• Lòng Thương Xót Hàn Gắn Đổ Vỡ-Lm Jos  Tạ Duy Tuyền
  • video thánh vịnh đáp ca-ca đoàn Nauy
  • Tình yêu trọn  hảo-Gm Giuse Vũ Văn Thiên
  • Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa-Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
  • Tin là hồng ân-Lm Vũ Xuân Hạnh
  • Suy Niệm Chúa Nhật II PHỤC SINH 2017 Lm. Anthony Trung Thành
  • Chúa Là Đấng Xót Thương Xót-Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  • Hạnh ngộ- Am Trần Bình An
  • Con Đường Của Lòng Tin Là Con Đường Của Lòng Mến-Lm Giuse Nguyễn hữu An
  • Bí tích của lòng thương xót-Lm JB Nguyễn Minh Hùng
  • Chúa sống lại-ĐTC Phanxicô
  • Chúa Tình Thương-Mai Tá dịch
  • Chuyện phiệm 2 phục sinh-trần ngọc mười hai
  • Tại sao quan tâm Chúa Giêsu Phục Sinh ?-Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ từ ccci.com)
  • Thi ca cầu nguyện-Lm. Giuse Trần Việt Hùng
  • Ý nghĩa lòng thương xót-Lm Huy CRM

LÒNG THƯƠNG XÓT HÀN GẮN ĐỔ VỠ

Lm Jos  Tạ Duy Tuyền

Tuần 2 phục sinh – kính lòng thương xót Chúa .

Con người thường chẳng ai hoàn hảo. Ai cũng có những khuyết tật. Ai cũng có yếu đuối. Đó là lý do cuộc sống chung sẽ dễ khiến chúng ta làm tổn thương nhau. Không cần biết chúng ta đã yêu nhau nhiều như thế nào, cẩn thận và tử tế như thế nào, vẫn có lúc chúng ta sẽ làm tổn thương nhau. Dù vô ý nhưng cũng để lại những đau lòng cho tha nhân.

Vậy làm sao chữa lành vết thương mà ta đã gây nên cho nhau? Làm sao hàn gắn những đổ vỡ do yếu đuối chúng ta đã làm tổn thương nhau?

Có một chuyện xưa kể rằng: Một vì vua kia thích sưu tầm ngọc quí đủ màu sắc, đủ kích cỡ, đến từ khắp nơi trên thế giới. Trong số đó, có một viên ngọc to như quả trứng. Mỗi khi đưa ra ánh sáng, nó phản chiếu đủ màu sắc sặc sỡ làm nhà vua rất say mê.

Nhưng một hôm, trong lúc hãnh diện khoe cùng các vị khách quí, nhà vua đã nhận ra viên ngọc có một kẽ nứt. Ông vô cùng tiếc xót, buồn bã. Từ hôm ấy, Ngài truyền cho khắp nhân gian ai sửa được viên ngọc đó y như trước sẽ được trọng thưởng. Các thợ đá quí lành nghề ra vào hoàng cung tấp nập nhưng đều lắc đầu chịu thua.

Ngày kia, có người vào yết kiến và xin vua cứ để cho mình sửa chữa tùy ý. Đang lúc tuyệt vọng, nhà vua đồng ý, vì đàng nào viên ngọc cũng mất giá trị rồi.

Anh thợ đá quí đem viên ngọc về, ngày đêm dùng những đồ nghề tinh xảo để sửa chữa viên ngọc. Chẳng bao lâu, anh đem viên ngọc dâng lên đức vua. Nhà vua vô cùng kinh ngạc vì trên viên ngọc điểm một bông hồng rất xinh đẹp, được trạm trổ một cách công phu, mà cánh hoa xinh tươi chính là dấu nứt của viên ngọc trước kia. Cánh hoa hồng xinh đẹp đã làm tăng giá trị của viên ngọc lên gấp bội, khiến mọi người đều trầm trồ khen ngợi.

Cuộc sống chung nhiều va đập sẽ để lại trong quan hệ giữa người với người biết bao vết thương. Vì:

+ Mỗi một tội lỗi trong đời sống chúng ta là một vết nứt xé nát linh hồn ta và gây nên đau khổ cho tha nhân.

+ Mỗi một lần thiếu chung thủy vợ chồng là một vết nứt trong tình yêu sẽ để lại nỗi đau của thiếu khoan dung với nhau.

+ Mỗi một tranh chấp, cãi cọ giữa láng giềng, bạn bè là một vết nứt trong tình bằng hữu xóm làng.

Đừng bi quan về những va đập mà hãy cùng nhau khắc phục cho tốt hơn, đẹp hơn. Chuyện đã tới có oán trách, giận dỗi nhau cũng chỉ khoét thêm nỗi đau cho nhau. Nhưng nếu chúng ta biết lợi dụng nó thì những vết nứt kia sẽ là khởi điểm cho một cuộc sống mới tươi đẹp hơn, khi mình biết khéo léo và kiên nhẫn sửa chữa nhau.

Lời Chúa tuần thứ hai Phục Sinh cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng minh nhiên và cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban ân sủng của lòng thương xót để các ông được bình an. Chính Lòng thương xót Chúa đã chữa lành vết thương nơi tâm hồn yếu đuối của các môn đệ. Nhờ đó mà lòng các tông đồ tràn đầy hân hoan để chuộc lại lỗi lầm bằng việc loan báo tình thương của Chúa đến tận cùng trái đất.

Hôm nay lễ kính Lòng Thương Xót Chúa là dịp để chúng ta nhìn vào tình thương Chúa có thể chữa lành mọi sự. Dù linh hồn ta có tội lỗi, Chúa vẫn bao dung vì “tình thương Chúa phủ lấp muôn vàn tội lỗi”, và vì  “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).

Ước gì chúng ta luôn đủ tin tưởng vào Lòng Thương Xót của Chúa để khiêm tốn chạy đến đón nhận ân sủng đầy tình thương của Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta cũng trở nên tông đồ của lòng thương xót khi biết dùng tình thương để xóa bỏ hận thù, dùng lòng khoan dung để nối lại tình người và cùng xây dựng một thế giới tràn đầy tình thương hiệp nhất và bình an. Amen

CHÚA NHẬT 2A MÙA PHỤC SINH

Kính gởi quý vị – đặc biệt là quý ca trưởng

Lời dẫn và Đáp ca bằng Video

CN2a Mùa Phục Sinh:

https://www.youtube.com/watch?v=-kgefSE8t0Y&t=39s

Và bài Thánh ca của LM La Thập Tự

Rất quý mến

Tamlinhvaodoi

TÌNH YÊU TRỌN HẢO

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Với kinh Vinh Danh được long trọng xướng lên trong thánh lễ chiều nay, chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Tam nhật thánh.  Khởi đi từ căn nhà nay được gọi là “Nhà tiệc ly”, Chúa Giêsu bắt đầu bước vào cuộc khổ nạn.

Bức tranh do danh họa Leonardo Da Vinci, người Italia, mang tựa đề “Tiệc Ly” hay “Bữa tối cuối cùng – Last supper” là bức tranh sơn tường đầu tiên được khởi vẽ năm 1495 và hoàn thành năm 1498, trên bức tường của một phòng ăn tập thể ở Nữ tu viện Santa Maria delle Grazie, Milan, Ý.  Đây là một tác phẩm bất hủ đã góp phần đem lại danh tiếng cho nhà họa sĩ.  Các tông đồ được chia làm bốn nhóm, mỗi nhóm ba người.  Mỗi vị tông đồ đều được diễn tả trong tâm trạng ngỡ ngàng đến mức thất kinh, hoảng sợ.  Họ vừa nghe Chúa nói: “Có một kẻ trong anh em sẽ nộp Thày ”(Ga 13,22).  Riêng Giuđa, kẻ bán thày, thì vẫn thản nhiên.  Sự lạnh lùng được thể hiện rõ trên khuôn mặt.  Không những thế, họa sĩ còn thể hiện khuôn mặt Giuđa với màu sậm.  Phải chăng, ông muốn diễn tả, sự giảo quyệt gian dối hiện rõ cả nơi khuôn mặt của người tông đồ phản bội?

Trong bối cảnh đó, Đức Giêsu được diễn tả như một người bình thản.  Người điềm tĩnh giữa phong ba, như Người vẫn điềm tĩnh khi thuyền gặp bão trên biển hồ, khi phải đối diện với Philatô, với Hêrôđê, với những người biệt phái và dân chúng bị kích động đang căm ghét Chúa.

Chính trong bối cảnh này, Chúa Giêsu hiến mình làm của ăn của uống cho các môn đệ, và qua các môn đệ, Chúa Giêsu nuôi dưỡng ngàn thế hệ mai sau.  Người ta thường trao quà tặng trong lúc vui vẻ hạnh phúc và cho những người trung thành có công trạng.  Chúa Giêsu trao ban chính mình trong một bữa ăn mà mọi người tham dự đều có tâm trạng hoảng loạn và có người phản bội.  Chúa trao ban thân mình để bày tỏ tình yêu thương và giúp họ can đảm đón nhận mầu nhiệm thập giá gần kề.

Ngày hôm nay, hai mươi thế kỷ sau biến cố Tiệc ly, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trao ban thân mình cho nhân loại.  Mỗi khi linh mục dâng lễ, qua lời truyền phép, bánh trở nên Mình Chúa, rượu trở nên Máu Chúa.  Bức tranh “Tiệc ly” cũng vẫn đang thể hiện cuộc đời này.  Trước lời mời gọi đến đón nhận Mình Thánh Chúa Giêsu, có nhiều người nhiệt thành sốt sắng, nhưng cũng có những kẻ dửng dưng lạnh lùng, thậm chí có người lại lộng ngôn phạm thượng.  Tại “Bàn-tiệc-cuộc-đời” này, tôi mang khuôn mặt nào trong số các tông đồ?  Trong “cõi người ta” đầy bon chen bận rộn, Thánh Thể vẫn hiện diện, âm thầm và sâu lắng, như bằng chứng của một tình yêu tự hiến, yêu cho đến cùng, yêu hết mọi người dù gặp nhiều phản bội dối gian.

Thánh Thể là Bí tích của tình yêu thương.  Ai đón nhận bí tích này đều được mời gọi thực hành đức bác ái.  Người tín hữu không có đức bác ái sẽ đi ngược với ý nghĩa của bí tích này.  Trong khi các tông đồ hoảng loạn thất kinh, Chúa Giêsu đã làm một việc không ai ngờ tới: Người bưng chậu nước đi rửa chân cho từng người trong họ, kể cả chân Giuđa, người tông đồ phản bội.  Chúa không chỉ rửa chân cho những người luôn ở bên cạnh Chúa như Phêrô, Gioan và Giacôbê mà bỏ rơi những tông đồ khác.  Đó là cách hành xử của con người theo kiểu sòng phẳng có trao có nhận.  Chúa bao dung và nhân hậu với hết mọi người.  Cử chỉ rửa chân được chính Chúa lý giải liền sau đó: “Nếu Thày là Chúa, là Thày, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.  Thày đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thày đã làm cho anh em” (Ga 13,14-15).  Như thế là đã rõ, cử chỉ của Chúa Giêsu vừa là nghĩa cử khiêm nhường yêu thương, vừa là một bài học nêu gương và một lệnh truyền cho các tông đồ hãy bắt chước người.

Hãy thinh lặng âm thầm cầu nguyện bên Thánh Thể để học sống yêu thương và hy sinh cho người khác.  Chúa Giêsu hiến thân vì con người, nhưng con người lại quá so đo tính toán khi hiến thân cho Chúa.  Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Sứ điệp Mùa Chay năm 2015, đã nói đến sự dửng dưng vô cảm của con người đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại.  Thiên Chúa không bao giờ dửng dưng trước nỗi đau của con người.  Chúng ta hãy học nơi Thánh Thể tình yêu thương và sự hy sinh, phục vụ vì hạnh phúc của những người xung quanh.

Sống màu nhiệm Thánh Thể không dừng lại ở việc rước Mình Thánh Chúa, mà còn được thể hiện qua những nghĩa cử yêu thương, tha thứ, hài hòa trong cách đối xử với tha nhân.  Đó là tình yêu trọn hảo và là lời mời gọi của thánh lễ chiều thứ Năm Tuần thánh.

CÁC MÔN ĐỆ VUI MỪNG VÌ ĐƯỢC THẤY CHÚA

Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

CHÚA NHẬT II PHỤC SINH

Chủ Ðề: “Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa”

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Các môn đệ đang sợ hãi giam mình trong phòng kín, nhưng khi gặp thấy Chúa Giêsu phục sinh thì các ông vui mừng. Chúa Giêsu phục sinh cũng đang ở giữa chúng ta. Vậy chúng ta hãy vui mừng cùng Ngài dâng lễ tạ ơn lên Thiên Chúa là Cha toàn năng của chúng ta.

II. Gợi ý sám hối

-Chúa Giêsu phục sinh là bảo đảm cho chiến thắng của sự thiện trên sự ác. Nhưng chúng ta chưa xác tín điều ấy nên chưa tích cực chiến đấu chống lại sự ác.

-Chúa Giêsu phục sinh luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Nhưng chúng ta thường quên điều đó nên sống và làm việc như không có Ngài bên cạnh.

-Chúa Giêsu phục sinh là nguồn gốc và nền tảng của vui mừng và bình an. Nhưng chúng ta thường để mình bị giao động bởi những buồn phiền lo lắng thế tục.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Cv 5,12-16)

Trích đoạn này từ sách Công vụ cho thấy hai tác động lớn của việc Chúa Giêsu phục sinh trên các tông đồ: (1) Chúa đã thông ban cho các ngài quyền năng đến nỗi có thể làm nhiều phép lạ; (2) Chúa làm cho uy tín các ngài tăng cao trước các tín hữu và cả những người lương.

2. Tin Mừng (Ga 20,19-31)

Hai lần hiện ra cách nhau 8 ngày này nhằm những mục tiêu sau:

-Chúa Giêsu nâng đức tin của các một đệ lên một bậc: từ mức độ thấp là tin dựa vào bằng chứng mà giác quan kiểm nghiệm được (câu 20 “Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài”; câu 25, Tôma đòi điều kiện “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài…) lên mức độ cao là tin chỉ vì nghe bởi vì mình đã an tâm về uy tín của người nói cho mình nghe (câu 29: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”)

-Chúa Giêsu ban bình an cho các môn đệ để rồi các ông lại ban bình an cho người khác qua việc tha tội. Sự bình an này là hoa trái của Thánh Thần, và đặt nền tảng trên việc tin vào Chúa Giêsu phục sinh.

3. Bài đọc II (Kh 1,9-13.17-19)

Thị kiến đầu tiên trong sách Khải huyền:

-Hoàn cảnh của người được thấy thị kiến: Thánh Gioan Tông đồ đang sống trong cảnh gian truân vì bị bắt bớ: “Tôi cùng chia xẻ nỗi gian truân… cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Chúa Giêsu. Lúc ấy tôi đang ở đảo gọi là Pátmô vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Chúa Giêsu”.

-Thị kiến nhằm an ủi và khích lệ kẻ đang bị bắt bớ: “Đừng sợ… Ta là Đấng hằng sống. Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ”

IV. Gợi ý giảng

1. Đấng chữa lành vẫn còn mang thương tích

Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu phục sinh vẫn còn mang những thương tích của cuộc thụ nạn. Điều này có ý nghĩa gì? Câu chuyện sau đây có thể cung cấp vài tiêu điểm giúp chúng ta tìm hiểu.

Chuyện kể về một góa phụ lao động ở thành phố New York. Trong khoảng thời gian 6 năm, bà đã chứng kiến cảnh 3 đứa con của mình bị bắn chết, đứa nhỏ nhất bị bắn ngay trước cửa nhà bà. Những cảnh ấy đã để lại một vết thương sâu đậm trong lòng bà, và vết thương ấy cứ như sống lại làm bà nhức nhối mỗi lần bà nghe tin có một ai đó bị giết chết. Tuy nhiên bà không để mình bị trói buộc trong nỗi sợ hãi. Trái lại bà tìm cách đến với người khác. Bà đi diễn thuyết khắp nơi và trở thành một nhà hùng biện tranh đấu cho việc kiểm soát vũ khí. Bà lập một hiệp hội gồm những phụ nữ cùng hoàn cảnh với Bà. Mỗi khi có một đứa con bị giết chết, bà đến thăm và an ủi cha mẹ chúng. Bà cho biết ban đầu bà ước sao cho những đứa trẻ vô tội ấy đừng sinh ra còn hơn. Nhưng bây giờ thì bà nói: “Hẳn nhiên trong cái chết của chúng có một nỗi buồn phiền, thế nhưng cũng có một niềm vui không thể tin được. Nếu tôi đã không có 3 đứa con bị giết thì tôi đã không là một con người như hôm nay. Chúng giúp tôi mạnh mẽ, chúng giúp tôi sống không ích kỷ”. Khung cửa nhà bà vẫn còn lại những vết đạn đã bắn chết đứa con út của bà. Tuy nhiên bà không cho sửa lại khung cửa ấy. Tại sao? Bà nói “Tôi muốn những lỗ đạn ấy còn mãi ở đấy để nhắc cho mọi người nhớ là có người đã bị giết chết ngay chỗ ấy. Nếu sửa lại thì người ta sẽ quên”.

“Khi sửa lại thì người ta sẽ quên”. Có lẽ đó là lý do tại sao Chúa Giêsu phục sinh vẫn giữ lại những vết thương của cuộc chịu nạn. Trước hết, những vết thương ấy giúp các môn đệ nhận ra Ngài: Đấng hôm nay chiến thắng sự dữ vẫn là một với Đấng hôm trước đã chịu nạn chịu chết để nhờ đó Thiên Chúa chiến thắng cái chết. Thứ hai, những vết thương ấy là bằng chứng tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu không chỉ nói suông về tình yêu, Ngài đã chịu đau khổ để làm chứng cho tình yêu. Đó là những thương tích mà Người mục tử chịu đựng để bảo vệ đàn chiên yêu quý của mình.

Chúa Giêsu không dấu những thương tích. Ngài cho Tôma thấy và mời ông chạm vào. Khi Tôma chạm vào đấy, nỗi hoài nghi của ông tan biến và đức tin của ông sống lại.

Những thương tích thánh thiện của Chúa Giêsu là nguồn an ủi, nguồn can đảm và nguồn hy vọng của chúng ta. Chúng giúp ta chịu đựng đến cùng những thương tích của chúng ta. Chúng bảo ta đừng sống ích kỷ. Nhờ những thương tích của Ngài, chúng ta được chữa lành khỏi chứng bệnh tự thương xót mình và mặc cảm là nạn nhân.

Người ta có khuynh hướng che giấu những thương tích vì nghĩ rằng người khác mà thấy được sự yếu ớt của mình thì sẽ không còn kính trọng mình. Tuy nhiên những kẻ dám cho người khác biết những cuộc chiến đấu của mình thì sẽ là một nguồn an ủi cho người khác. (FM)

2. Tần số tình yêu

Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha: – Ba ơi! Cái tháp đó để làm gì vậy?

Người cha giải thích: – Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng. – Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu! – Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây!

***

Chiều Phục Sinh đầu tiên, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích danh ông: “Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).

Tại sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm xếp gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng Thầy đã phục sinh mà ông lại không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gioan và Tôma chính là chiếc máy thu thanh của Tôma không mở đúng tần số. Đó là tần số tình yêu, tần số của con tim. Tôma đòi phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy ông mới tin; còn Gioan, không cần thấy Thầy bằng con mắt thịt nhưng bằng con mắt đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gioan chạy đến mộ Thầy nhanh hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên bờ biển Galilê, chính tình yêu đã làm cho ông trở nên “người môn đệ Chúa Giêsu thương mến” (Ga 21,7).

Tại sao Phêrô và Gioan đều thấy ngôi mộ trống và khăn liệm, mà Phêrô thì “rất đỗi ngạc nhiên” còn Gioan thì “ông đã thấy và ông đã tin”? (Ga 20,8). Vì thế, Phêrô phải cố gắng vượt qua những dấu chỉ khả giác để đến với niềm tin, và Tôma cũng phải vượt qua cái nhìn của giác quan để đến với cái thấy của đức tin. Nhưng Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Đó cũng chính là phần thưởng của đức tin.

Sở dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu chỉ của sự phục sinh, là vì ông đã nhớ lại lời Kinh Thánh: “Ngày thứ ba, (Người) sẽ cho chúng ta chỗi dậy” (Hs 6,2) và phép lạ “ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm” (Ga 2,1). Vâng, chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.

Niềm tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của chúng ta hôm nay không phải là một niềm tin mơ hồ, mà là một niềm xác tín vào lời chứng chắc chắn của các Tông đồ qua Kinh Thánh. Trong bài giảng đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần; Phêrô đứng chung vớt mười một Tông đồ lớn tiếng tuyên bố rằng: “Chính Chúa Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại, về điều nầy, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh của Chúa Giêsu đã bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Nếu Đức Ki tô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình” (1Cr 15,17).

***

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu nhiều hơn nữa, để chúng con tin Chúa mãnh liệt hơn.

Xin dạy chúng con biết siêng năng suy niệm Lời Chúa, để Lời Chúa mãi là đèn soi cho chúng con bước, là ánh sáng chỉ đường chúng con đi. Amen. (TP)

3. Bình an

Sau khi sống lại, mỗi lần hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu đều chào các ông “Bình an cho các con”. Đây là lời chào thông thường của người Do thái “Shalom”. Giáo hội cũng bắt chước lối chào đó, trong Thánh lễ, Chủ tế chào giáo dân “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”, và giáo dân chào lại “Và ở cùng Cha”, nghĩa là “Và cũng xin bình an của Chúa hằng ở cùng Cha”. Xét ra lời chào này hơi lạ so với những kiểu chào mà chúng ta quen biết, nhưng có ý nghĩa nhiều hơn. Quả thực. Bình an là điều quý nhất mà chúng ta cần có và cũng là điều tốt nhất mà chúng ta cầu chúc cho nhau. Nhưng bình an là gì mà quý như vậy? và làm thế nào để có được bình an? Đó là điều mà chúng ta sẽ đưa vào bài Tin Mừng hôm nay để tìm hiểu.

Khi ấy các môn đệ đang sợ: Thầy đã bị bắt và bị giết chết rồi. Rất có thể tới phiên các ông cũng sẽ bị bắt và bị giết như vậy. Cho nên họ sợ, và họ trốn trong nhà đóng kín cửa lại. Rồi Chúa Giêsu hiện đến ở với họ, trò chuyện với họ, cho họ xem các vết thương, ăn uống với họ, khích lệ họ… Thế là họ không còn sợ nữa. Họ được bình an. Nhưng do đâu mà họ được bình an? Có phải là vì nguy hiểm đã qua đi rồi chăng? Thưa không, nguy hiểm vẫn còn đó, kẻ thù vẫn còn vẫn đang tìm cách hãm hại các ông. Nhưng nay họ không sợ nữa là vì họ biết đã có Chúa ở bên cạnh họ. Có Chúa bên cạnh thì mọi nguy hiểm không còn làm họ nao núng nữa. Thực ra họ chưa hoàn toàn bình an đâu. Sau khi Chúa Giêsu biến đi thì họ lại sợ, lại đóng cửa trốn. Có lần họ cũng đánh bạo cùng nhau đi đánh cá. Nhưng mới thấy có một cái bóng đen tiến đến là họ lại sợ, họ tưởng là ma. Và khi biết đó là Chúa thì họ lại hết sợ. Mãi tới khi Chúa Giêsu nói với họ trước khi về trời rằng: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”, thì họ mới hết sợ hoàn toàn, họ mới hoàn toàn được bình an. Kể từ đó trở đi, các môn đệ mạnh dạn ra đi rao giảng. Người ta bắt, họ cũng không sợ, người ta tra tấn, họ không sợ mà còn vui mừng vì được chịu khổ vì Thầy; người ta xử tử, họ vẫn bình an vui sướng vì được giống như Thầy.

Như vậy, Bình an tức là một sức mạnh, một nơi nương tựa, một nguồn an ủi khiến ta không nao núng sợ sệt dù phải đứng trước bất cứ gian truân nguy hiểm nào. Bình an ấy có được khi ta ý thức có Chúa vẫn ở bên cạnh mình.

Giống như một em bé. Em đang chơi vui vẻ thì trời đổ mưa lớn. Sấm chớp ầm ầm, em hoảng sợ khóc thật lâu. Nhưng mẹ em đã đến, bế em vào lòng, em cuộn mình trong lòng mẹ và ngủ thiếp đi. Sau đó dù mưa vẫn cứ rơi, sấm chớp vẫn cứ ầm ầm, nhưng em vẫn ngủ yên vì em đang ở trong vòng tay che chở của mẹ. Đó là một hình ảnh rất đẹp giúp ta hiểu thế nào là sự bình an.

Phần chúng ta, nếu chúng ta luôn ý thức có Chúa ở bên cạnh mình, và ta luôn nương tựa vào Chúa như em bé nương tựa vào mẹ nó thì chúng ta cũng sẽ luôn được bình an.

Có một gia đình nọ, nhà nghèo, lao động thật là vất vả, tính toán làm ăn rất là lo âu. Nhưng chiều về, vợ chồng con cái đều quây quần trước bàn thờ gia đình và cùng đọc kinh tối chung. Họ dâng lên Chúa những lao nhọc trong ngày, họ xin Chúa thứ tha những vấp váp lỗi lầm đã phạm, họ phó dâng cuộc sống cùng tất cả mọi âu lo cho Chúa. Sau đó họ lên giường ngủ. Bình an! Biết bao gia đình khác cũng lao động vất vả như họ, cũng lo âu toan tính như họ, nhưng các gia đình đó không có được một giấc ngủ bình an. Chỗ khác nhau là một bên có Chúa và biết sống với Chúa, còn một bên thì không.

Hay như một cụ già kia đang hấp hối, cái chết gần kề mà vẫn bình thản sẵn sàng buông tay nhắm mắt ra đi không hề sợ sệt, vì cụ già ấy biết rằng mình ra đi là ra đi trong tay Chúa. Trong khi có biết bao nhiêu người khác đối diện với cái chết mà lòng hoang mang sợ hãi, họ sợ không dám ra đi, vì họ không biết đi về đâu, họ không có Chúa cùng đi với họ.

Kinh nghiệm mà các môn đệ đã trải qua là một bài học quý giá cho chúng ta. Sau khi Chúa Giêsu bị quân thù bắt giết đi, các ông đã sợ hãi trốn kín trong phòng đóng cửa lại, sợ vì cảm thấy cô thế không có Thầy nâng đỡ. Nhiều lần chúng ta gặp cảnh túng thiếu, gian truân, hiểm nguy, chúng ta cũng sợ hãi như thế, chúng ta muốn rút lui trốn tránh, chúng ta muốn ngã lòng, là vì chúng ta không có Chúa ở với mình. Nhưng khi các môn đệ đã biết có Chúa ở bên cạnh họ, cho dù Chúa chỉ hiện diện một cách vô hình sau khi Chúa đã về trời, các ông không còn sợ nữa mà lòng luôn bình an dù phải đối diện với bất cứ hiểm nguy nào. Thì chúng ta cũng thế: Chúa hằng ở bên cạnh chúng ta nếu chúng ta ý thức được điều đó, nếu chúng ta biết tin yêu phó thác vào Chúa và làm việc gì chúng ta cũng nghĩ là có Chúa cùng làm với chúng ta thì chúng ta cũng sẽ luôn được bình an.

Nguyện chúc bình an của Chúa hằng ở cùng chúng ta luôn mãi. Amen.

4. Bài học từ Tôma

Thật là sai lầm khi tưởng rằng tin là chuyện dễ dàng đối với những kẻ may mắn được thấy Chúa Giêsu hơn là đối với chúng ta ngày nay. Tin Mừng đã cho thấy có nhiều người đã được thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn không tin. Vậy “thấy” không nhất thiết sẽ dẫn tới “tin”. Muốn tin thì phải có một quyết định.

Thực thế, các sách Tin Mừng đã kể rằng ngay cả các tông đồ mà cũng gặp khó khăn trong việc tin. Tôma không phải là người duy nhất đã hồ nghi về việc Chúa Giêsu sống lại, mọi tông đồ khác cũng thế. Tin Mừng Thánh Mác cô kể rằng khi Chúa Giêsu hiện ra với họ vào buổi chiều ngày phục sinh thì Ngài đã “trách họ vì sự không tin và cứng lòng bởi họ đã không tin theo lời của những người đã từng thấy Ngài sau khi Ngài sống lại” (Mc 16,14)

Chúng ta có thể thông cảm với các tông đồ. Việc Chúa Giêsu bị đóng đinh quả là một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt họ. Họ đã đầu tư rất nhiều vào Ngài. Họ đã bỏ nghề nghiệp và bỏ hết mọi sự để theo Ngài. Rồi bỗng nhiên Ngài bị giết chết. Thực tế về cái chết của Ngài càng rõ ràng bao nhiêu thì họ càng cảm thấy mất mát bấy nhiêu. Giá trị và ý nghĩa của mọi thứ đều bị đe dọa: tình thân với Ngài, niềm tin vào Ngài, và cả cuộc đời của họ nữa.

Đang lúc đó thì một chuyện không thể tin được xảy ra: đột nhiên họ nhìn thấy Ngài đang đứng ở giữa họ. Việc đầu tiên Ngài làm là chỉ cho họ thấy các vết thương của Ngài. Tại sao Ngài làm thế? Thứ nhất là vì những vết thương ấy giúp họ nhận dạng được Ngài, xác định Ngài vẫn là người trước đó đã bị đóng đinh. Thứ hai là những thương ấy là bằng chứng rằng Ngài yêu thương họ, một tình yêu chứng tỏ bằng hành động. Kế đó Chúa Giêsu mời họ hãy xem và hãy sờ vào những vết thương ấy.

Thái độ của Tôma rất đáng làm gương cho chúng ta. Đó là một thái độ thẳng thắn vì không dấu diếm nỗi hồ nghi của mình. Hồ nghi thường là dấu chỉ của sự yếu kém. Khi chúng ta hồ nghi ai thì đồng thời chúng ta cảm thấy như mình có lỗi với người ấy. Tuy nhiên hồ nghi cũng có thể là một bước khởi đầu tốt, dẫn tới một sự hiểu rõ hơn và sâu hơn. Đây là trường hợp của Tôma: nhờ hồ nghi nên sau đó Tôma đã đạt tới một lời tuyên xưng đức tin cao nhất trong sách Tin Mừng “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”.

Ở thế gian này, chẳng có gì là tuyệt đối chắc chắn về những sự thiêng liêng, vì nếu có thì đâu cần tới đức tin nữa. Những sự tuyệt đối chắc chắn có thể dẫn tới thái độ ngạo mạn, bất khoan dung và ngu xuẩn. “Người có đức tin mà không bao giờ cảm thấy hồ nghi thì thực ra không phải là người có đức tin” (Thomas Merton)

Mỗi cộng đoàn đều cần có một con người như Tôma, tức là con người dám đặt ra những câu hỏi mà không ái khác dám đặt ra. Người như thế là người đáng tin, người như thế còn giúp những khác trở thành những kẻ đáng tin, bởi vì người như thế giúp cho những người đang tin nhận ra đức tin của họ còn yếu kém lắm, và đồng thời cũng làm cho những kẻ hồ nghi cảm nhận được nỗi ray rứt khi không có niềm tin.

Sau khi vượt qua cơn khủng hoảng đức tin, Tôma đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Giêsu và trở thành một trong những vị thừa sai vĩ đại nhất của Giáo Hội sơ khai. Theo thánh truyền, ngài đã mang Tin Mừng đến các xứ Ba Tư, Syria và Ấn Độ, nơi ngài chịu tử đạo. Tôma là vị tông đồ đầu tiên chết vì đức tin.

Chúa Giêsu mời chúng ta đến gần Ngài trong đức tin và chạm vào các vết thương của Ngài. Mặc dù chúng ta không thể chạm tới Ngài một cách thể lý, nhưng chúng ta có thể đến gần Ngài một cách thiêng liêng. Chúa Giêsu cũng mời chúng ta làm chứng cho Ngài trước mặt những người khác. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho Chúa Giêsu trở thành hữu hình trong thế giới hôm nay. Đó cũng là nhiệm vụ của các tông đồ ngày xưa. Ngày xưa khi các tông đồ đã nhìn thấy Chúa rồi thì các ông cảm thấy được thúc đẩy phải làm cho nhiều người khác cũng biết và tin vào Ngài.

Thế giới hôm nay đầy dẫy những hoài nghi và những người không tin. Cách duy nhất khiến họ tin là làm sao cho họ “thấy” được Ngài, “chạm” được Ngài nơi những môn đệ của Ngài. Thế nhưng, nếu các môn đệ của Chúa Giêsu không có những vết thương để chỉ cho người ta thấy và cho người ta chạm vào thì làm sao mà người ta tin được!

Ước gì chúng ta được ở trong số những người được Chúa Giêsu công khai chúc phúc “Phúc cho những ai tuy không thấy mà vẫn tin” (FM)

5. Khủng hoảng đức tin

Khủng hoảng đức tin là chuyện thường gặp. Tôma đã gặp, và Tolstoy cũng đã gặp, như câu chuyện sau đây:

Năm 1879, Tolstoy 51 tuổi. Khi đó ông có đầy đủ mọi lý do để thỏa mãn về đời mình. Ông đã viết nhiều tác phẩm, đặc biệt hai bộ “Chiến tranh và Hòa bình”, và “Anna Kerenina”. Những tác phẩm ấy đã khiến ông nổi tiếng và bảo đảm cho ông một vị trí nổi bật trong lịch sử văn chương thế giới. Ai cũng công nhận ông là người có thiên tài và đầy óc sáng tạo. Lẽ ra Tolstoy phải rất hạnh phúc. Thế nhưng ông lại cảm thấy bất hạnh. Ông thấy đời mình thật vô nghĩa lý. Một câu hỏi luôn ám ảnh ông: “Liệu trong dời mình có cái gì có ý nghĩa mà không bị sự chết hủy diệt đi không?”. Khoảng thời gian ấy thật khủng khiếp đối với Tolstoy, đến nỗi ông đã tính đến việc tự tử. Ông đi tìm câu trả lời trong mọi lãnh vực kiến thức loài người. Ông tìm kiếm suốt ngày suốt đêm, giống như một người sắp chết đi tìm đường sống. Nhưng tìm mãi mà ông chẳng gặp gì cả.

Thế rồi ông tìm nơi những niềm tin Kitô giáo. Thực ra ông đã được sinh ra và lớn lên trong đức tin Kitô giáo nhưng ông cũng đã bỏ nó từ lâu, lý do là ông thấy nó quá vô nghĩa trong môi miệng những người sống ngược hẳn với đức tin của họ. Tuy nhiên cũng chính đức tin ấy lại thu hút ông khi ông nhìn những tín hữu sống đức tin ấy. Ông viết: “Tôi đã nghĩ rằng chẳng có sự thật chắc chắn nào trong đời. Nhưng rồi tôi đã tìm thấy một nguồn sáng chắc chắn, ấy là Tin Mừng. Tôi đã loá mắt vì sự sáng ngời của Tin Mừng. Những lời dạy của Chúa Giêsu quả thực là một giáo huấn tinh tuyền nhất và trọn vẹn nhất cho đời sống. Từ 2000 năm nay, những lời dạy cao quý ấy đã tác động lên biết bao người một cách tuyệt vời không thể tìm được nơi bất cứ ở nào khác. Từ đó một ánh sáng đã bừng chiếu trong tôi và quanh tôi, và ánh sáng ấy không bao giờ rời xa tôi nữa”.

Có nhiều người được sinh ra trong đức tin, và trải qua bao năm tháng đức tin ấy vẫn cứ vững mạnh. Thật là một ơn ban vô cùng quý giá. Nhưng cũng có nhiều người mà đức tin luôn là một cuộc chiến đấu liên lỉ. Họ phải trải qua những cơn khủng hoảng đức tin rồi mới có được một đức tin sâu sắc và xác tín.

Nói cách lý thuyết, chỉ có đức tin mới trả lời được cho những câu hỏi sâu xa về cuộc đời. Nhưng trên thực tế, chúng ta không nên hy vọng rằng đức tin sẽ giải quyết hết mọi vấn đề của chúng ta. Không phải chỉ vì chúng ta tin mà chúng ta có được mọi câu trả lời. Tuy nhiên chúng ta đâu cần biết hết mọi câu trả lời, vì tin là tín nhiệm chứ không phải là chắc chắn.

Câu chuyện của văn hào Tolstoy giúp chúng ta nhận thức rằng đức tin được chứa đựng trong một chiếc bình dễ vỡ như thế nào. Nó cũng giúp ta hiểu thêm rằng đức tin kitô giáo chủ yếu không phải là tin vào một mớ giáo điều, mà là tin vào một Đấng đã yêu thương chúng ta – những thương tích của Ngài chứng tỏ điều đó. Hơn nữa, Thánh Kinh còn cho ta biết điều quan trọng không phải là niềm tin chúng ta đặt vào Thiên Chúa mà là niềm tin mà Thiên Chúa đặt vào chúng ta. (FM)

6. Chuyện minh họa

Có một vị hoàng đế kia trị vì một đất nước giàu có hùng mạnh. Nhưng tâm hồn ông không thoải mái an vui vì ông luôn bị ray rứt bởi những tội lỗi tàn bạo đã phạm trong thời quá khứ. Một hôm ông bỏ hoàng cung đi vào rừng, cất một túp lều đơn sơ. Trong rừng có một vị ẩn sĩ. Nhà vua tìm đến và nói: “Thưa Ngài, tôi muốn từ bỏ kinh thành ồn ào náo nhiệt vào đây để tìm được một sự bình an như Ngài đang hưởng”. Ẩn sĩ đáp: “Tâu đức vua, ở đây cũng không hơn gì nơi khác, vì bình an phải ở trong lòng người”. Nhà vua trở về lều mình. Khi thì quỳ gối tha thiết đọc kinh, khi thì thơ thẩn trong rừng, chỉ ăn lương khô và uống nước lã. Chiều đến nhà vua mệt lả ngả mình xuống đất có trả một mớ lá khô. Nhưng suốt đêm cứ trằn trọc không ngủ được. Sáng hôm sau ông tìm đến vị ẩn sĩ: “Thưa ngài, lương tâm tôi cắn rứt làm tôi không ngủ được. Xin ngài nghe lời thú tội của tôi”. Ẩn sĩ đáp: “Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội thôi”. Nhà vua cãi: “Nhưng tôi không nghe được tiếng Chúa”. Ẩn sĩ trả lời: “Tiếng Chúa chỉ nghe được trong thinh lặng, mà thinh lặng chỉ có ngay trong lòng ta. Người nào chỉ biết kêu cầu than rên rỉ mãi mà không biết thinh lặng lắng nghe thì sẽ không nghe được tiếng Chúa”. Nhà vua trở về. Vài hôm sau ông đến chào vị ẩn sĩ: “Tôi đã nghe lời ngài, tôi không kêu than rên rỉ nữa mà tập thinh lặng lắng nghe, và tôi đã được nghe tiếng Chúa. Nhưng đó không như tiếng loài người, tôi chỉ nhận thấy như một cảm xúc êm dịu là lỗi lầm của tôi đã được tha thứ. Xin cám ơn ngài, hôm nay tôi sẽ trở về triều đình”.

Vài năm sau nhà vua lại trở vào rừng, và cũng tìm đến vị ẩn sĩ: “Thưa ngài không bao giờ tôi quên được tâm trạng an bình khi sống trong rừng này. Hôm nay tôi muốn trở lại đây ít lâu để cầu xin Chúa cất bớt những gánh nặng mà hằng ngày tôi phải vác”. Ẩn sĩ đáp: “Tâu Bệ Hạ, khi chúng ta phàn nàn với Chúa về các gánh nặng của mình thì cách đáp ứng tốt nhất của Chúa là không phải cất những gánh nặng đó đi, nhưng là tăng cường đôi vai của ta để ta có thể vác nổi những gánh nặng đó”. Nhà vua thắc mắc: “Nhưng làm sao biết được Chúa đang tăng cường sức mạnh cho ta?” Ẩn sĩ: “Bao lâu ta còn dãy dụa chiến đấu thì ta chưa nhận biết được điều đó. Cần phải thinh lặng, ngưng chiến đấu mà chờ đợi sự trợ giúp của Chúa thì khi đó ta mới cảm thấy được bàn tay uy quyền của Chúa đang giúp sức cho ta”. Nhà vua cám ơn lui về. Vài ngày sau trở lại chào biệt vị ẩn sĩ: “Thưa ngài tôi đã cảm nghiệm rằng Đấng đã làm cho cỏ cây xanh tốt và nuôi nấng chim trời cũng đang dang tay tăng sức mạnh cho đôi vai tôi. Xin cám ơn ngài và chào ngài”.

Thế là nhà vua trở về triều đình. Mấy năm sau ông lâm trọng bệnh, sai người đi mời vị ẩn sĩ đến. Khi ẩn sĩ đến, nhà vua nói: “Thưa ngài đã hai lần ngài giúp tôi tìm thấy bình an. Bây giờ là lần thứ ba mà cũng là lần chót, vì tôi sắp từ giã cõi đời này”. Ẩn sĩ hỏi: “Bệ Hạ có còn nhớ cái ngày mà cơn khủng khiếp đầu tiên rời xa Bệ Hạ?” Vua đáp: “Không bao giờ tôi quên, đó là ngày tôi biết lắng nghe tiếng Chúa trong thâm tâm”. Ân sĩ hỏi tiếp: “Bệ hạ còn nhớ cái ngày mà cơn khủng khiếp thứ hai rời xa Bệ Hạ không?” Nhà vua đáp: “Cũng không bao giờ quên, đó là ngày tôi biết chờ đợi trong thinh lặng ơn Chúa đến tăng sức cho tôi”. Ẩn sĩ bây giờ cao giọng: “Tâu Bệ Hạ, Bệ Hạ đã được nghe tiếng Chúa, Bệ Hạ đã được thấy bàn tay Chúa tăng sức cho Bệ Hạ. Bây giờ Bệ Hạ sắp được chiêm ngưỡng Chúa”. Nhà vua sung sướng như đang mơ: “A, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Chúa. Nhưng làm sao được?” Ẩn sĩ giải thích: “Chỉ khi ở trong yên lặng tuyệt đối, khi cái nhìn của chúng ta không còn nhìn vào cõi đời đầy những sầu thương tang tóc, không còn ngó nhìn về những tương lai với những ước mơ hay sợ sệt, không còn ngó vào bên trong mình để ngắm chính cuộc đời mình, mà chỉ nhìn về hướng duy nhất là Chúa thôi, thì khi ấy chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng Chúa”. Nhà vua thì thầm: “Yên lặng tuyệt đối. Người ta có thể yên lặng tuyệt đối không?” Ẩn sĩ đáp: “Ở đời này thì không. Nhưng trong sự chết thì được”. Nhà vua sung sướng thì thầm: “Thế thì tôi muốn chết”. Và ông sai sứ giả đi khắp nơi trong nước ra lệnh cho thần dân đừng cầu nguyện cho ông khỏi chết nữa. Còn trong phòng của nhà vua thì cả ngày hôm đó rất yên tĩnh. Khi bình minh ló rạng thì nhà vua ra đi an bình. Cái nhìn của ông như chìm vào một cõi xa xăm, một nụ cười tươi sáng rạng ngời trên gương mặt của nhà vua. Ông đã chiếm hữu được sự an bình vĩnh cửu (Vị Ẩn sĩ)

7. Thơ Tagore

“Vào hôm thần chết đến gõ cửa, anh sẽ lấy gì biếu hắn hở anh?

Ồ, tôi sẽ đặt trước mặt khách cốc rượu đời mình tràn đầy, tôi sẽ chẳng chịu để khách ra đi tay không.

Lúc năm tháng đời tôi khép lại, khi thần chết đến gõ cửa mời đi, tôi sẽ đặt trước hắn tất cả trái nho thơm dịu của những ngày mùa thu, những đêm mùa hè, những gì kiếm được, những gì chắt chiu trong suốt cuộc đời cực nhọc.

Ôi thần chết, ngươi làm cuộc đời tràn đầy lần cuối. Thần chết của ta ơi, hãy lại và thì thầm cùng ta chứ (…)

Tôi biết ngày ấy thế nào cũng đến, lúc tôi nhắm mắt thôi không nhìn trái đất này, rồi cuộc đời sẽ thầm lặng ra đi, kéo manh che kín mắt tôi lần cuối (…)

Khi tôi nghĩ đến phút giây cuối cùng ấy (…) nhờ ánh sáng lâm chung tôi thấy thế giới Ngài trần trề châu ngọc. Ở đó, chỗ nương thân tầm thường nhất cũng thú vị, ở đó cuộc đời hèn mọn nhất cũng thơm tho (…)

Tôi đã được phép giã từ. Chúc tôi ra đi may mắn nhé, anh em! Tôi cúi đầu chào tất cả trước khi lên đường!”

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng ta hãy tôn vinh Người và dâng lời cầu xin:

  1. Chúa luôn hiện diện trong Hội thánh cho đến ngày tận thế / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các giám mục / linh mục / phó tế / biết luôn chu toàn sứ mạng dẫn dắt Dân Chúa trên con đường lữ thứ trần gian.
  2. Khát vọng sâu xa nhất của hết thảy mọi người trên trái đất này / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho thế giới được bình an / và mọi người thoát được cảnh đói nghèo.
  3. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa đem niềm hy vọng đến cho những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Người thương nâng đỡ những kẻ tật nguyền đau yếu / cho họ mau bình phục / để họ sống mạnh khỏe an vui.
  4. Lạy Chúa / Lạy Thiên Chúa của con / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / cũng biết noi gương thánh Tôma mà tuyên xưng niềm tin của mình / bằng đời sống mến Chúa yêu người.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, sau khi Phục sinh vinh hiển, Chúa đã hiện ra cho các tông đồ được thấy tỏ tường. Xin củng cố niềm tin còn quá yếu kém của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh Lễ

– Chúc bình an: Khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, Ngài đã chúc bình an cho họ. Giờ đây, trong niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh, chúng ta cũng hãy chúc cho nhau được bình an.

VII. Giải tán

Chúa Giêsu phục sinh đã mang lại bình an cho những kẻ tin Ngài. Chúc anh chị em ra về và luôn sống trong bình an của Chúa.

TIN LÀ HỒNG ÂN

Lm Vũ Xuân Hạnh

Chúa Nhật II Phục Sinh

Tin là hồng ân

Trước kia, khi mới dạy giáo lý dự tòng, cầm cuốn giáo lý là tôi dạy từ đầu đến cuối. Nhưng sau này, tôi lại làm ngược lại: dạy phần cuối cùng trước, rồi đi lên dần. Có nghĩa là tôi bắt đầu dạy các dự tòng cầu nguyện trước tiên, sau đó dạy về luân lý, cuối cùng mới là phần tín lý.

Vì sao tôi lại làm chuyện xem ra ngược đời như thế? Vì tôi nghĩ, một người mới bắt đầu theo Chúa, họ phải được gặp Chúa trước, để từ đó họ sống với anh em. Vì nghĩ như thế, tôi giúp họ cầu nguyện trước.

Tôi cũng từng “xé” ngang giáo để hướng dẫn đời sống phục vụ, mời gọi anh chị em của mình sống phụng vụ và bí tích…

Từ đời sống cầu nguyện bắt đầu chớm nở đó, tôi nói với họ về lòng Thiên Chúa yêu thương, về sự hiến thân của Đấng là Thiên Chúa làm người, lòng tha thứ Thiên Chúa dành cho con người…

Khi họ đã có thể hiểu một cách tương đối, tôi nói với họ về Điều răn của Chúa, về tám Mối phúc của Chúa Giêsu, về các điều răn Hội Thánh…

Sau khi đã bắt đầu hình thành một đời sống Kitô hữu như thế, tôi đưa họ vào các chân lý đức tin, qua việc giúp họ hiểu giáo lý, trong đó có niềm tin vào Chúa Phục sinh. Đó là những chân lý rất khó, sẽ càng khó đón nhận hơn, nếu không được chuẩn bị, ít là những điều cần thiết một cách cơ bản.

Tôi tin rằng, Thiên Chúa đã trợ lực cho tôi. Chính Người dùng miệng lưỡi của mình mà nói với dân của Người. và cũng chính ơn của Chúa đã đồng hành với anh chị em, để những gì xuất phát từ môi miệng tôi, anh chị em có thể hiểu được và tin.

Nói như thế để thấy rằng, chúng ta không phải là những kẻ dễ tin. Nhất là thời đại khoa học phát triển đến mức chóng mặt như hiện nay, người ta vịn vào khoa học để giải đáp mọi vấn đề, thì những chân lý đức tin, như vấn đề thân xác sống lại chẳng hạn, càng không dễ dàng chấp nhận.

Anh chị em dự tòng đi học giáo lý, chắc Thiên Chúa phải ban ơn cho họ, để họ tin. Vì một người đã lớn khôn, đã có sự hiểu biết, rất bình thường về năng lực lý trí, bây giờ được nói tới những chân lý đức tin xem ra khá xa xôi, vậy mà họ có thể chấp nhận. Ít là có thiện chí để chấp nhận. Tôi nghĩ, Thiên Chúa phải chuẩn bị cho họ nhiều lắm.

Hôm nay suy niệm Tin Mừng về việc Chúa Phục sinh hiện ra với tông đồ Tôma, tôi thấy cả tôi cũng được Chúa chuẩn bị bằng ơn thánh của người.

Cũng giống như sự chuẩn bị cho các dự tòng và tân tòng, hoặc cũng giống như bản thân thánh Tôma, Chúa đã chuẩn bị cho thánh nhân đón nhận đức tin cách hoàn hảo khi đáp ứng yêu cầu “được xỏ vào lổ đinh, được thọc tay vào cạnh sườn” của Chúa. Để qua cuộc khám phá diện đối diện với Chúa Phục sinh của thánh Tôma, Chúa Phục sinh ban cho tôi một bằng chứng xác thực. Đó là sự chuẩn bị đức tin, Người dành cho tôi, để bây giờ tôi tin Người .

Có người trách thánh Tôma là cứng lòng tin. nhưng riêng tôi, tôi thầm cám ơn thánh Tôma. Cám ơn, vì nơi thánh nhân, tôi thấy chính mình. Bởi không dễ dàng gì, một sớm một chiều tôi tin Chúa sống lại. Tôi cám ơn thánh Tôma do hai lý do:

Lý do thứ nhất: Để có được đức tin, chắc chắn tôi cũng sẽ đòi bằng chứng. Chúa Giêsu đã trả lời bằng một bằng chứng mạnh mẽ nhất: cho xem chính thân xác của Người. “Tôma, hãy xỏ ngón tay con vào lổ đinh trên tay Thầy, hãy thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy”.

Ngày xưa, với một bằng chứng xác thực, Chúa bảo đảm cho đức tin của thánh Tôma, ngày nay đó cũng là một bảo đảm cho chính đức tin của tôi. Vì Chúa của tôi đã sống lại thật. Người trả lời cho tôi không phải bằng lời, nhưng bằng thân xác Phục Sinh đích thật của Người.

Lý do thứ hai: Nhờ sự đòi hỏi bằng chứng xác thực của thánh Tôma, tôi biết mình có phúc. Vì Chúa Phục Sinh đã nói: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con tin, phúc cho những ai không thấy mà tin”.

Từ lời của Chúa Phục sinh, chúng ta vui mừng mà chúc phúc cho nhau: Phúc cho ông, phúc cho bà, phúc cho anh chị em, phúc cho các bạn là những người trẻ, phúc cho các bé thiếu nhi, phúc cho tôi, phúc cho tất cả chúng ta…, vì chúng ta không hề thấy nhưng lòng tin tưởng thì rất lớn lao.

Hơn bất cứ thời gian nào, trong những ngày này, chúng ta không thể quên các anh chị em tân tòng. Phúc thật, phúc lớn cho những anh chị em tân tòng, những người vừa mới đón nhận đức tin, đặt biệt những anh chị em mới đón nhận đức tin trong dịp lễ Phục Sinh. Họ cũng là những người giống như bạn, như tôi: đã không thấy mà tin.

Các bạn tân, dự tòng thân mến, Giáo Hội đã trao cho chúng tôi kho tàng đức tin. Giáo Hội cũng đã hoặc sẽ trao cho các bạn đức tin ấy.

Nếu chúng tôi đã lãnh nhận kho tàng đức tin, đã sống và gìn giữ kho tàng quý giá đó suốt cả cuộc đời chúng tôi. Nếu chúng tôi đã tuyên xưng đức tin và hãnh diện nhận mình là người Công Giáo, chúng tôi cũng mong muốn, và cả ước ao tha thiết nữa, các bạn sẽ bền tâm giữ đạo đến giây phút cuối cuộc đời. Vì đức tin mà các bạn vừa có được là do sự chọn lựa của chính các bạn. Chính các bạn quyết định lãnh nhận bí tích rửa tội để vào đạo, chứ không do bất kỳ ai thúc ép.

Tất cả chúng ta, dù là người đã đi đạo từ lâu, hay chỉ mới đi đạo, thậm chí mới được rửa tội đúng một tuần, hay đang là dự tòng, chúng ta mang trong lòng mình một niềm xác tín lớn lao về Chúa Kitô Phục sinh. Bởi đó, chúng ta cũng cưu mang niềm hy vọng phục sinh như Chúa của mình.

Đức tin vào ơn Phục sinh là niềm xác tín của cả Hội Thánh nói chung. Nhưng rất đặc biệt, vì đức tin ấy cũng đã trở thành niềm xác tín của riêng từng người là con cái của Hội Thánh. Chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng, tin vào ơn Phục sinh là một đức tin đã được chính Chúa chuẩn bị để ta có thể cưu mang và sống suốt cuộc đời của mình. Đức tin vào ơn Phục sinh cũng chính là lời chúc phúc trọng đại dành cho từng người, cho bạn cho tôi.

Bạn ạ, tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt, ra ngoài cái có thể thấy hay cảm nhận. Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu của thánh Tôma. Nhưng chúng ta, rõ ràng nhất là các tân, dự tòng, lại được thấy Chúa qua đức tin của thánh Tôma, của Hội Thánh và của biết bao chứng nhân trong Hội Thánh.

Thông thường, ta vẫn nghĩ thánh Tôma thật là diễm phúc vì được Chúa trả lời cho sự chất vấn về đức tin của thánh nhân. Thánh Tôma cũng như nhiều môn đệ khác, thật diễm phúc vì nhìn thấy Chúa Giêsu Phục sinh cách nhãn tiền.

Nhưng nói cho cùng, tin mà vẫn không thấy, chúng ta vẫn là người có phúc, phúc lớn. Tin mà vẫn không thấy, đó là đức tin mạnh, mạnh vô cùng. Tin mà vẫn không đòi bằng chứng, chỉ cần lời giáo huấn của Hội Thánh, chúng ta đáng hãnh diện về mình, một niềm kiêu hãnh thuộc về một giá trị tuyệt đối.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT II PHỤC SINH 2017

Lm. Anthony Trung Thành Trong suốt tuần Bát Nhật Phục Sinh, chúng ta đã nghe Tin Mừng tường thuật lại nhiều lần Đức Giêsu Phục sinh hiện ra. Hôm nay, ngày cuối cùng của tuần Bát Nhật, chúng ta nghe Tin mừng Thánh Gioan tường thuật lại hai lần Đức Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ: Lần thứ nhất, vào buổi chiều ngày Phục sinh; lần thứ hai, tám ngày sau đó. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu các chi tiết liên quan đến hai lần hiện ra này.

1. Lần Hiện Ra Thứ Nhất

Trong lần hiện ra lần thứ nhất, chúng ta thấy có các chi tiết sau đây:

Chi tiết thứ nhất: Đức Giêsu Phục sinh vào nhà khi “các cửa còn đóng kín.” Điều này cho chúng ta biết, Đức Giêsu Phục sinh không còn phụ thuộc vào thời gian và không gian. Vì sự Phục sinh của Ngài không phải là một cuộc trở lại đời sống trần thế. Thân xác Phục sinh của Ngài cũng chính là thân xác đã chịu đóng đinh và mang vết thương của cuộc khổ nạn, nhưng từ lúc Phục sinh, thân xác này được tham dự vào đời sống thần linh với những đặc điểm của một thân xác vinh hiển: thân xác này không bị định vị trong không gian và thời gian, nhưng có thể tùy ý xuất hiện ở đâu và lúc nào Ngài muốn. Vì thế, Ðức Giêsu Kitô Phục sinh tuyệt đối tự do khi hiện ra với các môn đệ Người, theo cách thức và nơi chốn như Người muốn, dưới nhiều hình dạng khác nhau. (x. GLHTCG số 645) .

Chi tiết thứ hai: Đức Giêsu “đứng giữa các ông” (x. Ga 20,19). Đây là thái độ diễn tả sự gần gũi, thân mật và yêu thương giữa thầy và trò. Điều này cho chúng ta thấy, Ngài không còn nhớ tới tội lỗi của các Tông đồ: Tội chối thầy của Phêrô, tội bỏ trốn của các Tông đồ khác, nhưng đã tha thứ tất cả cho các ông. Thái độ này diễn tả một tình yêu tha thứ.

Chi tiết thứ ba: Đức Giêsu trao ban bình an. Chúng ta biết, sau khi Đức Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, chịu đóng đinh, chịu mai táng trong mồ, tâm trạng của các Tông đồ hết sức lo lắng, sợ sệt, thiếu sự bình an. Bằng chứng là các ông đã bỏ trốn, vào phòng đóng kín cửa lại. Hiểu rõ điều đó, nên sau khi Phục sinh, điều đầu tiên Đức Giêsu muốn mang đến cho các Tông đồ là sự bình an. Ngài nói: “Bình an cho anh em” (x. Ga 20,19). Đây là một hành động nói lên sự quan tâm đặc biệt của Đức Giêsu phục sinh đối với các Tông đồ.

Chi tiết thứ tư: Đức Giêsu cho các Tông đồ xem tay và cạnh sườn Người (x. Ga 20,20). Đây là một bằng chứng giúp các Tông đồ nhận ra Thầy của mình đã sống lại thật, chính Thầy chứ không phải ai khác. Cho nên, sau khi xem tay và cạnh sườn của Thầy, Tin mừng cho biết “các Tông đồ rất đỗi vui mừng” (x. Ga 20,20). Thật vậy, không vui mừng sao được khi người thầy đã chết nay sống lại. Giờ đây nơi các ông không còn sự sợ hãi, lo lắng, buồn phiền nữa, mà chỉ còn niềm tin yêu và hy vọng. Các ông sẽ vững tin để thực hiện sứ mạng mà Thầy trao phó.

Chi tiết thứ năm: Đức Giêsu trao ban sứ mạng. Ngài trao ban cho các ông quyền tha và cầm buộc. Đây là sứ mạng cao cả, để chu toàn sứ mạng này cần phải có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Vì thế, trước khi trao ban sứ mạng cao cả ấy, Đức Giêsu đã trao ban Thánh Thần cho các ông. Tin mừng tường thuật: “Người thổi hơi và phán bảo các ông: ‘Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20,22-23).

Các chi tiết liên quan đến lần hiện ra thứ nhất trên đây hết sức quan trọng vì ảnh hưởng rất lớn đến niềm tin và sứ mạng của các Tông đồ sau này. Nhưng tiếc thay, lần hiện ra này lại không có ông Tôma. Mặc dầu các Tông đồ khác đã báo cho ông biết “chúng tôi đã thấy Chúa” nhưng ông vẫn không tin. Ông còn tuyên bố rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”(Ga 20,25). Vì lời tuyên bố này, nên ông được mệnh danh là kẻ “cứng lòng tin.” Nhưng nếu như trong trường hợp của Tôma có lẽ chúng ta vẫn chưa tin những gì các Tông đồ khác nói. Vì, tôi cũng là Tông đồ, nhưng tại sao Đức Giêsu Phục sinh hiện ra với các Tông đồ khác mà lại không hiện ra với tôi? Hơn nữa, thiết tưởng việc Tôma vắng mặt và chưa tin vào sự Phục sinh của Đức Giêsu cũng không ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa. Vì nhờ sự “cứng tin” của ông Tôma mà chúng ta có lần hiện ra thứ hai của Đức Giêsu phục sinh.

2. Lần Hiện Ra Thứ Hai

Cách thức mà Đức Giêsu Phục sinh hiện ra lần này cũng tương tự như lần thứ nhất. Các môn đệ vẫn ở trong phòng, cửa vẫn đóng kín. Đức Giêsu đến và trao ban bình an. Nhưng lần này Đức Giêsu để ý đặc biệt tới ông Tôma. Ngài nói với ông Tôma rằng: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin” (Ga 20, 27). Không còn nghi ngờ gì nữa, Tôma vui mừng và tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Giêsu phục sinh rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!”(Ga 20,28). Sau đó, Đức Giêsu nói với Tôma: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin”(Ga 20, 29). Và Ngài chúc phúc cho niềm tin của các Kitô hữu qua mọi thế hệ rằng: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin” (Ga 20, 29).

Như vậy, nhờ hai lần hiện ra của Đức Giêsu phục sinh mà Tin mừng hôm nay tường thuật lại, niềm tin của các Tông đồ được củng cố lại một cách vững chức hơn. Không những thế, các ông còn được Đức Giêsu phục sinh trao ban bình an, trao ban Thánh thần và ban quyền tha tội. Ngoài ra, Đức Giêsu còn chúc phúc cho mọi người tin vào Ngài qua mọi thời đại. Điều đó nói lên tình thương của Ngài đối với các Tông đồ và với mọi người chúng ta hôm nay.

3. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay?

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta luôn tin tưởng vào Đức Giêsu đã Phục sinh. Chúng ta vui niềm vui của các Tông đồ “vì đã trông thấy Chúa.” Chúng ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Ngài. Từ đó, chúng ta hãy sống tinh thần tạ ơn như thánh vịnh 117 trong bài đáp ca mời gọi: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở”(Tv 117,1). Đồng thời, chúng ta hãy bắt chước các Kitô hữu đầu tiên biết siêng năng cầu nguyện, nhất là sống tinh thần liên đới, chia sẻ với nhau trong cuộc sống: “Tất cả mọi kẻ tin, đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung” (Cv 2,42-47). Ngoài ra, chúng ta hãy sống niềm hy vọng được sống lại như tâm tình của Thánh Phêrô trong bài đọc thứ II: “Nhờ việc Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống”(1Pr 1,3).

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết luôn suy niệm Tin mừng tường thuật về những lần hiện ra của Đức Giêsu Phục sinh để chúng con thêm xác tín vào Sự Sống Lại, hầu chúng con sống niềm tin đó và rao truyền cho những người xung quanh. Amen.

CHÚA LÀ ĐẤNG XÓT THƯƠNG XÓT

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

SUY NIỆM CHÚA NHẬT II PHỤC SINH

(Ga 20, 19-31)

Nhân dịp phong thánh cho nữ tu Maria Faustina Kowalska, ngày 30/4 năm 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đặt tên cho Chúa nhật tiếp liền sau Đại Lễ  Phục Sinh là Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, kính nhớ việc Chúa Kitô tỏ cho thánh Tôma thấy cạnh sườn, nơi trào ra nước và máu, suối nguồn ân sủng. Truyền thống Giáo hội đã coi đây như là nguồn gốc của bí tích hòa giải, nơi mà con người cảm nhận được sự tha thứ do lòng thương xót Chúa.

Cử chỉ trao ban bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: ” Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con“. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20, 21- 23). Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân “tha thứ các tội lỗi” diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi phục sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ đổ xuống trên toàn thế giới.

Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi, tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng. Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an. Thế giới ngày nay đầy những thương tích về thể lý, tâm lý và luân lý cần thiết biết bao lòng thương xót của Thiên Chúa!

Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa” (Tv 117, 1). Lòng từ bi mạnh hơn tội lỗi và sự chết, ngày nay, nhân loại vẫn đang tiếp tục thừa hưởng lòng từ bi tuôn trào từ những vết thương vinh hiển và từ Trái Tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.

Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu chuộc, ơn cứu rỗi và ơn thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian mà theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ, “hai tia sáng này tượng trưng cho máu và nước“. Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, làm cho ta nghĩ đến bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần  (x. Ga 3, 5; 4, 14).

Lời kinh chúng ta vẫn đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“, diễn tả đúng thái độ mà chúng ta muốn có, để chúng ta đặt niềm tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, Ðấng cứu độ duy nhất của chúng ta! Những tia sáng của lòng từ bi Chúa mang lại niềm hy vọng cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi. Chúa Giêsu Kitô là Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa nhập thể. Vậy, chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa, là Ðấng luôn chờ đợi và yêu thương chúng ta, đừng bao giờ đánh mất sự tin tưởng nơi lòng thương xót nhẫn nại của Thiên Chúa, là Ðấng luôn luôn yêu thương, dịu hiền, chờ đợi và tha thứ cho chúng ta. Cả khi chúng ta xa rời, Thiên Chúa vẫn luôn gần gũi và sẵn sàng giang tay ra ôm ấp chúng ta vào lòng, nếu chúng ta trở về với Chúa.

Khi quảng diễn về lòng thương xót của Thiên Chúa, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Dung mạo của Thiên Chúa là dung mạo của một người Cha đầy lòng thương xót, đầy nhẫn nại với chúng ta. Người thấu hiểu chúng ta, chờ đợi chúng ta và luôn tha thứ cho chúng ta mà không bao giờ mệt mỏi, nếu chúng ta chạy đến với Người với tâm hồn sám hối… Lòng thương xót sẽ biến đổi thế giới. Một chút lòng thương xót thôi cũng làm cho thế giới bớt lạnh lẽo và thêm công chính” (Kinh Truyền Tin, 17-03-2013).

Giờ kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với dân chúng : “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót, Điều quan trọng là các tín hữu sống lòng thương xót ấy và đem vào các môi trường xã hội khác nhau”. Để hàng ngày cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa và thực thi lòng thương xót đối với tha nhân trong cuộc sống. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta xóa bỏ sự thờ ơ, ngài viết: “Chúng ta đừng sa vào thái độ thờ ơ lãnh đạm … đừng rơi vào trong thói quen đánh mất cảm xúc…” (x.Misericordiae Vultus số 15).

Ngài xác tín rằng, cốt lõi của Phúc Âm là tình thương, (x. Huấn từ 28-3-2014). Vì thế, theo nguyên tắc, tất cả mọi cơ cấu, nguyên tắc, luật lệ và tổ chức của Giáo Hội đều phải làm sao để hướng về và đạt đến đích điểm là tình thương (x. Niềm vui Phúc Âm,26-43). Bởi vậy, trong thực hành, Giáo Hội cần phải là một bệnh viện lưu động để chữa lành, chứ không phải chỉ mở cửa đón nhận tội nhân và nạn nhân trở về mà thôi (x. trả lời Phỏng Vấn 04-12-2014). Ngài muốn Giáo Hội phải đi đến tận rìa mép của xã hội để tìm kiếm các con chiên lạc đáng thương, thậm chí Giáo Hội phải ăn uống với thành phần đàng điếm và thu thuế tội lỗi (Huấn từ bế mạc Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới  ngày 18-10-2014).

Lạy Mẹ maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp chúng con duy trì lòng tín thác vào Con Mẹ. Lạy thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thánh nữ Faustina, xin trợ giúp chúng con, để chúng con được cùng với các thánh hướng nhìn về Ðấng Cứu Chuộc, và lặp lại lời nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“, bây giờ và mãi mãi. Amen.

HẠNH NGỘ

Am Trần Bình An

Chia sẻ Tin Mừng CN 2 Phục Sinh NA 2017 (Ga 20, 19-31)

Mục sư Billy Graham cũng có lúc nghi ngờ. Năm 1949, lúc đó Billy Graham được 30 tuổi, đã làm thế giới lưu ý qua các buổi truyền giảng bắt đầu ở Los Angeles. Theo hồi ký của ông viết, ông Templeton, người trở nên nhà truyền giáo nổi tiếng trước ông Graham 15 năm, đã xây dựng một Thánh đường với 1200 chỗ ngồi, đã đưa ra nhiều câu hỏi thần học mà ông Billy Graham không đủ thông minh, kiến thức thần học để giải đáp.

Ông viết: “Sự nghi ngờ, thắc mắc tràn ngập lòng tôi. Tôi dùng Kinh Thánh để tìm câu trả lời.  Tôi cầu nguyện van nài Chúa giúp tôi.” Cuối cùng, với lòng nặng nề  ông rảo bước dưới ánh trăng tại vùng núi San Bernardino. Tay cầm chặt quyển Kinh Thánh, ông quỳ gối và thú nhận với Chúa rằng, ông không thể giải đáp những thắc mắc, những câu hỏi, những nghi ngờ trong lòng của ông cũng trong lòng người bạn của ông là Templeton.

Sau cùng tôi cầu nguyện như sau: “Lạy Cha, con sẽ chấp nhận mọi điều qua lời của Cha bằng đức tin. Con sẽ để đức tin của con vượt lên trên những câu hỏi, nghi ngờ và con tin rằng quyển Kinh Thánh này là lời của Chúa”.

 

Ông đứng lên ràn rụa nước mắt và ông nhận ra quyền năng của Đức Chúa Trời bao phủ con người ông, điều mà bao lâu nay ông chưa từng có cảm giác đó. Ông nói: “Không phải tất cả nghi ngờ của tôi đều được Chúa trả lời, nhưng một cây cầu lớn đã bắt ngang và tôi bước qua. Tôi không còn bận tâm đến những nghi ngờ chưa có câu trả lời. Nó đã từng làm cho tôi gần như mất cả tâm thần của tôi một thời gian khá lâu. Lòng tôi, trí óc tôi cho tôi biết rằng tôi vừa chiến thắng trong một trận đấu tâm linh.”

Trong khi đó ông Templeton vẫn tiếp tục sống nặng trĩu với những nghi ngờ trong lòng và cuối cùng ông bỏ công tác mục vụ, di chuyển sang Canada, trở thành một nhà bình luận, viết tiểu thuyết vô thần. Nghi ngờ là điều không ai tránh khỏi trên bước đường theo Chúa. Nhưng đừng giữ mãi trong lòng. (theo Baptist Church)

 

Mục sư Billy Graham đã vinh dự gặp được Chúa qua cầu nguyện, qua hiệp thông Lời Chúa, Kinh Thánh và qua linh cảm đức tin. Hôm nay Tin Mừng Gioan tường thuật Tông đồ Tôma đã nghi ngờ Đức Giêsu phục sinh. Nhưng với lòng từ bi nhân ái, Đức Giêsu đã cho ông hạnh ngộ, thoả mãn mong ước cháy bỏng. Lời Chúa nêu ra những yêu cầu cần thiết để được gặp Chúa. Đó là cầu nguyện, hiệp nhất và nhất là nhờ Lòng Chúa Thương Xót.

Cầu nguyện

 

“Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con.” Điều quan trọng nhất để có thể hạnh ngộ với Chúa, chính là siêng năng cầu nguyện, như các Tông đồ đã tụ họp nhau hiệp ý. “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu.” (Cv 1, 14)

Trong những khi gian nan khốn khó, thánh Phaolô luôn mời gọi tín hữu Kitô cầu nguyện. “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện.” (Rm 12, 12)

Hiệp nhất

 

Các Tông đồ đã phải tan đàn xẻ nghé, khi Thầy Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết trên thập giá. Nhưng ngay sau đó, ân hận, sám hối, các ông đã can đảm tìm về với nhau, hiệp nhất đoàn tụ, nên Đức Giêsu thương yêu trở lại, hiện diện giữa họ. Bởi vì “Ở đâu hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ” (Mt 18, 20)

Đức Giêsu liền chúc bình an cho các ông, giữa bầu khí còn căng thẳng, khi thế lực đen tối còn trấn áp đe doạ. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.”

 

Lòng Thương Xót

 

Tông đồ Tôma vắng mặt khi Đức Giêsu hiện ra lần đầu với các Tông đồ, liền tỏ ra nghi ngờ, không nghe các đấng tường thuật lại. Bất cứ ai đi theo Chúa, cũng khó tránh khỏi thử thách này. Nhưng Tôma không hề sĩ diện giấu kín, mà công khai chia sẻ nỗi niềm, nên Chúa đầy Lòng Thương Xót, hiện ra an ủi.“Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin.”

 

Nhiều khi thiếu khiêm nhường, thiếu lòng tin, thiếu niềm cậy, thiếu đức mến, người Kitô hữu cũng thường bắt chước ông Tôma yêu cầu Chúa chiều theo ước muốn, nguyện vọng, ý riêng, mà không đếm xỉa đến đức vâng lời, tìm hiểu và tuân theo Thánh Ý Chúa, hoặc nghe theo những lời khuyên bảo tốt lành của Chủ Chăn. Thế còn là chiên ngoan của Chúa nữa chăng? Vậy đừng làm dụng, thử thách Lòng Chúa Thương Xót kẻo bị án luận phạt.

Các Tồng Đồ đã khiêm tốn thuật lại trong Phúc Âm đức tin yếu hèn của họ, để chúng ta mạnh tin hơn.” (Đường Hy Vọng, số 279)

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin thương xót huấn cải, đổi mới tâm hồn chúng con, để chúng con được vinh dự tái sinh trong ánh sáng Chúa sống lại.

Khấn xin Mẹ Maria dạy chúng con khiêm hạ, vâng phục và đơn sơ, cùng cầu bầu chúng con được sống lại cả xác lẫn hồn, nhờ ơn cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô hằng sống. Amen.

CON ĐƯỜNG CỦA LÒNG TIN LÀ CON ĐƯỜNG CỦA LÒNG MẾN

Lm Giuse Nguyễn hữu An

Chúa Nhật 2 Phục Sinh Con Đường Của Lòng Tin Là Con Đường Của Lòng Mến

Chúa Nhật II phục sinh, Giáo Hội tuyên dương lòng thương xót Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua thánh nữ Maria Faustina: “Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta” (Tiểu nhật ký, số 699). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II qua đời vào đêm cuối tuần Phục Sinh đầu tiên (ngày 2 tháng 4 năm 2005). Lòng thương xót Chúa đã chiếu một luồng ánh sáng vào cái chết của một vị thánh thời đại.

Lòng thương xót của Chúa được biểu lộ qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá. Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo. Lòng thương xót ghi đậm nét nơi các vết thương trên thân thể Chúa. Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao ban bình an, là Chúa cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng và bình an.

Lòng thương xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một để cho người ta nhận ra Ngài. Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi. Ngài còn khoe và cho phép Tôma lấy tay kiểm tra vết thương.Chúa không che dấu, không tiếc xót dù Tôma có cứng lòng, đòi thực tế phải thấy mới tin.

1. Đức tin của Tôma

Chúa sống lại, các môn đệ không dễ dàng tin, thánh sử Luca kể: “Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” (Lc 24,11). Thánh Matthêu thuật lại : khi mấy người phụ nữ báo tin cho các môn đệ : Chúa đã sống lại rồi, các ông cũng hoài nghi. Rồi, “khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Riêng Tôma đã nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Đây là kiểu tin bằng lý luận kiểm chứng, chỉ tin khi thấy, khi đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên.

Tôma đại diện cho những người lý luận, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Tôma không vội tin một cách dễ dàng như bao người khác. Ông là người có tính thực tế của khoa học phải qua kiểm chứng, kiểm nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe, tay chân sờ mó đụng chạm hẳn hoi thì mới tin. Đây phải chăng là thái độ khôn ngoan, cẩn thận trước một quyết định hết sức quan trọng của đức tin nơi Tôma? Cám ơn thánh Tôma, vì nhờ ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người.

Trước khi tin, Tôma phải hoài nghi đã. Tôma chỉ tin những điều hợp lý, những gì ‘thấy được, sờ được’. Đây không phải là thái độ cố chấp của Tôma mà ngược lại là thái độ không nhẹ dạ, không cả tin vội vàng bằng tai nghe. Đó là lối phân tích theo nhận định tự nhiên của con người và cũng là kinh nghiệm sống đức tin của nhiều người chúng ta. Dù sao, đây cũng là một khó khăn riêng tư của Tôma trong việc tin vào Chúa sống lại. Chúa Giêsu hiểu ông, nên đã đích thân đến và giúp cho ông dễ dàng hơn để tin vào Chúa. Ngài mời gọi ông hãy tin vững vàng. Và ông đã nói lên lời tuyên xưng đức tin thật đẹp đẽ, thật trang trọng ‘lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi’. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ban cho Toma sự bình an và đức tin mạnh mẽ qua sự hoài nghi, để ông tuyên xưng đức tin cá nhân của mình : “Lạy Thiên Chúa của con”. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Tôma đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Theo lưu truyền, ông đi rao giảng đức tin và lòng thương xót của Chúa ở Ba tư, Xyri rồi chịu tử đạo ở Ấn Độ.

Thần học gia Hans Kung nói : “người tín hữu không bao giờ nghi ngờ sẽ khó lòng hoán cải một người hoài nghi”. Nhà thần học Paul Tillich nói : “sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh”. Còn Thomas Merton bảo: “người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin”. Jean Guitton, một nhà triết học người Pháp, nói: “Chính vì nghi ngờ thường trực mà tôi lại có thể tin vững”. Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy. Sự hoài nghi giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin, thúc đẩy ta thắc mắc, tìm hiểu, học hỏi, cầu nguyện, nghiên cứu sách vở (Lm. Pet. Bi Trọng Khẩn).

2. Lòng mến của Gioan

Có hai mức độ tin: mức độ thấp là tin vì thấy,tin dựa vào bằng chứng; mức độ cao là tin mà không cần thấy, tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu.Đây là mối phúc thứ 9 như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma : “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28). Không thấy mà tin không có nghĩa là tin một cách mù quáng, vu vơ, không có cơ sở, không có lập trường mà là bằng tình yêu nên đức tin vững mạnh hơn, truởng thành hơn.Thánh Gioan, “người môn đệ Chúa yêu”, bằng tình yêu, Gioan “đã thấy và đã tin” và nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra. Phúc âm kể: khi thấy một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra bên bờ biển hồ Tibêria, “các môn đệ không nhận ra” nhưng “ môn đệ được Chúa Giêsu thương mến” đã nhận ra và nói với Phêrô “Chúa đó” (Ga 21, 4-7)…Rõ ràng, con đường tình yêu đi đến niềm tin nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn.

Tin mừng Phục Sinh cho thấy: có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì cũng như thánh Gioan, nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt để nhận biết những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết.

3. Lòng Chúa Xót Thương

Nhân loại thời nay khát khao một “Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót” (1Ga 4,8; Ep 2.4) để họ tôn thờ, tựa nương và tìm được ý nghĩa cuộc đời. Năm Thánh Lòng Thương Xót là cơ hội để đào sâu đức tin và canh tân chứng tá Kitô giáo. Lòng thương xót là tình yêu thương, là lòng trắc ẩn với người đau khổ, với người nghèo đói, với người bệnh tật, với người tội lỗi. Nhân loại thời nay cần tình yêu, đây là một dấu chỉ của thời đại.Vì thế, mỗi người tùy vào khả năng của mình hãy đặc biệt quan tâm đến việc thực thi lòng thương xót. Mỗi tín hữu được mời gọi trở thành nhân tố tích cực để sống và làm chứng cho lòng thương xót.

Điều làm nên nét độc đáo của người tín hữu là nhân đức thương xót, thể hiện bằng đạo yêu thương, được bộc lộ nơi bản thân và cuộc đời mỗi cá nhân. Mỗi người, bằng cách thực thi bác ái, lòng thương xót và tha thứ, có thể trở nên dấu chỉ quyền năng tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi tâm hồn, đem lại hòa giải và bình an.Trong Tông sắc Misericordiae Vultus (Dung mạo Lòng Thương Xót), ĐTC Phanxicô nói: “Thời đại ngày nay, khi Hội Thánh đang thực thi công cuộc Tân Phúc Âm hóa, lòng thương xót quả là cần thiết để một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới và đổi mới các hoạt động mục vụ. Điều tối quan trọng đối với Hội Thánh, cũng như để làm cho lời rao giảng của Hội Thánh đáng tin, chính là sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và hành động của Hội Thánh cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha” (số 12). Đáp lại lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô, trong Thư gởi cộng đoàn Dân Chúa (17.9.2015), HĐGMVN nhấn mạnh: “Mỗi người Công Giáo phải trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Không có những chứng nhân của lòng thương xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống”.

Chúa Phục Sinh cho các tông đồ xem những thương tích cuộc khổ nạn nay đã thành sẹo như mời gọi các ngài chiêm ngắm chính nguồn mạch của Lòng Thương Xót không bao giờ cạn vơi.

Thánh Tôma Aquinô đã cầu nguyện rằng: “Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma tông đồ, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn nữa”. Người kitô hữu đôi khi không cần trí tuệ để tin vào những thực tại thiêng liêng; không cần giác quan để kiểm soát những dấu chỉ mầu nhiệm trong đạo, mà cần sống bằng lòng mến. Càng yêu mến nhiều thì càng tin chắc. Càng tin vững thì càng bình an. Như vậy, con đường của lòng tin là con đường của lòng mến. “Ai xót thương người, sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Những ai luôn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh đều luôn sống tích cực và khám phá ra điều kỳ diệu trong những cái tầm thường để có khả năng chứng mình về tình yêu và lòng thương xót của Chúa.

BÍ TÍCH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Lm JB Nguyễn Minh Hùng

Chúa Nhật II Phục sinh Bí tích của Lòng Thương Xót

Nhìn lại cả dòng lịch sử cứu độ, chúng ta nhận ra, trong tương quan giữa Thiên Chúa và loài người có hai chiều trái ngược nhưng cứ song hành bên nhau; khác biệt nhưng cứ tồn tại. Đó là: Một bên loài người yếu đuối, tội lỗi, đầy bất trung. Còn bên kia, đối lại, Thiên Chúa quyền năng luôn nhẫn nại, luôn giàu lòng xót thương và sẵn sàng tha thứ.

Loài người càng bất trung, lòng tín trung và sự nhẫn nại của Thiên Chúa càng được thể hiện. Tội lỗi loài người càng nặng, sự tha thứ của Thiên Chúa càng đậm đà. Yếu đuối của loài người luôn được nhận thấy bằng sự đỡ nâng vô bờ bến của ân sủng và lòng xót thương. Tội lỗi làm cho loài người vong thân, thì tình yêu bền vững của Thiên Chúa càng lớn để cứu vớt, để mở ngỏ cho loài người hằng có lối quay về.

Sự tha thứ của Thiên Chúa dành cho loài người là vô giới hạn. Ơn tha thứ khắc sâu khuôn mặt xót thương của Thiên Chúa. Nó cần thiết để mang từng người đến gần Thiên Chúa, mỗi khi họ ý thức về những sa ngã, lỗi phạm của mình.

Vì thế, dù chúng ta là những kẻ thường xuyên lầm đường lạc lối, Chúa vẫn không từ nan bất cứ điều gì, miễn là được dang rộng vòng tay đón nhận. Chúa đón nhận lòng ăn năn thống hối của từng người, khi quyết trở về với Chúa.

Lòng thương xót của Chúa luôn mời gọi để được trao ban, luôn chờ đợi để được đáp trả, luôn sẵn sàng để được cống hiến, luôn thổn thức nếu bị làm ngơ ngoảnh mặt.

Hơn ai hết, Chúa Giêsu biết rõ sự cần thiết này của ơn tha thứ, nên vừa phục sinh, ngay sau khi trao ban một chuỗi đầy nghĩa xót thương: ơn bình an (x.Ga 20, 19), ơn nối tiếp sứ mạng truyền giáo (x.Ga 20, 21), ơn Chúa Thánh Thần (x.Ga 20, 22), lập tức Đấng Phục Sinh ban ơn tha thứ: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 23).

Còn Hội Thánh, nhận lãnh sứ mạng và kho tàng ơn tha thứ từ Chúa Kitô, chính là nhận lãnh bí tích của tình thương hãi hà mà Thiên Chúa trao ban qua Chúa Kitô. Hội Thánh luôn ý thức tầm quan trọng và cần thiết của bí tích xót thương ấy.

Hội Thánh nhấn mạnh:

– “Những ai đến nhận lãnh Bí tích Hòa Giải đều được Thiên Chúa nhân từ tha thứ những xúc phạm đến Người. Đồng thời, họ được giao hòa cùng Giáo Hội mà tội lỗi họ đã làm tổn thương. Nhưng Giáo Hội hằng nỗ lực lấy đức ái, gương lành và kinh nghiệm để hoán cải họ” (Lumen Gentium số 11).

– “Không có hành vi nào có ý nghĩa hơn, có hiệu quả thần linh hơn hay cao quý hơn, và đồng thời xét như là nghi thức, lại gần tầm tay cho bằng Bí tích Hòa Giải” (Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Reconciliatio et Paenitentia – Hòa giải và Sám hối, số 28).

– “Bí tích Giao Hòa không những chữa lành hối nhân vừa được hiệp thông lại với Hội Thánh, mà còn làm cho Hội Thánh thêm sức sống sau khi đã phải đau khổ vì tội lỗi của các chi thể” (GLCG số 1469). Hội Thánh sung sướng trao ban ơn tha thứ cho từng hối nhân, qua đó:

– Hội Thánh cũng muốn công bố cho toàn thế giới về lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa là cao cả, lớn lao, lớn đến không có bất cứ bến bờ nào.

– Hội Thánh trao ban ơn huệ của lòng Thiên Chúa xót thương, giúp từng người xác tín vào tình thương không biết đến quá khứ mà chỉ là hiện tại và tương lai rộng mở với tất cả sự tín nhiệm, tin tưởng, đầy tràn hy vọng mà Thiên Chúa dám đặt nơi thụ tạo của Người.

– Hội Thánh dạy, chính Thiên Chúa dẫn đưa những người được cứu độ đến với Hội Thánh (x.Cv 2, 47) và mỗi hối nhân là đối tượng tình yêu của Thiên Chúa. Từng người trong cộng đoàn Hội Thánh đã được lòng thương xót của Người triệu tập, là cộng đoàn đã được thương xót và đồng thời cũng là dụng cụ của lòng thương xót.

– Hội Thánh mang sứ mạng tha thứ không ngừng, tha thứ vô cùng. Qua đó dạy cộng đoàn gồm tất cả con cái mình cũng tha thứ cho nhau cách quảng đại, nhân ái, đầy lòng thương xót như Chúa của mình từng đòi hỏi: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 22).

Và như vậy, nơi bí tích của lòng xót thương tha thứ, không chỉ lãnh nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn được mời gọi trở nên những nhân chứng cho lòng thương xót bằng cách đem tha thứ và tình thương vào giữa thế giới còn nhiều thờ ơ, vô cảm, bạo lực, hận thù:

“Thế giới loài người chỉ có thể ngày càng mang tính người hơn khi nào chúng ta đưa vào trong mọi quan hệ hỗ tương giữa người với người sự tha thứ theo Tin Mừng. Sự tha thứ cho thấy rằng trong thế giới tình thương mạnh hơn tội lỗi. Hơn nữa, tha thứ là điều kiện trước tiên của sự hòa giải, chẳng những trong các tương quan giữa Thiên Chúa với con người, mà còn trong những tương giao giữa người với người” (Gioan Phaolô II, Dives in misericordia – Thiên Chúa giàu lòng thương xót, số 14).

Riêng từng người tín hữu, hãy nhớ rằng, bí tích tha tội là bí tích của lòng Thiên Chúa thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa luôn chờ đợi để trao ban tình yêu tha thứ, trao ban sự sống vĩnh cửu. Vì thế, mọi tín hữu đừng ngần ngại, nhưng hãy siêng năng tìm đến bí tích của lòng thương xót mà hòa giải cùng Thiên Chúa, mà lãnh nhận mọi ân huệ tuôn trào từ lòng thương xót vô cùng ấy.

Chúng ta hãy sung sướng mà cầu nguyện bằng lời Thánh vịnh để tri ân tình yêu thương xót và tha thứ đến vô cùng mà Thiên Chúa dành cho mình: “Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh phúc thay, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà.

Bao lâu con lặng thinh không thú lỗi, thì gân cốt rã rời, cả ngày con gào thét. Vì ngày đêm con bị tay Ngài đè nặng, nên sức lực hao mòn, như bị nắng mùa hè thiêu đốt. Bởi thế, con đã xưng tội ra với Ngài, chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con. Con tự nhủ: ‘Nào ta đi thú tội với Chúa’, và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con” (Tv 32, 1-5).

CHÚA SỐNG LẠI

ĐTC Phanxicô

Bài giảng cảm động của Đức Thánh Cha trong thánh lễ Phục Sinh 2017

Đặng Tự Do 17-4-17

Đức Thánh Cha Phanxicô đã một lần nữa bỏ qua truyền thống của các vị Giáo Hoàng trong các lễ nghi trang trọng. Trong thánh lễ Chúa Nhật Phục Sinh, diễn ra tại quảng trường Thánh Phêrô dưới bầu trời âm u đe dọa một trận mưa lớn, ngài đã đưa ra một bài giảng ứng khẩu, chủ yếu tập trung xung quanh câu chuyện về một cú điện thoại hôm thứ Bẩy Tuần Thánh với một kỹ sư trẻ đang bị bệnh nghiêm trọng.

Đức Thánh Cha Phanxicô nói ngài cố gắng giải thích cho người trẻ này rằng trong khi Chúa không giải thích sự đau khổ của thế giới, Người đã đưa ra lời hứa về sự phục sinh, mà Đức Thánh Cha khẳng định không phải là “ảo tưởng”.

Bỏ bài giảng đã được dọn sẵn sang một bên, Đức Thánh Cha nói:

“Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết. Và đây không phải là một chuyện tưởng tượng.”

Chỉ vào những bông hoa được bài trí rất đẹp trên lễ đài và trên quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha nói rằng lễ Phục Sinh “không phải là một lễ hội với nhiều hoa. Điều này thật đẹp, nhưng [vẻ đẹp trong biến cố] Phục Sinh vượt xa hơn nhiều”.

“Đó là mầu nhiệm của tảng đá bị vứt bỏ, đã trở nên tảng đá góc tường cho sự tồn tại của chúng ta. Chúa Kitô đã sống lại từ trong cõi chết. Trong nền văn hoá vứt bỏ này, nơi mà những điều không còn hữu ích phải rơi vào con đường xài-rồi-liệng, trong đó những gì vô ích phải bị loại bỏ, viên đá đã bị loại bỏ đã trở thành suối nguồn sự sống”.

Và thậm chí cả “chúng ta, những viên sỏi nhỏ”, là những người đã bị ném vào một trái đất tràn ngập những “đau khổ, và thảm kịch” này, nhưng với niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta vẫn “có lý do để sống giữa những cơn hoạn nạn khủng khiếp như vậy. Với niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta vẫn có được một cảm thức vượt được lên trên những thực tại cay đắng của đời thường: có những bức tường đấy, nhưng cũng có cả một chân trời; có cuộc sống, có niềm vui, bất chấp là cũng có thập giá cùng với những mơ hồ nảy sinh từ đó.

Đức Thánh Cha nhận xét rằng Giáo Hội, khi đối mặt với “sự hèn tin của chúng ta, [và] những trái tim đóng kín và sợ hãi,” vẫn tiếp tục nói, “bình tĩnh đi, Chúa đã sống lại.”

Nhưng, Đức Thánh Cha nói tiếp, thách đố đối với nhiều người là nếu Chúa đã sống lại từ trong cõi chết, “tại sao những điều này cứ tiếp tục xảy ra: bao nhiêu là bi kịch, rồi đến bệnh tật, nạn buôn bán người, khai thác con người, chiến tranh, những hủy diệt, những cuộc tàn sát, những trò trả thù, những hận thù?”

Ngài hỏi to: “Chúa ở đâu?”

Đức Thánh Cha Phanxicô sau đó đã chia sẻ rằng vào ngày thứ Bảy Tuần Thánh, ngài đã gọi điện thoại cho một thanh niên, là một kỹ sư đang bị “bệnh nghiêm trọng”, và ngài nói với thanh niên này rằng “không có sự giải thích nào cho những gì đang xảy ra với con. Nhưng con hãy nhìn vào Chúa Giêsu bị đóng đinh, Thiên Chúa đã làm điều này với chính Người Con của Ngài. Không có lời giải thích nào khác.”

Đức Thánh Cha kể tiếp rằng đáp lại những lời này của ngài, người thanh niên vẫn khăng khăng hỏi vặn lại ngài: “Vâng, nhưng Chúa Cha đã hỏi Chúa Giêsu Con Ngài và Con Ngài đã trả lời xin vâng. Còn con, Ngài đã không hỏi con nếu con muốn điều này hay không.”

Đức Thánh Cha nói, thực ra, “Không một ai trong chúng ta được hỏi, ‘Con có hài lòng với những gì đang xảy ra trên thế giới không? Con có sẵn sàng vác thánh giá này không?’”

“Hôm nay Giáo Hội tiếp tục nói, dừng lại đi, Chúa Giêsu đã sống lại rồi.”

Trước đây, Đức Thánh Cha Phanxicô đã từng có các bài giảng ứng khẩu. Ngài làm vậy mỗi buổi sáng trong thánh lễ tại nhà nguyện Santa Marta, đằng sau những cánh cửa đóng kín; vào mỗi Thứ Năm Tuần Thánh, khi ngài đi thăm các nhà tù hoặc các trung tâm tị nạn để cử hành Thánh Lễ Tiệc Ly, và một lần đáng nhớ là khi ngài cử hành thánh lễ tại Tacloban, Phi Luật Tân hôm 17 tháng Giêng 2015, giữa cơn bão Hải Yến.

Tuy nhiên, chưa bao giờ ngài ứng khẩu giảng trong một bối cảnh long trọng như trong một thánh lễ đại trào. Hôm Chúa Nhật Phục Sinh, Đức Thánh Cha đã giảng ứng khẩu từ đầu đến cuối.

“Anh chị em, những viên sỏi nhỏ, anh chị em có một lý do để sống. Bởi vì anh chị em là một viên sỏi đang bám vào một nền tảng, là đá tảng đã bị tà ác của tội lỗi loại bỏ. Điều mà Giáo Hội muốn nói giữa cơ man những bi kịch là: hòn đá bị người ta bỏ đi đã không bị loại bỏ.. . Từ thâm tâm, Giáo Hội nói: Chúa Giêsu đã sống lại!”

Để kết luận, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi những người hiện diện hãy suy nghĩ về những vấn đề hằng ngày trong cuộc sống, về bệnh tật, chiến tranh, những bi kịch của con người và nói rằng “với một giọng khiêm tốn, không có bông hoa bên cạnh, chỉ một mình thôi, đối diện với Thiên Chúa đang ở trước mặt chúng ta, chúng ta hãy thưa: Lạy Chúa. con không biết tại sao những điều này lại xảy đến với con, nhưng con chắc chắn rằng Chúa Kitô đã sống lại.”

Sau bài giảng của Đức Thánh Cha, và sau phần Lời Nguyện Giáo Dân, mưa bắt đầu rơi nặng hạt, nhiều anh chị em phải dầm mưa tham dự thánh lễ. Mưa tạnh dần trong phần Kinh Nguyện Thánh Thể. Khi bắt đầu đọc kinh Lạy Cha, thì mưa tạnh hẳn.

CHÚA TÌNH THƯƠNG XÓT

mai tá dịch

Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 2 Phục Sinh 2017-mai tá dịch

Tin Mừng Phục Sinh Ga 20: 19-31

Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”

Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” Ông Tôma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Ông Tôma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! “

“Trỗi dậy nôm na vài điệu cũ,”

“Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn.”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Trỗi dậy, nhà thơ khi xưa còn chưa trỗi. Chỉ mỗi nôm na điệu cũ, vẫn chưa tàn. Tín thác, nhà Đạo hôm nay rày xác tín. Cũng một tâm sự vẫn chưa an. Chưa an, giống như tâm sự của thánh Tôma tông đồ với lòng dạ chưa vững, dù Chúa có thăm viếng đồ đệ, với chúng dân.

Trình thuật hôm nay, thánh Gioan cũng trình và cũng thuật sự kiện Chúa về với đồ đệ để trấn an dân con của Ngài còn hãi sợ, và do dự. Sợ là sợ người Do thái tiếp tục lùng tìm đồ đệ của Ngài, mà hãm hại. Do dự, là bởi các ngài chưa hoàn toàn tin vào Thày mình dám trở về với anh em.

Niềm tin của thánh Tôma sở dĩ kém cỏi, là bởi thánh nhân chưa một lần đích thân gặp lại Thày mình, kể từ ngày Thầy trỗi dậy, vào Phục Sinh.

Với Hội thánh, tâm trạng thánh Tôma biểu trưng cho động thái của cộng đoàn cho rằng Chúa vẫn đang sống với họ theo cung cách nào đó, rất đặc biệt. Đặc biệt, là: họ thấy Chúa vẫn hiện diện trong quan hệ mật thiết với các ngài. Quan hệ, có nhận thức. Có tính cách mật thiết và thân cận khiến họ chẳng muốn thổ lộ cho ai biết. Bởi, có để lộ quan hệ này theo cung cách nào đi nữa, họ cũng chẳng có người để cảm thông. Có khi còn bị bài bác, bách hại nữa là đàng khác.

Vì thế, cộng đoàn nay càng đi vào quan hệ riêng tư với Chúa, càng thấy mình có khả năng duy trì sự tư riêng kín đáo ấy hơn là bày tỏ công khai như mọi người. Cũng từ đó, quan hệ giữa các thánh với Chúa Sống lại trở nên thiêng liêng và quan yếu khiến họ sống chức năng cộng đoàn mình.

Cộng đoàn này, ước ao Hội thánh khắp nơi chú ý đến giáo huấn mở rộng, bao gồm cả các tín hữu thuộc đủ mọi thành phần, ngay từ đầu. Và, thánh Tôma đã đại diện cho cộng đoàn đặc biệt luôn bận tâm tìm mọi cách để được chấp nhận làm thành phần của Hội thánh chính mạch, thời tiên khởi. Và việc thẩm nhập như thế, quả thật không dễ.

Tâm trạng chung của hầu hết các tín hữu Đức Kitô bình thường rất thực tế. Điều mà cộng đoàn tiên khởi tin tưởng, đã được cắm sâu trong giòng đời lịch sử, rất thiết thực. Lịch sử ấy, ghi lại việc dân con bình thường ở Hội thánh thấy Đức Giêsu vẫn quan hệ cởi mở với chúng dân. Nhờ đó, mà cuộc sống công khai của Ngài được mọi người nhận biết rất rõ. Nhận và biết, rằng cung cách sống Chúa thể hiện cụ thể trong đời công khai của Ngài là đứng về phía người nghèo không sợ sệt. Dù, có bị công quyền thách thức và đe doạ, vẫn không sợ. Chính vì thế, Ngài đã bị loại trừ khỏi mọi thế sự bằng cái chết rất nhục nhã, trên thập giá.

Trình thuật thánh Gioan viết về thánh Tôma còn để nói lên việc Chúa Phục Sinh là sự tiếp nối những gì Ngài đã thực hiện trong quãng đời lịch sử do Cha điều động. Tiếp nối cung cách sống khả dĩ khiến con người cần phải có. Trình thuật mở ra cho mọi người thấy nhãn quan rất khác biệt về tương lai của niềm tin nơi Hội thánh. Đó là điểm khác biệt giữa Tin Mừng theo thánh Gioan và Tin Mừng nhất lãm.

Tin Mừng nhất lãm không chú trọng nhiều về “truyền thống Tôma”, tức những khía cạnh nội tâm thâm trầm trong quan hệ với Chúa như Tin Mừng thánh Gioan chủ trương. Nói cách khác, khi lồng vào nội dung của Tin Mừng mình, thánh sử Gioan chấp nhận “con đường chật hẹp”; tức: chọn lựa lập trường trung lập giữa nhóm phái “Ngộ Đạo” và “Chính thống” trong Đạo giáo thời tiên khởi.

Vào thời ấy, đã thấy xuất hiện nhiều nhóm/phái rất khác biệc trong cung cách và lập trường tuyên tín, tuy vẫn tin vào Đức Chúa Phục Sinh. Phải mất một thời gian dài, mãi đến thế kỷ thứ 2 và 3, Antiôkia và Rôma mới đi đến hợp nhất đúc kết thành một hình thái duy nhất của Đạo Chúa. Và từ đó, đã tồn tại qua nhiều thế kỷ. Cũng vì lý do đó, nhiều lúc nhìn về dĩ vãng, ta có khuynh hướng gọi những đường lối khác biệt là “rối đạo”, tức mũ chụp của kẻ chiến thắng tặng cho người chiến bại, trong tranh chấp.

Khi thánh Gioan viết Tin Mừng thứ tư, theo “nguồn mạch Chính thống” mà lúc ấy chưa nổi hẳn, nên thánh nhân được xem như xuất từ nhóm/phái tin vào những trải nghiệm về linh đạo nội tâm hơn các nhóm khác. Và lúc đó, thánh nhân đã ở vào tình huống công nhận và bao gộp một số nhóm phái giống như mình vào giòng chảy niềm tin sâu rộng và phổ cập.

Thánh Gioan chống đối lối suy tưởng của nhóm đích thực “Ngộ Đạo”, là bởi thánh nhân nghĩ rằng các vị ấy đã sai sót về Kinh thánh của người Do thái. Dù thế, thánh nhân vẫn mở rộng cửa cho các vị không thuộc nhóm “Ngộ Đạo” nhưng lại trải nghiệm niềm tin của mình không theo cung cách của truyền thống công khai và những chuyện hoàn toàn mang tính phàm trần, rất trái đất. Và đó là lý do khiến thánh nhân sử dụng truyện thánh Tôma kém lòng tin nhưng lại trải nghiệm riêng tư mật thiết mà nhóm của thánh Tôma là đại diện.

Chính vì thế, ta mới có tài liệu gọi là “Tin Mừng theo thánh Tôma”, hoặc Tin Mừng thứ năm, tuy không được Giáo Hội đưa vào Sách Tân Ước, để ta tin. Việc này xảy đến vào thế kỷ thứ hai, tức: vào thời thánh Gioan còn sống, có lẽ từ miền Đông nước Syria. Tài liệu Tin Mừng này, hoàn toàn không mang tính “rối đạo”, sai sót, cũng chẳng thuộc nhóm “Ngộ Đạo”, nhưng vẫn không thuộc nhóm chính mạch truyền thống theo nghĩa nhất lãm, hoặc nổi lên vào thời sau này của Đạo Chúa.

Dân con Đạo Chúa hôm nay có nhiều phương án khác nhau về niềm tin. Chí ít, là tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Một số vị vẫn còn “ngoài luồng”. Một số thì niềm tin vào Phục sinh đã ngự trị ngay trong tâm can của họ. Dù trong hay ngoài, có lẽ vẫn nên đọc lại truyện thánh Gioan kể về thánh Tôma đến với niềm tin như thế nào. Có đọc lại như thế, ta mới mở rộng vòng tay để cho người anh người chị ở khắp nơi, cả nơi ta đang ở, mới có đất trống để thực sự tin vào sự sống lại. Của Đức Giêsu. Và, của mọi người.

Dù gì đi nữa, ta không thể nào có được niềm tin vững chãi vào sự Sống Lại của Đức Giêsu, nếu không có ánh sáng của Thánh Thần Chúa soi dọi mọi người. Nói cách khác, ta chỉ tin và công nhận Chúa đã Sống Lại theo cung cách nào đó, đều nhờ có Thánh Thần Chúa dẫn dắt, mà thôi.

Xem thế thì, việc Đức Giêsu hiện đến xác định một Sống Lại thật với thánh Tôma hay các môn đồ ở chốn kín cổng cao tường, vẫn là Lễ Hiện Xuống mới rất đích thực, cho mọi người. Nói cho cùng, tin Chúa Sống Lại tức đã tin vào Quyền Uy Sức Mạnh của Thánh Thần Chúa, vào mọi lúc.

Trong tâm tình ấy, ta ngâm lại lời của người từng đấu tranh nhiều cho niềm tin riêng mình, như sau: “Non sông bốn mặt mơ màng,

Thức, chỉ mình ta dạ chẳng an.

Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối,

Gió thu lọt cửa cọ mài chăn.

Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ,

buồn giúp công danh dế dạo đàn.

Trỗi dậy nôm na vài điệu cũ,

Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn.

(Hàn Mặc Tử – Đêm Không Ngủ)

Chúa sống lại, hẳn người người cũng mất nhiều đêm, rất không ngủ. Thức hay ngủ, để nghĩ suy, bằng tâm tình trọn niềm tin nơi Chúa. Chí ít, là niềm tin Chúa Sống lại.

Là, thách thức khiến “dạ chẳng an”. Là, thách thức vẫn chưa tàn, cuộc tình ta vẫn có với Chúa, ở chốn riêng tư hay ngoài mặt. Là tâm tình ta có được, nhờ Thánh Linh giúp trỗi dậy. Hôm nay. Mai ngày. Và, mãi mãi cõi miên trường.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

CHUYỆM PHIỆM ĐỌC TRONG TUẦN THỨ 2 PHỤC SINH năm A 23/4/2017

Trần ngọc mười hai

“Ô kìa, bầy chim bỗng tới líu lo, líu lo sau nhà”

Ô kìa, người yêu bỗng tới tự tình với ta

Ô kìa, Ô kìa kìa vươn hoa bỗng dưng kết hoa, kết hoa muôn màu

Trời xanh mây trắng xóa

Người yêu xinh quá khiến ta bỗng yêu đời.”

(Hoàng Thi Thơ – Ô kìa, đời bỗng líu lo)

(1 Côrinthô 1: 26-31)

 

Ơ hay! Sao anh lại cứ hát những lời “líu lo” hoặc lo toan đến líu cả lưỡi, nên mới thế. Ơ kìa! Líu lo với lo-toan đến độ líu lưỡi, đâu có gì mà phải hát lên như thế. Rồi anh còn hát líu lo, đến “vang rần”, “trời hồng trên má”, rất như sau:

 

“Ô kìa, đàn em bỗng tới hát ca,

hát ca vang rần

Ô kìa, bồ câu bỗng tới tự tình trước sân

Ô kìa, Ô kìa kìa dàn hoa mướp kia bướm ong,

bướm ong la đà

Người yêu duyên đáng quá

Trời hồng trên má khiến ta bỗng yêu đời

Ha! Xin cho ta vui, cơn vui như điên

Xin cho ta say cơn vui hôm nay

có bao giờ đâu

Dù trong phút giây đời ta biết say

Ha! Xin cho ta vui cơn vui đang lên

xin cho ta say cơn vui đang lay

có bao giờ đâu đời ta bỗng vui.”

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

Thôi thì, “có say cơn vui đang lay” hoặc “có bao giờ đâu đời ta bỗng vui”, vẫn là những nhận-định của nhiều người để rồi, tất cả mọi người sẽ cùng với người viết nhạc ca lên những lời cuối như sau:

 

“Ha ha ha, Ô kìa bầy ngan bỗng tới cắn yêu,

cắn yêu chân người

Ô kia người yêu bỗng khóc giận hờn với tôi

Ô kìa, Ô kìa kìa một đôi bướm say lướt bay,

lướt bay trên trời

Người yêu như bối rối,

lặng nhìn không nói khiến tôi bỗng yêu đời

Khiến đời bỗng thành vui.”

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

Đời bỗng thành vui”, đó chính là ý-nghĩa của câu hát vang trong đời, rất thảnh thơi. Đời có “bỗng thành vui” hay không, hãy cứ hỏi han nhiều người xem họ có ý-kiến phản hồi ra như thế nào. Hãy cứ hỏi xem các cụ nhà Đạo mình thấy được những ai “khiến đời bỗng thành vui”, như đấng bậc ở chốn chop bu nhà Đạo, như lời hỏi/đáp được trích dịch, ở bên dưới:

“Thưa Cha,

Trong 4 năm trời Đức Phanxicô đã thực-hiện vai-trò then chốt của ngài rất tốt đẹp. Nhưng, con đây lại nghe có nhiều người kể rất nhiều điều về ngài, như: ngài là vị Giáo hoàng vĩ-đại, thông thoáng, một vị rối đạo hoặc cả đến cuộc bầu bán năm ấy bầu ngài lên, cũng không đúng. Vậy thử hỏi, con đây nên nghĩ thế nào về Đức Giáo Hoàng nhà ta, và phải phản-ứng thế nào với những lời bình như thế? Xin cha giải-thích cho biết”.

 

Cha Đạo nhà mình hễ cứ nghe những lời thưa/gửi líu lo hỏi về những lời kết tội Đức Giáo chủ ra như thế, chắc chắn sẽ thấy ngứa tay quay tít mù, bèn lấy giấy bút trả lời ngay tức thời rằng:

“Vâng. Cả tôi nữa, cũng từng nghe những lời nhận-định như thế bèn hiểu là biết bao nhiêu người đi Đạo của ta cứ lẫn lộn nhiều điều về Đức đương kim Giáo hoàng Phanixô, Đạo mình. Vậy thì, ta nên ứng-xử cách nào đây?

Trước hết, ta không nên đặt những câu hỏi đầy ngờ-vực về tính hiệu-lực khi mật-viện hồng-y họp bàn để bầu cử ngài lên làm Giáo-Hoàng. Mọi việc ngang qua thủ-tục bầu bán hôm ấy đều được thực-thi rất đúng cách. Trong suốt thời-gian này, chẳng có ai thắc-mắc gì về tính hiệu-lực hết; bởi thế, ta cũng không nên làm thế vào lúc này. Thánh Thần Chúa đã tạo hứng khiến các vị hồng-y sáng-suốt đủ để Ngài ban cho ta một vị Giáo-hoàng mà Chúa muốn tặng ban.

Thứ hai là, cho đến hôm nay, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã làm biết bao nhiêu điều tốt đẹp cho toàn-thể Giáo-hội. Ngay từ đầu, ngài đã khiến mọi người trong/ngoài Hội-thánh mến chuộng, từ nụ cười nhẹ-nhàng cho đến cung-cách cởi-mở và lối sống giản-đơn. Ngài tự chọn cho mình chỗ ở để sống thường ngày tại Căn nhà mang tên Mácta ở Vatican, hơn là trú-ngụ tại căn-phòng to tát dành cho các Giáo-hoàng. Làm như thế, là để gần cận chúng-dân hơn.

Rõ ràng là, ngài có lòng thương mến cách đặc-biệt những người nghèo-khổ hoặc bị bỏ rơi bên lề xã-hội. Ngài kêu gọi tình người xót thương hơn là dính cứng với lề luật, và còn nhiều điều tốt đẹp này/khác nữa.

Đức Phanxicô thực-sự nổi tiếng, không chỉ với người Công-giáo mà thôi, nhưng cả với người không theo Đạo Chúa, cũng hệt thế. Ngài là vị Giáo-hoàng đầu tiên mở tài-khoản Instagram vào tháng Ba năm 2016 và đã phá kỷ-lục từ trước đến giờ, với hơn một triệu người theo-dõi trong không đầy 12 tiếng đồng hồ. Tạp chí TIME đã chọn ngài là “Người Của Năm 2013” và nhiều nhà xuất bản khác lại cũng đưa hình ngài lên trang bìa sách/báo của họ nữa.

Đức Phanxicô đem đến cho ta nhiều tông-huấn đáng kể, để đời. Tông-thư đầu tiên do ngài viết có tên là “Lumen Fidei” (tức: “Ánh-sáng Đức Tin”) nói về đặc-trưng của niềm tin, được phát-hành vào tháng 6 năm 2013, tức: chỉ vài tháng rất ngắn sau khi ngài nhậm chức.

Tiếp theo đó, là Tông-thư “Evangelii Gaudium” (tức: “Niềm Vui Tin Mừng”) ban-hành vào dạo tháng 11 cùng một năm 2013, đã tạo lực đẩy lớn và chỉ-dẫn thiết-thực để loan-truyền Lời Chúa cách hữu-hiệu hơn cho thế-giới đặc-biệt ngang qua niềm vui cuộc đời ta đang sống. Loan-truyền Phúc Âm, là trọng-tâm cho sứ-vụ của Giáo-hội  -Đức Giáo Hoàng Phaolô đệ Lục từng viết: Giáo-hội ta hiện-hữu là để truyền-bá Phúc Âm mà thôi.”

Đó là vai-trò sinh-tử của Giáo-hội ta vào lúc này; và Đức Phanxicô lại biến sự việc này thành chủ-đề trọng-yếu trong nhiệm-kỳ Giáo-hoàng của ngài. Cả Tông-thư thứ hai do ngài viết mang tên “Laudato Si” đặt nặng trọng-tâm lên môi-trường sống, tức căn nhà chung của chúng ta, cũng đã xuất-hiện vào tháng Sáu năm 2015.

Tông-thư ngài viết, được mọi người tuyên-dương cách rộng rãi, nói lên nhu-cầu của ta là những người có bổn-phận chăm-nom cho hành-tinh nhỏ bé do Chúa tặng ban cho con người. Vấn-đề này cũng quan-trọng không kém vào thời buổi này, nhưng vẫn có nhiều nhà bình-luận đã nắm bắt một số ý-kiến phát-biểu qua sự thể là: ta có thể tỏ ý bất-đồng quan-điểm với Đức Giáo Hoàng, cũng không sao.

Sự thật thì, trong bất kỳ trường-hợp nào, ta cũng đã bỏ qua giáo-huấn nòng-cốt, bất diệt là như thế. Một trong các mục-tiêu lớn nhất mà những người chỉ-trích Đức Phanxicô thường hay nhắm đến, là: Tông-thư “Amoris Laetitiae” vốn bàn về chuyện gia-đình, được ban-hành vào tháng Tư năm 2016 vừa qua…

Hỏi rằng: Đức Phanxicô có là vị Giáo-hoàng tự-do/ phóng-khoáng hay không? Thì, thiết tưởng, ta cũng không nên áp-đặt các cụm-từ chính-trị như thế với bất cứ vị Giáo hoàng nào cũng vậy. Đơn-giản là, đừng nên đánh giá ngài theo cung-cách chính-trị, rất không tốt. Bởi, nếu tự-do/phóng-khoáng là người biết lo cho người nghèo/khổ, đau yếu, bệnh-tật và cao-niên, tị-nạn, người sống ngoài lề xã-hội và môi-trường sống, thì đúng thế, Đức Giáo hoàng Phanxicô là người như thế, rất phóng-khoáng.

Thế nhưng, những gì có thể bảo-thủ hoặc theo truyền-thống hơn như ngài từng lặp đi lặp lại rất nhiều lần về ác-thần/sự dữ đang hiện hữu, về nhu-cầu cần xưng-thú lỗi tội, về lòng đạo-đức sốt sắng đến với thánh cả Giuse, với Đức Mẹ và Tiệc Thánh Thể, cũng như duy-trì giáo-huấn của Hội-thánh chủ-trương kế-hoạch-hoá sinh-sản, phá thai và sự việc không thể truyền-chức linh mục cho nữ-giới ?

Có điều chắc chắn phải nói ở đây, tức: Đức Phanxicô không hề là bè rối. Không có gì chứng-tỏ Ngài là như thế, đến bây giờ. Có thế nói, nhiều lúc rất nhiều người không hiểu rõ ý của ngài, nhưng tuyệt nhiên ngài không bao giờ là kẻ rối đạo hết.

Có điều tốt, là ta phải thực-hiện cho bằng được là lời ngài thường xuyên thúc-giục mọi người trong Đạo “Hãy cầu nguyện cho Cha”. Bởi, nếu có ai ưu-tư nhiều về đường-hướng mà Đức Phanxicô đang theo-đuổi vấn-đề nào đó cách đặc-biệt hoặc vui thích về những gì ngài đang làm, thì tốt hơn hết là ta cũng nên nguyện cầu cho ngài. Đó là cách hay nhất để giúp ngài, vào lúc này.” (Xem Lm John Flader, Question time: Four years with Pope Francis: A Pontificate filled with surprises, The Catholic Weekly 02/4/2017 tr. 20)

Nói cho cùng, thì: vấn đề được người hỏi đưa ra ở đây, đâu phải là những ngỡ-ngàng từ vị Giáo chủ nổi cộm, này đâu. Có lẽ, vì quá nổi cộm nhờ vai-trò làm chủ cả một nhóm/hội đông đến hàng tỷ người, thì Đức Ngài cũng không tài nào tránh được các nhận-xét có hơi quá đáng, và đôi lúc cũng hơi “quá lời”, mà thôi.       

Nổi cộm nhờ vai-trò làm chủ cả một Giáo-hội, đôi lúc cũng vì mọi người dưới trướng cứ quan niệm rằng: Đức Ngài vốn dĩ “vô ngộ” nên hễ cứ nói lên lời nào cũng thành sự thật cả. Lời ấy, không bao giờ sai, quấy.

Nay, nhân có những lời phẩm bình về Đức Giáo Chủ Phanxicô, tưởng cũng nên coi lại và suy-nghĩ thêm xem Đức Ngài có “vô ngộ” hay không? Dù, ngài có ngồi trên ghế bành Toà Thánh mà phán với đoán. Về điểm này, nay cũng nên tìm lại các chi-tiết được viết trong bản văn Công Đồng Vatican 1 năm 1870 từng bảo rằng:

“Đức Giám-mục Giáo-phận La Mã, khi ngài ngôi trên ghế tông-toà để phán-bảo điều gì, thì đó là lúc ngài sử-dụng quyền-hành của đấng chăn-dắt và dạy dỗ hết mọi tín-hữu Đức Kitô như một giáo-thuyết của niềm tin hoặc đạo-đức mà toàn-thể Giáo-hội sẽ theo đó mà thi-hành. Và, điều đó có sự giúp-đỡ của Thiên-Chúa đã hứa ban cho ngài ngang qua thánh Phêrô là người có đặc-tính bất khả ngộ và kết-quả là: các phán-quyết của Đức Giám-mục Giáo-phận La Mã không thể nào lật ngược được….”  (X. The Catholic Encyclopedia tập 7, chữ “Infallibility” tr. 976)

Đành rằng, đặc-trưng “bất khả ngộ” của Đức Giáo-chủ là “không thể lật ngược” được, nhưng trong lịch-sử Giáo hội Công-giáo, cũng thấy nhiều vị Giáo-hoàng đã bất đồng ý-kiến với nhau, đến độ các ngài không tin là những gì vị tiền-nhiệm mình đề-cập, là “vô ngộ” hết. Chẳng thế mà, Tự-điển bách khoa Công-giáo lại cũng viết thêm như sau:

 

“Vị Giáo hoàng kế-nhiệm Đức Formosus là Stêphanô VI (896-897) đã ra lệnh cho một thày dòng đi lấy thi-hài của vị Giáo-hoàng trước đó là Đức Formosus (891-896) từ sông Tiber, nước Ý đem về phục hồi chức-danh đấng kế-thừa ngai vàng thánh Phêrô. Ít năm sau, tại một buổi họp thượng đỉnh, vị Giáo hoàng này đã huỷ bỏ các quyết-định từng có vào thời tông-toà Stêphanô VI và tuyên-bố là mọi lệnh-truyền do Đức Formosus khi trước đã ban, đều có hiệu-lực…” (Xem thêm Ralph Woodrow, Are Popes Infallible?, Babylon Mystery Religion 1981, tr.100)

Nói tóm lại, “vô ngộ” hoặc “bất khả ngộ” là đặc-trưng quyền-hành của các Đức Giáo-chủ. Nhưng, thông-thường thì, ngày nay, ít có vị nào lại sử-dụng quyền ấy, hoặc cho rằng mình nắm vững chân-lý, cả khi đề-cập đến tín-lý hay tín-điều nữa.

Nói cho cùng, có là nhân-vật nổi cộm hay nổi tiếng thế nào đi nữa, tưởng cũng nên đề-nghị bạn, đề-nghị tôi, ta trở về với trích-đoạn của bài hát với những lời như:

“Ô kìa, đàn em bỗng tới hát ca, hát ca vang rần

Ô kìa, bồ câu bỗng tới tự tình trước sân

Ô kìa, Ô kìa kìa dàn hoa mướp kia bướm ong,

bướm ong la đà

Người yêu duyên đáng quá

Trời hồng trên má khiến ta bỗng yêu đời

Ha! Xin cho ta vui, cơn vui như điên

Xin cho ta say cơn vui hôm nay

có bao giờ đâu

Dù trong phút giây đời ta biết say

Ha! Xin cho ta vui cơn vui đang lên

xin cho ta say cơn vui đang lay

có bao giờ đâu đời ta bỗng vui.”

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

 

Hát thế rồi, nay cũng nên đi vào vùng trời lời đấng thánh hiền ở nhà Đạo để có thêm một hỗ trợ về đạo giáo, rằng:

“Anh em thử nghĩ lại xem:

khi anh em được Chúa kêu gọi,

thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời,

đâu có mấy người quyền thế,

mấy người quý phái.

Song, những gì thế-gian cho là điên dại,

thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan,

và những gì thế gian cho là yếu kém,

thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh.”

những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có,

thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có,

hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người.

Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa

mà anh em được hiện hữu trong Đức Kitô Giêsu,

Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta,

sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa,

Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính,

đã thánh hoá và cứu chuộc anh em,

hợp như lời đã chép rằng:

Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa.

(1Corinthô 1: 26-31)

Nghe thế rồi, nay đề nghị bạn và tôi, ta lại sẽ đi vào vùng trời truyện kể có những điều để kể như sau:

“Chim Chiền Chiện làm tổ trên một cánh đồng lúa mì non. Ngày ngày trôi qua, khi những thân lúa đã vươn cao thì bầy chim con mới nở ngày nào, đã lớn nhanh như thổi. Rồi một ngày, khi lúa những ngọn lúa chín vàng đung đưa trong gió, Bác aNông Phu và những người con đi ra đồng.

Bác Nông Phu nói:

-Lúa này bây giờ gặt được rồi đây. Chúng ta phải kêu cả những người hàng xóm và bạn bè đến giúp cho chúng ta thu hoạch.”

Bầy chim Chiền Chiện con trong tổ ngay sát đó nghe vậy hết sức sợ hãi, vì chúng biết rằng chúng sẽ gặp nguy lớn nếu không kịp dời tổ trước khi thợ gặt đến. Khi chim Chiền Chiện Mẹ kiếm ăn trở về, lũ chim con kể lại cho mẹ những gì chúng nghe được. Chiền Chiện mẹ nói:

-Đừng sợ, các con ạ. Nếu Bác Nông Phu bảo rằng ông ấy sẽ kêu hàng xóm và bạn bè của ông đến giúp, thì đám lúa này cũng còn một thời gian nữa mới gặt được.

Vài ngày sau, khi lúa đã quá chín và khi có gió lay động thân lúa, một loạt các hạt lúa rào rào rơi xuống đầu lũ Chiền Chiện con.

Bác Nông Phu bảo:

-Nếu không gặt gấp đám lúa này, chúng ta sẽ thất thoát đến cả nửa vụ mùa. Chúng ta không thể chờ đợi bạn bè được nữa. Ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu tự gặt lấy.

Khi lũ Chiền Chiện con kể lại với mẹ những gì chúng nghe ngày hôm nay, nó bảo:

-Thế thì mình phải dọn tổ đi ngay. Khi người ta đã quyết định tự mình làm mà không trông nhờ vào ai khác nữa, thì chắc chắn là họ chẳng trì hoãn gì nữa đâu.

Cả nhà chim tíu tít lo bay tới bay lui dọn tổ đi ngay buổi trưa đó, và đến khi mặt trời mọc sáng hôm sau, lúc Bác Nông Phu và những người con ra đồng gặt lúa, họ chỉ gặp một cái tổ rỗng không. ”

Và lời bàn của người kể những nói rằng:

“Trong cuộc sống, khi đã quyết định tự mình làm việc gì, đừng quá trông mong vào sự giúp đỡ người khác. Tự cứu mình là tốt nhất.” (truyện do St sưu tầm trên mạng vi-tính).

 

Kể và đọc những lời bàn như thế, cũng chỉ để bảo nhau và hát cho nhau những lời sau đây:

“Ô kìa, bầy chim bỗng tới líu lo,

líu lo sau nhà”

Ô kìa, người yêu bỗng tới tự tình với ta

Ô kìa, Ô kìa kìa vươn hoa bỗng dưng kết hoa,

kết hoa muôn màu

Trời xanh mây trắng xóa

Người yêu xinh quá khiến ta bỗng yêu đời.”

(Hoàng Thi Thơ – Bđd)

Và lời cuối hôm nay, vẫn là những lời dặn dò: hãy cùng nhau ca hát nhiều hơn là bình-phẩm về ai đó, thì tốt hơn. Bởi, dù có phẩm-bình hoặc chê trách cách nào đi nữa, ta cũng chẳng bao giờ xây dựng được việc gì, dù có gọi đó là “góp ý”, “để xây dựng” hay sao đó, cũng đều thế.

Trần Ngọc Mười Hai

Với đề nghị giản-đơn

là luôn hát những lời như:

Ô kìa, người yêu bỗng tới

tự tình với ta,

dù xa lạ hay quen biết.

TẠI SAO QUAN TÂM CHÚA GIÊSU PHỤC SINH?

Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ từ ccci.com)

Càng ngày càng có nhiều người lưu tâm con người lịch sử Giêsu Nadarét.  Với một người bị người ta ghét cay ghét đắng đến nỗi giết chết mà tại sao ngày nay người ta vẫn quan tâm tới cuộc đời và các giáo huấn của Ngài như vậy?

Điều Phát Hiện

Mọi điều về Ngài đều xảy ra chính xác: Các lời tiên tri về việc Ngài đến, sinh ra, cuộc sống, giáo huấn, phép lạ, sự chết, và nhất là sự sống lại của Ngài.  Đó là các sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại.

Hiệu quả chính xác về chính Ngài đối với sự Phục Sinh – dù Ngài đã sống lại từ cõi chết hay vẫn còn trong mộ đá.  Nhiều người đa nghi nói rằng tin vào Đức Kitô phục sinh không gì hơn chỉ là “bước nhảy mù quáng của niềm tin vô căn cứ.”

Tuy nhiên, khi đối diện với các sự kiện này, những người chân thật một cách thông minh đã phải chân nhận rằng sự phục sinh của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử dựa trên các chứng cớ không thể bác bỏ.

Trên hành trình tâm linh từ không biết gì tới lúc tin vào Đức Kitô, người ta có vấn đề về sự phục sinh.  Nhưng xét kỹ thì chúng ta thấy sức thuyết phục rằng sự sống lại về thể lý là lời giải thích duy nhất về ngôi mộ trống, nơi đã mai táng thi hài Đức Kitô.

Đây là vài chứng cớ lịch sử khiến tâm phục khẩu phục:

Chứng Cớ Phục Sinh

  • Đức Kitô đã báo trước việc Ngài phục sinh. Kinh thánh nói: “Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16:21). Mặc dù những người theo Ngài không hiểu Ngài nói gì với họ lúc đó, nhưng họ vẫn ghi nhớ lời Ngài.
  • Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với những người theo Ngài. Ngài an ủi những người than khóc bên ngoài mộ vào sáng Chúa Nhật. Trên đường đi Emmaus, Ngài đã giải thích những điều nói về chính Ngài từ Cựu Ước.  Sau đó, Ngài ăn uống trước mặt họ và mời họ chạm vào Ngài.  Kinh thánh nói rằng Chúa Giêsu được hơn 500 người thấy một lúc.  Một số người có thể cho rằng chỉ có một số ít người đồng ý với sự dối trá đó, nhưng làm sao người ta có thể giải thích về sự cộng tác của 500 người đó?
  • Đức tin kiên cường của các Tông đồ đủ thuyết phục chúng ta về việc Chúa Giêsu phục sinh. Các Tông đồ này đã từng sợ hãi mà bỏ trốn và chối bỏ Thầy, nhưng nay họ can đảm công bố tin vui này, rao truyền mà không sợ chết. Hành động kiên cường và can đảm của họ sẽ vô nghĩa nếu họ không biết với sự chắc chắn tuyệt đối rằng Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
  • Sự phát triển của Kitô giáo đủ xác minh Chúa Giêsu phục sinh. Bài giảng đầu tiên của ông Phêrô, nói về sự phục sinh của Chúa Giêsu, đã khiến người ta tin nhận Đức Kitô là Đấng Cứu Độ hằng sống của họ. Thánh Luca cho biết một con số kỷ lục: “Hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo” (Cv 2:41).  Cho tới nay, số người tin đó càng ngày càng tăng thêm trên khắp thế giời.  Ngày nay, có hàng tỷ người tin.
  • Chứng cớ của hàng tỷ người đã thay đổi đời sống qua các thế kỷ qua cho thấy sức mạnh của Đức Kitô phục sinh. Nhiều người đã bỏ được các chứng nghiện. Những người nghèo khổ và những người thất vọng đã tìm được niềm hy vọng.  Những cuộc hôn nhân đổ vỡ đã được hàn gắn.  Chứng cớ thuyết phục nhất về sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô là ngày nay Ngài vẫn đang sống giữa những người tin vào sự sống lại và sức mạnh hoán cải.

Sự Phục Sinh làm cho Kitô giáo trở nên đặc biệt.  Chưa có một vị lãnh đạo tôn giáo nào đập tan sức mạnh của Tử thần và chiến thắng tội lỗi như Đức Giêsu Kitô.

Tầm Quan Trọng Của Sự Phục Sinh

Sự Phục Sinh xác nhận rằng Chúa Giêsu là Đấng mà chính Ngài đã tuyên bố.  Chúng ta hãy cân nhắc tầm quan trọng của sự kiện này:

  • Sự Phục Sinh chứng tỏ rằng Đức Kitô là Thiên Chúa. Việc Chúa Giêsu chết trên Thập Giá không chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa. Chúa Giêsu chứng tỏ thần tính của Ngài bằng việc hoàn tất các lời tiên tri về cái chết của Ngài và bằng việc Ngài trỗi dậy từ trong mộ.  Kinh thánh tuyên bố: “Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1:4).
  • Sự Phục Sinh chứng tỏ quyền năng của Đức Kitô trong việc tha tội. Kinh thánh quả quyết: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cr 15:17). Qua việc sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng và quyền lực phá vỡ mối ràng buộc của tội lỗi, bảo đảm ơn tha thứ và sự sống đời đời cho những ai tin vào Ơn Cứu Độ của Ngài.
  • Sự Phục Sinh mặc khải quyền lực của Đức Kitô đối với sự chết. Kinh thánh cho biết: “Một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người” (Rm 6:9). Sự Phục Sinh bảo đảm chúng ta cũng chiến thắng sự chết: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:6).
  • Sự Phục Sinh đánh bại kẻ thù của Thiên Chúa. Từ cuộc nổi loạn đầu tiên cho đến Thập Giá, ma quỷ đã nham hiểm đấu tranh và xảo quyệt muốn lật đổ Thiên Quốc. Satan phải biết rằng nó đã bị một đòn chí tử trong cuộc chiến xưa kia.  Nhưng cuộc chiến này là sự tính toán sai lầm của ma quỷ.  Thập Giá là chiến thắng của Nước Trời.  Khi Đức Kitô sống lại, quyền lực của tội lỗi và Tử thần đã bị đập tan vĩnh viễn.  Nhờ sự Phục Sinh của Đức Kitô, các Kitô hữu không còn sợ Satan hoặc Tử thần nữa!

Hoàn Tất Ơn Cứu Độ

40 ngày sau khi Chúa Giêsu chết và sống lại, Ngài đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ.  Có lần Ngài quy tụ 11 môn đệ (không còn Giuđa) trên núi tại Galilê và trao cho họ sứ vụ quan trọng.  Ngài nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.  Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.  Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:18-20).

Rồi sau đó, sách Công vụ nói: “Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.  Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.  Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:4-5, 7-8).

Ngay sau đó, Ngài lên trời và biến vào trong đám mây, để các môn đệ ngơ ngẩn nhìn theo.  Chúa Giêsu lên trời là hành động cuối cùng trong công cuộc cứu độ.  Sứ vụ của Ngài hoàn tất, Đức Giêsu Kitô được tán dương và vinh quang.  Sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô là sự kiện cách mạng nhất trong lịch sử nhân loại.

Người ta không thể từ chối rằng Ngài đã làm rung động thế giới khi Ngài làm người trên thế gian.  Nhưng cuộc đời Ngài đã hình thành lịch sử cả trong thời đại chúng ta.  Sự Phục Sinh là minh chứng cuối cùng rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng mà chính Ngài đã tuyên bố.

Nhân chứng sống của chàng trai trẻ Gioan, người luôn kề cận Chúa Giêsu và chứng kiến từ đầu tới cuối, ngay cả khi đứng dưới chân Thập Giá, đã viết: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra.  Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực.  Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (Ga 21:24-25).

THI CA CẦU NGUYỆN

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH. A

KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

(Ga 20, 19-31)

 

ĐỨC TIN.

Chiều ngày thứ nhất trong tuần,

Cửa nhà đóng kín, quây quần bên nhau.

Tông đồ lo lắng buồn đau,

Tinh thần hoảng sợ, núp sau người đời.

Giê-su hiện đến diệu vời,

Bình an chúc phúc, cho người mến tin.

Cạnh sườn đâm thấu trái tim,

Chân tay lủng lỗ, ngắm nhìn Thầy đây.

Vui mừng xem thấy dấu nầy,

Thổi hơi phán bảo, ban đầy ơn thiêng.

Thánh Thần ân sủng thiêng liêng,

Cầm quyền tháo cởi, ơn riêng chúc lành.

Tô-ma vắng mặt khuyết danh,

Mong chờ Chúa đến, thi hành thanh minh.

Không tin Chúa đã phục sinh,

Đòi tìm dấu lạ, chứng minh rõ ràng.

Tám ngày tụ họp ngỡ ngàng,

Chính Thầy đứng giữa, bàng hoàng xác thân.

Tô-ma xem thấy thân trần,

Dục lòng tin kính, tinh thần lạc an.

Chúa Phục sinh là một sự kiện vượt ra ngoài trí hiểu của con người. Phần linh thiêng thì vượt giới hạn của khoa học thực nghiệm. Khi nghe Chúa sống lại, người ta không khỏi bỡ ngỡ. Có người cho đó là điều hoàn toàn vô lý. Vô lý thật, đối với suy tưởng của con người vô thần. Thoạt đầu các tông đồ của Chúa cũng đã có những người nghi ngờ và hoang mang.

Chúa sống lại đã hiện ra nhiều lần với nhiều nhóm người khác nhau. Chúa đã hiện ra để củng cố niềm tin cho các ông. Cho dù các tông đồ đã được báo trước, được chỉ dậy cặn kẽ, được chứng kiến nhiều phép lạ Chúa đã làm, nhưng các tông đồ không thể hiểu. Các ông có niềm tin nơi Chúa, nhưng các ông cũng cần có những bằng chứng cụ thể. Tông đồ Tôma nhất định không tin nếu ông không được xỏ ngón tay vào lỗ đinh nơi bàn tay thương tích của Thầy.

Nghe tin Chúa sống lại, nhiều tông đồ nghĩ đó là truyện hoang tưởng. Có tông đồ đã chán nản bỏ đoàn trở về quê nhà lo sinh sống. Có ông ở lại đóng kín cửa trong sự sợ hãi trốn lánh. Sự kiện Chúa sống lại không dễ thuyết phục niềm tin của các tông đồ. Từng bước Chúa đã xuất hiện để qui tụ, gặp gỡ và chia xẻ với họ. Niềm tin lớn dần. Chính nhờ sự nghi ngờ và hoang mang đã dẫn đưa các tông đồ tới niềm xác tín vào sự sống lại của Chúa. Sau cùng các ngài đã trở thành những chứng nhân hùng hồn nhất. Hầu hết các ngài đã lấy chính sự sống mình để chứng minh niềm tin vào Chúa Kitô sống lại.

Chúng ta lãnh nhận đức tin qua Giáo Hội. Đức tin là một ân huệ và cũng là một hạt giống được gieo vào tâm hồn. Hạt giống đức tin cần được biến đổi, nẩy mầm và phát triển để sinh hoa kết quả trong cuộc sống. Có người nói rằng đi đạo tại tâm, đạo tại trong lòng. Không cần phải tham dự thánh lễ hay sinh hoạt đạo giáo gì cả. Thánh Giacôbê nói rằng: Đức tin không việc làm là đức tin chết. Thánh Tôma đã nghi ngờ Chúa đã sống lại và đòi Chúa cho dấu chỉ. Chúa  đã cho ông thấy bàn tay và cạnh sườn bị đâm thâu. Ông thấy và ông đã tin. Tiếp theo Chúa Giêsu phán rằng phúc cho ai không thấy mà tin.

Chúng ta thừa huởng kho tàng niềm tin qua Giáo Hội và qua các chứng nhân anh hùng tử đạo. Các ngài đã đổ máu đào chứng minh vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta đặt niềm tin tưởng nơi Chúa, chúng ta sẽ không bị thất vọng. Vì Chúa là sự sống và là sự sống lại. Hy vọng cùng đích của cuộc đời chúng ta là được kết hợp với Chúa trong sự sống đời đời.

 

THỨ HAI, TUẦN 2 PHỤC SINH

(Ga 3, 1-8).

TÁI SINH

Ban đêm thăm viếng âm thầm,

Ni-cô-đê-mô, uyên thâm đạo đời.

Gặp riêng đối thoại đôi lời,

Chúng tôi nhận biết, Ngôi Lời Chúa Cha.

Thầy làm dấu lạ đuổi tà,

Quyền năng phép tắc, thứ tha tội tình.

Chúa khuyên dạy bảo tâm linh,

Tái sinh bởi nước, Thần Linh đổi đời.

Ăn năn sám hối gọi mời,

Sinh làm con Chúa, Nước Trời ngợi ca.

Con người huyết nhục sinh ra,

Thuộc về địa giới, phôi pha thế trần.

Thánh Thần đổi mới canh tân,

Tuôn trào ân sủng, tinh thần lạc an.

Hồn thiêng Chúa Cả thương ban,

Cứu hồn chữa xác, yên hàn phúc thay.

THỨ BA, TUẦN 2 PHỤC SINH

(Ga 3, 7-15).

THẦN LINH

Con người sinh lại bởi trời,

Tái sinh ân sủng, đổi đời Thánh Linh.

Kìa cơn gió thổi vô hình,

Từ đâu đi đến, Thần Linh rạng ngời.

Ni-cô-đê-mô gọi mời,

Nhìn sâu hiểu thấu, mọi lời truyền rao.

Thánh Kinh minh chứng từ cao,

Các ông không hiểu, biết bao nhiệm mầu.

Những điều dưới đất nông sâu,

Cũng chưa hiểu thấu, mọi khâu trong đời.

Nói chi những sự trên trời,

Làm sao tin được, cao vời biết bao.

Con Người đến bởi trời cao,

Ngước lên thượng giới, trăng sao hải hà.

Môi-sen treo rắn trên đà,

Người treo thập giá, mưa sa phúc lành.

THỨ TƯ, TUẦN 2 PHỤC SINH

(Ga 3, 16-21).

SỰ SÁNG

Chúa ban Con Một cứu tinh,

Hạ thân giáng thế, hiến mình vì yêu.

Tiến dâng của lễ toàn thiêu,

Ai tin sẽ sống, huyền siêu muôn đời.

Con Người không đến trong đời,

Để mà luận phạt, loài người thế gian.

Chúa là ánh sáng tỏa lan,

Soi vào đêm tối, sẻ san phúc lành.

Người đời cứ mãi tranh dành,

Đi trong bóng tối, thực hành xấu xa.

Đến cùng sự sáng chan hòa,

Sống theo sự thật, bao là phúc ân.

Tâm thành sáng tỏ tinh lân,

Soi đường dẫn lối, thiện chân mỹ hoàn.

Lòng đầy phấn khỏi hân hoan,

Suy cùng nghĩ thấu, thành toàn hướng lên.

THỨ NĂM, TUẦN 2 PHỤC SINH

(Ga 3, 31-36).

THIÊN SAI

Từ cao Chúa ngự xuống trần,

Vượt trên nhân loại, muôn phần cao siêu.

Con Người nhân chứng tình yêu,

Hiến thân tế lễ, toàn thiêu cứu đời.

Nhiều người chối bỏ Ngôi Lời,

Ngoảnh tai quay mặt, một thời chối chê.

Không tin chẳng nhận lời thề,

Chối từ Con Chúa, si mê lỗi lầm.

Điều gì Người thấy giáng lâm,

Tai nghe làm chứng, âm thầm phát huy.

Thiên Sai chân thật uy nghi,

Thần linh khôn sánh, thực thi công bình.

Truyền rao sự thật quang vinh,

Mến yêu nhân loại, sinh linh trong đời.

Ai tin Thiên Chúa cao vời,

Thông ban sự sống, muôn đời cõi thiên.

THỨ SÁU, TUẦN 2 PHỤC SINH

(Ga 6, 1-15).

HÓA BÁNH

Đám đông dân chúng theo Người,

Mong tìm phép lạ, nghe lời truyền rao.

Cảm thương thống khổ khát khao,

Động lòng thương xót, Chúa trao phúc lành.

Nuôi hồn dưỡng xác lòng thanh,

Biến năm chiếc bánh, hóa thành đầy dư.

Tạ ơn Chúa rất nhân từ,

Hai con cá nhỏ, cũng như bánh dầy.

Năm ngàn tín hữu nơi đây,

Ăn no thỏa thích, xum vầy ngợi ca.

Chúa rằng thu góp rườm sa,

Được mười hai thúng, gom ra còn thừa.

Hồng ân chan chứa như mưa,

Tràn trề phúc lộc, từ xưa ngập tràn.

Tiên tri giáng thế trần gian,

Là Vua cao cả, trao ban cho đời.

THỨ BẢY, TUẦN 2 PHỤC SINH

(Ga 6, 16-22).

GIÓ BIỂN

Lên thuyền rời bến chiều hôm,

Bên kia bờ biển, gió nồm thổi qua.

Cuồng phong sóng biển bao la,

Sóng trào nước cuốn, hải hà nguy nan.

Giữa khơi chèo chống ngút ngàn,

Bơ vơ lạc lõng, giữa màn đêm thâu.

Tông đồ môn đệ buồn sầu,

Lênh đênh giữa biển, tìm đâu nương nhờ.

Đang khi khốn đốn vật vờ,

Kia xem ai đó, lững lờ trên không.

Bước trên mặt nước nhẹ bông,

Tiến gần bước tới, bên hông mạn thuyền.

Thầy đây, đừng sợ hão huyền,

Quyền năng phép tắc, Thầy khuyên vững vàng.

Thuyền bè cập bến bình an,

Thầy trò gặp gỡ, dân làng mừng vui.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York

Ý NGHĨA CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Lm Giuse Maria Nguyễn Huy CRM

Chúa Nhật 2 Phục Sinh – Đại Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa

“Thiên Chúa giàu lòng thương xót” (Ep 2,4).

Nếu không có Lòng Thương Xót Chúa thì sự gì sẽ xảy ra?

– Thứ nhất: Không có ơn cứu độ.

– Thứ hai: Trái đất sẽ trở thành hỏa ngục.

Vì sao vậy?

Vì có công thì thưởng, có tội thì phạt. Đó là lẽ thường.

Vì ở đâu có tội lỗi, ở đó có hình phạt.

Vì ở đâu mắt đền mắt, răng đền răng thì tất cả mọi người trên trái đất đều mù, móm hết (Mt 5,38). Đó là công bằng.

Nhà văn Nga A.Bôgômôlết viết: “Khi tình thương ra đi thì trái đất trở thành hầm mộ”.

Giáo hoàng Phanxicô nói: “Có thể là một Kitô hữu mà không có lòng thương xót không?

Không. Không. Không. Người Kitô hữu nhất thiết phải có lòng thương xót. Nếu không có lòng thương xót thì không còn là người Kitô hữu nữa”.

“Phúc cho ai có lòng thương xót vì họ sẽ được thương xót” (Mt 5,7).

Phải nói là tất cả các thánh đều là kết quả của Lòng Thương Xót Chúa.

Nhờ Lòng Thương Xót Chúa mà các tội nhân đều nên thánh.

Nhờ Lòng Thương Xót Chúa mà tên trộm lành đã lên thiên đàng ngay trong ngày chết (Lc 23,43).

“Kẻ tội lỗi càng nhiều tội bao nhiêu, thì kẻ ấy càng có quyền đón nhận Lòng Thương Xót của Ta bấy nhiêu” (Lời Chúa phán cùng Thánh Nữ Faustina).

Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ có tội.

 

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*