính ích kỷ chỉ lo cho mình đã khiến họ có lỗi với nhau.

Ước gì chúng ta luôn biết học nới Chúa dám sống cho người mình yêu. Dám hy sinh, dám cống hiến cho dẫu có thiệt thòi bản thân. Ước gì trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn phó thác nơi Chúa. Khi vui-khi buồn. Khi thành công hay thấy bại luôn xin vâng theo thánh ý Chúa. Xin đừng vì những danh lợi thú trần gian mà lạc xa tình Chúa. Amen

NGHE LỜI CHÚA-ĐẾN VỚI THA NHÂN

Lm Anton Nguyễn Văn Độ

Suy niệm Chúa nhật II Mùa Chay – năm A

(Mt 17, 1-9)

Chúng ta đang từng bước hành trình trong Mùa Chay Thánh, tiến về Tam Nhật Vượt Qua, tưởng niệm Cuộc Khổ Nạn và Cái Chết của Chúa Giêsu, dẫn đến Lễ Phục Sinh, chiến thắng của Chúa Giêsu Kitô trên sự chết. Phụng vụ Chúa II Mùa Chay năm A trình bày cho chúng ta biến cố Chúa Giêsu Biến hình. Ðây là giai đoạn thứ hai trong Mùa Chay: giai đoạn thứ nhất là những cám dỗ trong hoang địa (x.Mt 4, 1-11); giai đoạn thứ II là cuộc Biến hình (x.Mt 17, 1-9). Chúa Giêsu “đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông” (Mt 17,1). Mặc dù trong phụng vụ có một ngày lễ dành riêng cho sự kiện này (ngày 06 tháng tám), hôm nay chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng cảnh tương tự như một phần không thể thiếu trong Cuộc Khổ Nạn, Cái Chết và Phục Sinh của Chúa Giêsu.

Quả thật, Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu đã gần kề, sáu ngày sau khi từ trên núi xuống, Chúa Giêsu tuyên bố : “Người phải đi lên Giêrusalem và chịu khổ nhiều đau khổ do hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục, và bị giết đi, ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21).

Nhưng các môn đệ chưa sẵn sàng chứng kiến Chúa của họ, Đấng, luôn thể hiện lòng từ bi đối với người ốm đau bệnh tật, làm cho người phung hủi được lành, kẻ điếc nghe được, người mù thấy được, kẻ què đi được, người chết sống lại, nay “sẽ phải chịu khổ nhiều đau khổ“. Thật, không thể! Không thể hiểu nổi!

Tuy nhiên, bất chấp sự hiểu lầm của họ, Chúa Giêsu biết lý do tại sao Người đi vào thế giới. Người biết mình phải mang lấy tất cả sự yếu đuối và lầm than của nhân loại để thánh hóa họ, cứu họ ra khỏi vòng vây của tội lỗi và sự chết. Người cứu họ bằng cách nào ? Thưa, bằng cách chiến thắng sự chết, để sự chết không còn làm gì được con người là hình ảnh của Thiên Chúa nữa.

Đó là lý do tại sao Biến hình là một biểu tượng của ơn cứu rỗi thể hiện nơi thân xác vinh quang Phục Sinh của Chúa Giêsu. Vì thế, khi loan báo cho các môn đệ Cuộc Khổ Nạn của mình, Chúa thấy rõ sự lo lắng trong các tông đồ, và vẻ rực rỡ về thần tính của Chúa. Chúa khẳng định với họ niềm hy vọng và loan báo cho họ niềm vui Phục Sinh, thậm trí, cả lúc Phêrô, Gioan và Giacôbê không biết rõ … phục sinh từ trong cõi chết nghĩa là gì ! (x. Mt 17,9). Họ cần phải có thời gian.

Nếu trong Sứ điệp Mùa Chay 2017 năm nay với chủ đề : “Lời Chúa là một hồng ân. Tha nhân là một hồng ân”. Khi trưng dẫn đoạn Tin Mừng Luca (16,19-31), Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta hữu lắng nghe Lời Chúa, để nhận ra và phụng sự Chúa trong tha nhân, nhất là nơi những người nghèo khổ, vì tha nhân là hồng ân. Thì hôm nay, có tiếng Chúa Cha tuyên bố Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Ngài và mời gọi chúng ta: “Các ngươi hãy nghe lời Người” (Mt 17,5).

Đúng thật là một hồng ân, bởi có biết bao nhiêu lời chúng ta đã nghe, nhưng hiếm khi nghe được tiếng Chúa Cha. Chúa Cha đã nói với các Tông đồ và qua Giáo hội Chúa nói với chúng ta ngày hôm nay nữa: “Hãy nghe Chúa Giêsu, vì Người là Con yêu dấu của Chúa Cha“. Chúa Giêsu là Hồng Ân vô giá do Chúa Cha tặng ban cho chúng ta. Nay Ngài mời gọi chúng ta tuân giữ Lời Người. Lời Chúa Giêsu ban lại sự sống đời đời há chẳng phải là một hồng ân sao ?

Trong tuần này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa và cất giữ trong trí. Vì lời ấy không phải là lời của loài người, nhưng là Thiên Chúa Cha, nói với tất cả chúng ta! Lời ấy như một trợ lực để tiến bước trên con đường Mùa Chay. Chúng ta nghe lời Chúa Giêsu nhưng phải bước theo Người. Cũng như các môn đệ, sau khi nghe được lời Chúa Cha ban tặng, các ông không thể cứ ở mãi trên núi, nhưng phải theo Chúa Giêsu xuống núi dõi theo hành trình Thương Khó của Chúa và làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh.

Chúng ta cũng thế, trong Mùa Chay Thánh việc cần phải làm là : ăn chay, cầu nguyện, và bố thí. Ba việc này diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu. Chúng ta cần đi ra một nơi riêng, leo lên núi trong một nơi thinh lặng, để tìm lại chính mình và lắng nghe tiếng Chúa là hồng ân. Nhưng chúng ta không thể ở lại đó! Cần phải xuống núi gặp gỡ tha nhân. Họ là anh chị em chúng ta đang bị vất vả cơ cực, bệnh tật, bất công, dốt nát, nghèo khổ vật chất và tinh thần đè nặng, để chia sẻ với họ ân thánh đã nhận được vì họ cũng là hồng ân. Ðây là sứ mạng của chúng ta, những người đã chịu phép rửa tội, lắng nghe lời Chúa Giêsu và trao tặng Chúa cho người khác.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy chúng con biết nghe Lời Chúa, chuyên cần tham dự Thánh lễ, nguyện gẫm và sống tình bác ái với tha nhân. Amen.

LÊN NÚI

Am. Trần Bình An

Chia sẻ Tin Mừng CN 2 MC NA 2017 (Mt 17, 1-9)

Lên núi

Núi Tabor là một núi của Israel ở vùng Galilea Hạ, nằm ở đầu phía Đông của thung lũng Jezreel, cách biển Hồ Galilee 17 km về phía Tây. Xe buýt sẽ đưa người hành hương đến chân núi, sau đó chuyển lên xe chuyên dụng, để bắt đầu hành trình lên núi. Đó là một chặng đường rất đẹp, đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn cam xanh ngút mắt, rồi những đoạn dốc cao, cheo leo, ngoằn ngoèo, theo vòng xoáy trôn ốc.

Từ đỉnh núi, nhìn về hướng Nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ả Rập sinh sống, nơi Chúa cho con trai bà góa sống lại; hướng Tây là một thị trấn sầm uất; phía Đông là mênh mang biển hồ Galilê. Tabor, như một ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Và cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời của Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung.

Theo Phúc Âm Nhất Lãm, lúc Chúa đem ba môn đệ lên đây, và Chúa biến hình trước Thánh Phêrô, Gioan, Giacôbê, không gian rất im ắng, chỉ có gió vi vu và mây trắng, với rừng cây thắm màu xanh hùng vĩ.

Người Kitô hữu luôn tin rằng, biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một sự kiện đặc biệt. Tưạ như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối đầy gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức các môn đệ. Còn là một điểm tựa, trợ lực cho đức tin các ngài trong suốt hành trình theo Chúa Giêsu.

Trên đỉnh núi Tabor, nhà thờ Chúa biến hình, được thiết kế bởi kiến trúc sư nổi tiếng Antonio Barluzzi. Trong nhà thờ, một bức tranh huy hoàng mô tả việc Chúa Giêsu biến hình. Và đặc biệt trong ngày Lễ Chúa biến hình (còn gọi là lễ Hiển Dung) bắt đầu ngày 6 tháng 8, thì bức tranh được chiếu sáng rạng rỡ bởi tia nắng phản chiếu từ một tấm gương đặt ở sàn nhà thờ. (TST Tourist)

 

Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay tường thuật Đức Giêsu hiển dung trước ba môn đệ thân tín Phêrô, Giacôbê và Gioan.

Lên núi thoát tục

Sáu ngày sau khi Đức Giêsu loan báo lần đầu cuộc khổ nạn, ông Phêrô đã phản ứng theo bản năng, vô tình vấp phạm nặng nề. Dẫu vậy, Người nhân từ tha thứ và sửa dạy, còn dẫn các ông lên núi, củng cố lòng tin vững chãi, niềm hy vọng thánh thiện.

Lên núi yên tịnh, vắng vẻ, xa chốn phồn hoa ảo ảnh, thoát khỏi thế gian dối trá, bịp bợm, tham sân si, xa rời người thân yêu, bạn hữu, tách khỏi cái bả chức tước danh vọng. Lên núi, cảm thấy mình chỉ là sinh vật nhỏ nhoi, yếu đuối, đơn côi giữa trời đất bao la, cũng như nhìn thấy công trình con người dù lớn lao, đều trở nên bé nhỏ giữa tuyệt tác thiên nhiên hùng vĩ, kỳ diệu do Thiên Chúa tạo nên. Nhờ ý thức thế, con người dễ từ bỏ, tránh xa hấp lực thế gian.

Lên núi theo Chúa là thay đổi, sám hối, lột xác, canh tân, như thánh Phaolô đã hết sức khẩn khoản mời gọi tín hữu: “Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc.” (Ep, 4, 22) Từ bỏ con người cũ là tránh xa, dứt bỏ lối sống theo xác thịt tội lỗi xấu xa: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống vậy.” (Gl 5, 19-21)

 

Lên núi được biến đổi

 

Lên núi được nghe Lời Chúa phán dạy, cảm hoá và thánh hoá, thì tâm hồn tín hữu cũng được biến đổi, trở nên rạng ngời từ trong ra đến ngoài, như Đức Giêsu đã hiển thị thiên tính của Người,“mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết.”

Dẫu phàm nhân luôn thiếu sót, lầm lỗi, vấp phạm, nhưng tình yêu Chúa luôn có thể hoán cải, canh tân, đổi mới tâm hồn những ai trung kiên lên núi với Người, như thánh Phaolô chân thành xác nhận tình yêu Chúa đối với nhân loại: Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” (Pl 3, 21)

Lên núi còn có nghĩa hoàn toàn rũ bỏ những ảo ảnh thế gian thấp hèn, để Đức Chúa Thánh Thần khai sáng, canh tân toàn diện. “Hãy để Thần khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn.  Hãy mặc lấy người mới đã được dựng nên tạo theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật.” (Ep 4, 23-24)

 

Một khi ăn năn, sám hối, đổi mới, dấn thân theo Chúa lên núi, thì “tất cả chúng ta, mặt không che màn (tội lỗi), chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí. “(2 Cr 3, 16 & 18)

Lên núi hạnh ngộ

“Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia.” Thánh Luca còn cẩn thận ghi tâm trạng: “Ông Phêrô không biết mình đang nói gì.” Làm sao có thể giữ kín nổi niềm vui tràn trề, niềm hạnh phúc trọn vẹn, niềm sung mãn chứa chan, khi được sống bên Chúa toàn năng? Ông Phêrô không bao giờ quên được giây phút đại phúc, chiêm ngưỡng vinh quang tột cùng của Đức Giêsu.

Chỉ có bên Chúa, mới có bình an, niềm vui, hạnh phúc vững bền. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn. Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến, duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi, là thành luỹ chở che : tôi chẳng hề nao núng.” (Tv 62, 2-3)

Trong thư gửi “những khách lữ hành” Thánh Phêrô ân cần nhắc lại niềm hạnh phúc vô biên, một đặc ân.“Chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người… Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người.” (2Pr 1, 16-18)

“Con đừng lấy làm lạ, lúc theo Chúa, con nghe tiếng gọi của khoái lạc, của danh vọng, của cả bản thân, cha mẹ, quyến rũ con bỏ đường Chúa. Cứ tiến lên, Chúa đã nói trước: “Ai cầm cày còn ngoảnh mặt lui, không đáng làm môn đệ Ta.” (Đường Hy Vọng số 71)

Lạy Chúa Giêsu, sau khi hiển dung sáng láng rạng ngời, Chúa dẫn các môn đệ xuống núi. Xin Chúa thương dẵn dắt chúng con xuống núi, cùng đồng hành vác thánh giá, chịu khổ nạn với Người, hầu chúng con xứng đáng được ơn cứu rỗi.

Kính xin Mẹ Maria cầu bầu chúng con luôn đi theo Chúa cho trọn, đừng dở dang, sa chước cám dỗ, mà lìa xa Chúa. Amen.

ĐAU KHỔ và HẠNH PHÚC

Trầm Thiên Thu

 

(Chúa nhật II mùa Chay, năm A)

Cuộc đời thừa đau khổ nên không ai muốn tìm kiếm nó, cuộc đời thiếu hạnh phúc nên ai cũng nỗ lực tìm kiếm nó. Đau khổ và hạnh phúc là hai thứ đối lập. Không thể tránh né đau khổ, nhưng vẫn có thể tìm thấy hạnh phúc. Một cách đơn giản để sống hạnh phúc là trân trọng những gì mình đang có. Đau khổ là vấn đề bao la, và hạnh phúc là vấn đề mông mênh… Không thể có định nghĩa chính xác cho cả hai vấn đề này, chỉ có thể định nghĩa hạnh phúc theo một lĩnh vực hoặc một phương diện nào đó.

Hạnh phúc liên quan tự do: Làm công việc mình thích, đó là TỰ DO; thích công việc mình làm, đó là HẠNH PHÚC. Người ta có thể chỉ làm việc bình thường nhưng lại có thể nhờ đó mà trở nên phi thường. Những người chỉ nghĩ đến bản thân mình và tìm lợi ích cho riêng mình thì chẳng bao giờ có được hạnh phúc đích thực!

Văn thi sĩ William Arthur Ward (1921-1994, Hoa Kỳ) nói: “Người khôn ngoan là người học được những sự thật này: Rắc Rối là tạm thời, Thời Gian là thuốc bổ, Đau khổ là ống nghiệm”. Đau khổ lớn nhất của con người chính là cái chết. Văn sĩ trào phúng Mark Twain (1835-1910, Hoa Kỳ) đặt vấn đề: “Tại sao chúng ta lại vui mừng trước sự chào đời và thương tiếc ở lễ tang? Bởi vì chúng ta không phải là đương sự”.

Chúng ta biết chắc rằng hạnh phúc luôn là niềm mơ ước suốt cuộc đời của mọi người – bất luận nam, phụ, lão, ấu. Mưu cầu hạnh phúc là mơ ước chính đáng và là quyền cơ bản của con người. Hạnh phúc đa dạng, với nhiều mức độ. Hạnh phúc ở gần chứ không xa. Tuy nhiên, hạnh phúc cũng dễ khiến người ta ảo tưởng nếu đòi hỏi thái quá. Cũng như tình yêu, chẳng ai có thể định nghĩa chính xác thế nào là hạnh phúc. Tất cả chỉ là tương đối.

Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc cao cấp của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó. Hạnh phúc mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí, là cảm giác thoải mái khi đạt được một giá trị, một mục đích, một kết quả,… như mình mong ước. Nhưng sự khác nhau nằm ở tính hữu hình hoặc vô hình của giá trị, của mục đích, của kết quả đạt được về nhiều lĩnh vực: tình yêu, thành công, nổi tiếng, giàu có,… Hạnh phúc và sung sướng có nghĩa gần giống nhau, hạnh phúc hiểu theo nghĩa tinh thần, trừu tượng; sung sướng hiểu theo nghĩa vật chất, cụ thể.

Tuy nhiên, nếu muốn có hạnh phúc thì phải đi tìm. Đi tìm hạnh phúc không phải là sẽ “nhặt” được nó như nhặt được một vật thể, cũng không thể ngồi chờ sung rụng, mà phải chủ động “tạo” ra nó. Nghĩa là chấp nhận với những gì mình có hiện tại thì sẽ có hạnh phúc. Hạnh phúc là không đòi hỏi. Thế nhưng không hề dễ thực hiện được động thái “chấp nhận” như vậy!

CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ…

Bác học Thomas Alva Edison (1847-1931, người Mỹ) được coi là một thiên tài, nhưng ông kết luận: “Thiên tài là một phần trăm cảm hứng và chín mươi chín phần trăm mồ hôi. Tôi chưa hề thất bại, mà tôi chỉ tìm ra mười ngàn cách không tác dụng”. Có vất vả mới biết thế nào là thảnh thơi, có đau khổ mới biết thế nào là hạnh phúc. Cũng như có bị tù đày rồi mới nhận thức được tự do và biết quý tự do. Có gian nan vất vả mới nên người, thành nhân tài. Chính đau khổ là “chất xúc tác” cho những tác phẩm giá trị. Càng dày kinh nghiệm thì tác giả càng có được những tác phẩm hay. Những người giỏi đều là những người đã từng vật lộn với cuộc sống khó khăn vô cùng. Giàu có và sung sướng không tạo nên vĩ nhân, như cụ Nguyễn Công Trứ (có người cho là của cụ Phan Bội Châu) đã đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả / Anh hùng hào kiệt có hơn ai?”. Chúng ta thường nói rằng “thất bại là mẹ thành công”, nhưng có lẽ đó chỉ là lời nói đầu môi chót lưỡi hoặc nói để “lên lớp” người khác, còn chính mình thì run cầm cập trước đau khổ và thất bại.

Thời Cựu Ước, Đức Chúa nói rõ với ông Áp-ram: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12:1-3). Cái nơi “xa vời” đó được gọi là Đất Hứa – miền đất trù mật được Thiên Chúa  sắp sẵn cho ông.

Thật là “căng” lắm đấy! Cuộc sống đang ổn định, an cư lạc nghiệp, đùng một cái phải chuyển đến nơi xa lạ, chẳng biết thế nào, liệu chúng ta có dám đi không? Khi muốn tìm nơi lập nghiệp, ai cũng thăm dò trước xem có thể thuận lợi hay không chứ chẳng ai dám “nhắm mắt đưa chân”. Người ta ví von: “Ba lần dời nhà bằng một lần cháy nhà”. Chắc chắn là rất khó mà dám bước chân ra đi, bởi vì giằng co dữ dội và cần phải can đảm để có thể dứt khoát ngay.

Cũng vẫn khó ra đi dù biết rõ nơi đến như thế nào – phải ra đi vì đất quy hoạch, bị giải tỏa, có nguy cơ bão lũ hoặc động đất,… huống chi ra đi mà không biết nơi đó ra sao, ngày mai thế nào. Vậy mà “ông Áp-ram ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông” (St 12:4a). Không chỉ vậy, khi rời Kha-ran, “ông Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi” (St 12:4b) chứ đâu còn trẻ trung gì nữa. Quả thật, đức tin của ông lớn quá! Vì thế ông được đổi tên Áp-ram thành Áp-ra-ham, nghĩa là “người cha vĩ đại của muôn dân tộc” (Hc 44:19).

Hoàn toàn tín thác và vâng lời ra đi theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa, “ông Áp-ram đem theo vợ là bà Xa-rai, cháu là ông Lót, và mọi tài sản họ đã gầy dựng được, cùng với gia nhân họ đã có tại Kha-ran. Họ ra đi về phía đất Ca-na-an và đã tới đất đó” (St 12:5). Tổ phụ Áp-ra-ham ra đi vì ông hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa quan phòng và tiền định, đồng thời ông cũng vâng lời tuyệt đối. Thật vậy, Kinh thánh đã xác định: “Đức vâng lời trọng hơn của lễ” (x. 1 Sm 15:22; Tv 50:8-9). Vì vâng lời vô điều kiện, không hề so đo, ông an tâm và vui vẻ, tức là ông cảm thấy hạnh phúc. Niềm hạnh phúc của người biết tín thác vào Thiên Chúa luôn miên man và lâng lâng khó tả, chắc chắn là như vậy. Đứa bé hoàn toàn vô tư và hồn nhiên khi ở bên mẹ!

Như chúng ta đã biết, một khi Thiên Chúa hứa bất cứ điều gì thì luôn chắc chắn, luôn giữ đúng lời, vì đó là luật, Ngài làm luật nên Ngài tôn trọng luật, như Chúa Giêsu nói: “Trời đất qua đi còn dễ hơn là một cái phết của Lề Luật rụng mất” (Lc 16:17). Tương tự, tác giả Thánh Vịnh cũng đã trải nghiệm cuộc sống trên hành trình đức tin và chân thành chia sẻ: “Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:4-5). Thật vậy, “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4, 29; Tv 136:1-26).

Kinh Thánh xác định “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16) và là “Đấng giàu lòng thương xót” (Ep 2:4). Ngài luôn quan tâm thụ tạo mà Ngài đã dựng nên: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì” (Tv 33:18-20). Tác giả Thánh Vịnh bộc bạch với cả niềm thành tín: “Vâng, có Người, chúng tôi mừng rỡ, vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh” (Tv 33:21). Tin tưởng nên sẵn sàng vâng lời, vâng lời hành động thì sẽ an tâm và được nếm vị hạnh phúc.

Tuy nhiên, mặc dù nhận biết Thiên Chúa tận tình như vậy, chúng ta không được ỷ lại, mà vẫn phải không ngừng cầu nguyện: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22). Tương tự, câu “xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” nghĩa là chúng ta trông cậy ở mức nào thì được nhận lòng thương xót như vậy, chúng ta tha thứ cho người khác ra sao thì được nhận ơn tha thứ như thế. Đó là công bình, là công lý, và cũng là chân lý. Không thể CHO ít mà đòi NHẬN nhiều. Thiên Chúa không bao giờ “bù lỗ” cho ai theo kiểu đó, nghĩa là không có chuyện “ngồi mát ăn bát vàng”.

Thánh Phaolô ân cần căn dặn: “Anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng” (2 Tm 1:8). Tuy nói với Ti-mô-thê, nhưng cũng là lời nhắc nhở đối với mỗi chúng ta. Chắc chắn mọi người, không trừ ai, đều phải nỗ lực ngày đêm!

Nhưng mà tại sao lại phải nỗ lực làm chứng như vậy? Đơn giản thôi, vì đó là lý do tất yếu. Thánh Phaolô cho biết: “Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, KHÔNG PHẢI vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do KẾ HOẠCH và ÂN SỦNG của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Kitô Giêsu đã xuất hiện. Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử” (2 Tm 1:10). Ôi, thật là chí lý và thấm thía quá chừng!

Trên hành trình đức tin ở trần gian, nếu thực hiện được như vậy thì chúng ta chắc chắn sẽ được tận hưởng niềm hạnh phúc trong Đức Kitô, được trường sinh và vĩnh cư trong Vương Quốc Hằng Sinh của Thiên Chúa. Đó chính là niềm hạnh phúc miên viễn và tuyệt đối, mục đích cuối cùng của mọi Kitô hữu!

…ĐỂ CÓ HẠNH PHÚC

Có tài mà không khổ luyện cũng vô ích. Thiên tài thần đồng âm nhạc Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791, Áo quốc) cũng chỉ “lên tay” sau khi trau giồi thêm về chuyên môn. Ai khổ luyện thì sẽ thành tài. Vất vả trồng cây thì sẽ có ngày hưởng trái ngọt. Đó là quy luật chung muôn thuở, như người Việt cũng nói: “Có công mài sắt, có ngày nên kim”. Đó là điều tất nhiên và hoàn toàn hợp lý!

Sáu ngày sau khi Đức Giêsu nói về cuộc thương khó, Ngài đem theo các đệ tử thân tín nhất là Phêrô cùng với hai anh em Giacôbê và Gioan. Ngài đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, và y phục Ngài trở nên trắng tinh như ánh sáng. Các ông chưa hết ngỡ ngàng thì bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Ngài. Lạ quá chừng luôn!

Hạnh phúc là đây. Và quá hưng phấn, ông Phêrô thưa ngay với Thầy Giêsu mà không cần so đo tính toán chi cả: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mt 17:4). Ông không hề nhắc tới việc làm lều cho ba anh em, nghĩa là sao cũng được, ở giữa “khách sạn ngàn sao” cũng vẫn tốt, miễn sao cứ vui hưởng hạnh phúc thế này là được thôi. Các ông được sống trong niềm hạnh phúc khôn tả đó là được nếm thử hạnh phúc Nước Trời, nhờ đó mà đủ sức chịu cực khổ ở trần gian này.

Sự lạ và điều kỳ diệu đan chéo vào nhau. Chưa hết ngạc nhiên này lại có ngạc nhiên khác. Và một lần nữa, các ông lại tròn mắt chữ O và tròn miệng chữ A. Ngạc nhiên nhưng mà rất thú vị. Sướng rơn! Ngay khi ông Phêrô còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ họ, và có tiếng vọng ra từ đám mây phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17:5). Trước đó không lâu, sau khi Thánh Gioan Tẩy giả làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu tại sông Giođan, Thiên Chúa Cha cũng đã xác nhận tương tự về Đức Kitô Giêsu, Con Yêu Dấu của Ngài: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3:17).

Nhưng lần này thì khác hẳn, khác lắm. Vừa mới nghe như vậy thì các ông liền kinh hoàng và ngã sấp mặt xuống đất. Chu choa, hết hồn luôn! Thế nhưng chẳng ai làm sao, không xây xát chút nào, mặc dù té lăn cù trên đá sỏi lởm chởm như thế. Lạ hết sức!

Thấy các đệ tử như vậy, Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” (Mt 17:7). Các ông ngước mắt lên, và không còn nhìn thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu mình ên đứng ngay đó. Mèn ơi, kỳ lạ thật đấy, chả hiểu gì ráo trọi!

Sau đó, khi Thầy trò trên đường từ núi xuống, Đức Giêsu nói với họ: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” (Mt 17:9). Các ông im lặng nhưng chắc là gãi đầu miết thôi, bởi vì chả hiểu át giáp gì cả, thế nhưng các ông cũng không dám hỏi Thầy, dù chỉ nửa lời. Kỳ diệu lắm, lạ lùng vô cùng, nhưng chắc chắn họ cũng cảm thấy “đã” lắm!

Niềm hạnh phúc ở trên đỉnh Ta-bor liên quan nỗi sầu thương trên đỉnh Can-vê. Cuộc sống nhân gian cũng vậy, không thể ngồi rung đùi rồi đòi bổng lộc. Các môn đệ cũng đã từng đặt vấn đề rằng họ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, thế nên họ muốn có quyền lợi gì đó tương xứng. Chúa Giêsu nói: “Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10:29-30). Ta-bor và Can-vê không thể tách rời!

Trong các Phúc Âm nhất lãm, chỉ có Thánh Mác-cô đề cập “sự ngược đãi” trong phần nói về vấn đề này. Văn phong của Thánh Mác-cô có nét đặc thù là “trực tiếp, cụ thể, và sống động”. Người ta chỉ chú ý đến được cái này, hưởng cái nọ, nhưng có lẽ ít người lưu ý tới “sự ngược đãi” kèm theo các “bổng lộc” kia. Đừng quên rằng chính đau khổ cũng là phần thưởng mà Chúa Giêsu muốn trao cho những ai đi theo Ngài.

Hồng ân Thiên Chúa dạt dào

Khổ đau, hạnh phúc, u sầu, mừng vui,…

Đều là ơn Chúa mà thôi

Con xin cảm tạ suốt đời nhân gian!

Một bản nhạc không chỉ có những nốt nhạc, mà có cả những dấu lặng. Các nốt nhạc và các dấu lặng cũng có những trường độ khác nhau. Có thể coi các nốt nhạc là những “khoảng” hạnh phúc (với các cao độ khác nhau), còn các dấu lặng là những “khoảng” đau khổ. Các nốt-nhạc-hạnh-phúc liên kết với các dấu-lặng-đau-khổ để dệt nên bản-nhạc-cuộc-đời của mỗi chúng ta.

Lạy Thiên Chúa chí thánh chí ái, cúi xin Ngài tha thứ cho con về những điều con mơ ước mà không hợp Ý Ngài, xin chấn chỉnh nếp nghĩ của con cho đúng đường lối công minh của Ngài. Xin ban thêm ba nhân đức đối thần để con đủ sức vượt qua mọi trở ngại trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc đích thực là chính Ngài. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của nhân loại. Amen.

TRỖI DẬY ĐI, ĐỪNG SỢ ! (Mt 17 , 7)

FX. Đỗ Công Minh   

Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu thuật lại cho chúng con chuyện về Đức Giêsu  đưa ba môn đệ thân tín của người lên núi Tabor, tách riêng ra một chỗ. Nơi đó hẳn là thanh vắng, không có người qua lại. Một chuyến đi mà ngày hôm nay, chúng con thường gọi là một buổi tĩnh tâm. Nhưng có khác chăng, vỏn vẹn chỉ ba môn đệ và Thầy Giêsu chí thánh. Chúa vẫn khuyến khích chúng con và như một minh chứng : “ở đâu có hai ba người trong anh em dưới trần gian họp lại nhân danh Thầy, thì Thầy có ở đấy, giữa họ “(Mt 18,20).

Có dịp lên tượng đài Chúa Kytô Vua ở Thành phố Vũng Tàu; núi Đức Mẹ (Bãi Dâu) hay ngồi dưới chân tượng đài Đức Mẹ trên núi Tà Pao, cùng vài ba người bạn để “Vào Sa Mạc”, con dễ nhận ra được khung cảnh an bình, vắng lặng trên núi Tabor ngày xưa. Con sẽ dễ dàng được gặp Chúa, thưa chuyện với Người . Chúa Giêsu đã dùng cảnh quan giữa trời đất để giáo dục học trò của Người. Núi Tabor là hình ảnh nơi Thánh thiêng trong thời Cựu Ước. Thiên Chúa đã lập 10 điều răn trên núi Sinai, tỏ mình ra cho Môisen và các Tiên tri. Núi cao cũng là khung cảnh để Abraham dâng tiến con mình làm của lễ và đón nhận lời hứa của Chúa với dân Người. Chính trong nơi Thánh thiêng ấy mà Chúa đã tỏ mình ra cho các môn đồ, trước khi báo cho các ông: Người phải trải qua cuộc thương khó rồi sẽ bước vào vinh quang. Ba môn đệ đã được chiêm ngưỡng một phần vinh quang Nước trời, nơi đó không chỉ có Đức Kitô, Thầy của họ, mà còn có các bậc Ngôn sứ tổ phụ trong dân Israen, thời Cựu ước, cùng hiện ra đàm đạo với Thầy mình. Các Ngài hiện diện để làm chứng và tôn kính vinh quang của Chúa Giêsu. Đây quả là một sự bất ngờ và vinh dự lón lao cho những môn đệ theo Ngài, khiến Phêrô không thể không thốt lên lời ca tụng thành thật nhất, vui sướng nhất :”Lạy Ngài, chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, chúng con xin dựng ở đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho Môisê và một cho Ông Êlia “, ông quên rằng chính các ông cũng muốn được ở mãi nơi này mà không thốt lên được nguyện vọng là có thêm lều thứ tư, xúc động quá chẳng thể nói nên lời ? Phêrô không biết mình nói gì. Ông muốn được tận hưởng ngay những vinh quang được tỏ bày. Chỉ đến khi đám mây che phủ các Ngài và có tiếng phán ra: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các Ngươi hãy vâng nghe Lời Người “  các ông mới bừng tỉnh và nhận biết mình là ai, kèm theo đó là sự sợ hãi ngã sấp mặt xuống đất,  khiến Chúa phải lên tiếng :” Trỗi dậy đi, đừng sợ! “.

Lạy Chúa,

Chúa tỏ mình ra cho các môn đệ được chiêm ngưỡng vinh quang Nước Trời, chính là Chúa củng cố lòng tin cho các ông vì Chúa biết, trong thời gian sắp tới, các môn đệ sẽ phải chứng kiến Chúa bước vào con đường thập giá, các ông sẽ ngã lòng. Và sự thật là như thế! Các Tông đồ, mà cụ thể là Phêrô khi chứng kiến được vinh quang nước trời, chỉ muốn dừng lại ở đó. Ông quên rằng để chiếm được niềm vui bất diệt đó, các ông còn phải vác thập giá mình mỗi ngày để theo Chúa.

Ngày hôm nay, chúng con, những người được các Tông đồ Chúa truyền dạy, sau khi đã tận mắt chứng kiến sự thương khó, Phục sinh của Chúa, được Chúa tuôn đổ Thánh Thần của Người. Chúng con đang tiếp bước theo các Ngài, một lúc nào đó cũng sẽ được cùng các Ngài lên núi Thánh xưa. Ở đó con chắc chắn sẽ được chiêm ngưỡng vinh quang và được cùng hưởng vinh phúc Nước Trời.

Xin cho chúng con, trong Mùa Chay Thánh này, biết bước đi cùng Chúa trên quãng đường thương khó. Con biết sám hối và Tin vào Tin Mừng. Biết “Vâng nghe Lời Người”  như Chúa Cha phán dạy. Nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ không còn sợ hãi trước những cám dỗ.

Con tin rằng, nếu con luôn vững lòng cậy trông vào Chúa, mỗi khi vấp ngã, con sẽ được Người đến kế bên, chạm vào và nhắn nhủ “Trỗi dây đi, Đừng sợ”, ” Và ngày cuối cùng, từ bụi đất, con sẽ đứng lên” . AMEN

DÕI THEO BƯỚC CHÚA

Radio Veritas

Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành phải vượt cao nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ vừa thơ mộng.  Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ.  Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc đẩy cậu trốn ra khỏi lều.  Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh như bao trùm lấy cậu.  Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn Chai-san.  Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.

 

Bỗng chốc bầu khí yên tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi đâu rồi?  Trở vào lều đi”.  Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với cha: “Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp quá chừng!”.

Thưa anh chị em,

Trong truyền thống Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người.  Những mạc khải quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao.  Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa.  Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa.  Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa.  Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.

Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông.  Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu.  Từ trên đỉnh cao, các ông thấy vinh quang của ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.

Thế nhưng, người ta không lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi.  Đối với Chúa Giêsu, con đường phải đi đó chính là con đường lên Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài.  Và Ngài đã xuống núi để giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết thập giá.  Từ trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn đệ thân tín của Ngài trở lại cuộc đời, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt các ông.

Thật vậy, cuộc tỏ vinh quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.  Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24).  Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo các ông quan niệm, bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết.  Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục.  Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì.  Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”  Vì ông đã tự đồng hóa với Satan cám dỗ Chúa trong sa mạc.

Rồi bây giờ thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại trên núi Thabor, vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy.  Nhưng rồi, mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa Giêsu trên đỉnh núi.  Ánh sáng rực rỡ đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức các ông dậy, giục các ông xuống núi, đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn như Thầy đã báo trước.

Chính trong giờ phút biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn sứ Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc ra đi” Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến.  Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài”.  Lời đó chính là để công nhận, để tán thành bước đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy đi theo Thầy.  Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi.  Và Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau Thầy qua con đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh quang Phục Sinh.

Không phải không có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào giữa Mùa Chay.  Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê.  Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đập vào người như “đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh chúng ta, để chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường đời.

Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi.  Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại.  Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”.  Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh.  Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày sống lại.  Đó là quy luật của muôn đời.

Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện.  Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày.  Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua.  Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.

Xin ánh sáng Phục sinh của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống.  Xin ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục trên dấu chân của Ngài.

Radio Veritas

Trích từ “Niềm Vui Chia Sẻ”

CHÚA HIỂN DUNG

Radio Veritas Asia

(Trích từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong phụng vụ Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay này, Giáo Hội cho chúng ta chia sẻ phần nào tâm tư của Chúa Giêsu và ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những người đã được Chúa Giêsu kêu gọi đầu tiên và cũng là những người được Chúa Giêsu đem theo vào vườn Giệtsêmani để cầu nguyện trước khi Ngài bước vào cuộc Thương Khó. Với tâm hồn tinh tế ưu ái, Chúa Giêsu biết rõ tâm tính của các học trò mình, Người biết họ vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng khá bộp chộp. Họ hăng say đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có những phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta thấy không ít lần Simon Phêrô nhanh nhẩu thay mặt các đồng bạn trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu, cho dù các lời ấy có thể làm Thầy mình buồn lòng. Thậm chí, trong một lần cản ngăn Chúa Giêsu về việc Người sẽ tự nguyện lên Giêrusalem để chịu khổ hình, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời như sau: “Satan, lui lại đàng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người”. Còn hai ông Gioan và Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính nóng nảy, hai ông đã được Chúa Giêsu đặt biệt hiệu là con của thiên lôi. Hai ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp đón Người. Vì biết rõ tâm tính của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc hôm nay, ba ông vẫn còn nguyên vẹn tính chất phác của mình, nên khi Chúa Giêsu chuyên tâm cầu nguyện thì các ông lại vô tư nằm ngủ, và Chúa Giêsu vẫn để cho các ông ngủ say. Khi các ông bừng tỉnh thì một khung cảnh huy hoàng đã bao trùm lấy các ông, các ông được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong vẻ vinh quang sáng lạn của Người; có ông Môsê và ông Êlia xuất hiên để làm chứng rằng Người là Đấng Thiên Sai mà Kinh Thánh đã loan báo. Quá kinh ngạc vì cảnh tượng huy hoàng trước mắt, Phêrô đã nói như trong cơn mê sảng, kế đó ông lại được đám mây biểu hiện sự có mặt của Thiên Chúa bao trùm và được nghe tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Ngài.

Khi nghe đoạn kể lại Chúa Giêsu tỏ mình vinh hiển trên đây, chúng ta thấy mình ngây ngất, choáng ngợp trước cảnh tượng thánh thiêng huy hoàng ấy, chúng ta khâm phục các môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, vì các ông đã được chiêm ngắm vinh quang của Chúa Giêsu. Nhìn lại mình, chúng ta thấy đời sống đức tin của chúng ta sao mà nhạt nhẽo. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã phục sinh vinh hiển, nhưng dường như Người ở tận trên thiên cung xa vời. Còn chúng ta thì cứ loay hoay mãi với những chuyện đời thường nơi chốn trần gian này. Tâm trạng của chúng ta cứ buồn buồn sao ấy. Thật ra, chúng ta không chỉ quẩn quanh với những thăng trầm thế sự mà thôi. Hiện giờ, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến mỗi người chúng ta, như Người đã từng quan tâm đến các môn đệ như Phêrô, Gioan và Giacôbê ngày xưa. Người biết rõ tâm tính của mỗi người chúng ta với những ưu điểm và khuyết điểm của từng cá nhân, bằng những cách thế khác nhau. Qua những sự kiện và những dấu chỉ khác nhau, Người cũng cho chúng ta chia sẻ những giây phút vinh quang, hoan lạc của Người, để tỏ lộ cho chúng ta đại cuộc cứu độ của Người và giúp chúng ta vững bước trên đường sống đạo. Nếu chúng ta không nhận ra những lúc Người tỏ mình như thế, có thể vì chúng ta chưa đủ bén nhạy trong đời sống đức tin, hoặc vì chúng ta không nghĩ rằng mình được Chúa Giêsu ưu ái quan tâm đến thế.

Quả thật, Chúa Kitô Phục Sinh vẫn thường xuyên đến với mỗi người chúng ta dù không rực rỡ ánh hào quang như lúc tỏ lộ cho ba môn đệ ngày xưa, nhưng vẫn đủ để tạo ra những dấu ấn có sức củng cố đức tin của chúng ta. Đại thi hào Tagore đã viết về điều này trong tác phẩm “Lời Dâng” như sau:

“Anh không nghe thấy ư?

Bước chân Người thầm lặng

Người tới, tới và luôn luôn thường tới

Người tới, tới và luôn luôn thường tới

Hàng giờ, hàng đêm, hàng ngày, hàng thời đại, anh ơi”.

Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống đời thường của con, Chúa dùng muôn vàn phương cách để tỏ lộ cho con vinh quang của Ngài, nhưng nhiều lúc con chẳng nhận ra. Xin Chúa ban cho con đôi mắt biết rộng mở, đôi tai biết lắng nghe và tâm hồn biết thinh lặng để nhận ra Chúa. Xin cho con biết lưu giữ những kỷ niệm về những lần con gặp Chúa để mỗi khi gặp cơn sóng gió trong đời, con hồi tưởng lại những kỷ niệm tuyệt vời ấy mà vững tâm sống đạo.

MẮT ĐỨC TIN, MẮT CỦA TRÁI TIM

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

 

Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: sự âu yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Điều chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim.

Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.

Chúa Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra thần tính của Người. Ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.

Hôm nay, khi Chúa tỏ mình ra các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Thần tính vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân tính được tôn vinh. “Diện mạo Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.

Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang.

Ánh sáng thần tính rọi vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hi vọng. Vì nhân tính của Chúa Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả vào chúng ta, vào thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, vào thân xác rã rời mệt mỏi của ta.

Ánh sáng ấy cho tôi hiểu rằng, Thiên Chúa đang ẩn tàng trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của hữu thể tôi như thánh Augustinô đã cảm nghiệm: “Người ởi bên trong, còn tôi ở bên ngoài”.

Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống.

Ánh sáng ấy ngầm nói với tôi rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.

Nhận thức ấy thôi thúc tôi trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, tôi càng tới gần Chúa.

Nhận thức ấy giúp tôi kính trọng anh em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị, là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý.

Như thế, sống Mùa Chay là thực hiện một hành trình nọi tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.

Ăn chay là đến với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi nảy lộc trong các tâm hồn.

Chương trình hành động trong Mùa Chay là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Chúa Kitô soi chiếu vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh.

Như thế ta đang công tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Chúa Kitô, đưa nhân loại vào hành trình phục sinh.

Lạy Chúa Kitô, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em. Xin ban cho con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen.

BƯỚNG BỈNH

Trầm Thiên Thu

Tiên tri Gio-na

Đứa con bướng bỉnh là đứa con ngang ngạnh, không vâng lời cha mẹ và người lớn. Học trò bướng bỉnh là “ngựa chứng trong sân trường”, khó dạy. Người bướng bỉnh là người bảo thủ, chỉ thích theo ý mình, luôn cho ý mình là đúng, không chịu cân nhắc ý kiến của người khác. Thật là tai hại!

Những người bướng bỉnh là loại người không thể hợp tác, dù trong chuyện lớn hoặc nhỏ. Vì thế, S. Saplin đã lắc đầu ngán ngẩm mà nói: “Chỉ có những kẻ ngu và người chết mới chẳng bao giờ chịu thay đổi ý kiến”. Nói đơn giản, người bướng bỉnh là người luôn cãi lại – dù “cãi” bằng lời, bằng thái độ hoặc cử chỉ. Tính ngang tàng thì làm sao hợp tác được! Vân Trung Tử khuyên: “Không nên mưu việc lớn với kẻ nói nhiều, không nên ở chung với người sinh sự”. Chí lý!

Trong Cựu ước có một người rất bướng bỉnh: Ông Giôna. Ôi, thật vậy ư? Thật vậy, vì ngôn sứ Giôna chỉ muốn theo ý mình, với cách suy nghĩ riêng, nên ông đã dám cãi lệnh Chúa và cưỡng lại Ý Chúa. Và chính chúng ta cũng thường xuyên như vậy, đừng vội trách ông Giôna!

Chính Chúa đã trực tiếp bảo ông Giona: “Hãy đứng dậy, đi đến Ninivê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta” (Gn 1:2). Ông Giôna đứng dậy ngay, nhưng không phải để mau mắn vâng lời, mà là để trốn đi Tác-síttránh nhan Đức Chúa (Gn 1:3). Ông xuống Gia-phô và tìm được một chiếc tàu sắp đi Tác-sít. Ông trả tiền, xuống tàu để cùng đi Tác-sít với họ, tránh nhan Đức Chúa (Gn 1:3). Gan ông Giôna to thật, to bằng cái nia ấy chứ! Ông đã bướng bỉnh mà cưỡng lại sứ mạng Chúa giao. Đúng là gan cóc tía mà! Nhưng kể ra ông cũng “can đảm” đấy, dám “liều mạng” vậy thì đúng là “ngon” lắm chứ chẳng phải tay vừa!

Nhưng làm sao “qua mặt” được Chúa, như người đời cũng nói: “Lưới trời lồng lộng”. Quả thật, Chúa tung ra một cơn gió to trên biển và liền có một trận bão lớn ngoài khơi, khiến tàu tưởng chừng như sắp vỡ tan. Thuỷ thủ sợ hãi và kêu cứu, mỗi người kêu thần của mình và ném hàng hoá trên tàu xuống biển cho nhẹ bớt. Còn ông Giôna trốn xuống hầm tàu, nằm đó và ngủ say. Chắc cú!

Nhưng không, viên thuyền trưởng lại gần và nói với ông: “Sao lại ngủ thế này? Dậy! Kêu cầu thần của ông đi! May ra vị thần ấy sẽ nghĩ đến chúng ta và chúng ta khỏi mất mạng” (Gn 1:6). Có lẽ ông không chịu dạy cầu thần của mình, vì ông còn mặt mũi nào mà cầu với khấn khi ông cãi lệnh Chúa và chạy trốn Ngài? Thấy ông nằm lì, thế là họ bảo nhau: “Nào, chúng ta hãy bắt thăm cho biết tại ai mà chúng ta gặp tai hoạ này” (Gn 1:7). Họ gieo quẻ và quẻ rơi trúng ông Giôna. Có vẻ dị đoan đấy, nhưng không, chính Chúa làm cho họ hành động như vậy. Rồi họ đổ tội cho ông Giôna: “Vì ông là người đã đem tai hoạ này đến cho chúng ta, thì xin ông cho chúng tôi biết: Ông làm nghề gì? Ông từ đâu đến, quê ở nước nào, và thuộc dân nào?” (Gn 1:8).

Ông nói với họ: “Tôi là người Híp-ri, Đấng tôi kính sợ là Đức Chúa, Thiên Chúa các tầng trời, Đấng đã làm ra biển khơi và đất liền” (Gn 1:9). Sợ người ta hành hạ nên ông phải tuyên xưng Chúa. Cũng tốt. Nghe đến danh Chúa, bọn họ sợ lắm. Họ biết hẳn phải có chuyện gì bất thường với ông Giôna nên họ nói với ông: “Ông đã làm gì thế?” (Gn 1:10). Tới nước này thì ông Giôna đành thú thật, ông kể lại khúc nhôi, rạch ròi đầu đuôi sự thể. Thì ra tay này đang làm điều khuất tất, dám trốn đi để tránh nhan Đức Chúa. Gan thật!

Biển càng lúc càng động mạnh, họ biết không ổn, khó thoát nguy hiểm, và có thể chết đến nơi. Rồi họ hỏi ông: “Chúng tôi phải xử với ông thế nào để cho biển lặng đi, không còn đe doạ chúng tôi nữa?” (Gn 1:11). Kể ra họ cũng còn nhân từ và đàng hoàng. Chắc hẳn ông Giôna đã biết lỗi nên bảo họ: “Hãy đem tôi ném xuống biển thì biển sẽ lặng đi, không còn đe doạ các ông nữa; vì tôi biết là tại tôi mà các ông gặp cơn bão lớn này” (Gn 1:12).

Họ cố chèo vào đất liền nhưng không thể được, vì biển mỗi lúc một động thêm, uy hiếp họ. Họ kêu cầu Đức Chúa và thưa: “Ôi, lạy Đức Chúa, ước gì chúng con không phải chết vì mạng sống người này, và xin đừng đổ máu vô tội trên đầu chúng con; vì lạy Đức Chúa, chính Ngài đã hành động tuỳ theo sở thích” (Gn 1:14). Cuối cùng, họ đành ném ông Giôna xuống biển. Lạ thay, biển dừng cơn giận dữ. Họ càng sợ Đức Chúa, sợ lắm, nên họ dâng hy lễ lên Đức Chúa và khấn hứa.

Chúa khiến một con cá lớn nuốt ông Giôna, và ông ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Từ trong bụng cá, ông Giôna có dịp sám hối, và cầu nguyện với Thiên Chúa: “Từ cảnh ngặt nghèo, con kêu lên Chúa, Ngài đã thương đáp lời. Lạy Chúa, từ lòng âm phủ, con cầu cứu, Ngài đã nghe tiếng con. Ngài đã ném con vào vực sâu, giữa lòng biển, làn nước mênh mông vây bọc con, sóng cồn theo nước cuốn, Ngài để cho tràn ngập thân này” (Gn 2:3-4). Thật may mắn là ông Giona đã bớt bướng bỉnh và còn tin tưởng Thiên Chúa, ông thành thật thân thưa như lời tự thú: “Con bị đuổi đi khuất mắt Chúa rồi! Nhưng con vẫn hướng nhìn về thánh điện của Chúa” (Gn 2:5).

Sau ba ngày ba đêm, Chúa bảo con cá mửa ông Giôna ra trên đất liền. Rồi Chúa lại nói với ông Giôna lần thứ hai: “Hãy đứng dậy, đi đến Ninivê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi” (Gn 3:2). Lần này ông Giôna không dám trốn chạy như trước. Ông đứng dậy và đi Ninivê theo lệnh Chúa truyền. Kinh Thánh cho biết: “Ninivê là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường” (Gn 3:3).

Ông Giôna vào thành, đi một ngày đường và công bố: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá đổ” (Gn 3:4). Phúc thay, dân Ninivê không cứng đầu cứng cổ. Họ tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Vua Ninivê được tin báo, vua liền rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro. Vua còn cho rao tin khắp thành Ninivê: “Do sắc chỉ của đức vua và các quan đại thần, người và súc vật, bò bê và chiên dê không được nếm bất cứ cái gì, không được ăn cỏ, không được uống nước. Người và súc vật phải khoác áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa. Mỗi người phải trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình. Biết đâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại, chẳng bỏ ý định giáng phạt, và nguôi cơn thịnh nộ, khiến chúng ta khỏi phải chết” (Gn 3:7-9). Từ vua tới thần dân, cả thành Ninivê đều tốt lành, họ đã sám hối chân thành và ra sức ăn chay đền tội – kể cả súc vật.

Thiên Chúa thấy việc họ làm, dứt khoát bỏ đường gian ác mà trở lại, Ngài hối tiếc về tai hoạ Ngài đã tuyên bố sẽ giáng trên họ nên Ngài đã không giáng xuống nữa. Quả thật, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Ta đến để cho con người được sống và được sống dồi dào” (Ga 10:10). Đúng vậy, vì Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không là Thiên Chúa của kẻ chết.

Thế nhưng câu chuyện chưa chấm dứt ở đây. Ông Giôna vẫn tiếp tục ngang bướng. Thấy Chúa không phạt dân thành Ninivê, ông Giôna bực mình lắm, và ông nổi giận. Dám bực mình và nổi nóng với Chúa. Gan quá cỡ thợ mộc, liều hết nước nói! Ông còn phân trần với Chúa: “Ôi, lạy Đức Chúa, đó chẳng phải là điều con đã nói khi còn ở quê nhà sao? Chính vì thế mà con đã vội vàng trốn đi Tácsít. Thật vậy, con biết rằng Ngài là Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, và hối tiếc vì đã giáng hoạ. Giờ đây, lạy Đức Chúa, xin Ngài lấy mạng sống con đi, vì thà con chết còn hơn là sống!” (Gn 4:1-3). Đức Chúa thản nhiên hỏi ông: “Ngươi nổi giận như thế có lý không?” (Gn 4:4).

Ông Giôna vô lý hết sức, thế mà ông còn bỏ ra ngoài thành và ngồi ở phía đông thành. Ở đó, ông làm một cái lều, rồi ngồi trong đó cho mát, để xem cái gì sẽ xảy ra trong thành. Chúa khiến một cây thầu dầu mọc lên ở phía trên ông Giôna để có bóng mát che đầu ông, hầu làm ông hết buồn bực. Ông Giôna vui, vui lắm vì có cây thầu dầu. Thế nhưng ngay sáng tinh mơ hôm sau, Chúa khiến một con sâu cắn cây thầu dầu và cây bị héo, rồi lại còn có một cơn gió đông nóng bỏng, và mặt trời giội nắng xuống đầu ông Giôna.

Chịu hết nổi, ông ngất xỉu và xin cho mình được chết: “Thà con chết còn hơn là sống” (Gn 4:8). Chúa hỏi: “Ngươi nổi giận vì cây thầu dầu, như thế có lý không?” (Gn 4:9a). Ông vẫn cho mình là đúng mà ngang bướng lý luận: “Con có lý để nổi giận đến chết được!” (Gn 4:9b).

Đức Chúa phán: “Ngươi, ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên; trong một đêm nó đã sinh ra, rồi trong một đêm lại chết đi. Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ninivê, thành phố lớn, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật hay sao?” (Gn 4:10-11). Chắc hẳn ông Giôna phải câm như hến mà không dám cãi lại, không dám bướng bỉnh nữa!

Kinh Thánh nói: “Vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22 và Tv 50:8-9). Thiên Chúa muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế, vì Chúa Giêsu không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mt 9:13; Mt 12:7).

Ngôn sứ Giôna từ một kẻ bướng bỉnh hóa thành một kẻ ngu ngơ. Cờ ở thế bí. Hết nước gỡ. Domino bị triệt buộc. Chuyện ngôn sứ Giôna cũng là chuyện riêng của chính mỗi chúng ta, phải suy nghĩ thật nhiều!

Ước gì mỗi người đều làm mọi thứ để vinh danh Chúa hơn và sống tuyệt vời cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, luôn biết thân thưa: Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”, đồng thời thề hứa: Lạy Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài (Dt 10:7 và 9).

BIẾN HÌNH

Lm Anthony Trung Thành

Suy Niệm Chúa Nhật II Mùa Chay-Năm A

Ở đời, để thu phục người khác theo mình, người ta thường hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp ở đời nay như: tiền bạc, địa vị và danh vọng. Với Đức Giêsu thì khác, Ngài không hứa hẹn những điều tốt đẹp ở đời này, nhưng trái lại Ngài mời gọi những ai muốn theo Ngài thì phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo (x. Mt 16, 24). Hơn thế nữa, Ngài còn cho biết, chính Ngài cũng phải đi con đường đau khổ: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.” (Mt 16, 21). Trước lời mời gọi từ bỏ mình và vác thập giá, đặc biệt là lời tiên báo về sự đau khổ của Ngài, hầu hết các Tông đồ đều lo lắng, buồn phiền. Thậm chí, Thánh Phêrô còn can ngăn Đức Giêsu không nên dấn thân vào con đường đau khổ: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16, 22). Vì thế, Phêrô đã bị Đức Giêsu quở mắng một cách nặng nề: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 23). Mặc dầu Đức Giêsu trách mắng Phêrô và không hài lòng về thái độ của các Tông đồ, nhưng trong thâm tâm, Ngài vẫn thông cảm cho “tư tưởng con người” nơi các ông. Ngài muốn tìm cách khác để thuyết phục các ông chấp nhận đau khổ, chấp nhận “tư tưởng của Thiên Chúa.” Chính vì thế, Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, sáu ngày sau, Ngài đưa ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi và biến hình trước mặt các ông: “Mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người” (Mt 17,1-2). Chứng kiến cảnh tượng đó, các ông thích thú vô cùng. Các ông không muốn rời khỏi nơi đó. Thánh Phêrô đã thưa với Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”(Mt 17,4).

Tuy Thánh Phêrô tha thiết xin Thầy ở lại đó, nhưng Đức Giêsu lại mời gọi các ông xuống núi. Nghĩa là Ngài mời gọi các ông trở về cuộc sống thực tế hằng ngày. Cuộc sống đó sẽ kết hợp cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Cuộc sống đó sẽ kết hợp cả hạnh phúc lẫn đau khổ. Cuộc biến hình trong chốc lát nhắc nhở các ông muốn tới vinh quang phải trải qua đau khổ. Đó là con đường Đức Giêsu đã đi. Đó cũng là con đường của các Tông đồ và các kitô hữu qua mọi thời đại phải đi qua. Vì “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).

Qua Tin Mừng chúng ta thấy, chỉ có Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan được vinh dự chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giêsu. Bởi vì, rồi đây, ba vị sẽ đóng những vai trò quan trọng trong Giáo Hội sơ khai: Thánh Phêrô là vị Giáo Hoàng đầu tiên, Ngài đã đổ máu mình ra làm chứng cho Đức Giêsu; Thánh Giacôbê là vị tử đạo tiên khởi trong số các Tông đồ; Thánh Gioan là vị chứng nhân cuối cùng của các Tông đồ. Như thế, cuộc biến hình của Đức Giêsu không những cũng cố đức tin cho ba vị, mà qua đó, ba vị có nhiệm vụ cũng cố đức tin cho các Tông đồ khác và cho các kitô hữu và toàn thể Giáo Hội. Bởi vì, khi có niềm tin vững mạnh vào sự Phục Sinh, ba vị, các Tông đồ cũng như các kitô hữu mới can đảm vượt qua được những thử thách, đau khổ trong cuộc sống, nhất là những đau khổ trong sứ vụ loan báo Tin mừng.

Bài đọc II, Thánh Phaolô mời gọi Timôthê rằng: “Hãy đồng lao cộng khổ với tôi vì Tin mừng” (2Tm 1,8b). Thật vậy, để cộng tác trong việc loan báo Tin mừng cần phải chấp nhận hy sinh, đau khổ. Chính Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy kinh nghiệm đau khổ của bản thân Ngài qua thư Côrintô. Ngài kể lại rằng: “Năm lần tôi bị người Dothái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!” (2 Cor 11, 24-28).

Không phải chỉ trong thời Tân Ước, mà ngay chính thời Cựu Ước, Thiên Chúa cũng mời gọi con người chấp nhận sự hy sinh và từ bỏ. Bài đọc I, cho chúng ta thấy Thiên Chúa mời gọi ông Abraham từ bỏ quê hương xứ sở để lên đường đi tới nơi Ngài sẽ chỉ cho: “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, đến đất ta sẽ chỉ cho ngươi”(St 12,1). Từ bỏ nơi đang sống yên ổn để đi đến nơi chưa biết quả là một sự hy sinh to lớn. Nhưng ông Abraham đã vâng lời Thiên Chúa, ông đã chấp nhận từ bỏ quê hương xứ sở, phó thác tương lai cho Chúa, để lên đường đến nơi Thiên Chúa đã định.

Đối với chúng ta ngày hôm nay, mặc dầu mang danh là kitô hữu nhưng có lẽ nhiều lúc chúng ta cũng giống như Phêrô và các Tông đồ xưa, “thích sướng ngại khổ.” Nhiều khi chúng ta khăng khăng đòi hỏi quyền lợi cho mình nhưng lại không muốn chu toàn bổn phận. Chúng ta phấn khởi có mặt trong những ngày vui của Giáo xứ, của đoàn thể này khác, nhưng lại ít dấn thân trong các công việc được giao. Chúng ta mong muốn được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng nhưng lại không muốn đi con đường hẹp.

Ước gì mỗi người kitô hữu chúng ta hiểu được ý nghĩa của đau khổ. Để từ đó luôn chấp nhận dấn thân trong việc đi theo Chúa, chu toàn bổn phận người kitô hữu, đặc biệt nhiệm vụ loan báo Tin mừng. Ngõ hầu, chúng ta không chỉ được chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu trong chốc lát mà còn được hưởng trọn vẹn vinh quang của Đức Giêsu trên thiên quốc muôn đời. Amen.

SUY TƯ TIN MỪNG

Mai Tá

Tuần thứ 2 mùa Chay năm A 12/3/2017

Tin Mừng: (Mt 17: 1-9)

Hôm ấy, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gio-an là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlya hiện ra đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlya.” Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi. Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy.

“Người cất bước, cả non sông một dải,

Vươn mình theo, dãy Hoành Sơn mê mải.”

(dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương) Hoành sơn xưa, có là núi vắng Chúa đặt chân? Non sông nay, có là miền đất thánh-nhân về? Thánh nhân về, là về với nhân gian một cõi, có lòng mình/lòng người, đầy tình tự. Nhân gian nay đà thấy Chúa biến hình đổi dạng thành Đấng thánh, rất Mêsia như trình thuật thánh Mátthêu vẫn còn ghi.

Trình thuật nay kể về một biến hình đổi dạng nơi Đức Giêsu, mà các thánh xưa nay chưa từng thấy. Các thánh, gồm có Phêrô, Giacôbê và Gioan, tức các đấng bậc gần gũi cất bước lên chốn non cao thấy Chúa biến hình thành Đấng Thánh, rất phi thường. Các thánh nghe giọng thần thiêng tỏ bày sứ điệp chưa từng biết. Giọng hôm ấy, xác định Đức Giêsu là Con Một của Chúa Cha hiền hoà, đáng kính.

Biến hình đổi dạng nơi Đức Giêsu, là sự kiện xảy đến với nhiều tình tiết, rất đặc biệt. Cũng tương tự như ngày Chúa sống lại. Hoặc rõ hơn, như biến cố Chúa về trời vượt quá chuyện thường ngày, rất khó hiểu. Chúa thay hình đổi dạng, tựa hồ như Môsê xưa đã biến hình, trên đỉnh núi Sinai, khi giáp mặt trực diện với Giavê. Gặp Giavê, mặt mày Môsê sáng như ánh mặt trời. Long bào của ông, trắng toát như ánh dương, rất đặc biệt.

Thánh Mátthêu kể rằng: các thánh tông đồ lúc ấy rất ngạc nhiên, hãi sợ và bắt đầu nói lung tung về chuyện dựng xây căn nhà ở chóp núi. Đó là chuyện bình thường ở huyện người người vẫn làm thế, khi mất cảnh giác.

Biến hình là chuyện xem ra không bình thường xảy đến với chúng ta. Chí ít, là khi ta sống trong thế giới đầy những biến đổi hình dạng, về mọi thứ. Như sâu nhộng trở thành bươm bướm mà ta gọi là sự biến thái vẫn xảy đến trong đời của loài thú. Hệt như em bé biến dạng đổi hình, khi mới sinh. Đó là điều mà thánh Âu Tinh gọi bí nhiệm sản sinh. Là, mầu nhiệm lớn hơn cả phục sinh: đến với thế giới qua cốt cách con người, vẫn là chuyện cao cả hơn là trở về với hình thù mình, sau khi chết. Mỗi ngày và mọi ngày, vẫn xảy đến với ta qua đủ loại thay hình đổi dạng hệt như thế, cả bên trong. Trong sự sống riêng tây của mỗi người. Vấn đề tuy đơn giản, nhưng sâu sắc. Thay đổi bản vị, vẫn xảy đến, qua nhận thức, qua tình yêu.

Và đây là quan điểm rất xác thực của tác giả Mátthêu. Quan điểm của thánh nhân không nằm ở mặt ngoài, hoặc chỉ thay đổi mỗi xác phàm. Thay đổi về thân xác, là lối nói để diễn tả thay đổi về bản vị rất nhiều lần, Đức Giêsu có những khoảnh khắc nhận thức bên trong. Khoảnh khắc về tình thương yêu, rất thấu đáo. Khoảnh khắc, qua đó Ngài ồ ạt tăng trưởng bản thân để trở thành con người đầy bản vị. Và, đặc ân đến với các tông đồ vào lúc ấy, là được phép hiện diện và thấy được chuyện xảy đến, rất hiếm quý.

Đức Giêsu vẫn theo lộ trình bình thường, để có được kinh nghiệm rất thường tình của con người. Ngài học hỏi mọi thứ qua thử thách và sai sót. Mỗi ngày, Ngài khám phá ra nhiều điều mới mẻ về chính Ngài và về loài người. Cả những điều mới mẻ về Cha, mà chính Ngài đã trải nghiệm. Đức Giêsu là người từng trải nghiệm sâu sắc/bén nhạy về những thứ ấy. Ngài có những khoảnh khắc thương yêu rất mặn nồng, cũng ưu-tư lo-lắng, hãi sợ. Cũng trải-nghiệm nhiều phút giây vui vầy, tuyệt-diệu.

Và, mỗi lần có sự việc mới mẻ xảy đến, Ngài thay đổi tự bên trong. Và cứ thế, Ngài bắt đầu trở nên giống hình thù mà Ngài vẫn có ở trong Ngài. Ngài không là thiên thần cũng đạt chốn Thiên quốc mà Ngài giống như ngôn sứ Cựu Ước, có tầm nhìn sâu sắc trong cuộc sống –tầm nhìn thấu đáo do Cha ban. Nhưng Ngài không chỉ là thế, như một ngôn sứ không hơn không kém. Mà, còn trinh trong cả ở nội tâm. Ngài không có triệu chứng tâm can đau yếu. Nhưng, Ngài hoàn toàn hội nhập vào với thực tại. Mỗi khi có cảm nghiệm gì lớn lao, toàn bộ con người Ngài phản ánh niềm vui chan hoà cho tất cả.

Kinh nghiệm đỉnh núi, là kinh nghiệm gì? Là, cảm nghiệm rằng Ngài được Cha hoàn toàn chấp nhận và yêu thương làm Con Cha. Và, Cha không thể chờ đợi lâu hơn nữa để tỏ bày cho Ngài biết là Ngài được Cha chấp nhận thương yêu biết dường nào. Ngài không là kẻ xa lạ với Cha. Và, Cha cũng không xa lạ gì Ngài. Ngài không là người bạn của Cha chỉ trong chốc lát. Và, Cha cũng chẳng là bạn hiền của Ngài chỉ một phút chốc rồi thôi, những miên trường mãi mãi.

Cảm nghiệm Ngài cho thấy tương quan giữa Ngài và Cha. Giữa Cha và Ngài. Không là tương quan chỉ phút chốc hoặc lúc trầm lúc bổng, lúc tắt lúc bật trở lại. Ngài thực sự biết rõ Cha và quyết trở thành Thiên Chúa, giống như Cha. Và, Cha cũng biết rõ Ngài. Cha vẫn muốn Ngài thành Thiên Chúa theo cung cách rất Giêsu Kitô tựa hồ một biến đổi còn diễn tiến. Và lúc này là lúc thấy rõ diễn tiến hai chiều. Diễn tiến cho thấy Đức Giêsu trở nên thần thiêng như Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đang trở thành người phàm, như Đức Giêsu. Ta có thể gọi đó là biến hình hoặc nhập thể, cũng chẳng sai.

Tất cả sự việc này, tháp nhập vào với giọng nói vang vọng từ trên cao khẳng định với các tông đồ về điều rất chính yếu: “Này là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 17: 5)

Ngay khi ấy, các thánh tông đồ vẫn chưa nhận ra ý nghĩa của giọng nói, ngay lúc đó. Chỉ mãi về sau, các thánh nhân mới nhận ra được ý nghĩa thâm sâu về những gì xảy đến với chính mình. Và, Chúa cũng đã căn dặn các thánh đừng cho ai biết chuyện ấy, ít nhất chỉ phổ biến sau ngày sống lại, mà thôi. Mãi sau, các thánh mới nhận ra ý nghĩa đúng như thế. Cũng phải mất một thời gian chay tịnh rất dài ngày, người người mới nhớ về những chuyện như thế và cũng đã am-hiểu.

Và khi các thánh tông đồ tin tưởng vào Đức Giêsu và Cha Ngài, thì lúc ấy các thánh mới có cảm nghiệm đích thực về những gì xảy đến. Cảm nghiệm rằng, Đức Giêsu và Chúa Cha đã đến nơi chốn hoang vu thần thiêng là để chấp nhận thương yêu các thánh tông đồ cách trọn vẹn. Và các thánh cũng hài lòng được gần gũi Chúa. Kể từ đó, các thánh mới thông hiểu sự việc hầu thương yêu Đức Giêsu và Chúa Cha, theo cung cách khác hẳn. Khác trước rất nhiều. Cũng từ đó, các thánh bắt đầu thấy được chính mình. Biết được đời mình nay đã thay hình đổi dạng như thành quả có được từ một Biến hình của Đức Chúa, rất dễ thấy.

Cuối cùng, các thánh khám phá ra rằng các ngài cũng có thể thực hiện được chuyện biến dạng đổi hình, cho nhau. Thực hiện được, mỗi khi các thánh chấp nhận yêu thương bất cứ người nào trong cộng đoàn mình chung sống. Và, đây là động lực thúc đẩy một khởi đầu, thêm một lần. Rồi từ đó, tương quan giữa các thánh cũng đã thay hình đổi dạng, rất “biến hình”. Các thánh, nay trở thành người anh/người chị trong cộng đoàn Hội thánh, đã biến hình đổi dạng từ trong ra, và từ ngoài vào, rất liên-hồi.

Chính vì thế, hôm nay, ngày Chúa “biến hình” chỉ một thoáng mong manh, để người người nhìn thấy trước sự kiện phục sinh rất yên tâm, thư giãn. Thư giãn, để không còn sợ rằng Mùa Chay sẽ nặng nề, khó chịu với bất cứ ai. Bởi, biến hình hôm nay là thông điệp. Và cũng là sứ mạng. Thông điệp bày tỏ rằng: chính vì Đức Giêsu, mà người người sẽ còn thay hình đổi dạng, nhiều hơn nữa. Sứ mạng, là sứ mạng để chứng tỏ, rằng: nếu tin vào Đức Giêsu, ta sẽ có khả năng giúp mọi người biến hình đổi dạng, như Đức Chúa. Chỉ cần ta thực tình chấp nhận nhau, yêu thương nhau. Chấp nhận vui hưởng sự hiện diện bên nhau. Có nhau, để yêu thương giùm giúp hết mọi người, cũng đã đạt.

Vậy thì, Mùa Chay hôm nay có nghĩa gì, đối với ta? Chay kiêng một mùa, là quyết trao cho nhau và cho mọi người khẳng định cần biến hình đổi dạng. Biến và đổi, rồi tạo cho mình một loại hình, tựa như thế. Loại hình thực tình chấp nhận nhau. Thực tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Thực tình vui hưởng sự hiện diện/gần gũi, ở bên nhau.

Trong khí thế bừng bừng tình yêu thương có từ Đức Chúa đã biến đổi hình, ta hân hoan ngâm nốt lời thơ trên mà hát:

“Chạy dọc lên, thông cảm ý ngang tàng,

Cùng chồm dậy, đáp lời hô vĩ đại!”

(Vũ Hoàng Chương – Bài Ca Bình Bắc)

Lời hô vĩ đại bữa ấy cũng như hôm nay, không hẳn là “Bài Ca (để) Bình Bắc” hoặc bình Nam, cho bằng lời hô vang hãy biến hình và đổi dạng, như Đức Chúa từng làm. Vẫn rất cần. Cũng rất nên.

 

Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui

Trần Ngọc Mười Hai

 

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 2 mùa Chay năm A 12/3/2017-trần ngọc Mười Hai

“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”

Chọn những bông hoa và những nụ cười

Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy

Để mắt em cười tựa lá bay.

(Trịnh Công Sơn – Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui)

(2P 2: 8-9)

Chọn niềm vui? Việc ấy, vẫn còn tuỳ. Tuỳ bạn, tuỳ tôi, tuỳ mọi người. Và như thế, sẽ thấy vui như mọi ngày. Nói chữ “tuỳ” là bởi: ai cũng muốn cho mình vui tươi hơn bao giờ hết. Bởi, một khi mình đã vui rồi, mới có thể làm cho mọi người đều vui lây.

Tuy nhiên, chọn hoặc muốn là một chuyện. Còn, sự thật có xảy ra giống như thế hay không, lại là chuyện khác. Chẳng thế mà, bạn bè/người thân muốn cho mình/cho người được vui tươi đến như thế, nên đã gửi cho bần đạo đây một “xác quyết” để đời, như sau:

“Tôi vừa đọc một cuốn sách cũ, tôi đã học được nhiều bài học sâu sắc. Tôi cảm thấy nó là cách rất tốt để mọi người có thể sống một cuộc đời ít phiền muộn. Chính vì vậy, tôi muốn chia sẻ đôi điều mà tôi đã học được từ cuốn sách ấy với mọi người..!

  1. Sự thanh tịnh nằm ở trong tâm

Cả đời làm việc, đến cuối cùng chỉ muốn bản thân được an nhàn để hưởng thụ cuộc sống. Bạn luôn muốn tìm kiếm sự thanh tịnh ở bên ngoài trong khi bạn không phát hiện rằng nó là cái mà ai cũng có thể đạt được mà chỉ cần lấy ra từ trong tâm. Nếu tâm của bạn bớt tham sân si, bớt ganh đua, ghen ghét… thì tự khắc bản thân sẽ thấy thật thanh thản và thấy đời bỗng nhẹ nhàng làm sao.

  1. Tức giận chỉ là một cục than hồng có thể làm đau người khác, nhưng người bị bỏng đầu tiên chính là bản thân bạn. Sẽ có lúc bạn cáu gắt với mọi người nhưng bạn đâu ngờ điều đó lại làm hại chính bản thân mình. Đừng bao giờ nói bất kì câu gì khi bạn tức giận. Người ta thường nói: “Giận quá mất khôn”. Tôi nghĩ điều đó rất đúng, bởi tôi đã từng đánh mất một người bạn của mình chỉ vì nói ra những lời nặng nề kinh khủng khi bạn đó không làm tôi vừa ý. Lúc đó, tôi làm tổn thương người ấy để bây giờ tôi đánh mất một người bạn thân.

Tha thứ cho người khác, hóa ra là đang “cởi trói” cho chính mình”Sự tha thứ không phải là những điều mà chúng ta làm cho người khác, mà chúng ta làm cho chính chúng ta đấy thôi.”Câu chuyện 1: Bao khoai tây “oán…

  1. Suy nghĩ sẽ định hình con người bạn

Chúng ta nghĩ thế nào thì con người chúng ta như thế ấy. Bạn nghĩ bạn vô dụng, chắc chắn bạn sẽ không bao giờ làm nên trò trống gì vì bạn chẳng thèm hành động. Bạn nghĩ bạn thông minh, dĩ nhiên bạn sẽ thông mình vì tự bản thân sẽ biết cách tạo nên điều đó. Chỉ cần suy nghĩ tích cực thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp thôi! Do đó, cuộc sống cũng sẽ ít buồn phiền, vì lúc nào bạn cũng cố biến mọi thứ bạn gặp phải trong cuộc sống thành niềm vui riêng cho mình.

  1. Biết người là thông minh, biết mình là sự giác ngộ

Chiến thắng bản thân còn hơn là chiến thắng cả ngàn trận đánh. Đó là một bài học sâu sắc mà ai cũng cần biết. Tự chinh phục tâm chính mình chính là ải lớn nhất mà con người phải trải qua. Do đó, chúng ta phải tập thiền định để hiểu về chính bản thân mình. Biết được bản thân thích gì, làm gì để thỏa mãn nó chính là cách để bạn sống vui hơn mỗi ngày. Đừng tưởng đây là điều dễ thực hiện vì có người đã mất cả đời chỉ để làm điều này thôi đấy! Chính tôi cũng là người sẽ phải rèn luyện nhiều trong thời gian tới.

  1. Thay thế đố kỵ bằng ngưỡng mộ

Còn đố kị thì tâm bạn sẽ còn buồn phiền. Thay vào đó, chúng ta nên đón nhận sự thành công của người khác bằng sự ngưỡng mộ. Tâm bình thản rồi lấy cái tốt của người khác để làm gương sẽ khiến bạn dễ dàng phấn đấu mà không có sự căm phẫn. Đố kị chỉ làm lòng người thêm nhơ bẩn, thậm chí vì đố kị con người có thể biến chất, trở thành người chuyên làm những hành động xấu xa mà đôi khi chính bản thân mình cũng không ngờ tới.

Lời nhắn nhủ từ tận đáy lòng của phụ nữ tuổi 40 gửi phụ nữ tuổi 30: Ai cũng nên đọc để không phải tiếc nuối Lời nhắn nhủ từ tận đáy lòng của phụ nữ tuổi 40 gửi phụ nữ tuổi 30: Ai cũng nên đọc để không phải tiếc nuối.

Năm nay, tôi đã bước sang cái tuổi 40. Hiện nay, tôi có hai con nhỏ và rất tự hào về gia đình và tình hình tài chính bản thân mình. Sau một khoảng thời gian sống ở đời, đối diện với những được, mất, thắng, thua, tôi đã tích góp được rất…

  1. Nhân từ với tất thảy mọi người

Luôn luôn nhẹ nhàng với trẻ con, yêu thương người già, đồng cảm với người cùng khổ, nhân từ với kẻ yếu thế và người lầm lỗi. Một lúc nào đó trong đời, bạn sẽ rơi vào những hoàn cảnh đó. Động lòng trắc ẩn với mọi người, kẻ giàu cũng như người nghèo; ai cũng có nỗi khổ. Có người chịu khổ nhiều, có người chịu khổ ít.

Nhân từ để yêu thương và đồng cảm với họ. Vì mỗi người có một nỗi khổ riêng chỉ có họ mới thấu. Bởi vì bạn luôn nhìn người bằng con mắt nhân từ nên đời bạn sẽ luôn đẹp. Mọi thứ đều hoàn hảo. Tâm can được thanh lọc bởi những hành động mà bạn dành cho người khác.

  1. Tùy duyên

“Bàn tay ta vun đắp, thành bại thuộc vào duyên, Vinh nhục ai không gặp, có chi phải ưu phiền”

Bài học sâu sắc cuối cùng mà tôi đã học được chính là để mọi thứ tùy duyên. Như nhà sư đã nói, cái gì của mình thì nó sẽ thuộc về mình, còn cái gì không phải thì nó mãi mãi sẽ không thuộc về mình. Vì vậy, nếu muốn nắm bắt gì đó, đặc biệt là tình yêu thì hãy để tùy duyên. Bạn có thể cố gắng theo đuổi nhưng có lúc bạn cũng phải biết buông bỏ nếu mọi chuyện đã quá giới hạn và không còn khả năng cố gắng. Cứ nắm giữ chỉ làm bạn đau khổ rồi vấn vương muộn phiền sẽ là điều không thể né tránh. Tâm sẽ nhẹ nhàng nếu bạn để mọi thứ tùy duyên. Đó là cách để bạn có thể chấp nhận cuộc sống dễ dàng hơn.

Hãy sống như hôm nay là ngày cuối cùng. Tôi đã làm được 4/7 điều rồi và thấy đời mình nó cũng thanh thản đi bớt phần nào. Đặc biệt, tôi thích nhất là điều cuối cùng. Tôi cũng mong rằng những điều này sẽ giúp ích cho bản thân mỗi bạn..!” (Bài viết bè bạn gửi qua mạng, mới đây thôi)

Tuỳ duyên/buông bỏ, đó là câu chuyện đời ở ngoài đời. Còn, chuyện đạo của các vị đi đạo thì sao? Trả lời cho vấn-nạn này, tưởng không dễ. Giống như thể, mới đây thôi, bần đạo đọc được bản tin đăng trên báo điện mang tên là MercatorNet có bài viết, rất như sau:

Những năm gần đây, một số người Công giáo lại để mình đắm chìm trong nỗi đắng cay đến độ họ chẳng nói điều gì hay ho về Đức Giáo Hoàng Phanxicô đương-nhiệm. Mỗi bài diễn-thuyết, mỗi sáng kiến tư riêng, mỗi khi bổ nhiệm ai đó, Ngài đều xem xét kỹ để giúp họ coi lấy đó là bằng-chứng xác-nhận tính bê-bối/bội-bạc này khác.

Thế đó, còn là tình-huống khá ngoại-thường. Các Kitô-hữu ở trời Tây, đăc-biệt là Giáo hội Công-giáo, đang bị áp-lực nặng nề từ chủ-thuyết trần-tục thực hung-hãn. Dấu-hiệu chống-trả lại chủ-thuyết này mạnh nhất là từ Đức Giáo Hoàng Phanxicô và một số vị đạo-đức đã nổi dậy. Hãy tưởng-tượng mà xem đội binh Hoa kỳ trong trận chính ở Bulge khi họ bị vây hãm tứ bề và cuối cùng cũng bị kiệt sức. May có Patton kịp đến cứu vãn tình-thế. Ông ấy đến gần càng lúc càng gần những người tham-gia cuộc chiến ấy. Mọi người cứ tưởng ông sẽ hành-xử cách thông-thường, nhưng ông lại đi thẳng gia-nhập nhóm binh hùng/hảo tướng người nước Đức, thế mới lạ.

Sau gần 4 năm trời tại chức, Đức Phanxicô lại đã chứng-kiến rất nhiều lời phàn nàn ở các nơi hệt như 95% hầu hết các lời lẽ cùng ý-kiến mà chính Luther cài đặt vào cánh cửa của Thánh Đường Các Thánh Nam Nữ ở Wittenberg. Những lời này, là từ những người được chính ông rửa chân cho vào Thứ Năm Tuần Thánh, để rồi chân họ cũng liên-quan đến các vấn-đề như hiện giờ về phá-thai, để rồi các vị bèn trả lời “Tôi là ai mà lại dám kết-án” hệt như khi phê-phán về chuyện đồng tính luyến ái, nổi lên vào lúc ấy.

Chuyện nổi cộm hôm nay liên quan đến đoạn văn trong tông-thư “Amoris Laetitia” bàn về các vị đã ly-thân/ly-dị nay có được phép Rước Mình Chúa không?…

Chuyện ly-thân/ly-dị nay đã thành chuyện thường ngày rồi, thế mà một số tín-hữu Công-giáo không nhỏ, vẫn không hề biết là Giáo-hội của họ từng cấm-đoán chuyện ly-dị. Một số vị khác, lại cứ tranh-cãi biện-luận rằng đám cưới lần đầu của họ từng có hiệu-lực, không cần biết các linh-mục nói gì đi nữa. Một số khác, lại cũng chẳng biết gì về thần-học Hoà-giải và Hiệp-thông Rước Mình Máu Chúa, hết…

Kết quả là, một số khá lớn người Công giáo chẳng nhận được sự giúp đỡ về mặt linh-đạo từ Giáo-hội của họ. Vì thế nên, con cái họ vẫn không được rửa tội và rõ ràng thấy mình bị bỏ rơi. Và, tín-thư vốn được Đức Phanxicô chuyển đến, như thể bảo: “Không! Các anh/chị không bị tống khứ khỏi Hội thánh đâu. Ta hãy tìm cách giải-quyết vấn-đề này mà không cần hy-sinh/nhượng-bộ các giáo-huấn của Hôi-thánh.” Nhưng đó mới là chuyện khó. Giả như những người như thế vẫn được phép rước Mình Máu Chúa, dù muốn dù không hay sao đó, thì như thế có nghĩa là Giáo-hội vẫn chấp-nhận ly-dị và không còn tin vào tính-cách thánh-thiêng của việc Hiệp-thông Rước Lễ nữa.

Điều mà Đức Phanxicô đề-nghị trong tông-thư “Amoris Laetitia” là các linh-mục và Giám-mục phải dẫn dắt mọi người một cách tế-nhị trong việc leo lên ngọn đồi sự thật. Phương-án ngài đưa ra không có nghĩa lỏng lẻo  đặt nặng đến lương-tâm riêng rẽ trên cả luật luân-lý, nhưng về mục-vụ cốt dẫn đưa mọi người hiểu rõ, cảm-kích và cuối cùng biết yêu thích luật đạo-đức, luân-lý. Thật sự ra, thì mọi người đều muốn được sáng-tỏ về chuyện làm sao tháp đặt phương-án đầy lòng trắc ẩn này…

Chuyện bi-đát, là: cuộc tranh-luận này đang làm tắt ngúm lòng nhiệt-huyết của một số bộ-phận gồm các người Công-giáo có học cũng đạo đức/sốt-sắng với việc tái Kitô-hoá xã-hội. Từ những ngày đầu tiên của nhiệm kỳ Giáo hoàng mình, lịch-trình mà Đức Phanxicô đặt ra cho ngài là: tái-Phúc âm-hoá chốn sa-mạc linh-đạo của người phương Tây. Trong tông-thư “Niềm Vui Tin Mừng” ngay sau khi đắc cử vào năm 2013, những lời rằng:

“Tôi mơ về một “chọn-lựa mục-vụ”, đó là: sự thôi-thúc mục-vụ khả dĩ thay-đổi được tất cả mọi sự để rồi các thói quen của Giáo-hội, đường lối đối xử với các sự việc, thời-gian và chương-trình, ngôn-ngữ và cơ-cấu có thể hướng tới một cách thích-hợp với việc Phúc-Âm-hoá thế-giới hôm nay hơn là bao-quản chính Giáo-hội… Như Đức Gioan Phaolô Đệ II từng nói với các Giám-mục thuộc Châu Đại Dương hôm ấy rằng: Tất cả mọi cuộc cải-tân trong Hội thánh đều có sứ-vụ như mục-tiêu đặt ra nếu nó không thành con mồi cho một thứ thu mình vào bên trong Giáo hội.”

Đây kìa, hãy xem “sự việc thu mình vào bên trong Giáo-hội” đang miệt mài quay trở về, ít là trên mạng vi-tính. Một lần nữa, một số người Công-giáo tốt lành và sáng chói đang tự nhìn vào bên trong, tự coi mình như cái rốn vũ-trụ, đang trở-thành cơ-quan kiểm-duyệt, bắt bẻ cả những chuyện nhỏ và lại có thành-kiến nữa. Và, Đức Phanxicô đã thấy trước điều này khi ngài viết tông-thư Niềm Vui Tin Mừng, có những câu sau đây:

“Một trong các cơn cám-dỗ nghiêm-trọng nhất đang kềm-chế lòng quả-cảm và sốt-sắng đó là tính chủ-bại vốn đưa ta trở-thành những người bi-quan, cáu-kỉnh và vỡ mộng, “bẳn gắt”. Không ai có thể rời khỏi trận-chiến trừ phi người đó hoàn-toàn được thuyết-phục trước là mình sẽ chiến thắng…”

Giống như nhà vô-thần hay bẳn gắt như Richard Dawkins từng tiên-đoán về “cái chết thật sự của tôn-giáo có tổ-chức hẳn-hòi” trong đời ông, thì việc tái-Phúc-âm-hoá ở thế giới trời Tây lâu nay luôn là công việc khá gay-cấn. Điều đáng tội là những người chỉ-trích Đức Giáo Hoàng đang làm mọi sự để vô-hiệu-hoá kế-hoạch của chính họ.” (X. Michael Cook, The Pope is a heretic? You can’t be serious!”, MercatorNet 05/12/2016)  

Xem thế thì, hỏi rằng Đức Phanxicô có bao giờ biết đến bài hát vừa trích-dẫn, lại có ca-từ tiếp nối hát như sau:

“Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi

Đường đến anh em đường đến bạn bè

Tôi đợi em về bàn chân quen quá

Thảm lá me vàng lại bước qua.

Và như thế tôi sống vui từng ngày

Và như thế tôi đến trong cuộc đời

Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi.

Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui

Cùng với anh em tìm đến mọi người

Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát

Để thấy tiếng cười rộn rã bay.

Và như thế tôi sống vui từng ngày

Và như thế tôi đến trong cuộc đời

Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi.

Mỗi ngày tôi chọn một lần thôi

Chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời

Tôi chọn nắng đầy, chọn cơn mưa tới

Để lúa reo mừng tựa vẫy tay.

Và như thế tôi sống vui từng ngày

Và như thế tôi đến trong cuộc đời

Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi.

Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi….”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Ca-từ dọi lại nhận-định trên, khiến người đọc như tôi/như bạn hẳn sẽ liên-trưởng đến lời vàng bậc thánh-hiền khi xưa từng bảo:

“Quả vậy, người công chính sống ở giữa họ,

mắt thấy tai nghe những hành vi phi pháp

ngày ngày xâu xé tâm hồn công chính của ông.

Như thế Chúa biết cứu những người đạo đức khỏi cơn thử thách,

và giữ những kẻ bất chính để trừng phạt vào ngày phán xét…”

(2P 2: 8-9)

Và như thế, trong cuộc đời của mỗi, có thể mỗi người và mọi người sẽ có chọn lựa riêng cho chính mình, để còn sống. Hệt như nghệ sĩ khi xưa từng tỏ bày lập trường mình bằng ca-từ như sau:

“Mỗi ngày tôi chọn ngồi thật yên

Nhìn rõ quê hương, ngồi nghĩ lại mình

Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống

Vì đất nước cần một trái tim !

Và như thế tôi sống vui từng ngày

Và như thế tôi đến trong cuộc đời.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Cùng với nghệ-sĩ họ Trịnh ở trên, đề nghị bạn và tôi, ta đi vào cùng trời truyện kể để sẽ thấy đời mình cũng không đến nỗi bi-quan, bi-đát như mọi người tưởng, vì “mình vẫn sống vui từng ngày”, với nụ cười trên môi khi nghe kể những truyện, từ tựa sau đây:

“Truyện rằng,

Có hai anh chàng thanh niên sống ở nhà quê cùng rủ nhau lên tỉnh thành lập nghiệp vì họ thấy rằng cuộc sống ở quê nhà chỉ vừa đủ ăn không dư giả. Sau thời gian dài phấn đấu hơn 30 năm ở tỉnh thành, hai người đã tạo lập được một cuộc sống sung túc về vật chất. Anh A trở thành chủ một hãng xe đò, anh B có hơn 2/3 cổ phần trong một nhà máy dệt. Vì là bạn nối khố từ nhỏ nên sau khi thành công trên đường sự nghiệp, hai người vẫn tiếp tục chơi thân với nhau.

Một hôm, hai người bỗng nảy ra ý định trở về quê nhà nơi họ chôn nhau cắt rốn, trước là để thăm lại đình làng bé nhỏ trước kia, sau là để thực hiện giấc mộng hồi hương áo gấm về làng như những quan Trạng ngày xưa.

Khi xe hơi chở họ về đến đầu làng, cả hai cùng rủ nhau xuống đi bộ vừa ngắm cảnh vừa chuyện trò. Đến trước đình làng, hai người gặp một ông lão mặc áo trắng, tay cầm chiếc phèng la.

Anh A cất tiếng hỏi:

– Ông lão ơi, ông đang làm gì vậy?

Ông lão điềm nhiên trả lời:

– Ta là Thành hoàng giữ phúc phần cho làng này, ngoài việc giữ yên ổn cho dân làng, ta cũng cai quản vấn đề sinh tử của mọi người nữa.

Ta đến báo cho hai người biết là mạng sống của các ngươi chỉ còn ba ngày. Ba ngày sau ta sẽ đến đón hai người về cõi âm. Khi ta nổi một hồi phèng la thì hai người phải đi theo ta để về trình diện ngài Diêm Vương mà không được chậm trễ.

Nói xong, ông lão biến mất, để lại hai anh chàng đứng ngẩn người như ngây như dại. Thử tưởng tượng ngày áo gấm về làng cũng là ngày biết được cuộc đời chỉ còn ba ngày cuối cùng thì ai không đâm ra hoảng hốt.

Anh A thấy rằng cuộc đời nhạt nhẽo không còn gì gọi là thú vị, 30 năm phấn đấu để cuối cùng đổi lấy cái chết cận kề trong khoảnh khắc. Về đến nhà anh ta ăn không ngon, ngủ không yên, mà cũng chẳng lo sắp xếp được gì cả. Đến lúc bấy giờ anh mới nghiệm ra rằng dù tiền bạc có nhiều ức vạn đi nữa cũng không thể nào đánh đổi được sinh mạng đáng quý.

Chưa đến ba ngày thần sắc của anh bơ phờ như một thây ma, mặt anh đầy những vết nhăn, râu ria mọc lún phún, cặp mắt thì đờ đẫn thất thần. Ngày thứ ba anh thức dậy thật sớm, lựa ra bộ đồ sang trọng đắt tiền nhất mặc vào người và đứng trước cửa đợi lão tử thần đến rước.

Chiều tối hôm đó, quả thật anh thấy ông lão mặc áo trắng, tay cầm phèng la ngày hôm trước xuất hiện. Ông lão chưa kịp gióng lên hồi phèng la thì anh A đã lăn đùng ra chết. Vì quá khẩn trương nên ba ngày cuối cùng cuả anh đã mỏi mòn trong sự chờ đợi, do đó khi thấy thần chết xuất hiện là anh xuất hồn đi theo ngay lập tức. Trở lại phần anh B, sau khi nghe vị thần chết tuyên bố bản án tử hình, anh cũng thấy mủi lòng.

Thế nhưng tánh tình của anh B vốn rất an phận, anh nghĩ rằng nếu như số mạng của anh có đi đến chỗ chấm dứt thì không có cách nào thoát được. Vì nghĩ như vậy nên anh mang tất cả tiền bạc đã tạo dựng trong 30 năm ra làm của bố thí. Trước hết anh cất một trường học ở quê nhà để giúp cho trẻ em nghèo khổ có nơi học hành. Sau đó, anh giao tiền cho quý vị hội đồng xã xây dựng một bệnh xá nhằm giúp những người dân quê không có tiền lên tỉnh thành trị bệnh.

Của cải còn lại, anh mang ra phụ giúp việc xây đường, dựng cầu mang lại tiện ích cho cuộc sống của người dân thôn dã. Anh cũng trích ra một phần để giúp đỡ những gia đình đông con không đủ sống đang cần sự trợ giúp tức thời.

Những công việc này đã tốn hết thời gian ba ngày của anh. Anh B không còn thì giờ để nghĩ đến cái chết sắp sửa xảy ra cho anh nữa. Những người dân nghèo khổ trong làng đột nhiên nhận được một sự bố thí lớn lao nên họ rất lấy làm cảm kích. Những người được sự giúp đỡ đó đã tỏ lòng biết ơn của họ bằng cách tổ chức một buổi hát bội ngoài trời, trước là để tạ ơn thần, sau là để tri ân nhà mạnh thường quân tốt bụng.

Đoàn múa lân của trẻ em trong làng đã đến trước nhà anh B tưng bừng múa giúp vui. Khi mọi người đang hoan hỉ đứng xem thì ông lão tử thần xuất hiện vì đã đến giờ ông ta đến đón anh B về âm phủ. Thế nhưng không khí trước nhà anh B lúc đó quá vui nhộn cho nên mọi người, kể cả anh B, cũng không chú ý đến sự xuất hiện của nguời lạ mặt này.

Thậm chí có một chàng trai trong làng thấy ông lão tay cầm phèng la đã tưỏng nhầm ông là một thành viên của đoàn múa lân nên kéo ông ta sắp vào hàng ngũ những người đánh trống thổi kèn. Ông già tử thần gióng thêm một hồi phèng la gọi hồn, thế nhưng vì không khí đang huyên náo cho nên tiếng phèng la của ông bị tiếng trống múa lân át mất.

Ông già tử thần cố gắng thử thêm ba lần nữa cũng chẳng ai thèm chú ý đến. Vì đã đến giờ nên ông buộc lòng phải ra đi. Anh B suốt đêm hôm đó được dân làng đãi đằng ăn uống thật thịnh soạn.

Dân chúng trong làng lâu nay mới có một dịp cùng nhau vui vẻ cho nên ai ai cũng liên hoan cho đến sáng. Sáng ngày hôm sau anh B cứ tiếp tục thực hiện những công việc dở-dang mà anh sắp xếp để phục vụ cho dân trong làng.

Công việc bận rộn liên tục đã khiến anh quên khuấy mất cái hẹn ba ngày của ông Thành hoàng. Mãi hai ba hôm sau khi sực nhớ lại, anh lấy làm lạ tại sao đã quá kỳ hạn mà không thấy thần chết xuất hiện. Anh đâu biết rằng ông lão có đến nhưng không ai thèm nghe hồi phèng la của ông nên đã buộc lòng phải bỏ đi. Nhờ vậy mà anh B mới còn tiếp tục sống dài dài ra đó.

Lời bàn của người kể truyện: “Đây là một câu chuyện ngụ ngôn rất có ý nghĩa, nói lên chân lý cuộc sống của con người là phải phấn đấu từng giây mãi cho đến phút cuối của cuộc đời. Xu hướng tiến lên sẽ đưa ta đi về đâu? Dĩ nhiên là ta sẽ đi đến chỗ ta hằng mong muốn. Phật giáo đồ sẽ đi đến thế giới Cực Lạc, những con chiên Thiên Chúa giáo sẽ lên Thiên Đàng.

Tôi thường đặt câu hỏi với nhiều người như thế này: “Nếu như biết rằng cuộc sống của ta chỉ còn đúng 60 giây đồng hồ thì quý vị sẽ có một sự lựa chọn gì trước khi nhắm mắt?” Phần đông những người được tôi hỏi câu này đều đâm ra lúng túng không biết phải trả lời như thế nào. Hai phần ba trong số đó cho tôi câu trả lời sẽ chẳng chọn lựa hay suy nghĩ gì cả. Lý do là quá ngắn ngủi, không đủ cho họ chuẩn bị. Nhiều người chấp nhận sự việc đếm từng giây phút đi qua mà thôi.

Riêng tôi thì có hai sự lựa chọn, một là mặt mày rầu rỉ để chờ đợi tử thần, hai là mỉm cười đón nhận phút cuối của cuộc đời. Thử nghĩ, nếu như quý vị mỉm cười, bình thản ra đi thì những người thân đưa tiễn quý vị chắc chắn sẽ nhẹ bớt phần nào nỗi đau buồn, ít ra họ cũng biết rằng quý vị đã ra đi một cách bình yên không lo sợ.  Ngay giây phút đó, biết đâu nhân sinh quan của quý vị sẽ thay đổi hẳn và sẽ cảm thấy một sự giải thoát nhẹ nhàng.

Đời nhà Đường bên Trung Hoa, có nhà sư Nguyên Hiểu đã nói rằng: “Tận dụng hết mọi nỗ lực của con người cũng không thể nào chặn đứng sự héo úa của một cành hoa, vậy thì trong khi đóa hoa đang dần dần héo úa, ta hãy ung dung ngắm nhìn và thưởng thức giây phút cuối cùng của cành hoa đó đi.”

Sự suy nghĩ và cảnh giới giác ngộ của nhà sư này quả thật đã lên đến một mức độ thượng thừa. Nếu như tận dụng hết mọi nỗ lực vẫn không thể nào chặn được sự thất tình, thì trong lúc thất tình ta hãy ung dung gặm nhấm mùi vị thất tình đó đi.

Nếu như tận dụng hết mọi nỗ lực cũng vẫn không thể nào ngăn chặn cho cơ thể tránh được bệnh tật, vậy thì trong khi nằm trên giường bệnh, ta hãy bình lặng hưởng thụ giây phút êm đềm yên tịnh đó đi. Biết đâu trong thời gian yên lặng chịu đựng đó, chúng ta chẳng nghiền ngẫm ra được nhiều triết lý để gánh vác được những đau khổ của cuộc đời hay sao? (Tác Giả: Lâm Thanh Tuyền Đài Loan)

Vui buồn cuộc đời, thật ra cũng do mình mà ra. Thế nên, đề-nghị bạn, đề-nghị tôi, ta sẽ ca vang bài hát ở trên mà rằng:

“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui

Cùng với anh em tìm đến mọi người

Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát

Để thấy tiếng cười rộn rã bay.

Và như thế tôi sống vui từng ngày

Và như thế tôi đến trong cuộc đời

Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi)

Hát thế rồi, giờ đây bạn và tôi cứ hiên ngang sống vững chãi, như không có chuyện gì xảy ra, dù có xấu đi nữa.

Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều khi vẫn nghĩ như thế

rất liên hồi,

một cuộc đời.

TỪ LẮNG NGHE ĐẾN VÂNG NGHE LỜI CHÚA

Nguyễn Văn Nội

TỪ “LẮNG NGHE” ĐẾN “VÂNG NGHE” LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT II  MÙA CHAY NĂM A (12/03/2017)

[St 12, 1-4a; 2 Tm 1,8b-10; Mt 17,1-9]

  1. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Tiếng Việt của chúng ta quả là rất phong phú. Bằng chứng là 2 từ “lắng nghe” và “vâng nghe” tuy cùng có từ NGHE nên nội dung rất gần nhau, nhưng lại rất khác nhau. Trong lãnh vực tôn giáo và tâm linh, nếu “vâng nghe” Lời Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa, là việc quan trọng nhất đối với các Ki-tô hữu thì trong Mùa Chay việc ấy càng quan trọng hơn gấp triệu triệu lần, vì Mùa Chay là thời gian thuận lợi nhất cho việc “vâng nghe” Lời Chúa. Nhưng việc “vâng nghe” giả thiết việc “lắng nghe”, vì có “lằng nghe” Lời Chúa, các Ki-tô hữu mới biết Thiên Chúa muốn gì, chờ đợi gì, đòi hỏi gì ở mỗi người, mỗi cộng đoàn. Và có “lắng nghe” Lời Chúa, các Ki-tô hữu mới khám phá ra những cái được và cái chưa được trong cách sống đức tin của mình mà sửa đổi.

Có nhiều giáo dân không biết “lắng nghe” Lời Chúa, vì chẳng bao giờ họ mở Sách thánh ra đọc, thậm chí khi họ tham dự thánh lễ, họ cũng chẳng chú tâm đến việc “lắng nghe” các bài Thánh Kinh và bài giảng của linh mục chủ tế. Vì thế, thật khó cho những người này “vâng nghe” Lời Chúa.

Hôm nay Giáo Hội mời chúng ta hãy mở lòng, mở trí và mở tai để “lắng nghe” Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh và đáp lại bằng việc “vâng nghe” Lời Người.

  1. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (St 12, 1-4a): Thiên Chúa gọi ông Áp-ram, tổ phụ dân người.

1 Hồi ấy Đức Chúa phán với ông Áp-ram: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất ta sẽ chỉ cho ngươi. 2 Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành. 3 Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.” 4 Ông Ápram ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông.

2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (2 Tm 1,8b-10): Thiên Chúa kêu gọi và soi sáng chúng ta.

8 Anh yêu quý, dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo tin mừng. 9 Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của người. Ân sủng đó, người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu, 10 nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Kitô Giêsu đã xuất hiện. Chính đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng tin mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.

2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Mt 17,1-9): Dung nhan Đức Chúa chói lọi như mặt trời.

1 Khi ấy Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. 2 Rồi người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan người chói lọi như mặt trời, và y phục người trở nên trắng tinh như ánh sáng. 3 Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. 4 Bấy giờ ông Phêrô thưa với đức Giêsu rằng: “Lạy ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” 5 Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là con yêu dấu của ta, ta hài lòng về người. Các ngươi hãy vâng nghe lời người!” 6 Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. 7 Bấy giờ đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” 8 Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi. 9 Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, đức Giêsu truyền cho các ông rằng: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi con người từ cõi chết trỗi dậy.”

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Chúa là ai?)

Trong ba bài sách thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:

* Là Đức Chúa, Đấng đã chọn Áp-ram, một người dân du mục miền trung cận đông, làm tổ phụ dân riêng Chúa là Ít-ra-en. Áp-ram phải từ bỏ quê cha đất tổ mà tiến về một miền đất vô định. Có nghĩa là Áp-ram phải trở thành một con người bé mọn, nghèo hèn trước mặt Thiên Chúa, chỉ biết trông cậy và phó thác vào một mình Thiên Chúa mà thôi. Chỉ lúc ấy, một tương lai huy hoàng mới mở ra cho ông và dòng dõi ông: Chúa Cứu Thế sẽ xuất thân từ miêu duệ ông và Áp-ram được gọi là Cha các kẻ tin!

Chính Thiên Chúa Cha đã long trọng công bố từ đám mây về Chúa Giê-su: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”

* Là Đức Giê-su Na-da-rét, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã tỏ cho ba môn đệ thân tín nhất là Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê, thấy “dung nhan chói lọi như mặt trời” của Người. Người còn cho ba ông được chứng kiến sự xuất hiện của ông Mô-sê và ông Ê-li-a là hai nhân vật tượng trưng cho lề luật và ngôn sứ của cựu ước. Có nghĩa là cả cựu ước quy chiếu và dẫn đến Đức Giê-su.

3.2 Sứ điệp hay giáo huấn của lời Chúa (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?)

Qua ba bài sách thánh hôm nay, giáo huấn hay sứ điệp của lời Chúa gồm hai phần:

* Phần thứ nhất là chúng ta được Thiên Chúa mời gọi hãy nhìn nhận Đức Giê-su là “Con yêu dấu của Cha, là đấng làm đẹp lòng Cha mọi đàng.” Là con yêu dấu của Cha có nghĩa là từ Cha mà ra “được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha” như trong kinh tin kính. Là đấng làm đẹp lòng Cha mọi đàng có nghĩa là mọi chọn lựa (nhất là chọn lựa trở nên nghèo), cũng như mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu đều làm vui lòng Chúa Cha.

* Phần thứ hai là chúng ta được Thiên Chúa mời gọi hãy vâng nghe lời Đức Giê-su, tức chẳng những lắng nghe và đón nhận những giáo huấn, chỉ thị, mạc khải của Đức Giê-su mà còn có nghĩa là chúng ta noi gương bắt chước người trong mọi chọn lựa (nhất là chọn lựa trở nên nghèo) của Người, cũng như trong mọi lời nói và việc làm của Người. Nói cách khác là chúng ta được mời gọi nên giống Đức Giê-su Ki-tô.

  1. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng quan phòng quyền năng và yêu thương đã chọn lựa Áp-ram làm tổ phụ dân người, làm cha kẻ tin, làm cội rễ của dòng dõi Đa-vít là dòng dõi  từ đó xuất hiện đấng Mê-si-a của muôn dân.

Sống với Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô, đấng đã làm hài lòng Chúa Cha mọi đàng, nhất là bằng con đường thập giá cứu chuộc chúng sinh và mạc khải tình yêu của cha.

Sống với Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần, đấng luôn hiện diện và tác thành trong kế hoạch quan phòng kỳ diệu của Chúa Cha cũng như trong lời nói và việc làm của Đức Giê-su Na-da-rét, Con Một Thiên Chúa.

4.2 Thực thi  ý Chúa hay giáo huấn của Chúa

 * là nhìn nhận thiên tính của Đức Giê-su Ki-tô: Người là Con Một Thiên Chúa và là Thiên Chúa.

* là năng đọc Thánh kinh, nhất là Phúc âm, để nghe chính lời của Người mà đem áp dụng vào cuộc sống vì “không biết Thánh kinh là không biết Chúa Ki-tô”.

* là noi gương bắt chước Đức Giê-su Kit-ô, là nên giống Người qua chọn lựa một nếp sống thanh bần, siêu thoát, bé nhỏ và vị tha như chính Chúa đã chọn.

(Xin mỗi người tự kiểm điểm xem mình đã thực thi những điều cốt yếu trên như thế nào?)

  1. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH 

5.1 “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các dân tộc trên thế giới, nhất là cho những người chưa nhận biết Chúa và lịch sử cứu độ của Người, để họ sớm nhận biết và gia nhập dân Thiên Chúa là con cháu Áp-ram, I-xa-ác và Gia-cóp.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

5.2 “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cách đặc biệt cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng y, Giám mục, Linh mục, Phó tế và Tu sĩ nam nữ để các ngài sống hy sinh, từ bỏ, vâng phục và tìm kiếm nước Thiên Chúa và các giá trị siêu nhiên cho mình và cho những người xung quanh.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

5.3 “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho giáo xứ chúng ta, để cộng đoàn này càng ngày càng đông và chất lượng, xứng danh là cộng đoàn được Thiên Chúa chúc phúc.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

5.4 “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người khao khát đời sống trọn lành, để họ kiên trì trong việc noi gương, bắt chước và nên giống Đức Giê-su Ki-tô là Con yêu dấu của Cha trên trời.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.

Sàigòn ngày 03/03/2017


[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]

 

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*