• Vua các Vua- Lm Đan Vinh
  • Vua chân lý- JM. Lam Thy ĐVD
  • Phiên tòa bất công-Lm Tạ Duy Tuyền
  • Đây là Vua dân Do Thái-Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, dcct
  • Chúa Kitô Vua vũ trụ-Lm. Anthony Trung Thành
  • Chúa Kitô là Vua-Lm Petrus Nguyễn Văn Hương

VUA GIÊSU: VỊ MỤC TỬ NHÂN ÁI

Lm Đan Vinh, HHTM

HIỆP SỐNG TIN MỪNG-

CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN C

LỄ CHÚA GIÊSU VUA

2 Sm 5,1-3 ; Cl 1,12-20 ; Lc 23,35-43

VUA GIÊSU: VỊ MỤC TỬ NHÂN ÁI

I-HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Lc 23,35-43

(35) Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lanh thì buông lời chế nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn”. (36) Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống, (37) và nói: “Nếu ông là vua dân Do thái, thì cứu lấy mình đi! (38) Phía trên đầu Người có bản án viết: “Đây là Vua người Do thái”. (39) Một trong hai tên gian phi bị treo trên thap giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”. (40) Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà có Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! (41) Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!”. (42) Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi! Khi vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (43) Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh: Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng”.

  1. Ý CHÍNH: Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu trên thập giá như một ông Vua ngự trên ngai vàng của mình. Hầu hết những kẻ hiện diện vì đã quen với hình ảnh một ông vua trần tục nên không nhận ra Đức Giêsu là Vua Mêsia: Dân chúng thì im lặng đứng nhìn. Các đầu mục Do thái thì lên tiếng cười nhạo. Lính tráng cũng chế giễu Người. Trên đầu Người có bản án viết như sau: “Đây là Vua người Do thái”. Hai tên gian phi thì một tên không tin đã nhục mạ Người, còn kẻ tin thì bênh vực và cầu xin Người thương xót nên cuối cùng anh là người đầu tiên đã nhận được ơn cứu độ của Người.
  2. CHÚ THÍCH:

– C 35-38: + Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời chế nhạo: Khi đối diện với thập giá của Đức Giêsu, dân chúng thì ngỡ ngàng đứng nhìn hậu quả của việc mình đã về hùa với kẻ mạnh mà lên án bất công cho người công chính. Còn các đầu mục Do thái thì hả hê vì đã hạ gục được một kẻ dám chống lại họ. + Là Đấng Kitô: Kitô (Christos) là tiếng Hy Lạp, tương đương với từ Mêsia trong tiếng A-ram hay Do thái. Cả hai từ Mêsia và Kitô đều có nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu”. Xức dầu là một nghi thức tấn phong, giống như Sa-mu-en đã xức dầu phong cho Đa-vít làm Vua (x. 1 Sm 16,13) ; như Môsê đã xức dầu phong A-a-ron làm Tư tế (x. 1 V 19,16) ; như Êlia được lệnh xức dầu phong Ê-li-sê làm Ngôn sứ thay thế mình (x. 1 V 19,16; Is 61,1). + Là người được tuyển chọn: Đây là tước hiệu đã được Chúa Cha xác nhận trước mặt ba môn đệ khi Người hiển dung (x. Lc 9,35), phù hợp với lời tuyên sấm của Isaia về Đức Giêsu là người Tôi Trung, được Thiên Chúa tuyển chọn để thực hiện công trình cứu độ, nhưng lại bị người đời khinh dể (x. Is 42,1). + Lính tráng cũng chế giễu Người: Lính tráng ở đây là binh sĩ Rôma. Chúng thi hành án lệnh của quan Tổng trấn Philatô đóng đinh Đức Giêsu. Bọn lính này cũng vào hùa với các đầu mục Do thái chế giễu nhục mạ Người. + Chúng lại gần đưa giấm cho Người uống: Giấm là một thứ nước có pha giấm chua gọi là Pos-ca mà lính Rôma hay dùng. + Đây là Vua người Do thái: Câu này do quan Philatô truyền viết gắn lên thập giá như một bản án. Ngày nay trên cây Thánh Giá, ta thấy có chữ INRI, là chữ viết tắt của câu tiếng La tinh: “JESUS NAZARETH REX JUDEORUM”, nghĩa là: “Giêsu Na-da-rét Vua dân Do thái” (x. Ga 19,19).

– C 39-41: + “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”: Tên gian phi này đã nghĩ Đức Giêsu chỉ là một ông Vua Thiên Sai giả, không thể làm được những điều kỳ diệu, nên đã lên tiếng chế giễu Người. Đây cũng là cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa, yêu cầu Người làm phép lạ phục vụ cho mình, giống như ma quỷ đã cám dỗ Người lúc Người bắt đầu rao giảng Tin mừng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy”… (Lc 4,3). Dân làng Na-da-rét cũng có lần đã cám dỗ Người như thế (x. Lc 4,23). + Nhưng tên kia mắng nó…: Chỉ Tin mừng Luca mới nhắc đến thái độ khác biệt của người gian phi có lòng sám hối này.

– C 42-43: + Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!: Trong hoàn cảnh đau thương như vậy thì lời bênh vực và kêu xin của người gian phi, dù có yếu ớt, nhưng cũng an ủi Người rất nhiều. Người đã lập tức tha tội và hứa ban hạnh phúc Thiên đàng cho anh. Thật đúng như lời Người đã nói: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). + “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng”: Đối với một số người Do thái thì Thiên Đàng là nơi những người công chính ở, chờ ngày sống lại (x. Lc 16,22-31). Còn đối với chúng ta thì Thiên Đàng là “Trời cao” như lời thánh Phaolô: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Thiên Đàng còn là “Trời Mới, Đất Mới” thay cho “trời cũ đất cũ” bị biết mất (x. Kh 21,1). Nơi đó sẽ “không có sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa” (x. Kh 21,4).

  1. CÂU HỎI: 1) Tin mừng Luca ghi nhận những thái độ của dân chúng. đầu mục Do thái, lính canh, hai tên gian phi trước cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu như thế nào ? 2) Kitô hay Mêsia nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu”. Trong Thánh kinh, ba chức vụ nào được xức dầu tấn phong ? 3) Chữ INRI được gắn trên cây Thánh Giá có ý nghĩa thế nào ? 4) Cơn cám dỗ cuối cùng Đức Giêsu phải đương đầu trên cây Thánh Giá là gì ? 5) Câu nào của Đức Giêsu trên cây Thánh Giá cho thấy Người tỏ ra ưu ái đặc biệt đối với tội nhân có lòng sám hối ăn năn ? 6) Theo Thánh kinh thì Thiên Đàng là gì ? 7) Tại sao lại gọi thập giá Đức Giêsu là cây Thánh Giá ?

II-SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Phía trên đầu Người có bản án viết: “Đây là Vua người Do thái” (Lc 23,38).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) ANH KHÔNG CÒN GÌ ĐỂ CHO EM HƠN THẾ NỮA:

Gần đây, các thợ lặn đã tìm được một con tàu đã bị đắm ở ngoài khơi biển Bắc Ái nhĩ lan cách đây 400 năm. Trong số các báu vật tìm được trên con tàu này, có một chiếc nhẫn cưới của một người đàn ông. Sau khi được lau chùi sạch sẽ, trên mặt nhẫn hiện ra một hàng chữ kèm theo hình một bàn tay đang cầm một quả tim đưa ra. Người ta đọc được câu ấy như sau: “Anh không còn gì để cho em hơn thế này nữa”. Trong tất cả những báu vật tìm thấy trên con tàu, không vật nào khiến cho các tay thợ lặn cảm động cho bằng chiếc nhẫn với hàng chữ khắc ghi trên đó.

2) TÌNH YÊU ĐƯỢC BIỂU LỘ BẰNG HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ:

Truyện cổ tích Ai-len có kể lại một nhà vua không có con nối dòng. Khi biết mình sắp chết, đã mở một cuộc tuyển chọn hoàng tử để truyền ngôi. Cuộc thi nêu ra điều kiện duy nhất là hoàng tử phải có lòng nhân ái. Đến ngày thi, rất đông các con nhà quý tộc ăn mặc sang trọng đã đến dự thi và nói năng hoạt bát để định nghĩa thế nào là một ông vua nhân ái. Tuy nhiên tất cả lời nói của bọn họ đều không có sức thuyết phục được nhà vua. Sau cùng, một chàng thanh niên đã đến trình diện trong bộ đồ cũ rách nát. Vừa nhìn thấy anh với bộ dạng nghèo hèn, mọi người đều cười nhạo tỏ vẻ khinh dể, nhưng riêng nhà vua lại vui vẻ bước xuống ngai vàng đến đón tiếp và sau đó đã chính thức chọn anh làm hoàng tử lên nối ngôi vua sau này. Tại sao vậy?

Số là vào chiều hôm trước, khi ban giám khảo ra lệnh tập trung kiểm tra các thí sinh, thì nhà vua đã cải trang thành một người hành khất đứng ngay ở lối đi vào hoàng cung để thử lòng các vị hoàng tử tương lai. Nhiều thí sinh con nhà quyền quý giàu có khi đi ngang qua người ăn xin đã tỏ thái độ khinh thường quay mặt đi chỗ khác. Duy chỉ có một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú nhưng thuộc giới bình dân là dừng lại. Anh đã chủ động hỏi thăm về hoàn cảnh của người ăn xin, rồi sẵn sàng chia sẻ tất cả số tiền mang theo giúp đỡ. Thấy người ăn xin mặc áo cũ rách, anh còn cởi chiếc áo lành lặn đang mặc cho người ăn xin này. Hôm nay trong buổi thi chính thức, do không còn chiếc áo nào khác nên anh đành mặc chiếc áo cũ rách của người ăn xin hôm trước để vào trình diện nhà vua. Vừa thấy anh, nhà vua đã nhận ra chàng thanh niên hôm trước và đã chọn anh làm hoàng thái tử nối ngôi. Từ đó anh được vào sống trong triều đình nhà vua để được học tập và ít lâu sau khi nhà vua băng hà anh đã được lên nối ngôi vua.

Câu chuyện trên cho thấy lòng nhân ái không hệ tại ở lời nói, nhưng ở việc làm cụ thể, sẵn sàng hy sinh nhường cơm sẻ áo cho những người bất hạnh gặp phải giữa đời thường.

3-SUY NIỆM:

Sau Thế Chiến lần thứ nhất (1914-1918), cuộc chiến đã làm gần 9 triệu người bị chết, ngày 11.12.1925, Đức Piô XI đã truyền thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, để cầu nguyện cho những người lãnh đạo các quốc gia đừng nuôi mộng bá chủ địa cầu để gây ra chiến tranh tàn sát lẫn nhau, nhưng mọi dân tộc hãy chấp nhận nhau là anh em trong cùng một Vương Quốc dưới quyền Vua Giêsu.

1) Vương quyền của Đức Giê-su:

Trong Thánh Kinh có nhiều chỗ đề cập đến vương quyền của Đức Giêsu: Bài đọc Một trích sách Samuen, ghi lại sự kiện cậu bé Đavít đã được Samuen xức dầu tấn phong làm vua Itraen. Vua Đavít nói đây chính là hình bóng của Vua Giêsu trong thời Tân Ước sau này. Tin Mừng Luca thuật lại việc Đức Giêsu được Thánh Thần xức dầu tấn phong là Vua Thiên Sai để đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa (x. Lc 4,18-19). Trong cuộc khổ nạn, khi đứng trước tòa Philatô, Đức Giêsu đã khẳng định: “Quan nói đúng: Tôi là Vua”.

2) Đặc điểm của Vua Giêsu:

– Đức Giê su là Vua, nhưng không giống các ông vua trần thế “Hành quyền trên dân và bắt dân hầu hạ mình”. Đức Giêsu là Vua nhưng là Vua Mục Tử. Người đã rửa chân hầu hạ môn đồ, sẵn sàng chịu chết để bảo vệ đàn chiên, luôn chăm lo cho chiên “được sống và sống dồi dào”. Người là Vua Hòa Bình khi ngồi trên lưng lừa thay vì mình ngựa khải hoàn vào thành Giêrusalem. Người còn là Vua Nhân Ái, dành trọn tình yêu thương thần dân đến nỗi sẵn sàng bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn, để máu và nước từ trái tim chảy ra hầu thanh tẩy tội lỗi của nhiều người. Tình yêu ấy đã được Tin Mừng Gioan ghi nhận: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b).

– Khi chịu chết trên thập giá, phía trên đầu Đức Giêsu, quan Philatô truyền gắn bản án: “INRI” viết tắt của câu bằng tiếng La tinh: “Giêsu Nadarét Vua dân Do thái”. Đức Giêsu là Vua, nhưng vương miện của Người lại là vòng gai nhọn cuốn trên đầu, cẩm bào của Người là sự trần trụi ô nhục. Khi ấy không có những lời tung hô vạn tuế, mà chỉ có những lời đả đảo nhạo báng khinh chê của các đầu mục dân Do thái, của đám đông cuồng nộ, của bọn lính canh thờ ơ và lời nhạo báng của tên trộm gian ác bị treo trên thập giá bên trái Đức Giêsu.

3) Tuyên xưng “Đức Giêsu Kitô là Vua”:

– Ngày nay mỗi lần nhìn lên cây Thánh giá, thay vì vô cảm đứng nhìn, chúng ta hãy thành tín dâng lời cầu nguyện như người kẻ trộm bên phải có lòng sám hối: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”. Nhờ đó chúng ta cũng sẽ nhận được lời Chúa hứa như Người đã nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,42-43).

– Các bà mẹ Công giáo nên theo gương của một bà mẹ đạo đức kia chỉ tay vào cây Thánh Giá của Chúa để khuyên đứa con của mình: “Con ơi! Hãy nhìn cho kỹ. Chính Chúa Giêsu đã chết đau thương trên cây Thánh giá như vậy để đền tội của con đó”.

– Ngày nay, dù có tin nhận Chúa Giêsu là Vua hay không, nhưng mọi dân nước trên thế giới đều nhận lễ Giáng Sinh của Đức Giêsu (25/12) làm cột mốc đánh dấu thời gian năm tháng chung cho nhân loại, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói : “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ được Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Quả thật, Chúa Giêsu lôi kéo mọi người lên với Người như Người đã nói: “Khi nào tôi bị treo lên, tôi sẽ kéo mọi sự lên cùng tôi” (Ga 12,32).

4) Để Vương quyền của Vua Giêsu ngày một lan rộng:

– Để tin nhận Chúa Giêsu là Vua và trở thành công dân trong Nước Thiên Chúa, người tín hữu phải sẵn sàng từ bỏ mọi thứ vua giả dối như: Các loại thần tượng, danh vọng, chức quyền, của cải vật chất… để luôn sống chan hòa yêu thương, khiêm tốn phục vụ tha nhân, sẵn sàng hy sinh tất cả để giúp mọi người ngày một ấm no, an vui hạnh phúc hơn. Tin nhận và tuyên xưng Chúa Giêsu là Vua là phải kết hiệp với Người xây dựng một “Trời Mới, Đất Mới”, Vương quốc huynh đệ, yêu thương, công lý và hòa bình bắt đầu từ trần gian hôm nay và kết thúc vào ngày tận thế.

– Mừng lễ Chúa Giêsu Vua, chúng ta hãy để cho Vua Giêsu chiếm trọn tư tưởng, lời nói và hành động của mình. Từ nay chúng ta không còn được sống theo thói thế gian, không được sống theo ma quỷ và các đam mê tội lỗi… nhưng cần sống theo Chúa Giêsu như lời thánh Phaolô : “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).

– Mỗi buổi tối chúng ta hãy xét mình để biết Vua của tâm hồn chúng ta hiện giờ là ai? Là Vua Giêsu hay một ai khác…? Mỗi ngày hãy năng cầu nguyện noi gương người trộm lành xưa: “Lạy Chúa Giêsu là Vua lòng con. Xin thương con hôm nay và nhất là trong giờ chết”.

  1. THẢO LUẬN: 1) Bạn có đồng ý câu: “Yêu thương là cho đi. Cho nhiều là dấu yêu thương nhiều. Cho cả mạng sống của mình là dấu chứng tỏ tình yêu tột đỉnh”? 2) Trong những ngày này bạn sẽ dâng cho Chúa Giêsu những gì để biểu lộ tình yêu của bạn?
  2. NGUYỆN CẦU

– LẠY CHÚA GIÊSU VUA VŨ TRỤ. Nếu Chúa thực sự là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục, của hơn tám trăm ngàn nữ tu, của trên một tỉ người công giáo… thì thế giới này chắc đã đổi mới từ lâu rồi. Quả thật, men đức tin của các tín hữu chúng con tuy không ít, nhưng sở dĩ khối bột thế giới chưa dậy lên men tình yêu của Chúa, là do men của chúng con đã bị mất phẩm chất. Ngày nay sự dữ vẫn đang tràn lan trên thế giới, mà trong đó không ít điều dữ lại do chính các tín hữu là chúng con gây ra. Nhiều người trong chúng con mới chỉ tôn vinh vương quyền Chúa trong nhà thờ, nên ngoài xã hội vẫn đang vắng bóng tình yêu của Chúa. Ước gì mọi người Công giáo đều quyết tâm thực hiện lối sống yêu thương khiêm nhường phục vụ và giới thiệu Chúa là Tình Thương cho mọi người, thì chắc chắn Vương quyền của Chúa sẽ mau hiển trị trên toàn thế giới.

– LẠY VUA GIÊSU. Xin cho mỗi tín hữu chúng con biết chọn lối sống hy sinh quên mình và vác thập giá mình hằng ngày, là những bệnh tật, những người trái tính trái nết đang sống chung quanh, là những tai ương rủi ro chúng con gặp phải trong cuộc sống hằng ngày… để bước theo chân Chúa. Nhờ đó, chúng con sẽ trở nên những môn đệ trung tín và khôn ngoan, sẽ được Chúa tha tội, và được nghe Chúa ưu ái nói với chúng con trong giờ chết như đã nói với người trộm lành trong Tin mừng hôm nay: “Ta bảo thật, hôm nay, con sẽ được ở với Ta trên Thiên đàng”.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

VUA CHÂN LÝ

  1. Lam Thy ĐVD.

    

(CN XXXIV/TN-C – ĐỨC KI-TÔ – VUA VŨ TRỤ)

Nói đến vua thì không thể không liên tường đến những ông vua phong kiến, đó là những ông vua thường để lại những ấn tượng không được đẹp (nào cung tần mỹ nữ nhung nhúc, nào cung đình sơn son thếp vàng choáng lộn, nào ngai vàng ỷ ngọc chói lọi; rồi thì hét ra lửa, mửa ra khói, chỉ một cái phất tay khó chịu là ít ra cũng một sinh mạng đi tong, mà gầm lên một tiếng thì … ôi chao, không dám kể nữa!). Dám viết ra những lời lẽ này, có lẽ cũng là nhờ đang sống trong thế kỷ XXI, chớ cứ giả thử như đang sống vào “hồi xửa hồi xưa” thì coi chừng cái chỗ đội nón không còn. Vâng, quả thực thời đại phong kiến thì một ông vua là một cái gì không nên nhắc tới, nói tới, kẻo mắc tội “khi quân, phạm thượng” là toi đời.

Thực tình thì kẻ viết bài này đang muốn nói tới một ông vua sống trong thời đại phong kiến và cũng rất trẻ – một ông vua lạ lùng – lạ lùng đến không thể tưởng tượng nổi. Đó chính là ông vua Giê-su. Vua Giê-su đến thế gian đã được tiên báo từ hơn 5 thế kỷ trước Công nguyên (thời kỳ Israel bị lưu đầy: 587-538), qua ngôn sứ Isaia: “Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel.” (Is 7, 14); “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình.” (Is 9, 5). Đến khi Người chào đời tại Bê-lem, thì có 3 nhà đạo sĩ chiêm tinh gia ở phương Đông, đã nương theo vì sao dẫn lối tìm đến Giê-ru-sa-lem hỏi thăm: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2, 1-2). Đức Vua giáng trần trong một đêm đông giá lạnh không phải tại nơi cung điện nguy nga, mà tại một hang bò lừa ở một vùng quê hẻo lánh, nghèo nàn; không bạc vàng, không nhung lụa, không lò sưởi, mà được đặt trên máng cỏ, và sưởi ấm bằng hơi thở bò, lừa. Thế đó!

Khi Đức Vua trưởng thành, Người đã hành xử vương quyền bằng cách “không ngựa xe đưa rước, không võng gấm lọng vàng, không tiền hô hậu ủng” đến với những người nghèo hèn, bệnh tật, tội lỗi. Người thu nhận môn đệ nơi những giai cấp thấp cổ bé miệng (chài lưới, nông phu, lao động…), hoặc bị xã hội lên án là tội lỗi (người thu thuế). Cũng chính trong khi Người thu nhận môn đệ thì những người được thu nhận đã nhận ra đó chính là Đức Vua mà họ hằng mong đợi (Ông Na-tha-na-en hỏi Người: “Làm sao Ngài lại biết tôi?” Đức Giê-su trả lời: “Trước khi Phi-líp-phê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi.” Ông Na-tha-na-en nói: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en!” Đức Giê-su đáp: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa.” Người lại nói : “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người.” – Ga 1, 48-51).

Ngay đến cả Tổng trấn Phi-la-tô khi xét hỏi, cũng gọi Người là vua (“Ông Phi-la-tô cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?” Đức Giê-su trả lời : “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” Ông Phi-la-tô liền hỏi : “Vậy ông là vua sao?” Đức Giê-su đáp : “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” – Ga 18, 33-37). Và rồi cái bản án tử treo trên đầu Người (“Người này là Giê-su, vua dân Do-thái” – Mt 27, 37) được viết ra với ý mỉa mai, nhưng không ai ngờ rằng đó cũng lại là một “sấm ngôn” (“Bản đề án tử vừa mỉa mai nhưng cũng vừa là một lời sấm” – xc “Kinh Thánh Trọn Bộ”, trang 2404 – phần chú thich Ga 19, số 19). Rõ ràng người Do-thái đã đóng đinh chính vị vua của họ – vị vua mà đến Tổng trấn Phi-la-tô (quan xử án) cũng không tìm ra được một lỗi lầm nhỏ nào!

Lạ lắm! Kẻ viết bài này chưa hề được đọc (chớ đừng nói là được thấy) một ông vua lại quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, đầy tớ của mình, rồi còn nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” (Ga 15, 15). Và những Lời Người giảng dậy thì toàn là khuyên bảo ăn ngay ở lành, thật thà công chính, khiêm nhường bác ái, thậm chí còn dậy người ta yêu thương cả kẻ thù (Mt 5, 43-44). Người không chỉ dậy bằng Lời, mà bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cả sinh mạng của Người khi bị treo trên thập giá cho đến chết để đền thay tội lỗi loài người. Trước khi chết treo trên thập tự, Người còn cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ đã đóng đinh mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23, 34).

Không bút mục nào có thể ghi lại cho hết được những điều mà Đức Vua Giê-su đã nói, đã dạy và đã làm, thật đúng như lời Gio-an Thánh sử: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21, 24-25). Đúng là một ông vua lạ lùng, quá lạ lùng, mở ra một trang sử “không tiền khoáng hậu”: Chỉ cần 3 ngày là xây xong một đền thờ Giê-ru-sa-lem mà dân Do-thái phải làm trong 46 năm. Và quả thật không sai, sau khi tử nạn, chỉ mới đến ngày thứ ba, Người đã khánh thành một Giê-ru-sa-lem mới trên Vương quốc Thiên đình. Từ Vương quốc đó, Người đã kéo mọi người lên sống một cuộc sống chan hoà Tình Yêu. Trong Vương quốc ấy, không còn chỗ cho thờ ơ lãnh đạm, đố kỵ bon chen, nhỏ nhen ích kỷ, chia rẽ hận thù. Lãnh đạo Vương quốc ấy là một vị Vương giả rất đỗi lạ lùng, lạ lùng đến không thể tưởng tượng nổi, và đó chính là Vua Tình Yêu Giê-su Ki-tô.

Quả là một ông vua lạ đời, nếu không muốn nói là ngược đời! Không cần nói đến những lời tiên tri của các ngôn sứ, kể cả 3 vua phương Đông đến bái lạy (khi Đức Giê-su mới sinh tại Bê-lem) cũng xưng tụng Người là vua; mà chỉ cần nói tới thời gian Người đã trưởng thành cũng đủ thấy Đức Giê-su quả lả ngược đời: Khi làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều, dân chúng hân hoan phấn khởi, muốn tôn Người làm vua thì Người không muốn. Người phản đối bằng cách lánh mặt (“Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.” – Ga 6, 15). Cũng như hôm vinh quang vào thành Giê-ru-sa-lem, dân chúng hân hoan, cởi áo lót đường, cầm cành lá phất cao đón chào (“Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!” – Lc 19, 38). Hôm ấy mà Chúa xưng vương thì quá thuận lợi, vậy mà Người lại phản đối bằng cách cỡi con lừa bé nhỏ, yếu ớt.

Nhưng khi là phận tội đồ đứng trước mặt quan án, bị dân chúng khinh khi chối bỏ, thì Người lại hiên ngang nhận mình là vua (Khi nghe Phi-la-tô hỏi “Vậy ông là vua sao? Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” – Ga 18, 35-36). Sau đó, trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã hứa với cac môn đệ: “Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en.” (Lc 22, 28-30). Nói đến vương quốc thì người đứng đầu vương quốc ấy tất nhiên là vua rồi. Chẳng phải vô tình, nhưng là cố ý khi đối diện với quyền lực, đối diện với sự hận thù và đối diện với cái chết, Đức Vua Giê-su muốn tỏ mình ra (xưng vương) trong hoàn cảnh này để làm chứng cho sự thật. Quả thật Đức Ki-tô “là Thiên Chúa thật và là người thật”,  đã “làm chứng cho sự thật” bằng chính sinh mạng của mình để cứu độ nhân loại; vậy nên Người chính là “Vua Sự Thật – Vua Chân Lý”.

Cũng bởi vì “Khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ.” (Pl 2, 10), nên vào ngày 11/12/1925, Đức Giáo hoàng Pi-ô XI đã chính thức thiết lập Lễ mừng kính “CHÚA KI-TÔ VUA”. Sau đó, tại Công Đồng Va-ti-ca-nô II, khi canh tân Phụng vụ, Giáo Hội đưa thêm vào một ý nghĩa mới: “ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ, VUA VŨ TRỤ” (Giáo Hội thừa nhận đặc tính vũ trụ và cánh chung được thể hiện cụ thể và đầy đủ nhất nơi mầu nhiệm Giê-su Ki-tô, vì thế nên Lễ này được đặt vào đúng vị trí của nó: Chúa nhật cuối cùng của Năm Phụng vụ, thay vì như trước đó, Đức Pi-ô XI để vào CN trước ngày Lễ Các Thánh 1/11).

Tóm lại, khi xác tín Đức Giê-su Thiên Chúa là “Vua Sự Thật” chính là đã nói đến một “chân lý” bất biến: “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” (Pl 2, 6-9). Danh hiệu đó chính là VUA CHÂN LÝ vậy. Ấy cũng bởi vì theo từ nguyên, “Chân lý là một sự thật của loài người luôn luôn đúng và tồn tại mãi mãi theo thời gian, giúp con người thoát khổ và bất tử khi áp dụng thực hành nó. Chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức về thế giới của con người.” Các tôn giáo (cách riêng Ki-tô giáo) đã đưa ra khái niệm siêu hình về “Chân lý tối thượng” (hay chân lý tối cao, chân lý toàn thể, chân lý của mọi chân lý), là muốn nói đến chân lý thần thánh và thiêng liêng, thuộc tính cao quý của Đấng tối cao toàn năng, Đấng thực hiện mọi phán xét thiêng liêng, toàn thể về sự sống và cái chết.

Ôi! Lạy Chúa Giê-su Ki-tô Vua Chân Lý – Vua Vũ Trụ! Xin ban Thánh Linh soi sáng cho chúng con để chúng con không đui mù trước những thảm cảnh nơi trần thế, khỏi câm điếc trước những bất công đày đoạ con người, và nhất là xin cho chúng con được mở rộng trái tim hèn yếu của chúng con, hằng ngày kín múc Tình Yêu chan chứa nơi Ngài, để chúng con biết đến với anh em của chúng con bằng cách san sẻ nguồn Tình Yêu vô tận đó. Ôi! Lạy Đức Vua Tình Yêu! Xin cho chúng con luôn được sống trong cuộc sống “vui với người vui và khóc với kẻ u sầu”. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

PHIÊN TÒA BẤT CÔNG

Lm. Tạ Duy Tuyền

Chúa nhật 34c thường niên, năm C –

Đọc lời Chúa Ga 18, 33 – 37

Sống giữa cuộc đời là sống giữa biển đời đầy sóng gió nguy nan. Sống giữa thế gian là sống giữa bao hiểm nguy, bất trắc khiến lòng người luôn phải đối phó với biết bao nghịch cảnh đẩy đưa. Giữa người với người vẫn còn những hố sâu ngăn cách bởi ích kỷ, ghen ghét và tham lam. Có thể vì một chút danh lợi thú mà người ta bán rẻ nhau và bán rẻ chính nhân phẩm của mình. Cuộc đời đầy thị phi đến nỗi Nguyễn Du đã từng thốt lên rằng: “Trải qua một cuộc bể dâu – Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Ngay những người thân cận nhất vẫn có thể trở thành kẻ thù của nhau. Cha mẹ từ chối con cái. Con cái ngược đãi cha mẹ. Vợ chồng nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Bạn bè dễ dàng quay lưng lại với nhau vì tiền tài, vì danh vọng và vì tình yêu. Một cuộc sống đầy vong ân bội nghĩa nên mấy ai còn niềm tin nơi nhau. Có mấy ai dám sống  cho chân lý để rồi lại phải chịu thiệt thòi vào thân!

Hôm nay, Lời Chúa tường thuật lại một phiên tòa đầy bất công và thiếu khách quan của sự thật. Gọi là bất công vì sự ghen tỵ mà người ta đã kến án kẻ vô tội. Thiếu chân thực vì toàn bộ câu chuyện đã bị bóp méo hoàn toàn. Theo thánh Gioan kể lại: họ tố cáo Chúa Giêsu về ba điều: gây rối loạn trong dân chúng, cản trở việc nộp thuế cho hoàng đế, và tự xưng mình là vua. Thật ra, vì lòng ghen ghét, họ đã không ngần ngại bóp méo sự thật. Theo sự tra xét của họ thì Chúa Giêsu phạm tội lộng ngôn, nhưng họ biết rất rõ quan toàn quyền sẽ không chịu nghe một lời tố cáo như vậy, mà sẽ bảo đó là chuyện tranh chấp về tôn giáo và bảo họ phải tự dàn xếp. Thế nên, vì muốn loại trừ Chúa, họ đã không ngần ngại vu khống để bỏ vạ cáo gian. Nhưng Philatô lại không dám bảo vệ sự thật. Cho dù Chúa Giêsu đã cho ông hiểu rằng: Ngài là Vua và Nước của Ngài không thuộc về thế gian này, nhưng Philatô đã không quan tâm đến việc bảo vệ công lý cho bằng bảo vệ ngai tòa của mình. Ông rửa tay để làm ngơ trước sự bất công.

Và cũng từ phiên tòa này, Chúa Giêsu đã công khai nói lên sứ mạng của Ngài, Ngài đến trong thế gian này là thiết lập một vương quốc sự thật, một nền công lý và hòa bình từ chính trong tâm hồn con người. Và chính vì thế mà ngài đã sinh ra và đến trong thế gian này, đó là để làm chứng cho sự thật. Vương quốc sự thật chính là nước của Ngài. Ai đi theo đường công chính, biết ăn ở ngay lành, thực hành bác ái yêu thương chính là công dân trong Nước của Thiên Chúa. Nước của Ngài không hạn chế bởi địa dư, bởi mầu da sắc tộc mà mở rộng không gian tới tận cùng trái đất. Nơi nào có những người xây dựng hòa bình, công lý và tình thương, nơi đó Nước Chúa đang ngự trị.

Là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng sự hiệp nhất yêu thương. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội đều được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Nghĩa là phải cùng nhau loại trừ  điều gian dối, chua ngoa và xây dựng tình liên đới giữa con người với nhau trong yêu thương chân thật. Như lời Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “phải làm thế nào để tính thiện nơi con người được chiếu lộ ra, và giải phóng các sức mạnh của sự tiềm ẩn nơi con người, để sự thiện ấy được lớn mạnh hơn sự ác cả trong lĩnh vực luân lý lẫn xã hội”. Vâng, cuộc đời này có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau. Cuộc sống này sẽ bớt ưu sầu nếu người ta thôi nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Cho dù cuộc đời có thay trắng đổi đen. Con người có lấy ân báo oán, nhưng người kytô hữu không vì thế mà đánh mất bản tính của mình là sống thánh giữa đời để kiến tạo một nền công lý và hòa bình trên mặt địa cầu này. Vì chúng ta vẫn mong chờ một ngày kia Nước Chúa sẽ trị đến và Ngài sẽ ngự đến trên mây trời để ban thưởng hạnh phúc trường tồn cho những ai thành tâm thiện chí sống và thực thi giáo huấn của Ngài.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, giữa thế giới đầy sa đọa, con người ngày nay vẫn muốn loại trừ Thiên Chúa. Dường như vì ích kỷ đã làm cho họ mù loà đến nỗi không nhận ra sự bất hạnh của tha nhân để cảm thông, để nâng đỡ. Dường như vì tham lam mà con người muốn loại trừ đồng loại để bảo vệ tiền tài danh vọng cho chính mình. Đồng tiền và danh vọng đã làm mờ con mắt. Tự hủy diệt mình trong đam mê lạc thú và quyền lực thế gian.

Xin Chúa giúp chúng con dám sống cho sự thật và làm chứng cho sự thật. Ngõ hầu danh Chúa được cả sáng. Amen

ĐÂY LÀ VUA DÂN DO THÁI

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, dcct

Chúa Nhật XXXIV THƯỜNG NIÊN, năm C

( ĐỨC KITÔ, VUA VŨ TRỤ )

Lc 23, 35 – 43

ĐÂY LÀ VUA DÂN DO THÁI Đọc Tin mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra một sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho thấy thật rõ ràng Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai mà muôn dân trông đợi, chờ mong. Đã là Đấng Cứu Tinh nhân loại, người ta cũng dễ gán cho một nhãn hiệu tốt lành nào đó để tôn vinh, kính trọng và để muôn đời con người luôn nhớ tới. Tuy nhiên, Đức Kitô là Vua không theo nhãn quan của con người. Nếu Ngài muốn thì khi cuộc đời của Ngài đã danh tiếng vang dội: Ngài đã làm nhiều phép lạ, đã làm cho bánh, cá hóa ra nhiều, đã làm cho kẻ què đi được, kẻ mù thấy được, kẻ câm nói được, kẻ điếc nghe được và đặc biệt kẻ chết sống lại, dân chúng lúc đó đã muốn tìm Ngài để tôn ngài lên làm Vua theo ý của họ, nhưng Ngài đã trốn đi nơi khác. Ngài là Vua nhưng là Vua vũ trụ, Vua tình yêu, Vua khiêm nhượng, Vua cưỡi trên mình lừa, Vua bị đóng đinh treo trên thập giá…

Thực vậy, khi Chúa tự ý chịu đóng đinh một lòng theo chúa Cha định liệu, bị treo trên thập giá, dân chúng hầu hết thấy Ngài đều kính cẩn suy phục, tôn kính, còn các Thượng tế, Kinh sư, Pharisêu, Biệt phái, những tên lý hình, và một tên gian phi cùng bị đóng đinh trên thập giá với Chúa Giêsu thì trề môi khinh bỉ, mỉa mai, thốt lên những lời xúc phạm,nói lên những điều không thể chấp nhận được, không thể tha thứ được. Họ thách thức Chúa, coi thường vương quyền của Người :” Nếu Ông là Vua dân Do Thái, hãy cứu lấy chính mình đi “. Phía trên đầu Chúa, họ treo tấm bảng đề :” Đây là Vua dân Do Thái “, với mục đích nhạo báng, coi thường, mỉa mai thâm độc Chúa, nhưng ý nhiệm mầu của Thiên Chúa Cha lại khác.Tấm bảng viết như thế để một cách nào đó, mọi người khi đi ngang qua sẽ thấy và nhận ra Chúa là Vua vũ trụ, Vua tình yêu. Chúa là vị Vua không có ngai vàng như các Vua trần thế, một vị Vua không đăng quang, không ăn uống linh đình để tự đề cao mình, nhưng Vua bị đóng đinh treo trên thập giá, để chiến thắng sự dữ, ma quỷ, sự chết, đem lại sự sống đời đời cho con người, cho muôn người. Đây là Vua yêu thương, Vua Cứu Thế, Vua Cứu Độ!… Trên thập giá, Vua tình yêu hoàn toàn im lặng. Ngài không than van, kêu la,rên khóc vv…Ngài chấp nhận theo ý Thiên Chúa Cha. Ngài thảo hiếu, ngoan hiền với Cha của Ngài. Chúa Giêsu luôn giữ thái độ cao thượng bởi vì Ngài có tâm hồn cao thượng, tâm hồn rộng mở, tấm lòng nhân từ, Ngài chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa, những kẻ nhạo báng, khinh bỉ Ngài, mắng nhiếc Ngài, tất cả đều là những thọ tạo của Ngài. Do đó, Ngài chính là mẫu gương khiêm nhường cho tất cả chúng ta khi chúng ta cảm thấy mình bị khinh miệt, không được tôn trọng vv…Tin mừng của thánh Luca hôm nay nói lên sự mỉa mai của con người, của loài người đối với một Thiên Chúa đang bị đóng đinh treo trên thập tự giá. Họ tưởng họ thắng khi Chúa bị hạ bệ, bị giết treo trên thập giá, nhưng họ đã lầm sự im lặng và tình yêu tha thứ đã chiến thắng tất cả. Công trình cứu rỗi của Chúa tưởng chừng thất bại vì họ đã giết được Vua Giêsu, nhưng họ đã lầm tưởng hoàn toàn, chính lúc yếu lại là lúc Chúa mạnh mẽ, khải hoàn, công trình cứu độ của Chúa vạch ra đã hoàn toàn thành công. Chúa đã ban ơn cứu độ cho biết bao người, Tin mừng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt nói lên tình thương, chiến thắng của ơn cứu độ Chúa trao ban : một viên đại trưởng, một bà bị loạn huyết, một bà góa thành Naim, ông Da Kêu, người mù thành Giêricô vv…Tất cả đều được nhận ơn cứu rỗi do lòng tin. Tên trộm lành đã được cứu rỗi và được rước về Trời vì anh nhận ra Chúa là Đấng Cứu Độ, Đấng giầu lòng thương xót. Chúa Giêsu đã chết nhưng là để sống lại. Ngài không bảo đảm cho chúng ta rằng chúng ta không phải chết, nhưng Ngài hứa sẽ cho chúng ta được sống lại như Ngài. Do đó, người nào biết hiệp thông với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu, Ngài sẽ cứu rỗi người ấy cho dù người ấy có đến với Ngài giống như một tên gian ác, tội lỗi. Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Vua vũ trụ, là Vua Tình yêu, là Vua cứu rỗi, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con nhận ra Chúa chính là Đấng cứu độ như người trộm lành đã biết tin tưởng, kêu cứu và phó thác mọi sự ngay cả mạng của mình vào Chúa. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ 1.Tước hiệu “ Vua “ ở đây có ý nghĩa gì ? 2.Tại sao lại gọi Chúa Giêsu là Vua vũ trụ ? 3.Vì sao người trộm lành lại được Chúa cứu ? 4.Bảng gắn trên đầu Chúa ở thập giá “ Đây là Vua Dân Do Thái “ có ý nghĩa gì ? 5.Chúng ta phải có thái độ nào đối với Vua vũ trụ ?

LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ C

Lm. Anthony Trung Thành Hằng năm, cứ đến Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ trọng kính Chúa Kitô Vua Vũ Trụ. Mặc dầu mãi tới ngày 11.12.1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI mới chính thức thiết lập lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, nhưng Kinh thánh đã từng gọi Chúa Kitô là vua, xin được đơn cử một vài trích dẫn sau đây:

Thứ nhất, khi các nhà chiêm tinh từ Phương Đông thấy ngôi sao lạ xuất hiện, họ cho rằng, có một vị vua mới sinh ra, họ đã lên đường tìm kiếm, và khi tới Giêrusalem họ hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (x. Mt 2,1-2). Thứ hai, khi Philatô hỏi Đức Giêsu: Ông có phải là vua dân Do Thái không? Đức Giêsu trả lời: Chính tôi là vua, nhưng Nước tôi không thuộc về thế gian này (x. Ga 18,36-37).

Thứ ba, ông Philatô truyền cho người ta viết tấm bảng trên đầu thập giá với hàng chữ: “Giêsu Nazareth Vua dân Do thái”(x. Ga 19,19).

Ngoài ra, cách này hay cách khác, Kinh thánh gọi Đức Giêsu là vua: Kẻ trộm lành xin Đức Giêsu rằng: “Khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”(x. Lc 23,42); trong ngày phán xét chung, Đức Giêsu làm vua để phán xét kẻ sống và kẻ chết (x. Mt 25, 31-46).

Khi đề cập đến danh hiệu vua, chúng ta thường nghĩ ngay đến một người có quyền chức để thống trị thần dân, sai khiến quan quân, thậm chí là hưởng thụ tiền của, cung tần mỹ nữ…Nhưng đối với Vua Giêsu thì khác, Ngài là vua Tình Yêu, vua phục vụ: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Ngài đã nói với các môn đệ rằng: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em” (Mt 20, 25-27). Thật vậy, Ngài không chỉ dạy các môn đệ mà chính Ngài đã thực hiện lời đó một cách triệt để: Ngài là Thiên Chúa nhưng đã chấp nhận làm một con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi; ba mươi năm sống ẩn dật, nghèo khó ở Nazareth; ba năm đi rao giảng Tin mừng, Ngài chữa lành biết bao nhiêu bệnh hoạn tật nguyền: kẻ điếc được nghe, kẻ câm được nói, kẻ mù được thấy, kẻ què đi được, kẻ chết sống lại và rất nhiều người bị các thứ bệnh khác nhau nhờ Ngài mà được khỏi. Ngài còn gặp gỡ, tiếp xúc với những người tội lỗi để tha thứ cho họ. Trong bữa tiệc ly, Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, một hành động hạ mình thẳm sâu nói lên lòng khiêm nhường và tinh thần phục vụ của Ngài. Cuối cùng, Ngài đã chấp nhận cho người ta bắt bớ, đánh đòn, đội mạo gai, vác thập giá, đóng đinh và chết như một tội nhân. Tất cả vì tình yêu, đúng như lời Ngài nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (x. Ga 15,13).

Cuối đoạn Tin mừng hôm nay, thánh Luca kể lại cuộc trao đổi ngắn gọn giữa kẻ trộm lành và Đức Giêsu. Dầu Ngài chỉ có một câu thôi, nhưng cũng đủ để nói lên Ngài thực sự là Vua Tình yêu. Người trộm lành thưa với Đức Giêsu rằng:“Lạy Ngài khi nào về nước Ngài, xin hãy nhớ đến tôi” (x. Lc 23,42). Ngay lập tức, Đức Giêsu đáp lại rằng: “Ta bảo thật anh, ngay hôm nay anh sẽ được lên Thiên đàng với Ta”(x. Lc 23,43). Việc Đức Giêsu cho kẻ trộm lành lên Thiên đàng ngay ngày hôm đó, đồng nghĩa với việc Ngài tha thứ tất cả tội lỗi cho anh. Không những tha thứ tội lỗi mà Ngài còn tha ngay cả hình phạt do tội lỗi của anh gây ra, đặc biệt là tội lỗi đức công bằng.

Trước tình yêu vô bờ bến của Vua Giêsu, chúng ta phải làm gì?

Trước hết, chúng ta phải tránh thái độ vô cảm, vô tâm, vô ơn, phủ nhận tình yêu của Thiên Chúa như các thủ lĩnh, lính tráng và dân chúng. Tin mừng kể lại: Khi Đức Giêsu bị đóng đinh, các thủ lãnh và dân chúng buông lời cười nhạo Đức Giêsu mà rằng: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (x. Lc 23, 35). Lính tráng thì chế giễu Người: “Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi!” (x. Lc 23, 37).

Thứ đến, chúng ta phải có lòng biết ơn Đức Giêsu bằng cách luôn yêu mến Ngài. Đồng thời noi gương cách cử xử của Ngài, khi chúng ta có trách nhiệm với những người khác, chúng ta không được dùng quyền để thống trị, nhưng hãy lấy đức yêu thương để phục vụ nhau: Linh mục có trách nhiệm yêu thương và phục vụ giáo dân; cha mẹ có trách nhiệm yêu thương và phục vụ con cái; thầy cô có trách nhiệm yêu thương và giáo dục học sinh…

Cuối cùng, để trở thành công dân nước trời, không phải chỉ lãnh nhận Bí tích Rửa tội là đủ, mà còn cần phải thực hiện những điều đã thề hứa trong ngày lãnh nhận Bí tích đó. Đức Giêsu đã từng nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : ‘Lạy Chúa ! lạy Chúa !’ là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (x. Lc 7,21). Muốn được vào Nước Trời cần phải “thi hành ý muốn của Cha Thầy.” Ý muốn của Chúa Cha được thể hiện: qua Kinh Thánh; qua Giáo Hội; qua các Bề Trên hợp pháp trong các cộng đoàn. Ý muốn của Chúa Cha còn là việc thực hiện lời thề hứa trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, và nếu lỡ sa ngã phạm tội như kẻ trộm lành kia thì cần có lòng thống hối ăn năn và cầu xin Chúa cho được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng.

Lạy Chúa Giêsu Kitô là Vua Tình Yêu, xin làm vua ngự trị trong tâm hồn chúng con, xin đuổi ra khỏi chúng con những gì không phù hợp với công dân Nước trời, để ngày sau chúng con trở thành thần dân của nước Thiên đàng Vĩnh Cửu. Amen.

CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ

Lm Petrus Nguyễn Văn Hương

CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ

Chúa Nhật XXXIV THƯỜNG NIÊN C Khép lại chu kỳ năm C, phụng vụ của ngày đại lễ hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lên Chúa Kitô, là Vua vũ trụ. Các bài đọc Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe giúp khám phá ý nghĩa tước hiệu vua của Chúa Kitô, Nước Chúa Kitô và những điều kiện để vào Nước Chúa.

1- Ý nghĩa tước hiệu vua của Chúa Kitô Chúng ta có thể hiểu sai về tước hiệu vua của Chúa Kitô. Điều này đã xảy ra vào thời Chúa Giêsu.

Quả thế, trong Tin Mừng, dân chúng và nhiều môn đệ của Đức Giêsu có một quan niệm về Đấng Messia theo nghĩa chính trị. Họ chờ đợi một Đấng Messia, một vị vua đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách đô hộ và thống trị của người La Mã. Bởi thế, khi Đức Giêsu xuất hiện như là một người giảng dạy có uy quyền, có khả năng làm nhiều phép lạ, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, họ tôn Người lên làm vua. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã thẳng thắn khước từ kiểu làm vua theo nghĩa chính trị và trần thế như vậy. Một đàng, Người tự nhận mình là vua và đến trong thế gian để làm vua. Nhưng, đàng khác, Người xác định rõ tước hiệu vua của mình theo một kiểu khác. Trong cuộc đối thoại với Philatô, Chúa Giêsu làm rõ điều đó. Philatô hỏi Chúa: “Ông có phải là vua không? Chúa Giêsu trả lời: “Chính ông nói điều đó, tôi là vua” (Ga 18,37). Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về biến cố quan trọng nhất trong cuộc đời của Chúa Giêsu, đó là biến cố Chúa Giêsu ở trên thập giá. Nếu thập giá là hình phạt ô nhục nhất đối với người Do Thái và là sự điên rồ đối với người Hy Lạp, thì theo cái nhìn thần học của Luca, thập giá là tột đỉnh của tình yêu và nguồn mạch ơn cứu độ. Bởi thế, cả cuộc đời Đức Giêsu hướng về Giêrusalem và nhất quyết đi lên Giêrusalem. Đức Giêsu chịu đóng đanh trên thập giá cùng với hai tên gian phi. Một tên chết đến gần cửa cổ mà vẫn còn chế nhạo Người. Còn một tên nhận ra Người là Con Thiên Chúa và là vua; anh ta cầu khẩn Người: “Ông Giêsu ơi, khi nào ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Đây là lúc Đức Giêsu thể hiện khuôn mặt đích thực của một vị vua uy quyền. Câu trả lời của Chúa Giêsu vượt quá lời cầu xin. Thay vì hứa một tương lai bất định, Người nói: “Ngay ngay hôm nay, tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43). Như thế, Đức Giêsu trên thập giá thực thi quyền bính của một vị vua của tình yêu. Đúng như bản án được ghi trên thập giá: “Đây là vua người Do Thái.” Người không chỉ là vua Do Thái mà còn là vua muôn dân, vua vũ trụ. Trước đây Đức Giêsu tránh tước hiệu vua kẻo người ta hiểu lầm. Bây giờ, tước hiệu Vua xuất hiện trước mắt mọi người một cách rõ ràng nhất. Từ khi Người hiến mình trên thập giá, Người là vua đích thực cai quản theo cách của mình mà Philatô và những người lãnh đạo Do Thái không thể nào hiểu.

2- Ý nghĩa Nước Chúa Kitô

Vậy nếu Chúa Kitô là Vua, Người làm vua ở đâu hay ở nơi nào? Khi nói đến Nước Chúa Kitô, chúng ta có thể hình dung về một vị vua cai quản một vùng đất, một quốc gia hay một địa hạt nào đó. Thực ra, Nước Chúa Kitô không được đồng hóa với bất cứ quốc gia hay vương quyền trần thế nào trên thế giới, nó vô hình, người ta không quan sát được. Chính Chúa Giêsu quả quyết với Philatô rằng: “Nước tôi không thuộc về thế gian này… Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18,36).

Nhưng Nước Chúa là “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần (x. Rm 14,17); Nước Chúa hiện diện trong tâm hồn mỗi người. Và Đức Kitô là Vua các tâm hồn con người. Lời cầu nguyện rất ý nghĩa của Kinh Tiền Tụng nhắc nhở chúng ta rằng vương quốc của Người là “một vương quốc vĩnh cửu và vô biên: vương quốc đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an.”

Trong Nước đó, thập giá là ngai tòa, mão gai là vương miện, lưỡi đòng là vương trượng, áo mặc là long bào, hai cánh tay giang ra là cán cân công lý, lề luật xét xử là tình yêu, sự yếu đuối của thập giá là sức mạnh và quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Vương quốc này không có quyền lực, không có binh đội nào để sử dụng. Ai thuộc về đứng về sự thật và tình yêu thì thuộc về Nước Chúa.

3- Để thuộc về Nước Trời

Nhờ mầu nhiệm tử nạn và phục sinh, Đức Kitô là vua của chúng ta; Người giải thoát chúng ta khỏi mọi tội lỗi và cho ta được gia nhập vào Nước Chúa, như lời thánh Phaolô nói ở trong bài đọc II: “Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi… Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,13-14.20).

Đức Giêsu là vị vua dẫn chúng ta vào Nước Trời để hiệp thông với Thiên Chúa và để lãnh nhân ơn cứu độ. Người trộm lành trở thành hình ảnh của hy vọng – sự an ủi chắc chắn, lòng nhân từ của Thiên Chúa có thể đến với chúng ta ngay trong giây phút cuối cùng; dù có lầm lạc hay yếu đuối thế nào, nhưng nếu chúng ta biết hoán cải và cầu xin ơn lòng khoan hậu của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện đó sẽ không vô ích. Từ những ý nghĩa trên, có một câu hỏi mà mỗi người chúng ta đặt ra trong ngày lễ này là Chúa Kitô có phải là vua ngự trị trong tâm hồn tôi không? Tôi có nhận biết và tôn thờ Người như là vua không? Chúa Kitô hay là người nào đó hoặc cái gì đang thống trị của tôi? Theo thánh Phaolô, có hai cách thế sống: hoặc là sống cho chính mình hoặc là cho Chúa (Rm 14,7-9). Sống cho mình nghĩa là người chỉ lo lắng cho bản thân, sống đóng kín trên mình, chỉ lo tìm những thỏa mãn và vinh quang cá nhân mà không có hướng nhìn về vĩnh cửu. Ngược lại, sống cho Chúa là hiến mình cho Người, sống theo ý Người, vì vinh quang và Nước Chúa.

Sống cho Thiên Chúa cũng có nghĩa là thực thi lòng bác ái đối với tha nhân, nhất là phục vụ những người nghèo và người đau khổ. Đây cũng là điều kiện để được vào thiên đàng. Bởi lẽ, vào ngày sau hết, Chúa Kitô Vua sẽ xét xử chúng ta dựa trên những gì chúng ta làm hoặc không làm cho những kẻ bé mọn nhất. Tin Mừng Matthêu 25 nói về tiêu chuẩn của sự phán xét chung: Vị Vua nói: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho các ngươi… vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khác lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,34-36).

Như thế, để được vào hưởng hạnh phúc thiên đàng, mỗi người chúng ta được mời gọi hãy thực thi lòng thương xót đối với những người nghèo và những ai gặp đau khổ. Nguyện xin Đức Maria, nữ vương trời đất, hướng dẫn chúng ta trên con đường hướng về Nước Thiên Đàng. Amen.


[/fruitful_tabs]

 

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*