• Hãy Tin Tưởng Vào Chúa-Lm Anton Nguyễn Văn Độ
  • Đừng xao xuyến-Mai Tá dịch
  • chuyện phiệm tuần 5 PS-trần ngọc mười Hai
  • Đừng xét đoán!-Trầm Thiên Thu chuyển ngữ.
  • duyên-trầm thiên thu
  • Trở nên hình ảnh Chúa Giêsu-Lm Trần Ngà
  • Con Đường Nào Dẫn Đến Nhà Cha Thân Yêu?-Tuyết Mai
  • Ái hữu hình:một chướng ngại-Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
  • Đường Giêsu-ĐTGM Ngô Quang Kiệt
  • Nhà tương lai-Lm Vũđình Tường
  • Sống trong thực tế của thế giới-Lm Hồ Bạc Xái
  • Theo đức Kitô là đường-Lm Giuse Đinh lập Liễm

HÃY TIN TƯỞNG VÀO CHÚA

Lm Anton Nguyễn Văn Độ

Suy niệm Chúa Nhật V Phục Sinh năm – A

( Ga 14, 1-12 )

Theo nguồn tin của Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới (WMO: World Meteorological Organization) nói hôm Thứ Năm (27/01/2011). Các lớp băng ở Bắc Cực tan thêm và bởi thời tiết cực đoan khiến trái đất này đang nóng dần lên. Có một số khác lại cho rằng trái đất đang lạnh đi, ngày 06/01/2014 cơn bão Hercules đi qua khu vực phía bắc Mỹ khiến nhiệt độ nơi này xuống thấp kỷ lục trong vòng 20 năm -31 độ C ở Chicago, thậm chí đến – 60 độ C tại một số thành phố làm 13 người chết, gần 3.000 chuyến bay bị hủy. Ngày 7/1, 50 bang nước Mỹ đều có nhiệt độ dưới 0 độ C vào một thời điểm. Ngay tại Sapa, Việt Nam có tuyết phủ nhiều ngày.

Số khác trung dung hơn, cho rằng nhiệt độ Trái đất đang thay đổi nóng lạnh, đột ngột bất thường, từ mức lạnh gần như thấp nhất chuyển sang mức nóng đỉnh điểm chưa từng thấy trong lịch sử suốt gần 100 năm qua.

Tóm lại, sự sống trên mặt đất của con người và mọi sinh vật đang bị đe dọa, và người ta đi tìm một hành tinh xanh khác dễ sống hơn.

Về phương diện con người, nạn phá thai đã lến tới mức báo động chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Mỗi năm chỉ riêng Việt Nam đã có gần 3 triệu ca phá thai. Có nghĩa là mỗi ngày có khoảng 8 ngàn ca phá thai. Thứ nhất Sài Gòn, kế đến là Hà Nội, Huế, Cần Thơ… Duy trì sự sống là một yếu tố căn bản cho sự tồn tại của một dân tộc, ấy vậy mà họ đang tiêu hủy sự sống con người.

Con người đã dùng vũ khí sinh học giết người hàng loạt để hủy diệt nhau. Có những chuyện chưa từng nghe thì nay đã thấy, như “Bất hiếu với cha mẹ nơi cửa tử bệnh viện”  gây nỗi xót xa, tức giận trong cộng đồng, nghĩa là mẹ ốm có thể chữa được, 8 người con cãi nhau rồi quyết định mang mẹ về chờ chết. Hay cả năm người con đồng ý với án tử hình bố. Một vài dẫn chứng cụ thể trên cho thấy Trái đất này, con người ngay nay thật khó sống và khó yêu.

Những ngày hè thật là nóng, phiến quân IS đã làm thế giới lo sợ, nay cộng thêm khủng hoảng quan hệ Liên – Triều, khiến người ta lo âu về chiến tranh thế giới có thể xảy ra.

Trái đất và con người đang như thế, lời Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng : “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy ” (Ga 14, 1). Tại sao Chúa Giêsu nói những lời ấy? Thưa là vì trước sự ra đi sắp đến của Người đã làm cho các môn đệ cảm thấy bất an. Các ông lo cho chính mình, sợ bị bỏ rơi, phải sống cô đơn, và bằng một lời hứa Chúa Giêsu nâng đỡ các ông : ” Thầy đi để dọn chỗ cho các con ” (Ga 14, 2), và sau đó ” Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó ” (Gn 14,2-3). Qua thánh Tôma, các tông đồ đáp lại lời trấn an của Chúa Giêsu như sau: “: ” Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi? ” (Ga 14, 5). Nhân định nầy rất đúng, và Chúa Giêsu đã không tránh né câu hỏi đi kèm theo đó. Câu trả lời của Chúa Giêsu qua bao thế kỷ vẫn còn giá trị như là ánh sáng rõ ràng cho bao thế hệ tiếp đến: “” Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy  “(Ga 14, 6).

Chỗ” mà Chúa Giêsu ra đi để chuẩn bị, là ở nơi “nhà Cha“; ở đó, người môn đệ sẽ có thể được sống đời đời với Thầy mình, và tham dự vào niềm vui của Người. Tuy nhiên, để đạt đến mục tiêu nầy, thì chỉ có một đường mà thôi: đó là Chúa Kitô, là Ðấng mà người môn đệ phải từ từ đồng hóa chính mình theo đó. Sự thánh thiện thật sự hệ tại ở điểm nầy: đó là không phải người Kitô sống, nhưng Chúa Kitô sống trong người đó (x. Gal 2,20). Ðây là đích điểm cao cả, được đi kèm với một lời hứa cũng hết sức khích lệ: ” Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha“(Ga 14,12).

Chúng ta lắng nghe những lời trên của Chúa Giêsu: ” Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy…” Thử hỏi, cuộc sống của chúng ta sẽ ra như thế nào, nếu vô thần, nếu người kitô hữu không thực hành và liên lỉ sống đức tin, được củng cố bởi Ðức Cậy hướng về Trời Cao, nơi con người có thể gặp Chúa Kitô? “Thầy đi để dọn chỗ cho các con … để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó ” (Ga 14, 2).

Vậy, đừng xao xuyến lo âu vì những bất ổn của địa cầu, của tình anh em hữu nghị đổi thay, hay lòng người thay lòng đổi dạ. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Chúa Đức Giêsu Kitô. Hãy phó thác hoàn toàn cho Chúa, như trẻ nhỏ trong vòng tay của nguời Mẹ. Vì thế giới này là tạm bợ, con người là thay đổi, không phải là chổ nương thân. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn vui tột đỉnh của tâm hồn. Ước chi lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay thấm nhập vào trong tâm trí chúng ta, như là nguồn mạch của hòa bình, sự thanh thản và niềm an vui. Nếu Chúa Giêsu Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, chúng ta còn lo sợ hãi gì? Tại sao không tin tưởng vào Thiên Chúa, là Cha Đức Giêsu, Cha chúng ta và tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta?

Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khổ nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền…

Xin Mẹ Maria giúp chúng ta chăm chú nhìn lên Thiên Chúa Cha. Xin Mẹ hãy nắm tay hướng dẫn và thôi thúc chúng ta luôn vững tin vào Chúa như Mẹ. Amen.

ĐỪNG XAO XUYẾN

Mai Tá dịch

Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 5 Phục Sinh 14/5/2017

Tin Mừng (Ga 14: 1-12)

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng:“Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”

Ông Tôma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”

Ông Philípphê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” Đức Giêsu trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.”

“Lạy Chua tôi , vầng trăng cao giá lắm”

“xin ban ơn, bằng cách sáng thêm lên!”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Trăng cao giá, vẫn rất cần sáng thêm lên. Sáng thêm lên, để người người được soi tỏ mà hiểu rõ nỗi niềm huyền nhiệm Đức Chúa là Sự Sáng đích thực, rất hơn trăng.

Trình thuật hôm nay, thánh Gioan viết lên vần thơ/văn nói về “Vầng Trăng Giêsu, Đức-Chúa-của-Sự-Sáng Phục Sinh sáng láng, hơn sao trời. Sở dĩ thánh Gioan viết Tin Mừng theo cung cách rất khác biệt, vì thấy Tin Mừng Nhất Lãm đã diễn tả nhưng chưa làm nổi bật đủ đặc tính thánh thiêng rất Thiên Chúa của Đức Giêsu. Nói cách khác, theo thánh Gioan, Tin Mừng Nhầt Lãm ta đọc vẫn chưa hiện rõ đặc trưng cao giá sáng láng rất Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Với Tin Mừng thánh Gioan viết, Đức Giêsu là Đức Chúa rất “sáng thêm lên”, là bởi: nơi Ngài, vẫn đầy tràn Thánh Thần Chúa với sức sống Phục Sinh.

Qua Phục Sinh, Chúa trở về với Cha, để rồi Ngài sẽ gửi Thánh Thần Ngài đến thực hiện những gì Ngài vẫn làm cho ta, xưa nay. Thánh Thần Chúa, bên tiếng Hy Lạp gọi là “Paraclete”, Đấng Ủi An. Là, Ngôi Ba uy hùng dũng mạnh, luôn cận kề để thánh hoá, khích lệ và tạo nguồn hứng khởi cho mọi người. Paraclete, là Đấng Phù Trợ Ủi An -tác động như vị luật sư biện hộ cho ta ở trước toà- là Đấng luôn gần gũi ở cạnh bên hầu sáng soi mọi bị cáo. Ngài là vị Cố Vấn luôn trợ giúp trấn an những ai đau buồn sầu khổ, hoặc bối rối vì mất đi bạn bè/người thân, cần nhủ khuyên.

Thật ra, mọi Kitô-hữu ít nhiều đều đã trải nghiệm có Đức Kitô là Đức Chúa Hộ Phù rất Ủi An nơi Tiệc Thánh. Khi cử hành Tiệc Thánh, tất cả đều đã cảm nghiệm rằng Ngài đang thực sự ở với chính mình. Nhờ sự hiện diện hiệp thông của Ngài, người người được Thánh Thần Chúa sáng soi, ban ơn. Thật ra, khi lĩnh nhận Mình Máu Chúa vào lòng, mọi Kitô-hữu đều cảm nhận là chính Thánh Thần Ngài đến với họ.

Hãy liên tưởng trường hợp của chú bé lớp 1 nọ, tung tăng chạy về nhà những tưởng rằng ngày đầu đi học về, thế nào mẹ hiền cũng hân hoan đón tận cửa. Nào ngờ, vào nhà chào hỏi mãi, chẳng thấy mẹ ở đâu. Chẳng ai lên tiếng trả lời bé. Chẳng ai hiện có mặt ở nhà, để bé khoe nhiều điều.

Rõ ràng, bé nhận ra là nhà mình nay vắng bóng, hết mọi người. Nhà của bé trống trải cách lạ thường. Trống đến độ, lẽ ra bé chẳng nên về nhà, cứ ở lại trường chắc vui hơn. Hãy tưởng tượng một trường hợp khác, bé ở trường về đã thấy mẹ ở nhà, nhưng mẹ hiền chỉ hỏi han đôi câu cho xong chuyện rồi còn làm việc khác. Đấy, cũng là trường hợp nhà của bé có mẹ hiền luôn hiện diện, nhưng chưa tạo được hiệp thông. Cảm kích.

Hãy tưởng tượng thêm tình huống khác, qua đó cho thấy bé em học ở trường về đã thấy mẹ đang chờ đón chạy ra đưa bé vào nhà. Và, mẹ hiền đã buông bỏ mọi thứ để ngồi xuống, ở với bé. Nghe bé kể chuyện trường, chuyện của bạn, khen bé ngoan hiền, học giỏi. Rồi lấy nước cho bé uống và cười vui với bé, rất khôn nguôi. Đó mới là hiện diện thật sự.

Cứ thế, mẹ và con trao đổi với nhau về nhiều thứ. Về, những chuyện khiến cả hai thích thú, thấy rằng đời mình đã có hiệp thông. Trao đổi. Một hiệp thông linh thánh. Từ đó, ngày nào bé cũng thấy vui. Thấy đẹp trời. Đời bé quả là có ý nghĩa. Thế đó, là ân huệ từ Đức Chúa rất Ủi An đến với bé. Mẹ hiền của bé bỗng nhiên trở nên ân huệ của Thần Khí.

Là, dân con đi Đạo, tín hữu Đức Kitô cũng trải nghiệm tình thân thương đón nhận Thánh Thần Chúa Đấng Ủi An, giống như thế. Chí ít, cũng đã cảm nhận mình được Chúa ban Thần Khí của Ngài từ Đức Giêsu, khi lĩnh nhận Mình và Máu Chúa, qua hiệp thông. Lĩnh và nhận, như hiểu biết theo cung cách tự nhiên đầy năng-tính về những gì xảy ra giữa mình và Chúa. Những gì khiến mình thấy cuộc sống thật đáng sống.

Lĩnh nhận Thánh Thần Chúa Đấng Ủi An, còn có nghĩa như một thực thể đầy khích lệ. Như danh hoạ Van Gogh có lần đã diễn tả về một hiệp thông an ủi trên bản vẽ có bé em chập chững tập biết đi. Đi chưa vững, nên bé cứ lần chần, do dự. Chẳng dám bước mạnh, làm liều. Bước được vài bước, đã thấy cha mình ở không xa, đang mở rộng đôi tay chào đón bé vào lòng. Ảnh hình về tình thân thương của người cha trong tranh vẽ của Van Gogh khác gì tâm tình đầy Ủi An do Thánh Thần Chúa vẫn đón chào đàn con của Chúa.

Lm Gerard Manly Hopkins, một nhà thơ Dòng Tên người Anh, có lần cũng chia sẻ giải thích về Đấng Ủi An rất Paraclete trong thánh lễ. Ông san sẻ bằng ngôn từ thể thao rất “bóng chày cricket kiểu Anh, như sau:

“Thông thường nhiều người vẫn dịch cụm từ “Paraclete” thành Đấng Dỗ dành, ủi an, nhưng Paraclete đượm ý nghĩa còn hơn cả dỗ dành an ủi nữa. Cụm từ này xuất từ tiếng Hy Lạp. Bên tiếng Anh, chẳng có có ngữ từ nào thích hợp để dịch như thế. Cả bên tiếng La tinh cũng vậy, không từ ngữ nào mang một ý nghĩa tương tự. Dịch là Đấng Dỗ dành/nhủ khuyên, vẫn chưa đủ. “Paraclete” thật ra còn là người dỗ dành, mừng chúc, rất khích lệ. Ngài là Đấng chuyên thuyết phục, cổ võ, khuấy động và cũng thúc giục, gọi mời hết mọi người. Ngài còn như cú thúc mạnh vào hông ta để ra lệnh cho ta vượt về phía trước. Là, tiếng vỗ ra hiệu cho diễn giả bắt đầu hoặc kết thúc. Là, tiếng loa kèn xuất quân trổi giọng với quân binh. “Paraclete”, là tâm tình gửi đến với tâm linh quyết gọi mời người người đến. Là, động thái của Đấng nhủ khuyên ta nên sống tử tế. Là, nhận thức xảy đến với tâm tư của chính tôi, như một sẻ chia, đạt tới đích, hệt như vận động viên cầm cây chày gỗ trong môn “cricket” trước các thanh chắn ngăn bóng trúng đích điểm khiến người cầm chày/gậy đã bắt đầu chạy hai đầu để ghi số lần chạy, trong khi đó mấy người khác cứ đứng đực ra đó hòng đối phó bằng dáng vẻ nghi ngờ, vẫn kêu lên: Ráng lên, Ráng lên! Paraclete vẫn là như thế. Là, như ai đó vẫn chúc mừng tinh thần thể tháo có ra dấu, có kêu lên, người người trong trận đấu đều phấn chấn làm mọi chuyện quyết đạt tới đích, vẫn vừa chạy vừa la lớn: Ráng lên, Ráng lên, chạy phía này!”

Khi đón nhận Mình Máu Chúa, ta như người cầm chày/gậy cùng nhắm bóng với Đức Giêsu. Ngài ban cho ta Thần Khí rất đích thực để làm được việc cần làm và còn hơn nữa. Ngài làm sống lên nơi ta, bằng năng lực của chính Ngài.

Trước mắt, Phụng vụ Hội thánh sẽ mừng kính Chúa Thăng thiên về với Cha, vào tuần tới. Về với Cha, nhưng Ngài vẫn để lại nơi ta Thánh Thần của Ngài, làm Đấng Ủi An vỗ về, ở với ta.

Cũng nên nhớ, là Thánh Thần Chúa không thể đơn phương làm một mình. Ngài sẽ khích lệ ta làm như thế trong quan hệ với mỗi người. Ta đươc giao trọng trách phụ giúp Thánh Thần Ngài bằng cách trở nên một thứ Paraclete với mỗi người.

Đôi lúc, ta cũng nên tự hỏi, là: đời mình, đã có ai được kể là kẻ ủi an, vỗ về và tăng năng lượng cho mình, không? Trong cuộc đời, hỏi rằng: chính mình có từng ủi an vỗ về và tăng năng lượng cho ai khác? Bởi, đây mới là cuộc sống đích thực của tín hữu Đức Kitô. Đây, mới đích thực là hiện thực giới răng mới của Đức Chúa: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu anh em.”

Tìm cách vỗ về và ủi an nhau. Trao cho nhau Thần Khí Chúa và năng lượng của Đức Kitô, việc đó mới quan trọng. Dù, mình đang chơi bóng chày cricket với bất cứ ai, cũng đừng nên nói với họ tiếng “Không”, “Hãy ngưng lại”, hoặc “Chờ đấy!” Nhưng hãy bảo: “Ráng lên, Ráng lên! Cứ thế mà chạy vụt về phía trước, sẽ vui luôn.”

Trong tinh thần cổ võ lẫn nhau, cũng nên ngâm tiếp câu thơ còn bỏ dở của thi sĩ họ Hàn, rằng:

“Lạy Chúa tôi, vầng trăng cao giá lắm,

Xin ban ơn, bằng cách sáng thêm lên.

Ánh thêm lên, cho không gian rất đẫm,

Linh hồn thơ mát rợn với hương nguyền.”

(Hàn Mặc Tử – Vầng Trăng)

Vầng trăng kia. Ánh sao nọ. Vẫn cứ sáng thêm lên. Sáng, bằng năng lượng Thánh Thần Chúa Phục Sinh vẫn cứ an ủi. Vỗ về. Để, người người được Chúa khuyến khích, sẽ còn sáng mãi, suốt đời mình. Ở muôn nơi.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn – Mai Tá lược dịch.

CHUYỆN PHIỆM

Trần Ngọc Mười Hai

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 5 Phục Sinh năm A 14/5/2017

 “Chiều nay em ra phố về”

Thấy đời mình là những chuyến xe

Còn đây âm vang não nề

Ngày đi đêm tới trăm tiếng mơ hồ.”

(Trịnh Công Sơn – Nghe Những Tàn Phai)

(Thư Rôma 5: 12-15)

Em ra phố về, thì cũng chỉ “thấy đời mình là những chuyến xe”, có đâu là tàn phai để phải nghe như thế! Tàn phai cuộc đời, còn là ý-nghĩa của câu hát tiếp, rất Trịnh Công Sơn, như sau:

“Chiều nay em ra phố về

Thấy đời mình là những đám đông

Người chia tay nhau cuối đường

Ngày đi đêm tới trăm tiếng hư không.

Có ai đang về giữa đêm khuya,

rượu tàn phai dưới chân đi ơ hờ

Vòng tay quen hơi băng giá,

Nhớ một người tình nào cũ,

Khóc lại một đời người quá ê chề.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Ra phố chợ hay đi về nhà, vẫn là những thứ và những sự khiến bạn và tôi phải chọn lựa. Một chọn và lựa, rất hôm nay và mai ngày ở mọi chốn. Cả đến chốn nhà Đạo cũng thấy có những điều và những thứ rất khó nuốt.

Thật ra thì, có khó nuốt hay không, chẳng phải là lời ca tiếng hát của ai đó, dù là người viết nhạc. Mà chỉ là những ê a, ca cẩm có những lời như sau:

“Chiều nay em ra phố về

Thấy đời mình là những quán không

Bàn in hơi bên ghế ngồi

Ngày đi đêm tới đã vắng bóng người.

Chiều nay em ra phố về

Thấy đời mình là con nước trôi,

Đèn soi trên vai rã rời

Ngày đi đêm tới còn chút hao gầy.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Chính đó mới là vấn đề. Vấn đề của đời người có những tháng ngày đáng chán, rất chán hoặc ê chề, khó diễn tả. Chán hơn cả, là mỗi lần nghĩ và suy về sự chết, hoặc những sự và thứ xảy đến với mình sau khi chết. Và đây lại là biện-luận của đấng bậc vị vọng ở Sydney từng lên tiếng trong một đoạn viết có hỏi và có đáp như sau:

“Thưa cha. Con có một đồng-nghiệp cùng làm một sở vừa bị chẩn-đoán mắc ung-thư vào thời-kỳ cuối. Bọn con lâu nay cứ bàn-thảo mãi để xem việc gì xảy đến sau khi chết? Một bạn khác có nói: “sau khi chết, là hết chuyện. Không còn sự sống. Cũng chẳng còn gì. Thế thì, sao bạn cứ bận tâm với mấy chuyện trời ơi như thế.”

Vậy xin hỏi cha xem làm sao ta thuyết phục được người bạn này về sự sống sau cái chết. Xin cha cho biết ý-kiến để con còn biết đường mà ăn nói. Cảm ơn cha rất nhiều.

Vâng. Đúng thế. Chết, là hết chuyện. Cả những chuyện bàn-bạc, lẫn chuyện ưu-tư, lo-lắng đến là mệt. Nhưng, Đức Thày nhà mình lại vẫn sẵn-sàng bày tỏ những điều như sau:

“Tiếc thay, vẫn còn nhiều người cứ là hay suy-nghĩ như bạn đồng-nghiệp của anh/chị cứ bảo rằng: “Chết là hết chuyện, chẳng có gì xảy ra sau đó hết!” Có người lại còn nói: chẳng thấy ai từ cõi chết trở về kể cho ta nghe bất cứ chuyện gì, ở bên ấy, và điều này càng khiến họ củng cố niềm tin này. Làm sao trả lời cho họ, ư? Thật ra thì, nếu bảo rằng Đức Giêsu từng nói cho ta biết về sự sống vĩnh cửu hoặc ta vẫn nghĩ là như thế, điều này vẫn chưa đủ. Bởi, mọi người ai cũng muốn có chứng cớ hẳn-hòi, cả khi Abraham khẳng-định rằng: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.” (Lc 16: 31)

Thật ra, cũng đã có nhiều vị trở về từ cõi chết và hiện ra để nói cho ta biết rất nhiều điều, trong số đó có Đức Mẹ. Ngày Mẹ hiện ra tại Fatima với 3 trẻ nhỏ vào mỗi tháng từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1917 là những điều thuyết-phục ta nhất. Đó là vì Đức Mẹ từng nói lời tiên-tri và đã thành sự thật vào những tháng ngày, ngay sau đó. Lần hiện ra trong tháng 7 chẳng hạn, Mẹ đã báo với các trẻ rằng Mẹ sẽ lại hiện ra vào tháng 10 tiếp theo sau để thực-hiện một phép lạ cho mọi người am-tường…

Đúng ngày 13 tháng 10 năm 1917, khoảng 700,000 người đã đội mưa, băng qua cánh đồng đầy bùn đất với hy-vọng được chứng-kiến phép lạ Mẹ làm. Và hôm ấy, dù mưa vẫn rơi tầm tã, bỗng trong vòng thời-gian chỉ một phút chốc, làn mây dầy đặc đã tan-biến, mặt trời đã ló rạng và cả vùng chung quanh rực sang và mọi người hôm đó đã thấy Mẹ hiện ra, rõ mồn một. Sự-kiện “phép lạ” Mẹ hiện ra cho thấy: có những điều được người đã khuất bóng trở về để chứng-tỏ lòng Chúa xót thương vẫn đến với mọi người…

Lại có nhiều trường-hợp xuất tự những người trải-nghiệm những giây phút lâm-sàng rất chết thật, khi tinh-thần hoặc linh-hồn đã rời thân xác họ đi về thế-giới khác gặp-gỡ/giáp mặt nhiều người khác về để thuyết-phục người còn sống. Có vị lại cứ kể đi kể lại thành truyện ngắn hoặc phim ảnh như bộ phim mang tên “Heaven is for Real” (tức: Thiên-đàng có thật”)…

Tóm lại, là tín-hữu Đức Kitô, ta luôn sống trong hy-vọng sẽ có sự sống vĩnh-cửu, nên mỗi khi có ai đi vào cõi chết, ta thường ủi-an để họ lại cũng có được hy-vọng như ta mà giúp họ sửa soạn đi vào cõi vĩnh-hằng có Chúa, sống với Chúa.

Cuối cùng, ý-nghĩ về sự chết không thể làm ta sợ sệt. Đúng hơn, nó giúp ta có được tràn đầy ước-vọng ở bên Chúa và vui hưởng niềm phúc-hạnh tột bực, đáng tin cậy. Chính đó, là thiên-đàng mà Giáo-lý Hội-thánh Công-giáo vẫn giải-thích cho ta biết. (GLHTCG đoạn 1024)”. (Xem Lm John Flader, Many things point to life after death as the ultimate, final reality, The Catholic Weekly, Question Time, 13/11/2016 tr. 22)    

Bàn về sự sống với nỗi chết ở đây/hôm nay, tưởng cũng nên đi vào với lời bàn của đấng thánh-hiền nhà Đạo từng khẳng-định ở Kinh Sách, có những ý/lời như sau:

“Vì một người duy nhất,

mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian,

và tội lỗi gây nên sự chết;

như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người,

bởi vì mọi người đã phạm tội.”

Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian.

Nhưng nếu không có Luật, thì tội không bị kể là tội.

Thế mà, từ thời Ađam đến thời Môsê,

sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa

như Ađam đã phạm.

Ađam là hình ảnh Đấng sẽ tới. Nhưng sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa.

Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã,

mà muôn người phải chết,

thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất

là Đức Giêsu Kitô,

còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.”

(Thư Rôma 5: 12-15)

“Sự chết lan tràn… vì mọi người phạm tội”, “ân-sủng của Thiên-Chúa ban nhờ một Người duy-nhất”, đó chính là quan-niệm do thánh Phaolô truyền lại cho Hội-thánh Chúa, cốt nói lên vai-trò thánh-thiêng của Đức Giêsu.

Ân-huệ nói ở đây, bao gồm cả sự trỗi dậy được Chúa ban cho hết mọi người. Một trỗi dậy, mà mọi người xưa nay vẫn gọi là “sống lại từ cõi chết”. Sống lại, ngay trên thân-xác “dễ chết” của mình. Và, sống lại trong “ngày sau hết” như niềm tin Ki-tô-giáo vẫn minh-định và tuyên-xưng ở Tiệc Thánh Thể vào mỗi ngày, hoặc mỗi tuần.

“Trỗi dậy” hoặc “sống lại từ cõi chết” phải là và vẫn là “tháp-nhập” vào Thân Mình Đức Ki-tô, để được sống với Ngài mỗi ngày và mọi ngày cho đến tận-thế, đó cũng là ý-chủ của mọi bài chia sẻ xuất từ miệng thành-viên Hội-thánh có chức phó-tế hoặc linh-mục, Giám-mục.

“Trỗi dậy” hoặc “sống lại từ cõi chết” là để sống cuộc sống rất “tiên-cảnh” ở đây, ngay lúc này trong Nước Trời trần-gian, là nhóm hội của cả những người trong/ngoài Hội-thánh. Và, đó chính là ý-nghĩa cũng như mục-đích của sự sống rất thực, của mỗi người. Và, “trỗi dậy” hoặc “sống lại” từ cõi chết, lại vẫn là mục-tiêu mà mọi người cần nhắm đến để sống cách thực-thụ từng giây từng phút, trong đời mình.

“Sống lại” từng giây/từng phút, là sống-với và sống-cùng mọi người trong mọi tình-huống. Cả những tình-huống mới nghe qua như là truyện kể cho mình và cho người, để còn nhớ. Nhớ nhiều và nhớ mãi những truyện kể trong đời như để nhắc nhở người người và chính mình, như câu truyện về hầm mộ dưới tầng hầm ở Luân Đôn, cũng là minh-hoạ để mọi người nhớ về sự “sống lại” thực thụ ấy, như sau:  

“Tại hầm mộ trong tầng hầm nhà thờ Westminster nổi tiếng thế giới ở Luân Đôn, có một tấm bia mộ nổi tiếng thế giới.

Kỳ thực, đây chỉ là tấm bia mộ rất bình thường, nó được làm bằng đá hoa cương thô ráp, hình dáng cũng rất bình thường. Xung quanh nó là những tấm bia mộ của vua Hery III đến George II và hơn hai mươi tấm bia mộ của những vị vua nước Anh trước đây, cho đến Newton, Darwin, Charles Dickens và nhiều nhân vật nổi tiếng khác. Vì thế nó trở nên bé nhỏ và không được để ý tới, trên đó không có đề ngày tháng năm sinh và mất, thậm chí một lời giới thiệu về người chủ ngôi mộ này cũng không có.

Mặc dù là tấm bia mộ vô danh như vậy, nhưng nó lại trở thành tấm bia mộ nổi tiếng khắp thế giới. Mọi người mỗi khi đến nhà thờ Westminster, họ có thể không tới bái yết những ngôi mộ của các vị vua đã từng có những chiến công hiển hách nhất thế giới, hay mộ của Dickens, Darwin và những của người nổi tiếng thế giới khác, nhưng không ai là không tới chiêm ngưỡng bia mộ bình thường này. Họ đều bị ngôi mộ làm cho xúc động mạnh mẽ. Chính xác ra, họ bị xúc động bởi những dòng chữ khắc trên tấm bia mộ này. Trên tấm bia mộ này có khắc một đoạn văn tự:

“Khi tôi còn trẻ, còn tự do, trí tưởng tượng của tôi không bị giới hạn, tôi đã mơ thay đổi thế giới.

Khi tôi đã lớn hơn, khôn ngoan hơn, tôi phát hiện ra tôi sẽ không thay đổi được thế giới, vì vậy tôi rút ngắn ước mơ của mình lại và quyết định chỉ thay đổi đất nước của tôi.

Nhưng nó cũng như vậy, dường như là không thể thay đổi được. Khi tôi bước vào những năm cuối đời, trong một cố gắng cuối cùng, tôi quyết định chỉ thay đổi gia đình tôi, những người gần nhất với tôi.

Nhưng than ôi, điều này cũng là không thể. Và bây giờ, khi nằm trên giường, lúc sắp lìa đời, tôi chợt nhận ra:

Nếu như tôi bắt đầu thay đổi bản thân mình trước, lấy mình làm tấm gương thì có thể thay đổi được gia đình mình, với sự giúp đỡ, động viên của gia đình mình, tôi có thể làm điều gì đó thay đổi đất nước và biết đâu đấy, tôi thậm chí có thể làm thay đổi thế giới!”

Người ta nói, nhiều nhà lãnh đạo và những người nổi tiếng trên thế giới đều bị xúc động mạnh khi đọc dòng chữ này, có người nói đó là bài học giáo lý cuộc sống, có người nói đó là một nhân cách hướng nội.

Khi còn trẻ, Nelson Mandela đã đọc những dòng chữ này, đột nhiên có cảm xúc rất nghiêm túc rằng phải tự mình tìm được con đường cải biến Nam Phi, thậm chí là chìa khóa vàng để cải biến toàn thế giới. Sau khi trở về Nam Phi, với tham vọng này, vốn là một thanh niên da đen ủng hộ chính sách phân biệt chủng tộc đầy bạo lực để cai trị, thoáng một cái, ông đã cải biến tư tưởng và thái độ đối xử của mình, từ việc cải biến chính mình, ông bắt tay vào việc cải biến gia đình và bạn bè thân hữu của mình. Sau nhiều thập kỷ, ông đã thay đổi được đất nước của mình.

Hãy luôn mang một tấm lòng lương thiện và làm những điều đúng đắn, nhắc nhở, cải biến bản thân thành một người tốt. Nếu mỗi người đều biết tự quay lại vào trong và cải biến bản thân mình cho tốt hơn, thì thế giới chắc chắn sẽ thay đổi.” (St sưu tầm)

Và, thêm một chuyện khác, rất như sau:

Đời như một trang giấy mà trên đó chỉ toàn những dấu chấm lặng thôi. Chúng ta sinh ra, mang trọng trách của những dấu chấm, phải điền cho kín mặt giấy đó như một cách tuyên bố rằng: tôi đã có mặt trong đời.

Nếu chỉ đơn giản là một dấu chấm câm lặng, thì đời… nhạt nhẽo biết mấy! Một chỗ trong đời chỉ như cái chấm nhẹ của một ngòi bút lên mặt giấy. Nhưng làm dấu chấm có phải dễ thế đâu. Tôi đã từng nghe ai đó nói rằng: “Hãy tìm cho mình một cách riêng để cuộc đời mình kết thúc bằng dấu chấm.”

Với tôi, không quan trọng là bạn bắt đầu hay chết đi như một dấu chấm, mà bạn có đủ can đảm để nhập vai làm một dấu chấm thực thụ và làm hết mình ý nghĩa của dấu chấm đó hay không.

– tín hiệu của sự kết thúc

– phần tử cuối cùng đầy uy quyền, sức mạnh, mạnh mẽ đóng khép dòng chảy của sự vật.

– sự hoàn thành của một ý, một câu văn, một đoạn văn và có thể là một cuộc tình.

Không chỉ thế mà “chấm là đau và ai cũng sợ đau” (*)

Dấu chấm bé nhỏ như vậy “.” – giản dị và mộc mạc như thế nhưng “chấm nhẹ nhàng, liệu lòng nhẹ nhàng chăng?” (*)

Với tôi, thậm chí là nhiều người, dấu chấm hết không hẳn đã “xấu” như thế. “Hãy chết đi như một dấu chấm”, nhưng không phải ai cũng có thể đặt cho mình một dấu chấm. Chúng ta sinh ra cùng là dấu chấm được tạo từ nét bút của cuộc đời, chứ không phải những dấu chấm được dùng trên máy tính – những dấu chấm giống nhau và vô hồn.

Chỉ là một dấu chấm thôi, nhưng chúng ta luôn bị ảnh hưởng bởi những gì được viết đằng trước nó và hệ quả đằng sau một dấu câu. Đâu phải cứ là dấu chấm thì đằng sau không còn gì nữa? Đặt dấu chấm hết để mở ra một sự khởi đầu mới cho câu mới, đoạn mới, những ý tưởng còn đang nung nấu.

Đằng sau dấu chấm có thể là một bước đi, một cuộc sống mới về phía tương lai. Hay nó giúp chúng ta nối dài những điều tốt đẹp, dù phía trước nó có tồi tệ như thế nào. Tình yêu được đặt dấu chấm xen ngang chưa chắc đã là một tình yêu chết. Có những mối quan hệ đã đi được rất rất xa. Đi xa đồng nghĩa với việc người đi đường cũng thấm mệt.

Vì thế, đặt một dấu chấm ở giữa mối quan hệ không có nghĩa chúng ta nhẫn tâm gán cho nó một chữ “tử” mà để người trong cuộc có dịp dừng chân, lấy sức, tiếp thêm năng lượng, sẵn sàng bước tiếp trên hành trình dài phía trước. Tình yêu khi ấy tưởng chừng sắp lụi tàn bỗng được hồi sinh, tràn đầy yêu thương. Vậy đấy! Dấu chấm mang trong mình trách nhiệm “khởi đầu” là vì thế. Tôi nói: bạn sinh ra đã là một dấu chấm trên trang giấy đầy những dấu chấm, bởi bạn không chỉ là bắt đầu vai trò một dấu chấm mới, một vị trí mới trên trang “đời” mà bạn còn là sự tiếp nối của những dấu chấm phía trước. Đó là ông bà, bố mẹ bạn.

Những dấu chấm gặp nhau trên trang giấy, dù vô tình hay hữu ý, nhưng biết cùng nhau tạo ra những sự khởi đầu mới. Các thế hệ “chấm trước” không để mình chết mòn trong câm lặng, mà để trang giấy của họ ngày một đông đúc hơn.

Dấu chấm không dừng lại ở đó. Trong một cái chấm tròn nhỏ bé, nó không chỉ biết đóng khép, biết bắt đầu, mà còn biết gợi mở. Vừa là dừng lại, vừa là tiếp diễn. Hoàn tất để tạo dựng những điều mới mẻ. Mỗi người trong chúng ta cũng vậy.

Sự ra đi của bạn có thể là sự đau buồn của gia đình, nhưng biết đâu từ cuộc giã từ đó, những con người khác lại nhìn thấy trong đó được nhiều điều và gợi lên trong họ nhiều ý tưởng để họ có thể kéo dài những điều bạn chưa thực hiện được. Thế là dấu chấm thành dấu chấm lửng. Nó như những nốt nhạc không thành hình cứ ngân mãi trong bản nhạc đến vô cùng.

Bạn có thể là một dấu chấm to bự được cấu thành từ những dấu chấm nhỏ. Cuộc sống của bạn chính là quãng thời gian được ví như sự sắp đặt sát kề nhau của những dấu chấm liên tiếp. Và bạn cùng với những dấu chấm khác của cuộc đời lại tiếp tục đặt sát nhau để làm nên một dấu chấm to nhất – cuộc đời chung.

Vẫn biết, trong cộng đồng những dấu chấm, sẽ có những dấu chấm “lép” hay những con người xấu xa, tiêu cực của xã hội. Nhưng tôi tin rằng, nếu bạn đã làm tốt vai trò của mình, là một dấu chấm “mẩy” thì lực hút của bạn sẽ tác động lên những dấu chấm kia, làm thay đổi phần nào xấu xa trong chúng. Và với niềm tin lạc quan (có mức quá đà) rằng trong xã hội, những thành phần xấu xa chỉ chiếm một phần rất nhỏ thì cái đẹp sẽ cảm hóa được cái xấu.

Nếu là dấu chấm, thì phải biết gói lại những gì đã qua để bắt đầu, để chúng ngủ thật sâu sau mỗi lần trỗi dậy đầy đau đớn. Và rồi sẽ lại có những điều tốt đẹp tìm đến gõ cửa.

Sẽ có đôi khi, bạn chán nản, thất vọng khi là một dấu chấm. Nhưng không ai muốn nhìn một dấu chấm lạc lõng giữa một giòng mà xung quanh nó có một khoảng cách với những dấu chấm khác. Không ai muốn đọc một câu, một đoạn văn bị ngắt quãng không đúng lúc bởi một dấu chấm ngớ ngẩn. Khi đó, câu văn, đoạn văn ấy sẽ trở nên vô nghĩa. Hay nói cách khác, bạn sống cả đời tưởng có mà như không.

Nếu đã xác định là một dấu chấm, dù với vai trò bắt đầu hay kết thúc, thì hãy là một dấu chấm mạnh mẽ đặt đúng chỗ, sẵn sàng xuống giòng viết tiếp một đoạn mới. Mọi thứ khi chúng ta biết dừng lại và tiếp tục đúng lúc sẽ tốt đẹp cả thôi. Cuộc đời muôn màu, không chỉ với mình dấu chấm, nhưng nếu nhận thức được bản thân mình là ai, mình muốn gì, mình có vai trò gì đối với bản thân mình và đồng loại thì ta luôn tự tin sẽ vững vàng trước sóng gió mà cuộc đời đem lại thôi. (Trích thơ “Dấu chấm hết” của Cao Minh Tùng – Huyền Văn)

Xem thế thì, dấu chấm hay dấu phẩy trong đời người, vẫn là những chuyện xảy ra trong đời, thật cũng khó mà bàn-luận. Chi bằng, ta cứ sống với những chấm/phảy, rồi cũng xong. Hoặc giả, cứ để nó đến với mình và với người, rồi từ từ giải-quyết như mọi người trong đời, như chuyện gì phải đến cứ đến, nào có sao.

Thế đó, là lập-trường của tôi và có lẽ của bạn bè mười phương vẫn làm thế trong đời mình. Mỗi thế thôi. Thế thôi, nay tôi và bạn ta cùng nhau kết thúc chuyện mạn bàn, để rồi còn phải tính tới những chuyện khác, của tôi, của bạn và của mọi người trong dân-gian thế sự, nhiều sự kiện.

Thế đó, là kết đoạn của câu chuyện phiếm chẳng có gì cần để trong đầu mà nghĩ tới. Và, đây lại cũng là dấu chấm hết của bài phiếm rất hôm nay. Hẹn bạn hẹn tôi một ngày sớm ta lại cùng nhau phiếm nhanh, phiếm mạnh, phiếm dài dài, nhiều hơn nữa.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những chuyện phiếm để đời

vẫn còn chờ bạn và tôi,

ta gia-nhập. 

ĐỪNG XÉT ĐOÁN!

Trầm Thiên Thu chuyển ngữ.

Chúa Giêsu nói: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán,2 vì anh em xét đoán thế nào thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em” (Mt 7:1–2).

Giáo huấn của Chúa Giêsu bị hiểu sai nhiều lắm. Cách giảm bớt phổ biến mà chúng ta thường nghe nói là “Đừng xét đoán”. Điều quan tâm là cách giảm bớt này là cách áp dụng rộng rãi về bài học của Chúa Giêsu. Ngài KHÔNG BẢO người khác đừng xét đoán chúng ta, mà Ngài BẢO chúng ta đừng xét đoán người khác. Điều người khác làm không là mối bận tâm đầu tiên của chúng ta, nhưng điều chúng ta làm mới là mối bận tâm đầu tiên của chúng ta. Vấn đề lớn nhất của chúng ta không là cách người khác xét đoán chúng ta, mà là cách chúng ta xét đoán người khác.

LƯU Ý: HÃY XÉT ĐOÁN NGUY CƠ CỦA CHÚNG TA

Thật vậy, khi Chúa Giêsu bảo “Đừng xét đoán”, Ngài không cấm người khác xét đoán, mà Ngài cảnh báo nghiêm khắc việc quan tâm cách xét đoán của người khác. Chúng ta biết điều này khi Chúa Giêsu tiếp tục nói: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: ‘Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn’, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em” (Mt 7:3–5).

Không sai khi giúp người khác loại bỏ cái rác khỏi con mắt, nhưng sai khi chỉ ra cái rác trong mắt người khác trong lúc chúng ta không biết, một cục lố bịch lòi ra từ chính mình.

Vì thế, Chúa Giêsu đặt một bóng đèn sáng trên người khác để cho chúng ta biết rằng: “Coi chừng: hãy xét đoán chính mình”. Điều đó làm cho chúng ta dừng lại và xem lại mình trước khi nói ra điều gì đó. Bản chất sa ngã của chúng ta là ích kỷ, kiêu ngạo và giả hình, xét đoán người khác nghiêm khác nhưng lại xét đoán mình nhẹ nhàng. Chúng ta mau chóng “lọc con muỗi mà nuốt cả con lạc đà” (Mt 23:24), dễ dàng lấy cái nhíp gắp cái rác ở mắt người khác mà cố ý quên rằng mắt mình đang bị che khuất bởi cây đà lớn. Đừng xét đoán kiểu như vậy, vì chúng ta sẽ bị người khác nghiêm khắc xét đoán theo cách tương tự.

Chúa Giêsu rất nghiêm khắc khi xét đoán. Ngài là thẩm phán chí công (2 Tm 4:8), tràn đầy ân sủng và chân lý (Ga 1:14). Ngài không xét đoán theo bề ngoài, mà xét đoán công minh (Ga 7:24). Mỗi xét đoán của Ngài xuất phát từ bản chất yêu thương của Ngài (1 Ga 4:8).

Vì thế, khi chúng ta xét đoán, hãy theo hướng dẫn của Thánh Phaolô: “Thật vậy, xét xử người ngoài đâu phải là chuyện của tôi. Còn người trong đạo, anh em không được xét xử hay sao? Người ngoài, chính Thiên Chúa sẽ xét xử. Hãy khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh em” (1 Cr 5:12-13). Chúng ta phải cẩn trọng khi xét đoán, phải xét đoán như Chúa Giêsu, xét đoán bằng đức ái.

XEM XÉT KỸ TRƯỚC KHI KẾT TỘI

Cách thứ nhất, hãy cẩn trọng cách xét đoán của chúng ta phải chậm kết tội khi chứng cớ chưa đủ hoặc còn mơ hồ. Điều này thường gặp không chỉ theo bản chất sa ngã của chúng ta, mà còn là phong cách xét đoán theo kiểu “chẻ tư sợi tóc”.

Khi viết, “đức mến tin tưởng tất cả” (1 Cr 13:7), Thánh Phaolô nói về dạng “xét đoán trong đức ái”. Các Kitô hữu được mời gọi tin tưởngđiều tốt đẹp nhất về nhau cho tới lúc có chứng cớ đầy đủ về lỗi lầm đã xảy ra.

MỤC ĐÍCH ĐỂ PHỤC HỒI

Khi chứng cớ rõ ràng, chúng ta còn có cách thứ hai để cẩn trọng khi xét đoán là mục đích để phục hồi: “Anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em” (2 Cr 13:11).

Nếu chúng ta liên quan tình huống tương tự, mục đích của chúng ta khi đối chất người bị bắt quả tang phạm tội, nếu cần, hãy theo quy luật của Giáo Hội để giành lại người anh chị em đó: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh thì anh đã chinh phục được người anh em” (Mt 18:15). Mục đích của chúng ta không là để trừng phạt, mà để cứu chuộc. Chúng ta vẫn phải tỉnh thức, đó là chúng ta “phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4:32). Mặc dù người có lỗi không ăn năn và tình bạn trở nên căng thẳng, mục đích của chúng ta vẫn là cứu chuộc đối với người phạm lỗi (1 Cr 5:5) và đối với Giáo Hội (1 Cr 5:6).

IM LẶNG NẾU CÓ THỂ

Nếu chúng ta không dính líu, chúng ta vẫn phải nhắm mục đích là cứu người khác bằng cách nào đó, nếu có thể thì giữ im lặng. Một quy luật quan trọng: càng xa cách thì càng không biết. Phê phán một người khi chúng ta không biết gì về họ hoặc tình huống của họ thì hoàn toàn bất lợi, chỉ là “buôn chuyện” hoặc vu khống, Chúa Giêsu gọi đó là gian tà (Mt 15:19).

Chúng ta phải biết cách hiểu của mình thế nào và xu hướng bóp méo cách xét đoán ra sao. Chúng ta thường nghĩ rằng chúng ta biết rõ những gì xảy ra, nhưng thực tế lại không phải như thế. Tình yêu thương khả dĩ che phủ muôn tội lỗi (1 Pr 4:8), và hãy coi chỉ là “chuyện nhỏ” mà thôi: “Ai muốn có bạn bè thì quên đi lầm lỗi, nhắc hoài chuyện cũ làm cho bạn xa mình” (Cn 17:9).

XÉT ĐOÁN CÔNG MINH

Cách chúng ta xét đoán người khác rất quan trọng so với cách chúng ta bị người khác xét đoán. Đó là lý do Thiên Chúa sẽ xét đoán chúng ta theo cách chúng ta xét đoán người khác, chứ không theo cách người khác xét đoán chúng ta. Do đó, chúng ta phải xét đoán đúng đắn và công minh (Ga 7:24). Sự xét đoán công minh mang tính bác ái để dễ dàng tin có sự vô tội, chậm kết tội người khác, muốn cứu người khác, và giữ im lặng khi cần thiết – ai nói gì mặc ai, tôi không có ý kiến vì tôi không biết.

Khi nghi ngờ thì “đừng vội xét đoán”. Ca dao Việt Nam cũng đã nhắc nhở mỗi chúng ta về vấn đề quan trọng này:

Chân mình còn lấm bê bê

Lại cầm bó đuốc đi rê chân người

Và Chúa Giêsu cũng đang đích thân hỏi chúng ta: “Ai trong quý vị sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8:7).

JON BLOOM-TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ DesiringGod.org)

DUYÊN

Trầm Thiên Thu

Nói đến DUYÊN thì khó “chuẩn” vì có đa nghĩa và đa dạng, có thể mỗi người một cách riêng – dù nhìn chung một vật hoặc một vấn đề, nhưng chắc hẳn vẫn có những “điểm chung” nhất. Có những cô gái không đẹp nhưng lại có duyên, khiến người khác phái “mê”, và cũng có những cô gái xinh đẹp nhưng lại trơ trẽn và… vô duyên!

Một cô gái vô ý, không biết “ăn trông nồi, ngồi trông hướng” thì không thể có duyên. Một cô gái ăn mặc “tùy tiện”, hở hang thái quá thì không thể có duyên. Đi đường hằng ngày, chúng ta thấy không ít cô gái dạng này, nhìn phía trước hay phía sau cô gái thì bạn cũng thấy “sượng”, có thể bạn phải “lầm bầm” một mình: “Vô duyên!”.

Một cô gái đi đứng giống như “thế giới chỉ có mình ta”, ăn uống tục tĩu, nói năng cộc cằn hoặc “bốp chát” thì không thể có duyên. Một cô gái quá bẽn lẽn hoặc làm ra vẻ nhu mì thì cũng không thể có duyên. Và tất nhiên còn nhiều nhiều nữa…

Theo quan điểm chung của nam giới, một cô gái “có duyên” cần 3 điểm chính:

  1. BIẾT ĐIỀU

Nghĩa là phải biết phải, trái. Không qụy lụy cũng không kiêu kỳ, luôn biết người biết ta, biết nhường nhịn mà không lép vế. Không khó tính, không “chảnh”, không ảo tưởng. Biết điều cũng là nét dịu dàng thùy mị đầy nữ tính vậy!

  1. TỰ NHIÊN

Nghĩa là không quá bạo dạn cũng không nhút nhát, khéo léo, tế nhị và linh động. Cứ luôn là chính mình, giữ được “nét riêng”, đừng là “bản sao” của người khác. Không chưng diện thái quá, chỉ trang điểm “nhẹ” khi cần, không màu mè, không khách sáo, nhưng cũng không thụ động – kiểu “thiên lôi chỉ đâu đánh đó”. Phong cách giản dị mà vẫn gọn gàng. Bề ngoài chỉ thỏa mãn con mắt, thậm chí gợi sự tò mò, chính chiều sâu nội tâm mới khả dĩ thu phục nhân tâm.

  1. CHỪNG MỰC

Nghĩa là không suồng sã, biết nói khi cần và nói đúng chỗ, biết dừng đúng lúc, nhưng luôn chính xác và mạch lạc, không vòng vo hoặc dài dòng.

Tóm lại, là nữ giới, đó là một đặc ân Tạo hóa dành riêng, hãy cứ là chính mình chứ đừng bắt chước hoặc cố “tạo dáng”, và hãy là một phụ nữ ĐƯỢC YÊU vì ĐÁNG YÊU chứ không phải vì không còn ai khác!

MỆNH LỆNH PHỦ ĐỊNH

Trầm Thiên Thu

(Chúa Nhật V Phục Sinh, năm A)

Trong các ngôn ngữ đều có dạng mệnh lệnh cách (imperative), dạng câu ngắn nhất: chỉ một động từ. Mệnh lệnh dùng để khuyến khích hoặc ngăn cấm, có thể là mệnh lệnh xác định – hãy làm điều này, hãy nhớ điều kia, hoặc mệnh lệnh phủ định – chớ làm điều kia, đừng làm điều nọ. Mỗi dạng mệnh lệnh đều có đặc tính nhất định.

Mệnh lệnh xác định thường dùng để khuyến khích hoặc động viên, mệnh lệnh phủ định thường dùng để ngăn cấm. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại sử dụng mệnh lệnh cách phủ định để khuyến khích chứ không để ngăn cấm. Ngài động viên: “Đừng xao xuyến!” (Ga 14:1; Ga 14:27). Tương tự, Thánh Phêrô cũng khuyến khích: “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến” (1 Pr 3:14). Câu nói động viên chúng ta “đừng sợ và đừng xao xuyến” cũng chính là bảo chúng ta “đừng nhút nhát và đừng lo lắng”. Như vậy có nghĩa là phải can đảm, muốn can đảm thì phải mạnh mẽ, muốn mạnh mẽ thì phải cầu xin Chúa Thánh Thần: “Veni Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!”.

Chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta biết Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần hoặc Thánh Linh, cũng gọi là Thần Khí. Nhưng đôi khi người ta có thể ảo tưởng mà lầm lẫn, cái gì cũng bảo là “Ý Chúa”. Vì thế, Thánh Gioan Tông Đồ đã khuyên chúng ta PHẢI cảnh giác và đưa ra cách nhận biết: “Anh em ĐỪNG cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy CÂN NHẮC các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian. Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giêsu thì không bởi Thiên Chúa, đó là thần khí của tên phản Kitô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi(1 Ga 4:1-3).

Quả thật, lời cảnh báo của Thánh Gioan thực sự đáng sợ! Và chúng ta cũng đã và đang thấy nhiều thứ giả, trong đó có “người giả” đủ loại – cả đời và đạo. Những điều tương tự cũng đã được Đức Mẹ nhiều lần tiên báo. Do đó, sự cảnh giác càng cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết, đặc biệt trong thế kỷ XXI đầy những khó khăn này, càng văn minh càng nhiêu khê. Đúng là cái chữ @ nó “vòng vo” rắc rối quá chừng!

Trong cuộc sống (đời và đạo) luôn có nhiều thứ khiến chúng ta xao xuyến, chia trí. Ma quỷ có thiên hình vạn trạng, nó len lỏi vào bất cứ nơi nào, thậm chí ma quỷ có thể cám dỗ chúng ta cảm thấy mình đạo đức và thánh thiện. Đó là dạng cám dỗ rất nguy hiểm, vì là dạng GIẢ DANH GIẢ NGHĨA. Thà rằng nó cám dỗ chúng ta khô khan, phạm tội, hoặc “quay lưng” lại với Chúa thì chúng ta dễ nhận biết mà tránh, đằng này nó lại làm cho chúng ta cảm thấy rất gần Chúa, thực ra chỉ là “bẫy ảo giác” nó giăng để chúng ta dễ sập bẫy, thế mới đáng sợ, và chúng ta phải rất tỉnh thức – cảnh giác với cả chính mình!

Một người quen (tại Hoa Kỳ) cho biết rằng em gái của họ lấy chồng là Phật tử, người chồng này làm cho cô vợ bỏ đạo Công giáo và nói xấu Công giáo đủ thứ. Ngay tại Saigon, một thanh niên đã bỏ đạo Công giáo, rồi cạo đầu và quy y, anh ta bảo rằng theo Công giáo phải giữ nghiêm luật nên “căng” quá, theo Phật giáo “khỏe” hơn nhiều. Tại Đồng Nai, một nữ tu bỏ đạo Công giáo rồi đi lập chùa riêng và làm ni cô trụ trì. Thiên hình vạn trạng!

Khi thấy có những trường hợp như vậy, chúng ta đừng vội hoang mang hoặc xao xuyến, vì đó là những trường hợp hiếm hoi, chỉ đủ đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Thật ra họ chỉ bất mãn một vấn đề nào đó vì họ không được “như ý”, đồng thời họ là những người “yếu bóng vía” và chẳng hiểu rõ Công giáo, lý luận của họ chỉ là dạng “lý sự cùn”, đầu óc thiển cận hoặc giống như “ếch ngồi đáy giếng” mà thôi. Hãy quên họ đi!

Đối với những người thực sự giỏi (đúng nghĩa), họ không như vậy, thực tế cho chúng ta biết rằng người ta càng giỏi thì càng tin có Thiên Chúa. Đa số các bác học đều là những người tin vào Thiên Chúa. Khoảng 40 năm trước, Đức cố TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình (1910-1995) đã rửa tội cho một Thượng tọa Phật giáo cao niên vào chính đêm mừng Con Chúa giáng sinh. (Nay chợt hồi tưởng liên quan chuyện “theo đạo”, nhưng tiếc rằng lâu quá rồi, tôi không còn nhớ tên ông cựu họ Thích này!). Hơn 20 năm trước, một ni cô chán “ăn chay trường” rồi gia nhập Công giáo, sau đó cô này lấy chồng là người Công giáo. Vợ chồng họ vẫn sống hạnh phúc tại Thủ Dầu Một (Bình Dương).

Thiết tưởng cũng nên xác định rằng không một người nào lập đạo mà dám nói “tôi là Thiên Chúa”, chỉ có Chúa Giêsu. Chẳng có ai làm được những phép lạ như Đức Giêsu đã làm. Và cũng chỉ có Đức Giêsu dám nói: “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6). Đơn giản như vậy thôi cũng đủ để chúng ta biết đâu là “chân lý thật” và đâu là “chân lý giả”. Chính khoa học và khoa khảo cổ càng ngày càng phát hiện những điều chính xác như Kinh Thánh đã đề cập hàng ngàn năm trước. Các giáo phái ly khai với Công giáo, nghĩa là trước đó chính họ là Công giáo. Họ ly khai vì theo ý riêng chứ không muốn theo ý chung của Giáo Hội.

Sự thật mãi mãi là sự thật, và chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát chúng ta (Ga 8:32). Sách Công Vụ đưa ra bằng chứng cụ thể: Khi nghe ông Phêrô rao giảng việc ăn năn sám hối, chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội, và nhận được ân huệ là Thánh Thần, ngay lúc đó đã có khoảng ba ngàn người theo đạo (Cv 2:38-41). Đâu có thể đơn giản mà có số người đông như vậy cùng gia nhập đạo một lúc, cũng đâu phải họ theo đạo cho vui hoặc có lợi về vật chất! Hàng tháng, tại nhiều nhà thờ Công giáo vẫn có những người trưởng thành (chứ không nói chi trẻ em) vui mừng lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Đó là những bằng chứng hùng hồn, thực sự là phép lạ mà Chúa Thánh Thần vẫn đang tác động không ngừng trong Giáo Hội – Nhiệm Thể Đức Giêsu Kitô.

Chúng ta cũng vẫn thấy có những người gia nhập Công giáo khi họ đã thực sự trưởng thành (tâm sinh lý), thậm chí là lớn tuổi, họ sống đạo rất tốt với một đức tin trưởng thành và vững mạnh. Đặc biệt là có những người theo đạo Công giáo rồi đi tu trở thành tu sĩ hoặc linh mục – trong đó có Lm Thiên Phong Bửu Dưỡng (*). Họ là những người đã trưởng thành, chắc chắn không ai có thể “dụ dỗ” được họ nếu họ không thực sự tin vào Đức-Giêsu-nhập-thể-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh. Ai cảm thấy còn “đắn đo”, hãy cố gắng củng cố và giữ vững lòng tin, hãy hãnh diện về Đức Tin Công giáo, và đừng bao giờ xao xuyến vì bất cứ điều gì!

Chúng ta không phủ nhận rằng Giáo hội Công giáo đặt tiêu chuẩn cao về luân lý, rất cảm thông với người bất đồng ý kiến, nhưng không nhượng bộ bất kỳ áp lực nào. Tất cả chúng ta đều là tội nhân, nhưng Chúa Giêsu không chỉ chịu chết vì chúng ta, mà Ngài còn thiết lập bí tích Hòa giải để tha thứ tội lỗi, để thương xót và ban ân sủng cho chúng ta, giúp chúng ta sống đời sống luân lý tốt hơn. Tất cả là Hồng Ân.

Ngày xưa, khi Chúa Giêsu đã phục sinh và số môn đệ thêm đông, các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp đã kêu trách các tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6:2-4).

Và trình thuật Cv 6:5-7 cho biết: “Đề nghị đó được mọi người tán thành. Họ chọn ông Tê-pha-nô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Phi-líp-phê, Pơ-rô-khô-rô, Ni-ca-no, Ti-môn, Pác-mê-na và ông Ni-cô-la, một người ngoại quê An-ti-ô-khi-a đã theo đạo Do-thái. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông. Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin”. Đó chính là Nhóm Bảy Người, tức là các Phó tế đầu tiên của Giáo hội, trong đó có Phó tế Tê-pha-nô về sau chịu tử đạo. Không chỉ có Phó tế Tê-phan-nô mà còn biết bao vị tử đạo khác đã xả thần vì danh Đức Giêsu Kitô, ở mọi nơi và mọi thời. Ngày nay cũng vẫn có các chứng nhân ở đâu đó trên thế giới…

Đây là niềm hãnh diện của Kitô hữu: “Vinh quang của tôi là Thập Giá của Đức Giêsu Kitô – Mea Gloria est Crux Christi” (Gl 6:14). Chắc chắn không ai và không tôn giáo nào có dạng vinh quang “ngược đời” như Kitô giáo. Trong chúng ta, chắc chắn ai cũng sợ đau khổ, nhưng khi đã cảm nhận được đau khổ, người ta lại bị đau khổ thu hút. Thập Giá có sức hấp dẫn kỳ lạ. Vô tri bất mộ. Người không có niềm tin Kitô giáo sẽ chẳng bao giờ hiểu được điều đó, thế nên người vô thần bảo tôn giáo là thuốc phiện đã “ru ngủ” chúng ta – các Kitô hữu có vinh quang là Thập Giá của Đức Kitô.

Thánh Vịnh gia hân hoan mời gọi: “Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen. Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm, kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt” (Tv 33:1-2). Và rồi không thể lặng im lâu, Thánh Vịnh gia phải giải thích ngay lập tức: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:4-5).

Thánh Gioan cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), kỳ lạ là Ngài yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân (Rm 5:8), còn thù nghịch với Ngài (Rm 5:10), thậm chí Ngài còn chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu đó quá lớn lao, lòng thương xót quá bao la và sâu thẳm. Ngài luôn quan tâm chúng ta: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-19).

Nhưng chính mỗi chúng ta đều phải xem lại chính mình, như Thánh Giacôbê đã phân tích: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão(Gc 1:26).

Thánh Phêrô vừa khuyên nhủ vừa động viên: “Anh em hãy tiến lại gần Đức Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô. Quả thật, có lời Kinh Thánh chép: Này đây Ta đặt tại Sion một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng” (1 Pr 2:4-6). Lòng thương xót của Thiên Chúa quá đỗi kỳ diệu, chúng ta không thể nào hiểu nổi!

Thánh Phêrô cho biết thêm về hạnh phúc của các Kitô hữu, những người được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần: “Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy. Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1 Pr 2:7-9). Có nhiều dạng ơn thiên triệu, nói theo bình dân là “ơn gọi”, và ơn thiên triệu nào cũng cao cả: Ơn gọi tu trì, ơn gọi kết hôn, ơn gọi độc thân,… Ơn gọi nào cũng là để hoàn tất sứ mạng theo kế hoạch của Thiên Chúa.

Cuộc sống không hề đơn giản, nhiệm vụ nào cũng khó, vì thế Chúa Giêsu đã động viên: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14:1). Cuộc sống đã và đang chứng tỏ cho chúng ta thấy như vậy, đúng là chỉ có Thiên Chúa là cứu cách và cùng đích, thiếu Đức Kitô thì chúng ta không thể làm được gì, dù là điều nhỏ nhoi (x. Ga 15:5). Chúng ta có hoang mang hoặc lo sợ thì cũng chẳng “chuyển hóa” được gì, đúng như có lần Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được(Mt 5:36). Vì thế mà chúng ta phải sống theo lời khuyên của Ngài: “Đừng xao xuyến!”. Nói theo kiểu nói ngày nay: “Cứ vô tư mà sống!”. Lo bạc râu, sầu bạc tóc. Mà có lo cũng chẳng được, cái gì đến sẽ đến, thế thì lo chi cho khổ? Nghe lời Chúa Giêsu bảo “đừng xao xuyến” cũng chính là tin vào sự TIỀN ĐỊNH và QUAN PHÒNG của Thiên Chúa vậy! Và có một điều thiết tưởng cũng nên lưu ý: cách nói “không xao xuyến” nghĩa là đừng chạy theo những cái mà người ta cho đó là “sự lạ”, dạng này thường xuyên được người ta “chú ý”, mà như vậy là chúng ta chưa thực sự tin vào Thiên Chúa, chưa thực sự tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót. Cẩn tắc vô ưu!

Tại sao không nên xao xuyến? Chúa Giêsu căn dặn: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:2-3). Người đời cũng biết nhận định: “Sinh ký, tử quy – sống gởi, thác về”. Thật vậy, thế gian chỉ là chuyến lữ hành về Thiên Đàng, “cuộc đời như chiếc cầu, hãy đi qua chứ đừng dừng lại trên đó” (Thánh nữ Catarina), chết không là hết mà chỉ là biến đổi, chính cái chết là “ngưỡng cửa” để bước vào sự sống đời đời. Thật hạnh phúc cho chúng ta vì được Chúa Giêsu hứa: “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Đúng là niềm hạnh phúc của mọi niềm hạnh phúc!

Hôm đó, Chúa Giêsu bảo: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”. Nghe vậy, ông Tôma “gãi đầu” và hỏi ngay: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”. Đức Giêsu cười và đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Đây là câu “nổi tiếng” trong Kitô giáo, được trích dẫn rất nhiều, và cũng là niềm hy vọng chắc chắn của những người tin vào Con Thiên Chúa, Đấng-nhập-thể-làm-người. Đức Giêsu nói thêm: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (Ga 14:7).

Sau đó, ông Philípphê xin Thầy Giêsu tỏ cho thấy Chúa Cha để được mãn nguyện., nhưng Ngài trách ông Philípphê ở với Ngài bao lâu rồi mà lại “hỏi ngớ ngẩn” như vậy. Rồi Ngài xác định: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). Chắc chắn đó là cách hiểu vượt quá tầm hiểu của phàm nhân, nếu chúng ta ở bên Chúa Giêsu hồi đó thì chúng ta cũng vẫn “ngớ ngẩn” như Tông đồ Philípphê mà thôi, e rằng chúng ta còn “tệ” hơn thế đấy!

Chúa Giêsu nói thêm để giải thích cho ông Philípphê và các Tông đồ khác – đồng thời cũng là nói với mỗi chúng ta hôm nay: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14:10-12).

Và rồi một lần nữa, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Đức Tin. Thật vậy, khi có đủ niềm tín thác vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, luôn quan phòng và tiền định cho mỗi người theo ơn gọi riêng, người ta sẽ thanh thản và sống theo lời khuyên và cũng là lời động viên của Đức Kitô Giêsu: “Đừng xao xuyến!”. Ước gì mỗi Kitô hữu chúng ta đều có thể xác định như Thánh Vịnh gia: “Chúa là gia nghiệp đời con” (Tv 16:5-6).

Lạy Thiên Chúa nhân hậu, con chỉ là hạt bụi bé nhỏ nhất mà đã làm bận mắt Ngài, xin thương ban thêm Đức Tin và lòng can đảm để con không bị dao động trước mọi nghịch cảnh, ngay cả khi đối diện với kẻ thù. Xin làm cho con nên thánh theo ước muốn và kế hoạch mầu nhiệm của Ngài. Xin ban Thần Khí Ngài để con sống can đảm và bình an. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

trầm thiên thu

(*) Lm Bửu Dưỡng (OP, Dòng Đa-minh, 1907-1987). Cậu ấm Bửu Dưỡng thuộc dòng dõi hoàng gia triều Nguyễn, là cháu trực hệ đời thứ năm của vua Minh Mạng. Thân phụ là cụ Ưng Trình, đại thần Cơ Mật viện và đại thần Tôn Nhơn Phủ (1936) và Thượng Thư. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Như Uyển, cũng dòng dõi quan lại cấp Thượng Thư.

Cậu Bửu Dưỡng là con trai thứ năm. Thiếu thời, cậu học trường Quốc Học Huế, rồi trường Cao Đẳng Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp, cậu trở về Huế làm thông phán sở Bưu Chính. Sinh trưởng trong gia đình hoàng tộc và tôn sùng đạo Phật, Bửu Dưỡng cũng rất ác cảm với Công giáo, nhưng “duyên Trời” ấn định khác.

Thượng tuần tháng 5-1928, cậu Bửu Dưỡng lên đường ra Quảng Trị, tìm lên vùng núi Phước Sơn, xin học giáo lý để nhận bí tích Rửa tội và gia nhập dòng Xitô (Cistercians). Lm Bề Trên Henri Denis (Cố Thuận, người Pháp) trực tiếp dạy giáo lý. Lễ rửa tội được cử hành ngày lễ Đức Mẹ lên trời, 15-8-1928. Tân tòng Bửu Dưỡng nhận thánh danh Bô-ni-pha-xi-ô (Bonifacius), nghĩa là “bộ mặt đẹp”. Bề Trên Dòng chủ lễ, bên cạnh là Phó tế Ta-đê-ô Lê Hữu Từ (sau đó làm giám mục).

Sau một năm ở tập viện Xitô Phước Sơn, tu sinh Bửu Dưỡng vì sức khỏe yếu, đau bao tử, bị chứng tê thấp, lại bị mụt nhọt ở chân, được Bề Trên cho về nhà nghỉ dưỡng bệnh tại gia đình ở Huế. Trong thời gian nầy, thầy Bửu Dưỡng có nhiều quan hệ với Dòng Chúa Cứu Thế, với ý muốn nhập dòng nầy nhưng không thành…

Trong khi dịch giùm cho các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế một số bài giảng, thầy được đọc sách của Thánh Tôma Aquinô, thầy say mê triết lý và thần học của vị tiến sĩ nổi tiếng thuộc Dòng Đa Minh và có ý muốn theo chân ngài trong một dòng tu chuyên nghiên cứu và thuyết giảng đạo lý Kitô giáo.

Linh mục Bề Trên Dòng Chúa Cứu Thế giới thiệu thầy với Dòng Đa Minh mới đến Hà Nội lập dòng và thầy được chấp nhận để thử một thời gian. Mọi sự đều êm xuôi. Thầy Bửu Dưỡng cảm thấy mình đi đúng hướng và được gởi đi du học tại Pháp ở Dòng Đa Minh chi nhánh Lyon.

Sau một năm tập viện, ngày 26-11-1936, tu sinh Bửu Dưỡng là người Việt Nam đầu tiên của tỉnh Dòng Đa Minh Lyon được tuyên khấn. Mặc dù mụt nhọt ở chân trở nên trầm trọng, thầy Bửu Dưỡng phải chịu giải phẩu cưa một chân, gắn chân giả. Bề Trên Dòng vẫn chấp nhận phong chức linh mục cho thầy vì khả năng trí tuệ đặc biệt của thầy.

Lễ phong chức được cử hành ngày 2-2-1940. Từ đó, linh mục con dòng cháu giống của vua chúa triều Nguyễn không còn gì trăn trở băn khoăn mà thẳng đường trực chỉ dấn thân rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Giêsu cho đến trọn đời.

Trong “Cuộc Hành Trình Của Đời Tôi”, Lm Bửu Dưỡng viết: “Trước kia tôi rất ghét Kitô giáokhông muốn có một liên hệ nào dù xa dù gần với các linh mục hay người có đạo. Tôi không bao giờ đọc một cuốn sách báo nào dính dáng đến đạo Công giáo. Cái ấn tượng ghét đạo đã khiến tôi trở thành cực đoan một cách vô lý, đến độ mỗi khi nhìn thấy chữ ‘Thiên Chúa’, tôi cảm thấy khó chịu và nếu có thể, tôi sửa thành chữ ‘Trời’. Khi dạy học cho các trẻ em, tôi chống lại việc dùng chữ Thiên Chúa. Lòng ác cảm đã khiến tôi trở thành điên rồ. Có những thời gian tôi cảm thấy bất an trong đời sống, dường như tôi đang trải qua những cơn khủng hoảng của đời sống, cái tâm trạng nầy kéo dài trong suốt ba năm liền… Những lần tôi không giải trí với các bạn trong giờ giải trí, những đêm dài mất ngủ, những buổi chiều trống rỗng, sau khi nghe vài bản nhạc buồn… Tất cả những tâm trạng ấy đưa tôi đến việc tự hỏi: ‘Có phải Kitô giáo là một tôn giáo thật và tôi phải theo hay không?’. Tôi phải theo? Thật là một điều ngoài trí tưởng tượng. Không bao giờ! Dù nó đúng, nó trật, nó hay… nhưng ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.

Ý Chúa nhiệm mầu, một Bửu Dưỡng thù ghét Công giáo đã trở thành một Bửu Dưỡng yêu mến Công giáo, và trở thành Linh mục Công giáo. Lm Bửu Dưỡng còn là người mở Học viện Minh Đức (Thủ Đức) nổi tiếng một thời trước năm 1975. May mắn tôi được gặp ngài một lần, được đọc cuốn “Ý Nghĩa Sự Đau Khổ” của ngài và “Công Đồng Vatican III” do ngài viễn tưởng. Trí óc của ngài đúng là một học giả hiếm có.

TRỞ NÊN HÌNH ẢNH CHÚA GIÊ-SU

Lm Inhaxio Trần Ngà

CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH

Nhiều lần Chúa Giê-su nói về Chúa Cha khiến các môn đệ đâm ra tò mò. Chúa Cha là Ai? Ngài ở đâu? Ngài là Đấng thế nào?

Thế nên Phi-líp-phê mới đề nghị với Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”

Dùng ngôn ngữ vốn rất hạn hẹp của con người để diễn tả mầu nhiệm cao vời về Chúa Cha thì khác chi lấy gang tay đo chín tầng trời. Vì vậy, thay vì dùng lời để diễn giải, Chúa Giê-su dùng phương pháp trực quan. Ngài chỉ cho Phi-líp-phê cũng như các môn đệ xem chân dung, xem hình ảnh đích thực của Thiên Chúa Cha. Chân dung đó, hình ảnh đó chính là Ngài: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.

Tiếp theo, Chúa Giê-su cũng tỏ cho các môn đệ biết giữa Ngài và Chúa Cha có một mối hiệp thông hết sức mật thiết. Những lời Chúa Giê-su nói chính là những lời của Chúa Cha được phát ra qua môi miệng Chúa Giê-su: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (Gioan 14, 10). Những gì Chúa Giê-su thực hiện trong cuộc đời đều cũng là những hành động của Chúa Cha…

Thế là Chúa Cha tự tỏ mình qua Chúa Giê-su. Nhìn vào Chúa Giê-su, nhân loại sẽ biết được Thiên Chúa Cha.

***

Thánh A-tha-na-si-ô đã diễn tả chân lý nầy như sau: “Chúa Cha được bày tỏ qua Chúa Con và Chúa Con được bày tỏ qua Giáo Hội.” Nói khác đi, Chúa Con là hình ảnh trung thực của Chúa Cha, còn Giáo Hội là hình ảnh trung thực của Chúa Con, và chúng ta, vì là thành phần của Giáo Hội, nên cũng phải là hình ảnh trung thực của Chúa Giê-su.

***

Theo nhật báo Chứng Nhân kitô hữu (Témoignage Chrétien), vào năm 1941 có một vị linh mục bị Đức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao tù nhân khác, ngài cũng bị hành hạ và ngược đãi thậm tệ. Tuy nhiên ngài vẫn vui vẻ và luôn sẵn sàng giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng và tuyệt vọng.

Trong cảnh tù đày đói khát, một vụn bánh còn quý hơn vàng, vậy mà ngài dám chia sớt phần ăn ít ỏi của mình cho những bạn tù yếu sức hơn.

Những lúc trời rét buốt xương, tấm áo len được xem là kho tàng vô giá, thế mà có lần ngài tặng không chiếc áo len đang mặc cho bạn tù đang lâm trọng bệnh nằm run cầm cập trong xó nhà.

Ngài là nhịp cầu yêu thương giữa những kẻ bất hoà, đem sự khích lệ tinh thần cho những tâm hồn sầu muộn… Ngài đã cứu được mấy bạn tù tuyệt vọng khỏi tự huỷ mình nhờ những khuyên lơn an ủi…. Vì thế, các tù nhân trong trại rất yêu quý và xem ngài như người cha thứ hai. Họ đều gọi ngài cách thân thương là … Bố.

Trong trại tù còn có một thanh niên bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, căm hờn mọi người, không ngần ngại phạm bất kỳ tội ác nào.

Vị linh mục khả ái từng bước tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã cảm hoá được chàng thanh niên chai đá và tưởng chừng như vô phương cứu chữa nầy. Ngài cũng mong ước dần dần dẫn dắt cậu về với đạo thánh Chúa.

Thế rồi, một hôm, có lệnh chuyển cha sang trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ mới nghe danh xưng, mọi trại viên đều phải kinh hoàng. Đó là lò hủy diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác.

Trước khi chia tay với các bạn tù và đặc biệt với cậu thanh niên mới hoàn lương, ngài quyết định phải giới thiệu đôi nét về Chúa Giê-su cho cậu với hy vọng cậu sẽ trở thành người con Chúa.

Ngài vỗ vai cậu và ôn tồn nói “Này, con yêu của Bố, đã từ lâu Bố rất mong con nhận biết và trở thành môn đệ Chúa Giê-su. ”

Cậu thanh niên thưa lại: “Nhưng con chưa biết gì về Chúa Giêsu cả. Bố có thể kể sơ lược về Ngài cho con biết được không?”

Biết mình không còn thời gian để giới thiệu dông dài vì giờ chuyển trại sắp đến, vị linh mục già thinh lặng cúi đầu, cầu nguyện giây lát, rồi ngài ngẩng lên khiêm tốn đáp: “Chúa Giê-su mà Bố muốn cho con tin và yêu mến, Ngài giống như Bố đây!”

Bấy giờ cậu thanh niên nhìn thẳng vào mắt ngài cách trìu mến và chân thành đáp lại: “Nếu Chúa Giêsu mà giống Bố thì có thể một ngày nào đó, con sẽ tin và yêu mến Chúa Giê-su!”

Sau thế chiến thứ hai, người ta không còn gặp lại vị linh mục nầy nữa. Còn cậu thanh niên thì được sống sót qua các trại tập trung trở về với gia đình và đã thuật lại câu chuyện trên đây về một mục tử đã thực sự trở thành hình ảnh trung thực của Chúa Cứu Thế. Cũng chính nhờ hình ảnh Chúa Giê-su ngời sáng lên nơi con người và cuộc đời của vị mục tử tốt lành nầy, chàng thanh niên được cảm hoá và trở thành người con Chúa.

Lạy Chúa Giê-su,

Đã bao lần chúng con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không đẹp của chúng con.

Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để đào tạo bản thân mình thành con người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá để nhờ đó, chúng con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay.

LM Inhaxiô Trần Ngà

CON ĐƯỜNG NÀO DẪN ĐẾN NHÀ CHA THÂN YÊU ?

Tuyết Mai

Chúa nhật 5 phục sinh năm A

Có bạn nào không biết bản đồ là gì không nhỉ!? Hay có bạn nào mà chưa từng được nhìn cái bản đồ ra sao nhất là trong thời buổi văn minh và hiện đại này!? Trên một chiếc xe tốt và đời mới hầu hết đều có gắn hệ thống bản đồ để giúp bạn tìm nơi mà bạn muốn đến. Bạn chỉ cần đánh vào cái địa chỉ thì lập tức hệ thống Bản Đồ sẽ hiện ra rất mạch lạc và rõ ràng cho bạn đi. Sau đó thì bạn chỉ cần đổ cho đầy bình xăng mà tiến thẳng đến nơi mà bạn muốn được đến.

Thế còn Con Đường Để Dẫn bạn và tôi tìm đến Nhà Cha Thân Thương của chúng ta ở Trên Trời thì bằng cách nào? Có ai hân hạnh có được cái bản đồ đặc biệt này không? Bởi tôi cũng đang đi tìm Con Đường Đưa Tôi Đến Nhà Cha Hạnh Phúc của chúng ta đây!

Lậy Chúa! Con đường trần thế của chúng con trên những tấm bản đồ nhìn rất rối mắt và rất chằng chịt thì hà huống gì Con Đường Tìm Lên Trời nếu không ai chỉ dẫn chắc sẽ rối rắm hơn nhiều và không cách nào mà dễ dàng gì có thể tự tìm thấy được.

Thế thì Lậy Chúa! Làm sao chúng con có thể tìm kiếm được Con Đường Hạnh Phúc Vĩnh Cửu đó?

Thuở nhỏ khi bắt đầu đến cái tuổi hiểu biết chút chút đủ để học lớp Giáo Lý “Xưng Tội Rước Lễ Lần Đầu”, tôi đã được Chúa tôi dậy cho tôi hiểu rằng trong con người luôn yếu đuối và lắm tội của tôi, Chúa hứa ban cho tôi một Quân Sư luôn hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi từng li từng tý một trong suốt cuộc đời trần thế của tôi. Chúa đã dặn tôi một điều rất quan trọng là hỡi con yêu dấu của Cha! Nếu con yêu Cha và muốn sống trọn đời bên Cha thì con phải luôn luôn tuyệt đối nghe lời Quân Sư của con chỉ dậy.

Con yêu dấu của Cha! Chúa yêu con nên không muốn để con phải cô đơn và lạc loài trong một thế giới đầy sự dữ và cám dỗ, có thể lấy mất linh hồn của con mà con sẽ có thể không bao giờ gặp được Cha nữa! Nên con phải thận trọng và để ý chịu khó lắng đọng tâm hồn thì mới nghe được tiếng Ngài Quân Sư của con vì Ngài Quân Sư của con có tiếng nói rất bé. Con muốn nghe được tiếng nói của Ngài là khi con làm điều gì sai Ngài nói cho con biết là điều con làm hay sẽ làm là sai, con phải biết lắng nghe và ngoan ngoãn để nghe lời Ngài và ngưng lập tức tư tưởng và hành động xấu đó! Ngài Quân Sư con còn có một cái tên thật dịu dàng và thật dễ mến nữa là Thiên Thần Bản Mệnh và cũng là Tiếng Nói Lương Tâm của con đó! Cha sẽ ban Ngài cho con suốt cuộc đời trần thế này!

Khoảng 7 năm tiếp theo khi trí óc của tôi lớn đủ Chúa lại ban cho tiếp thụ thêm Ơn Đức Chúa Thánh Thần qua lớp Giáo Lý “Thêm Sức”. Nhờ vào Ơn Đức Chúa Thánh Thần đã giúp thêm cho tôi sự hiểu biết và nhận lãnh “Lời” Của Chúa Giêsu một cách tuyên tín hơn. Càng đọc thì tôi càng hiểu được Ý của Chúa tôi hơn tuy cái hiểu của tôi rất đơn sơ và mộc mạc như Chúa đang xuống ơn giúp tôi tất cả những ý tưởng của bài viết này!

Như tôi được hiểu thì Con Đường Dẫn Đến Nhà Cha cũng không khó lắm đâu! Nếu tôi và bạn biết Kính Mến Phụng Thờ Một Thiên Chúa, Giữ Giới Luật Chúa, và yêu tha nhân như yêu chính mình. Hằng ngày làm bất cứ mọi việc như thể làm việc cho Chúa. Biến tất cả những buồn bực và phiền toái thành đóa hoa hy sinh dâng lên Ngài. Tập từ bỏ mọi sự hay tập tích lũy của cải của mình Trên Nước Trời Nơi mà mối mọt không gặm nhấm được. Nơi mà không có trộm cướp hay kẻ gian có thể xâm nhập mà vào lấy được.

Ngoài “Lời” quý báu của Chúa Giêsu và cuộc đời của Ngài là Con Một Thiên Chúa Toàn Năng đã Sinh xuống trần làm người, Chịu chết trên Cây Thánh Giá, và Phục Sinh Lên Trời Ngự Bên Hữu Đức Chúa Cha. Chúa còn ban cho ta Đấng Phù Trợ khi Ngài Về Trời cộng gương sáng của cuộc đời tất cả các Thánh khi các Ngài còn sống và nay cũng đã được Về Trời Hưởng Thánh Nhan Chúa đời đời vô cùng.

“Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.

Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi”.

Vâng, thưa Lậy Chúa! Đường của Thầy thật chúng con đã biết vì Bản Đồ Về Trời Chúa đã dậy chúng con rất rõ! Ai trong chúng con cũng biết nhưng tại sao lại có người thì được Thầy cho thấy còn có người thì dù Thầy có dùng rất nhiều Dụ Ngôn để mà dậy thì họ cũng chẳng hiểu, chẳng tin, và chẳng thấy gì cả!?

Lậy thưa Chúa! Có phải vì họ quá đam mê những Của Cải trần thế mà tận cùng đáy lòng của họ đã từ chối Ngài, Con Đường của Ngài là Sự Thật và là Sự Sống.

Đây cũng là “Con Đường” Góp Ý thật cụ thể để giúp chúng con Về Nhà Cha Thân Yêu của chúng con:

** Giúp đỡ Ơn Thiên Triệu.

** Cầu Nguyện cho các linh hồn mồ côi bằng cách xin Thánh Lễ.

** Giúp đỡ người nghèo trong mọi hoàn cảnh có nhu cầu.

** Cố gắng Đọc Kinh Mân Côi hằng ngày sẽ giúp xa lánh dịp tội.

** Hãy trở nên như trẻ thơ và sống khiêm nhường.

** Nhịn nhục và chịu đựng để được nên giống Chúa Giêsu.

** Sống như thể ngày mai ta không còn nữa và tự hỏi rồi Linh Hồn sống đời đời của mình sẽ đi về đâu.

** Kềm Hãm Tánh Kiêu Ngạo.

** Kềm Hãm cái tham Danh, Lợi, Thú trần gian.

** Luôn trông cậy vào Tình Yêu của Ngài, đừng nản lòng.

** Luôn Cầu Nguyện với Ngài và Mẹ Ngài để lắng nghe được Ý của Ngài.

** Tập sống có trách nhiệm.

** Cầu nguyện cho mình, gia đình, và toàn thể anh chị em trên toàn khắp địa cầu.

** Cầu nguyện cho Giáo Hội Chúa (Cánh Đồng Truyền Giáo) luôn Kết Hiệp, Đạo Đức, Yêu Thương, là Gương Sáng, cho Thế Giới nhìn vào để biết Chúa đang Sống và Sống mãi mãi trong từng người chúng ta.

Lậy Chúa Nhân Lành! Con Đường Dẫn Đến Nhà Cha Thân Yêu thật cũng dễ và thật cũng khó như chúng con thường nghe xưa Chúa bảo rằng: ” Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn là người giầu vào Nước Thiên Đàng “. Nguyện xin Chúa ban cho chúng con biết sống từ bỏ những gì thuộc về mình mà san sẻ cho anh chị em của chúng con những ai đang sống thiếu thốn, tật bệnh, và khó nghèo, ở chung quanh chúng con và ở khắp mọi nơi.

Xin Ba Ngôi Thiên Chúa luôn Chúc Lành, ban Tình Yêu, và Bình An của Ngài trên chúng con để mỗi ngày chúng con cố gắng sống trong Trách Nhiệm và trong Yêu Thương thì Con Đường Dẫn Đến Nhà Cha chỉ là một Con Đường Duy Nhất mà chỉ có Chúa sẽ đích thân đón chúng con đi ở ngày giờ Chúa Định. Amen.

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

ÁI HỮU HÌNH : MỘT CHƯỚNG NGẠI

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH

VẤN NẠN CỦA ĐỨC KITÔ:

“ Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” ( Ga 14, 8 ). Bắt nguồn từ DoThái giáo, niềm tin Kitô giáo cho hay rằng hạnh phúc thật là được chiêm ngưỡng thánh nhan Thiên Chúa. Thế mà xưa nay chưa từng có ai nhìn thấy tôn nhan Thiên Chúa mà còn sống. Ngay cả Môsê, vị ngôn sứ vĩ đại, người được ưu tuyển đàm đạo với Giavê diện đối diện mà cũng chỉ được phép nhìn thấy Thiên Chúa phía sau lưng Người ( x.Xh 33,21-23 ). Và chúng ta đừng ngạc nhiên trước lời yêu cầu của Philipphê. Tuy nhiên chúng ta cần phải ngạc nhiên với câu trả lời của Chúa Giêsu: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philipphê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” ( Ga 14, 9 ). Trong thân phận con người, cái yếu tố hữu hình, một trong những yếu tố của nhân tính mà Con Thiên Chúa đón nhận khi nhập thể đã trở thành chướng ngại.

“Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà tự cho mình là Thiên Chúa” ( Ga 10, 33 ). Giả như Chúa Kitô nhập thể, nhập thế trong thời đại hôm nay thì số phận của Người sẽ không khác xưa. Đấng vô hình lại ở trong kiếp hữu hạn, hữu hình ư ? Đấng sáng tạo lại mang kiếp được tạo thành, mong manh sao ? Thật khó mà chấp nhận cũng như đón nhận. Ngay cả các môn đệ, các tông đồ, ở với Thầy bấy lâu nay mà vẫn chưa biết rằng Thầy với Chúa Cha là một. Dù đã tuyên xưng Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, nhưng trong tâm trí các tông đồ lúc bấy giờ thì Thầy cũng chỉ là một con người được Thiên Chúa sai đến, hay là một đại ngôn sứ mà thôi. Tâm trí các ngài còn nhiều tăm tối u mê, không thể hiểu nổi lời của Thầy cũng như căn tính của Thầy cho đến khi Thầy phục sinh từ cõi chết và Thánh Thần được trao ban ( x.Ga 16,13 ). Cho đến tận thế, với người chưa tin, Đức Kitô Giêsu dù “là viên đá bị thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường mãi vẫn là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã” ( x. 1 P 2,7-8 ). Nhập thế vào đời, Chúa Kitô là hình ảnh của Chúa Cha. Đã là hình ảnh thì tồn tại sự hạn chế của cái khả giác.

VẤN NẠN CỦA HỘI THÁNH:

Tôi tin Hội Thánh là thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Tôi tin Hội Thánh là Hiền Thê tinh tuyền xinh đẹp của Đức Kitô. Tôi tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền… Những lời tuyên xưng trên đây phải chăng đã được chấp nhận và đón nhận cách dễ dàng với tất cả những người tin vào Đức Kitô ( Công giáo, Chính Thống giáo, Anh giáo, Tin lành ) ? Với người khác niềm tin, khác chính kiến thì đã rõ. “ Chúa Kitô loan báo Nước Trời và Hội Thánh lại đến !” Câu nói hàm chứa sự mỉa mai lẫn sự chê bai, ngờ vực của một văn sĩ thế kỷ ánh sáng khiến chúng ta nhận ra vấn nạn luôn còn đó. Nhìn chung vấn nạn thường xoay quanh tính hữu hình của Hội thánh Chúa.

Giáo lý Công giáo nêu rõ: “Chúa Kitô thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, không hề phạm tội, chỉ đến để đền tội cho dân; còn Hội Thánh, vì ôm ấp trong lòng những kẻ tội lỗi, nên vừa thánh thiện vừa phải luôn thanh luyện mình. Do đó, Hội Thánh luôn nỗ lực sám hối và canh tân. Tất cả các chi thể của Hội Thánh, kể cả các thừa tác viên, phải tự nhận là người tội lỗi…” ( GLCG chung số 827 ). Quả là một mầu nhiệm không dễ thấu đạt. Với anh em ngoài Hội Thánh thì càng khó hơn nhiều. Hội Thánh là hiện thân của Đức Kitô theo dòng thời gian. Thế mà nhiều khi chân dung Đức Kitô lại bị biến dạng do bởi một số chi thể “què quặt hay mù loà về tâm linh lẫn nhân cách” hoặc do bởi cái cơ chế đã có khi mang dáng vẻ quá trần tục của Hội Thánh. Các chướng ngại hay cớ vấp phạm xuất hiện do bởi các nguyên nhân khách quan cũng có nhiều mà do bởi các nguyên nhân chủ quan cũng không thiếu.

VƯỢT QUA CHƯỚNG NGẠI:

Vấn nạn của cái khả giác dường như là muôn thuở. Làm sao để vượt qua nó ? Chúa Kitô đã khai mở: “Nếu ta không làm các việc của Cha Ta thì các ông đừng tin Ta. Còn nếu Ta làm các việc đó thì ít ra hãy tin các việc Ta đã làm” ( Ga 10,37-38 ). Những việc của Đức Kitô thực hiện là dẫn đưa nhân loại đến cùng sự thật, đến cùng sự sống, vì Người “là đường, là sự thật và là sự sống” ( Ga 14,6 ). Người đến thế gian này “là để làm chứng cho sự thật” ( Ga 19,37 ). Chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và cho chúng ta được sống và sống dồi dào ( x.Ga 8,32; 10,10 ).

Tuy nhiên một thực tế thật khó phủ nhận vẫn tồn tại. Đó là rất nhiều người đương thời với Chúa Giêsu đã nghe lời chân lý của Người, đã chứng kiến các kỳ công vừa cao cả vừa đượm đầy tình yêu của Người, vẫn chưa hoặc không biết Người và tin nhận Người. Chúa Giêsu đã mở thêm một con đường mới, có thể nói là con đường tuyệt hảo cuối cùng, đó là chịu treo trên thập giá và tuôn ban Thánh Thần từ Trái Tim Cực Thánh của mình. Ngay đêm tiệc ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho các ngài: “ Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con. Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu” ( Ga 13,18-19 ). “ Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm” ( Ga 19,37 ). Và “ Khi các ông giương Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết Ta Hằng Hữu” ( Ga 8,28 ). “ Phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” ( Ga 12,32 ). Với tình yêu được trao ban, một tình yêu không điều kiện, một tình yêu không quản ngại hiến dâng của Đức Kitô thì chúng ta mới có thể thốt lên như Tôma: Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa của con. Quả thật nói như lời thánh Tông Đồ dân ngoại rằng không ai có thể tuyên xưng Đức Kitô là Chúa nếu không được Thánh Thần thúc đẩy.

Trở lại với chuyện của Hội Thánh. Trò không thể hơn thầy. Để Hội Thánh ngày càng trở nên bí tích của Đức Kitô cách khả tín và hữu hiệu hơn, thiết nghĩ rằng mỗi phần tử của Hội Thánh cần can đảm đối diện với sự thật, sống trong sự thật đồng thời tích cực thực thi công lý và tình yêu. Tuy nhiên, xin đừng quên chính khi bị đâm thâu cạnh sườn, chính khi bị treo lên cao để cho tình yêu tuôn ban thì đó mới là lúc căn tính của Hội Thánh được hiển lộ cách rõ nét. Chính khi bị nguyền rủa, chúng ta vẫn chúc lành; bị bắt bớ chúng ta vẫn yêu thương; bị vu khống, chúng ta vẫn chia lời ủi an, hay nói như thánh Phanxicô Axidi là đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp…( x.1Cor 5,12-13 ), đó là lúc chúng ta làm cho tha nhân thấy rằng không phải ta sống mà là Chúa Kitô đang sống trong ta.

Đức Bênêđictô XVI tuyên bố “ cuộc đời và các hoạt động của các vị thánh đã góp phần to lớn làm nên chân dung Hội Thánh”. Ông Tertulianô khẳng định: “ máu của các thánh tử đạo là hạt giống phát sinh người tín hữu”. Đức Gioan Phaolô II trong ngày tuyên phong hiển thánh 117 vị tử đạo Việt nam đã nhấn mạnh rằng hạt giống ấy là ngoài các vị thánh tử đạo trước đây thì ngày nay là tất cả những ai đang chịu áp bức, bóc lột mà vẫn trung kiên trong niềm tin, là tất cả những ai đang tìm hiểu và sống mầu nhiệm thập giá Chúa Kitô. Thánh giá bài trừ sự gian dối, bài trừ tội ác và giúp ta sống trong bình an và tha thứ ngay tại môi trường ta đang sống.

Dù là điên dại với người Hy lạp hay là cớ vấp phạm với người DoThái thì thập giá vẫn mãi là dấu chỉ cao cả của tình yêu. Vì không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu ( Ga 15,13 ). Và thập giá Chúa Kitô mãi là nguồn ơn cứu độ. Chính trên thập giá, Chúa Kitô đã trao ban Thánh Thần cho chúng ta từ Trái Tim bị đâm thâu của Người. Xin Thánh Thần Thiên Chúa, là Thần Chân Lý, là Nguồn Tình Yêu ở cùng chúng ta, ở cùng Hội Thánh cho đến ngày Đức Kitô quang lâm ( x. Kh 22,17 ). Nhờ Thánh Thần, chúng ta có thể tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa. Với Thánh Thần, chúng ta sẽ làm cho muôn dân nhận ra chúng ta là môn đệ của Đức Kitô và đích thực là Kitô hữu.

ĐƯỜNG GIÊSU

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Chúa Nhật V Phục sinh, năm A

ĐƯỜNG GIÊSU

Băn khoăn về nguồn cội con người, thắc mắc về ý nghĩa cuộc đời, thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối bằng bao thế kỷ mà không có được câu trả lời thoả đáng. Con người bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi về đâu. Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Đường ấy có tên là GIÊSU. Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới.

Chúa Giêsu là người mở đường.

Đi đâu cũng cần có đường. Không con đường nào tự nhiên có. Phải có người mở đường.

Có người mở ra những con đường vật chất, nhờ có óc phiêu lưu mạo hiểm, có tầm nhìn bao quát, có óc tính toán thực tế.

Có người mở ra những con đường suy tư triết học, sáng tác nghệ thuật, nhờ trí tuệ thông minh xuất chúng, có tư duy sáng tạo, có trực giác bén nhạy, có trí tưởng tượng phong phú.

Nhưng không ai có thể mở con đường lên trời. Đường lên trời hoàn toàn vượt khả năng con người. Phải có Đấng, ấy là Chúa Giêsu, Người đã đến từ Đức Chúa Cha, nay Người trở về cùng Đức Chúa Cha. Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha. Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha. Quê Trời trở thành Quê Cha. Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người. Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã mở.

Chúa Giêsu là đường.

Không chỉ là người mở đường. Chúa Giêsu chính là con đường. Để về Nhà Cha, ta không chỉ đi theo, đi với mà còn phải đi trong Người. Không chỉ đi trong đường lối, trong tinh thần, nhưng trong chính bản thân Người. Như cành nho gắn liền với thân nho và sống bằng sự sống của thân nho. Như bánh rượu tan hoà vào trong máu thịt trở nên thành phần của bản thân ta. Như bản tính Thiên Chúa kết hợp với bản tính loài người trong bản thân Người. Đi trong Người để ta ở trong Người như Người ở trong Chúa Cha. Đi trong Người để ta mang hình ảnh của Người, để ai thấy ta cũng như thấy Người, như “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”.

Chúa Giêsu là đích tới của con đường.

Đi trong Chúa Giêsu là một hành trình dài. Đi suốt cả đời chưa chắc đã tới.

Để đi trong Chúa Giêsu ta phải từ bỏ hết những gì của bản thân mình, kết hiệp trọn vẹn với Người, cũng như Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, để trở nên một với Chúa Cha.

Khi đã hoàn toàn từ bỏ hết ý riêng và trở nên một với Người cũng là lúc ta đạt tới đích điểm, là lúc ta gặp được Chúa Cha, là lúc ta ở trong Nhà Cha, là lúc ta đạt tới Quê Hương yêu dấu trên trời.

Lạy Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin cho con biết đi trong con đường của Người.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn hãy thử tìm ra những đặc điểm của con đường Giêsu (Vd: hiền lành, khiêm nhường…)

2) Bạn còn xa hay đã gần con đường Giêsu?

3) Bạn có mong đi trọn vẹn trong con đường Giêsu không? Nếu muốn, bạn cần những điều kiện nào nữa?

NHÀ TƯƠNG LAI

Lm Vũđình Tường

(PS 5 A-2014)

Sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết Ngài gặp các môn đệ trên đường Emmaus Ngài nhắc lại các biến cố đã xảy ra tiên đoán về Ngài, nhờ thế các ông nhận biết Ngài. Những ngày sau Phục Sinh Giáo Hội theo truyền thống ấy, nhắc lại các biến cố tiên đoán trước cuộc tử nạn của Chúa giúp chúng ta học biết thêm về biến cố Phục Sinh. Cuộc đối thoại giữa Đức Kitô và các môn đệ diễn ra trong bầu khí thầy trò, thâm tình, cởi mở, chia sẻ nhưng lại gây ra cho các môn đệ mối lo khôn nguôi. Bởi vì các môn đệ dường như không hiểu điều Đức Kitô nói, không rõ việc Đức Kitô làm. Càng giải thích thì càng thấy mông lung, mù mờ. Con đường tương lai tươi sáng dường như đang bị mây mù bao phủ. Những ngày sắp tới sẽ là những tang thương buồn khổ đón chờ. Các môn đệ không hiểu việc Thầy rửa chân cho các ông, việc Thầy bẻ bánh, việc Thầy nói sẽ có một trong số các ông bán đứng Thầy và rồi việc tất cả các ông sẽ chối Thầy. Việc Thầy bị bắt, đóng đinh, chết trên thập tự và ba ngày sau sẽ sống lại. Toàn là những điều vượt quá trí tưởng, ngoài dự đoán của toàn thể nhân loại. Những điều Thầy chia sẻ, nói ra có ngụ í gì nghe không hiểu, suy không thấu, cố giải thích vẫn chưa thoả mãn. Những điều này chưa hiểu xong thì đến việc Thầy nói sẽ di xa một thời gian. Thầy đi việc riêng hoặc đi cầu nguyện một mình là điều thường xẩy ra nhưng đi một thời gian mà không mang theo bất cứ môn đệ nào là điều chưa từng xảy ra và là điều làm cho các ông bồn chồn, lo lắng, tự hỏi phải chăng mình làm điều gì sai khiến Thầy buồn lòng. Biết được những lo âu hiện rõ trên mặt của các môn đệ Đức Kitô khuyên nhủ các ông hãy yên tâm, đừng sợ, hãy đặt trọn niềm tin vào Thầy và vào Chúa Cha. Dù với những lời an ủi, vỗ về như thế các ông cảm thấy iên tâm hơn chút nhưng mối lo không dứt, nó lắng đọng trong tim và sẵn sàng xoè móng vuốt ra cào cấu tâm can các ông. Nín nhịn không nổi ông Thomas phải lên tiếng,

Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao biết được đường Jn 14,5

Ông Philip lại muốn biết thêm chút nửa thêm,

Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện 14,8

Sau khi nghe những câu trả lời của Đức Kitô các tông đồ vẫn âm âm, u u, ngu ngơ không rõ những điều Đức Kitô giải thích. Trong tâm các ông vẫn bất an, tương lai mù tối, bóng tối ngày mai rình rập, đợi chờ trong lo sợ không biết bất hạnh lúc nào xảy ra. Đức Kitô giải thích tiếp là Thầy đi trước để dọn chỗ và khi dọn chỗ xong Thầy sẽ trở lại đón đến chung sống với Thầy. Vì thế không phải lo sợ, không phải buồn sầu, không phải xao xuyến. Hãy đặt trọn niềm tin vào Thầy mọi sự sẽ xảy ra đúng chương trình của Thiên Chúa. Theo chương trình đó thì các ông cần hiểu và tin rằng vượt qua thập tự là sự sống lại, Phục Sinh vinh hiển của Đức Kitô, nhưng đó chỉ là bước đầu của cuộc sống trường sinh. Bước kế tiếp là lên trời ngự bên hữu Chúa Cha và liên kết trong Chúa Thánh Thần.

Chúng ta thường thắc mắc không hiểu cuộc sống trường sinh như thế nào. Ít ra chúng ta cũng có câu trả lời dù không đầy đủ nơi Đức Kitô nhưng cũng có thể mường tượng ra it nhiều cuộc sống trường sinh. Đức Kitô cho biết trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở 14,2. Trong nhà có nhiều chỗ ở cho biết nơi đó không còn phải lo lắng việc mua nhà, mua đất, không còn phải lo việc trả tiền thuê, ở trọ, không còn cảnh sống đơn độc, cô đơn một mình. Tình thương Đức Kitô thay đổi tất cả, bao trùm tất cả. Trong nhà Cha Thầy người ta sẽ sống cuộc sống cộng đoàn trong đó tình yêu Chúa làm cho tâm hồn ta no thoả. Bởi no thoả nên không còn đói khát chi. Bởi không còn đói khát nên không còn thèm muốn. Bởi không lo lắng nên không phải lo tồn kho, tích trữ. Bởi no thoả nên không không còn cạnh tranh trong cuộc sống. Tình yêu Chúa làm no thoả lòng người. Đó là cuộc sống tràn đầy hạnh phúc, liên kết, tin tưởng và tin yêu trong cùng một Thiên Chúa yêu thương.

Khi chúng ta hoàn tất hành trình của người lữ hành dương thế chúng ta vững tin có được nơi chốn trên thiên quốc, nơi đó chúng ta sống hạnh phúc, yêu thương tràn đầy và kết hợp với người thân thương ra đi trước chúng ta.

Cuộc sống trường sinh, hạnh phúc có thể xa lạ với một số người nhưng những điều này không hề xa lạ với những người Do Thái. Họ vững tin vào cuộc sống mai sau. Họ tin là mọi sự tốt đẹp trần gian đều đến từ Thiên Chúa và chúng ngày đêm luôn quy về một hướng duy nhất đó là Thiên Chúa. Đó là điểm cuối trong cuộc hành trình dương thế của chúng. Đó cũng là đích điểm của nhân loại, ngày cùng của vũ trụ. Theo họ ngày này hoàn thành bốn điểm quan trọng trong đời đó là: chết, phán xét, và thiên đàng và hoả ngục.

TiengChuong.org

Theo ai-Vũđình Tường

(CN 5 PS-A)

Cuộc sống chúng ta luôn có những bước chân đi trước mở đường khuyến dụ chúng ta bước theo. Rất ít khi chính chúng ta sáng tạo ra những bước chân mới để hướng dẫn người khác. Hầu hết là đi sau, đi theo, phỏng theo. Kẻ trước người sau thường phỏng theo lối sống, cách ăn diện, giao thiệp, buôn bán, cách sống của người mình ngưỡng mộ.

Điều này thể hiện qua các tạp chí trưng bày, trang hoàng nhà cửa, sách báo quảng cáo lối sống mới, chương trình trình diễn thời trang, cách trưng diện. Trên màn ảnh dưới nhãn hiệu quảng cáo chính là cách hướng dẫn, khuyến dụ người đi theo. Nhóm thành công là nhóm có nhiều người phỏng theo bởi đi theo là mang lại lợi nhuận cho nhóm khởi xướng. Để bảo vệ tác quyền người ta ra luật bản quyền, cấm trích dịch, sao chép hoặc xử dụng mà không có phép. Muốn có phép phải trả tiền.

Phụ huynh trong xã hội mới đau đầu đứng trước ngã ba đường không biết nên chọn hướng nào. Người con theo chúng bạn vừa đến tuổi đòi li khai gia đình. Người con tin theo quảng cáo trên màn ảnh ăn diệm diêm dúa. Người con học đòi theo lối sống buông thả. Người con theo khuynh hướng xã hội bài kích tôn giáo. Người con mê chơi quên lối về, phó mặc tương lai theo chiều gió. Chiều theo, nhắm mắt làm ngơ, giả câm, giả điếc, hẳn không được. Chống lại, cấm đoán, ngăn cản thì già néo đứt giây, gia đình tan nát. Chọn giải pháp điều đình, đối thoại, giải thích, trình bày hơn thiệt, phải trái. Kết quả cả hai đều to tiếng dẫn đến cãi vì cả hai đều nhận lí của của mình đúng hơn. Phải làm sao, bỏ ai, theo ai?

Bất đồng ý kiến trong cuộc sống là điều không thể tránh. Bất đồng xấu dẫn đến chia rẽ, bè phái, nghi kị, đả kích, chống bác. Bất đồng tốt dẫn đến sự thật. Ý kiến khác nhau, tranh biện, giải thích mong tránh hiểu lầm, góc cạnh tối của vấn đề được soi sáng. Nhờ thế mà ý kiến đứng đắn được sáng tỏ, rõ ràng, mạch lạc. Để đạt được điều này cần học lắng nghe. Đừng để lo lắng, xao xuyến ảnh huởng đến quyết định.

Khi Đức Kitô nói Ngài đi trước dọn chỗ cho các môn đệ. Tôma không hiểu ý Thầy, ông xin theo. Tôma không muốn chờ, muốn đi ngay với Thầy. Ông đã từ giã đường đời, đường nhân thế để theo Thầy. Tôma chọn và quyết theo đến cùng, trung thành với Thầy.

Ý kiến của Tôma được Philip hỗ trợ khi ông muốn được gặp Chúa Cha. Ông này cũng đã từ bỏ con đường trần gian bước theo Thầy và không muốn xa Thầy nửa bước. Tôma muốn được sống cùng Đức Kitô trong khi Philip lại muốn được nhìn ngắm Chúa Cha. Hai ước mơ khác nhau nhưng cùng mục đích. Ở cùng sẽ nhìn thấy Chúa Cha và nhìn thấy Chúa Cha hẳn phải ở cùng, ở gần, kề bên.

Đức Kitô đáp lại yêu cầu của hai ông bằng cách giải thích cho các ông hiểu việc Ngài sắp làm. Các ông hiểu nhiều hay ít chúng ta không rõ. Điều chúng ta biết rõ là con đường Đức Kitô sắp đi là con đường thập giá. Ngài cũng tiên đoán trước khi Ngài vắng mặt các ông sẽ lo lắng đến tột cùng. Nên Ngài dặn các ông: đừng lo lắng quá độ, hãy vững tin vào Chúa Cha và tin vào Ngài. Ngài không vắng mặt luôn mãi, chỉ vắng trong giai đoạn nhưng cần thiết vì Ngài đi trước dọn chỗ cho các ông để rồi sau đó lại trở về đón các ông. Quả thực, ngay sau khi sống lại từ cõi chết Ngài đã hẹn gặp các ông tại Galilê.

Có những câu nói có nhiều nghĩa khác nhau. Câu nói chuẩn bị ăn tối có thể hiểu là đi mua thức ăn nấu sẵn hay ăn nhà hàng hoặc tự nấu ăn lấy. Chuẩn bị bữa cơm, không phải cho một mình mà cho cả gia đình là một mối lo. Mối lo lớn khi gia đình không đủ cơm ăn, áo mặc. Lo đủ ăn, đủ mặc quả là mối lo lớn. Mối lo thực tiễn trong cuộc sống. Hiểu được nỗi lo lắng trên ta hiểu được mối lo của Đức Kitô khi Ngài chuẩn bị thực phẩm muôi nhân loại. Đức Kitô lo lắng đến cực độ nên Ngài thốt lên,

Tâm hồn thầy lo buồn đến nỗi chết.

Ngài đi trước dọn chỗ bằng cách hy sinh chính sự sống mình để ban sự sống mới cho ta. Ban chính sự sống mình làm của ăn nuôi ta trong bữa Tiệc Li khi Ngài lập Bí Tích Thánh Thể. Ngài đi trước mở đường bằng cách vác thập giá lên đồi cao, lộng gió. Ngài đi trước mở đường bằng cách sống lại từ cõi chết, đập tan tử thần, đè bẹp sự chết.

Vì những lí do đó mà Đức Kitô nói với các tông đồ con đường Ngài đi các ông chưa đến được. Khi nào các ông chuẩn bị đủ mạnh, đủ tin, tin vững chắc lúc đó các ông được mời gọi bước theo con đường Chúa đã đi qua. Quả thế, các tông đồ sau này từng người một đi đúng con đường Chúa đã đi, đổ máu mình ra làm chứng cho Thầy.

Chúng ta cầu xin ơn khôn ngoan biết lắng nghe, đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô.

Vũđình tường

SỐNG TRONG THỰC TẾ CỦA THẾ GIỚI

Lm Carolo Hồ Bạc Xái

CN 5 phục sinh, năm A.

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Có một điều chúng ta hay quên nên Thánh lễ hôm nay muốn nhắc chúng ta nhớ. Ðó là chúng ta tuy ở giữa thế giới này nhưng lại thuộc về một “dân thánh”, “dân được Thiên Chúa tuyển chọn”. Ðây là một vinh dự, đồng thời là một trách nhiệm. Nếu như chúng ta cảm thấy mình chưa xứng đáng với vinh dự này và chưa chu toàn trách nhiệm này, thì hãy đến với Chúa trong Thánh lễ. Ngài sẵn sàng thanh luyện chúng ta và thêm sức giúp chúng ta.

  1. Gợi ý sám hối

Là thành phần của một cộng đoàn được Chúa quy tụ, nhưng chúng ta hay chia rẽ nhau.

Là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng chúng ta ít quảng đại hiến thân cho Chúa.

Ðức Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Nhưng nhiều khi chúng ta không bước theo Ngài, học với Ngài và sống như Ngài.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I: Cv 6,1-7

Bài tường thuật này mô tả nếp sống của cộng đoàn tín hữu sơ khai, một cộng đoàn không thiếu những khó khăn nội bộ, nhưng đã biết cách giải quyết thỏa đáng nên vẫn tiếp tục lớn mạnh.

Khó khăn phát xuất từ việc phân phối những nhu cầu đời sống, gây ra những sự kêu trách.

Các tông đồ đã đưa vấn đề ra tập thể, đề nghị một giải pháp theo hướng chia sẻ trách nhiệm (chọn 7 phó tế lo việc đời sống), và tập thể đã nhất trí.

Nhờ khéo giải quyết nên cộng đoàn lại đoàn kết yêu thương và tăng số.

  1. Ðáp ca: Tv 32

Chúng ta có gì phải sợ trên con đường dương thế? Ðã có chính Ðức Giêsu đi bên cạnh chúng ta; Ngài dẫn chúng ta về nhà Chúa Cha; Ngài nuôi chúng ta bằng tình yêu thương của Ngài; Ngài luôn bênh vực chúng ta và cứu chúng ta thoát khỏi cái chết đời đời.

  1. Bài đọc II: 1 Pr 2,4-9

Thánh Phêrô nhắc tín hữu nhớ đến phẩm giá cao quý và trách nhiệm của họ:

Phẩm giá: Tín hữu là dòng giống được Thiên Chúa tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự và là dân riêng của Thiên Chúa.

Trách nhiệm: Hãy để Thiên Chúa dùng mình như những viên đá sống động xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần; hãy dâng những của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa; hãy loan truyền những công trình vĩ đại của Ngài.

  1. Bài Tin Mừng: Ga 14,1-12

Bài Tin Mừng kêu gọi tín hữu đi theo Ðức Giêsu, học với Ngài và sống với Ngài, bởi vì Ngài là đường, sự thật và sự sống:

Ðức Giêsu là đường vì Ngài dẫn tín hữu đến với Chúa Cha, nguồn hạnh phúc đích thực.

Ðức Giêsu là sự thật vì Ngài phát xuất từ Chúa Cha là nguồn chân lý, và Ngài dạy cho chúng ta biết Chúa Cha.

Ðức Giêsu là sự sống vì “sự sống đích thật là nhận biết Chúa Cha và Ðấng Ngài sai đến” (Ga 17,3).

Gợi ý giảng

  1. Hội Thánh vừa thánh thiện vừa tội lỗi

Bài đọc thứ hai (thư Phêrô) trình bày vẻ thánh thiện của Hội Thánh: Hội Thánh là “giống nòi được tuyển chọn, là hoàng gia chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa”. Vì thế tín hữu hãy “để Thiên Chúa dùng như những viên đá sống động xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần… dâng những của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa…”

Nhưng bài đọc 1 (sách Công vụ) cho thấy trong cộng đoàn Hội Thánh vẫn có bất công, sinh ra tranh chấp và kêu ca. Thành thử “ngôi đền thờ của Thánh Thần” cũng khó mà xây dựng, những “viên đá sống động” khó mà ăn khớp với nhau, và “những của lễ thiêng liêng” khó mà đẹp lòng Thiên Chúa.

Tuy nhiên, bài Tin Mừng khuyến khích chúng ta hãy an tâm, cứ vững tin và trung thành đi theo Ðức Giêsu thì mọi sự sẽ ổn, bởi vì Ngài là đường, là sự thật và à sự sống.

  1. Xao xuyến

Có biết bao điều làm cho con người xao xuyến: bệnh tật, khủng hoảng kinh tế, xa cách người thân v.v.

Ðức Giêsu biết tất cả những điều đó, nhưng Ngài vẫn khuyên “Lòng chúng con đừng xao xuyến”, vì Ngài nhìn mọi sự từ trên cao. Từ cao nhìn xuống, cái nhìn của Ngài bao quát hơn và thấy trọn vẹn hơn: Ngài không chỉ thấy hiện tại đang bế tắc mà còn thấy tương lai xán lạn. Nhờ cái nhìn ấy nên mặc dù trong Vườn Cây Dầu Ngài thấy hình như đang đứng trước ngõ bí nhưng Ngài vẫn tiến bước nên cuối cùng đã đến ánh sáng phục sinh.

Bởi thế, Ngài kêu gọi chúng ta: “Anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”.

Nếu tin thì không còn xao xuyến nữa.

  1. Chia sẻ công việc trong Hội Thánh

Những công việc trong Hội Thánh rất là nhiều, nhưng số Giám mục và Linh mục lại quá thiếu. Nhìn trong phạm vi một giáo xứ cũng thế: giáo dân thì đông nhưng những người lo việc thì ít. Chỉ có Cha Xứ, vài tu sĩ và một ít thành viên Hội đồng giáo xứ. Khủng hoảng.

Nhưng cơn khủng hoảng này đã có ngay từ hồi Hội Thánh sơ khai. Và Hội Thánh sơ khai đã giải quyết một cách khéo léo bằng cách chia sẻ trách nhiệm: các tông đồ chuyên lo rao giảng Lời Chúa, các phó tế lo cho đời sống. Có lẽ từ kinh nghiệm này mà Thánh Phêrô đã đề ra nguyên tắc mọi người tham gia vào việc chung của Hội Thánh: “Anh em hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động xây nên ngôi đền thờ Thánh Thần”. Mỗi người đều là một viên đá. Người thì xây nền, người thì xây tường, người khác xây cổng v.v.

Thực ra, một cộng đoàn mà sinh động thì tất nhiên phát sinh thêm những công việc. Và nếu các thành viên của cộng đoàn thiết tha với sức sống của cộng đoàn thì sẽ biết cách thu xếp để chu toàn mọi công việc theo hướng cùng nhau chia sẻ trách nhiệm. Và được như thế thì chắc chắn “số các môn đệ sẽ ngày càng thêm đông”.

Chuyện minh họa “Ta là đường, sự thật và sự sống”

a/ Ðường

Một người đố bạn mình:

– Ðố anh trong Tin Mừng câu nào ngọt ngào nhất?

– Thiên Chúa là Tình yêu.

– Không phải.

– Vậy chứ câu nào?

– “Ta là đường”

-!!!???

b/ Sự thật: Sự thật ở đâu?

– Một tai nạn xe hơi xảy ra trong một thành phố nhỏ. Ðám đông vây kín nạn nhân khiến một nhà báo không sao nhìn thấy được. Anh ta chợt nảy ra một ý nghĩ và kêu lên “Tôi là bố của nạn nhân đây. Tránh ra”. Ðám đông tránh lối cho anh ta lại gần. Khi chứng kiến cảnh tượng, anh ta mới vô cùng mắc cỡ, vì nạn nhân là một con lừa! (Anthony de Mello, “Lời kinh của con ếch”)

– Một nhà xuất bản gởi tới tác giả của một bản thảo lời từ chối sau đây: “Chúng tôi đặc biệt thích thú đọc bản thảo của ông. Tuy nhiên chúng tôi nghĩ rằng nếu chúng tôi xuất bản tác phẩm của ông, chúng tôi sẽ hoàn toàn không bao giờ còn có thể xuất bản một tác phẩm nào khác ngang tầm giá trị được với nó. Và chúng tôi không thể hình dung được làm sao trong vòng một trăm năm nữa lại có một tác phẩm nào khác có thể sánh được với tác phẩm của ông. Vì thế chúng tôi rất tiếc phải buộc lòng gởi lại ông bản văn tuyệt vời này. Và ngàn lần chúng tôi xin ông tha lỗi cho vì sự thiển cận và yếu kém của chúng tôi”. (Anthony de Mello, “Lời kinh của con ếch”)

c/ Sự sống

Một bà đạo đức áy náy vì một vài tật xấu bà đã cố gắng hết sức mà vẫn không chừa được. Ban đến than thở với cha linh hướng. Ngài nói: “Con có để ý thấy không, vào mùa đông, lá sồi rụng nhiều, nhưng vẫn còn vài chiếc. Gió đông thổi mạnh cũng không làm chúng rụng xuống. Nhưng khi mùa xuân đến, chúng tự động rụng nhường chỗ cho lá non mẩy lộc. Vậy cái gì làm cho chúng rơi rụng? Thưa đó là sự sống mới lưu chuyển trong thân cây. Với chúng ta cũng vậy, khi sự sống mới của Ðức Kitô nảy nở trong đời sống, ta sẽ mau thăng tiến trên đường đạo đức.”

Lời nguyện cho mọi người

CT: Anh chị em thân mến

Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Thiên Chúa mà không qua Người. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.

  1. Một trong những mục tiêu Hội Thánh luôn theo đuổi / là tạo được sự hiệp nhất giữa những người cùng tin vào Ðức Kitô / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho công trình đại kết của Hội Thánh / sớm đạt được kết quả mong muốn.
  1. Trên thế giới ngày nay / có biết bao người đang noi gương Ðức Kitô / xả thân phục vụ những người nghèo khổ nhất trong xã hội / ở các trại phong / các bệnh viện tâm thần / nơi những vùng rừng thiêng nước độc đầy dẫy hiểm nguy / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / luôn gìn giữ và nâng đỡ những con người quảng đại ấy.
  1. Con người vốn bản tính yếu đuối nên rất dễ nản lòng / tuyệt vọng trước những đau khổ / những khó khăn trong đời sống thường ngày / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em đang gặp thử thách / luôn biết tin tưởng vào tình yêu vô biên / và sự quan phòng kỳ diệu của Chúa.
  1. Ngay trong một xứ đạo / nhiều khi sự chia rẽ / mất đoàn kết / vẫn còn rất trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết dẹp bỏ mọi tị hiềm / để sống hiệp nhất và yêu thương nhau như Chúa đã dạy.

CT: Lạy Chúa, thánh Phêrô đã bảo chúng con “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những công trình vĩ đại của Người”. Xin cho chúng con luôn sống xứng đáng với tình thương của Chúa và thực hiện trọn vẹn vai trò chứng nhân của mình. Chúng con cầu xin nhờ…

Trong Thánh Lễ

Kinh Tiền tụng: Nên dùng Kinh Tiền Tụng Phục sinh 5 vì có nói tới Ðức Giêsu như của lễ, bàn thờ và tư tế.

Trước kinh Lạy Cha: Ðang khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy có những tâm tình của chính Ðức Giêsu: mong cho Nước của Chúa Cha trị đến trên trần gian này, một nước đầy tình thương, công chính và bình an.

VII. Giải tán

Anh chị em là thành phần của một xã hội trần thế nhưng đồng thời cũng là thành phần của một dân thánh được Thiên Chúa tuyển chọn. Anh chị em hãy trở về lo xây dựng xã hội nhưng đồng thời cũng đừng quên xây dựng Nước Thiên Chúa.

THEO ĐỨC KITÔ LÀ ĐƯỜNG

Lm Giuse Đinh lập Liễm

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH A

THEO ĐỨC KITÔ LÀ ĐƯỜNG

+++

  1. DẪN NHẬP.

Mọi người đều muốn vươn tới hạnh phúc, hạnh phúc tuyệt đối và trường cửu. Hạnh phúc này chỉ có trên nước Thiên Chúa. Vậy đâu là con đường đưa tới hạnh phúc đó ? Chúng ta biết Đức Kitô vừa là Chúa vừa là người. Ngài là trung gian hòan hảo duy nhất giữa Chúa Cha với chúng ta. Biết bao con đường mở ra trước mắt chúng ta, nhưng chỉ có Ngài mới là con đường đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha và bởi Chúa Cha mà ra. Chúng ta hãy tin tưởng bước theo Ngài vì chính Ngài đã khẳng định với chúng ta :”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6).

Mục đích của chúng ta phải vươn tới là nhận biết Chúa Cha, mà người ta chỉ có thể nhận biết Chúa Cha nhờ Đức Giêsu. Đức Giêsu được sai đến với lòai người để trả lời những câu hỏi đang làm họ bận tâm như Thiên Chúa là ai, bởi đâu mà có ? Không ai trả lời cho chính xác ngọai trừ Ngài, bởi chính Ngài biết rõ mối dây thân tình Cha Con. Đức Giêsu còn là chân lý, là sự sống. Vì Ngài là hình ảnh Ngôi Cha. Ngài là tiếng nói của Chúa Cha. Thiên Chúa đã phán :”Này là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. Thiên Chúa là chân lý thì tiếng nói của Ngài cũng là chân lý vậy.

Chúa nhật trước, chúng ta đã nhận Chúa Giêsu là Chúa chiên nhân lành. Mọi người tín hữu vui mừng và yên tâm vì đã có Chúa Giêsu là mục tử chăn dắt. Người yêu thương và bảo vệ đàn chiên.. Con chiên phải nghe tiếng chủ chăn và đi theo sự hướng dẫn của chủ để được sống và được sống dồi dào. Hôm nay, chúng ta hãy xác định lại lập trường của chúng ta là phải tin theo Chúa Giêsu vì Người là đường, là sự thật và là sự sống. Muốn đến cùng Chúa Cha, cần thiết phải qua Ngài. Chỉ có duy nhất Ngài là đường dẫn tới sự sống. Hãy dấn bước theo Ngài và theo Ngài là phải từ bỏ nếp sống cũ, từ bỏ tất cả những gì không hợp với đường lối của Ngài, phải đi qua cửa hẹp, tức là theo con đường khổ giá mà Ngài đã đi, chính con đường này sẽ dẫn chúng ta tới hạnh phúc chân thật.

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1 : Cv 6,11-7.

Cộng đoàn tín hữu tiên khởi ở Giêrusalem mỗi ngày một thêm đông, đời sống tốt đẹp nhưng cũng không thiếu những khó khăn. Các Tông đồ phải giải quyết cách nào cho êm đẹp.

Khó khăn phát xuất từ việc phân phối những nhu cầu đời sống không đồng đều : các bà góa bị lãng quên, do đó mới có những lời kêu trách. Các Tông đồ giải quyết khó khăn đó bằng việc thiết lập tác vụ phó tế để chuyên lo các công việc cứu trợ, bác ái và lương thực của cộng đoàn, để các ngài có thời giờ đi loan báo Tin Mừng.

Nhờ cách giải quyết khéo léo này mà cộng đoàn lại đoàn kết thương yêu nhau và tăng số. Đây là mô hình đẹp trong việc phân chia các chức vụ và công tác cho Giáo hội ngày nay : có người chuyên lo đời sống vật chất, có người chuyên lo việc cầu nguyện và loan báo Tin Mừng.

+ Bài đọc 2 : 1Pr 2,4-9.

Thánh Phêrô nhắc cho các tín hữu nhớ lại phẩm giá cao qúi của mình, cũng như những trách nhiệm mà mình phải chu toàn để đáp lại tình yêu của Chúa Kitô.

Phẩm giá của Kitô hữu : là dòng giống được Thiên Chúa tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo việc tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa.

Trách nhiệm phải chu toàn : Đức Kitô là viên đá tảng, các Kitô là những viên đá sống động được xây lên trên để xây nên một đền thờ thiêng liêng. Cho nên họ phải công bố những việc kỳ diệu của Thiên Chúa, loan báo Tin Mừng, dâng lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Chúa, xây dựng hoà bình, công lý và tình yêu.

+. Bài Tin Mừng : Ga 14,11-12.

Trong tâm tình Thầy trò trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu tiết lộ cho các môn đệ biết Ngài sẽ trở về cùng Cha. Ngài ra đi là để dọn chỗ cho các ông vì nhà Cha còn nhiều chỗ. Người khuyên các ông đừng xao xuyến vì Ngài đi dọn chỗ và sau đó sẽ quay trở lại đón các ông, để Ngài ở đâu, các ông cũng ở đó với Ngài. Có nhiều cách giải thích khác nhau về lời loan báo sự ra đi này của Đức Giêsu. Nhưng đúng hơn hết, sự ra đi này Đức Giêsu trở về với Chúa Cha ám chỉ biến cố Phục sinh.

Còn đối với các tông đồ muốn biết Chúa Cha thì Đức Giêsu chỉ trả lời là ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha vì Cha ở trong Ngài và Ngài ở trong Cha. Ngài nhắc cho các ông :”Muốn đến với Chúa Cha thì hãy tin vào Ngài, hãy theo Ngài vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Ngài”(Ga 14,8).

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Bước theo Chúa Giêsu Kitô.

  1. HÃY TIN VÀO ĐỨC GIÊSU.
  1. Những lời trấn an.

Đức Giêsu nhiều lần nói với các môn đệ là Ngài sắp ra đi, dù vậy họ chẳng bao giờ hiểu nổi. Những lời Đức Giêsu báo trước cho các ông : Giuđa sẽ nộp Thầy (Ga 13,21-26), Phêrô chối Thầy (Ga13,3-6), Ngài ra đi chịu tử nạn (Ga 12,32), và viễn cảnh phải xa vắng bóng Thầy giữa một thế giới thù nghịch, đã làm cho tâm trí các môn đệ tràn ngập lo âu xao xuyến (Ga 14,23; 16,6-20).

Đức Giêsu trấn an các ông bằng cách tỏ cho các ông thấy Ngài ra đi sẽ làm cho các ông hiệp thông thâm trầm hơn nữa với Ngài và với Chúa Cha, và chính Thánh Linh sẽ bảo đảm cho việc phù trì che chở các ông trong cơn giông tố thiêng liêng của cuộc sống.

Trọng tâm lời khuyên nhủ trấn an nằm trong câu :”Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Câu này có nghĩa rằng : Các con đã tin vào Thiên Chúa thế nào thì cũng hãy tin vào Thầy như vậy. Theo đó, Đức Giêsu muốn kêu gọi các môn đệ tin vào thiên tính của Ngài.

  1. Trả lời thắc mắc của Tôma.

Đức Giêsu nói :”Thầy còn ở với các con ít lâu nữa, rồi Thầy đi về cùng Đấng sai Thầy”(Ga 7,33). Đức Giêsu nói Ngài sẽ về với Cha, là Đấng đã sai Ngài đến, Ngài với Cha là một, nhưng họ vẫn không hiểu. Đức Giêsu còn nói thêm :”Thầy đi đâu các con đã biết đường rồi” (Ga 14,4). Họ không hiểu con đường Ngài sắp đi là con đường nào vì đó là đường thập tự, nên ông Tôma mới nói :”Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi” (Ga 14,5).

Thật vậy, Tôma là người thật thà và cũng là con người thực nghiệm, thích sờ mó, nhìn xem và chứng kiến, không chịu thỏa mãn với những câu nói mơ hồ. Ông muốn biết chắc chắn, nên đã bộc lộ những nghi ngờ về những gì ông không hiểu : chẳng hiểu được ý nghĩa việc Chúa ra đi.

Vì thế, Đức Giêsu nói với ông Tôma :”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Nói như vậy là Ngài có ý muốn nói gì ? Ngài có ý nói rằng Ngài là người dẫn đường, Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta, chúng ta sẽ không sợ lạc đường. Đó là việc Đức Giêsu đang làm cho chúng ta. Ngài không chỉ đưa ra những lời khuyên dạy, chỉ hướng đi mà thôi, nhưng Ngài nắm lấy bàn tay và dẫn chúng ta đi. Ngài cùng đi với chúng ta, đích thân Ngài thêm sức cho chúng ta, hướng dẫn chúng ta mỗi ngày. Không phải Ngài chỉ cho chúng ta con đường mà chính Ngài là Đường đi của chúng ta.

Chữ “Đường” trong Tin mừng hôm nay không những chỉ có nghĩa là Đức Giêsu chỉ dùng giáo huấn mà dẫn ta đến sự sống, mà chính Ngài là con đường dẫn đến Chúa Cha nữa. Vì chính Ngài là mạc khải Chúa Cha (Ga 12,45), tuy Ngài bởi Chúa Cha mà đến và về với Chúa Cha (Ga 7,29-33), nhưng Ngài lại là một với Chúa Cha (Ga 13,30) vì chính Ngài là sự thật và là sự sống (Ga 3,15).

Chúng ta có thể tóm tắt điều Đức Giêsu muốn nói : Nếu không nhờ Thầy, không ai đến được với Cha. Chỉ một mình Đức Giêsu là con đường đến với Thiên Chúa. Chỉ trong Ngài chúng ta mới thấy được Thiên Chúa như thế nào, và chỉ một mình Ngài đưa chúng ta đến với Thiên Chúa mà chúng ta không phải sợ hãi và xấu hổ.

  1. TIN TƯỞNG BƯỚC THEO ĐỨC KITÔ.
  1. Đức Giêsu là ai ?

Các môn đệ ở bên Chúa Giêsu ba năm mà vẫn chưa biết Đức Giêsu là ai. Sự hiểu biết của họ còn rất lơ mơ. Khi Đức Giêsu nói về Chúa Cha, Cha của Ngài, thì họ càng bỡ ngỡ, không hiểu chút nào. Vì thế, trong các môn đệ quây quần chung quanh Đức Giêsu chiều nay trong bữa tiệc ly tạ từ, có một môn đệ có một đầu óc rất thực tế. Đó là Philipphê. Đối với ông, nghe Chúa, biết Cha là một cái gì quá trừu tượng. Ông muốn được như Maisen nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa (Xh 33,18), nên, đại diện cho các bạn ông nói :”Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con”.

Với vẻ mặt buồn buồn, Đức Giêsu đã phản ứng lại mạnh mẽ :”Philipphê ! Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy”. Sự hiểu biết Thiên Chúa không phải là sự hiểu biết trừu tượng mà là sự hiểu biết và gặp gỡ một con người. Con người ấy chính là Đức Giêsu, hình ảnh của Đức Chúa Cha. Vì thế, Chúa phán :”Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư “? Hai nhưng là một , đồng nhất trong một bản thể với Chúa Thánh Thần :”Ai xem thấy Thầy là xem thấy Cha. Cha Ta với Ta là một”.

Trọn cuộc sống, mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu là một biểu hiện hoàn hảo hình ảnh của Chúa Cha vì Người kết hợp mật thiết với Chúa Cha. Cuộc sống của Ngài, đó là Chúa Cha, công việc của Ngài là chính Chúa Cha thực hiện qua Ngài, lời Ngài nói đó là tư tưởng của Chúa Cha (Cf Hồng Phúc, Suy niệm lời Chúa, năm A, tr 75).

Khi nói rằng chúng ta biết Chúa, nhưng thực sự chúng ta mới có một khái niệm về Chúa chứ chưa thể diễn tả ra thế nào cho đúng. Thỉnh thoảng chúng ta nghe thấy có người nói như sau :”Kitô hữu nói về Chúa thế này. Người Do thái bảo Chúa thế kia. Người Hồi giáo cho Ngài thế khác. Phật tử còn quan niệm Ngài khác hơn nữa. Tôi cảm thấy rối trí quá nên chẳng biết nghĩ gì và cũng chẳng biết tin ai”.

Mỗi khi nghe được một người tuyên bố như thế, tôi liền nhớ lại bài thơ của John Saxe liên quan đến năm gã mù Ấn độ đứng vòng quanh một con voi và thắc mắc con voi giống cái gì. Một gã sờ vào hông voi và bảo nó giống như bức tường. Gã thứ hai sờ vào chiếc ngà và bảo nó giống như một thanh gươm. Gã thứ ba đụng vào chiếc vòi và bảo nó như rắn khổng lồ. Gã thứ tư sờ vào lỗ tai và bảo nó giống như chiếc quạt. Gã mù sau cùng sờ vào đuôi và bảo nó giống như sợi dây thừng. Thế thì ai trong năm gã này là đúng ? Có lẽ câu trả lời hay nhất là cả năm gã đều đúng, mỗi gã đúng theo quan điểm của mình. Chỉ nhờ đối thoại chung với nhau họ mới có thể có được một cái nhìn đầy đủ và sáng suốt hơn để trả lời chú voi thực sự như thế nào.

Vài người bảo : đối với trường hợp Thiên Chúa cũng thế. Họ bảo : Người Do thái có lối hiểu Thiên Chúa, người Hồi giáo có một lối thứ hai để thấu hiểu Chúa, người Phật giáo lối thứ ba và các Kitô hữu lối thứ tư. Chỉ nhờ đối thoại với nhau họ mới có thể đạt được một cái nhìn đầy đủ rõ ràng hơn về Thiên Chúa. Thế là lại khơi lên một vấn nạn : Làm sao tôn giáo này có thể tự hào rằng mình gần với chân lý hơn các tôn giáo khác ? Chẳng hạn, làm sao các Kitô hữu dám cho rằng mình có cái nhìn chính xác về Chúa hơn bất kỳ tôn giáo nào khác ?

Câu trả lời cho vấn nạn trên dĩ nhiên được đặt vào nền tảng đức tin nơi Đức Giêsu của người Kitô hữu. Đức Giêsu đã tuyên bố Ngài là Thiên Chúa bằng một cách thức mà không một vị lãnh đạo tôn giáo nào dám tuyên bố. Và hơn thế nữa, Đức Giêsu còn đồng hoá mình với Thiên Chúa: “Ta và Chúa Cha là một” (Ga 10,30). Từ “một”, không có tiếng trước hay sau đi kèm, có nghĩa là “đồng một bản tính”. Như vậy, Đức Giêsu tuyên bố rõ sự thực này : Ngài và Chúa Cha cùng có một quyền năng chung, tức là “đồng một bản tính”. Điều này không một vị lãnh đạo nào trên thế giới này dám làm (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 108-109).

Từ xưa đến nay các nhà sáng lập tôn giáo, không ai dám nói :”Cha Ta và Ta là một” (Ga 10,30), chỉ có một mình Đức Giêsu mới dám nói :”Hãy tin vào Ta khi Ta nói rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta” (Ga 14,11). Và chỉ một mình Đức Giêsu dám nói :”Ta là bánh từ Trời xuống… Ai ăn thịt và uống máu Ta thì được sự sống đời và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,51,54). Và chỉ một mình Đức Giêsu dám nói :”Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ có ánh sáng ban sự sống và sẽ không bao giờ bước đi trong tăm tối” (Ga 8,12).

Như vậy, chúng ta phải nói rằng Đức Giêsu là hiện thân của Chúa Cha và ai thấy Đức Giêsu là thấy Cha. Chính Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên phải tin theo Người.

  1. Bước theo Chúa Giêsu Kitô.

Đức Giêsu báo cho các Tông đồ việc ra đi của Ngài là để dọn chỗ cho các ông :”Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì các con biết đường rồi” (Ga 14, 3-4).

Ông Tôma thắc mắc và rất hồn nhiên chất phác hỏi :”Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đuờng đi”. Nhân dịp này, Đức Giêsu cho biết Ngài là con đường đưa họ đến với Chúa Cha, qua Ngài họ mới có thể vào được Nước Trời nên mới nói :”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”. Ngài là con đường duy nhất dẫn tới sự sống.

Chúng ta hãy bước theo chân Chúa Giêsu. “Theo” ở đây không phải là một ý tưởng trừu tượng, như chấp nhận một học thuyết, một tư tưởng hay chỉ đi theo sau một người, mà có một ý nghĩa sinh động hơn, nghĩa là phải chấp nhận người mình theo, nhận lấy số phận người mình theo, gắn bó khăng khít với họ như “thuyền theo lái, gái theo chồng”(tục ngữ). Ngoài ra còn phải chia sẻ đời sống với người ấy, bất chấp những rủi ro xẩy ra, chấp nhận tất cả như cô gái nói với chàng trai :

Lên non thiếp cũng lên theo,

Tay vịn chân trèo hái trái nuôi nhau.

(Ca dao)

Đức Giêsu đã kêu gọi mọi người hãy đi theo Chúa vì chỉ mình Ngài mới có thể ban ơn cứu độ, mới có thể dẫn đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Tuy nhiên, muốn theo Chúa cũng cần phải có một số điều kiện, đòi họ phải kiên trung đến cùng, đừng để xẩy ra cảnh “giữa đường đứt gánh. Trước khi theo Chúa hãy suy nghĩ cho kỹ, giống như người định xây nhà, phải tiên liệu để hoàn thành, đừng để dở dang.

  1. a) Từ bỏ mọi sự.

Đức Giêsu kêu gọi mọi người hãy theo Ngài, lời kêu gọi ấy có tính cách hoàn toàn tự do, muốn theo hay không theo cũng được vì Ngài chỉ dùng chữ “nếu”, không có tính cách bắt buộc. Ngài nói :”Nếu ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24). Đã có trường hợp người ta không dám chấp nhận điều kiện Chúa đưa ra như trường hợp người thanh niên giầu có đến xin làm môn đệ Chúa, nhưng anh ta không thể chấp nhận được điều kiện này nên đã bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.

Đức Giêsu là Thiên Chúa giầu sang vô cùng đã muốn trở nên con người nghèo khó đến tuyệt cùng để chia sẻ số phận nghèo khó của con người. Chúa đã nói :”Con cáo có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu”(Mt 8,20 ; Lc 9,58) . Nếu yêu Chúa, muốn theo Ngài thì đòi buộc từ bỏ tất cả, từ bỏ chính con người của mình và chấp nhận mọi rủi ro trong khi theo Chúa. Chúng ta có dám can đảm chấp nhận điều kiện ấy không ?

Trong văn chương bình dân, người ta có đưa ra một hình ảnh tương tự như thế. Đó là trường hợp một người thanh niên nghèo được một thiếu nữ yêu thương muốn theo, anh ta cho biết là mình nghèo lắm, chỉ sống nhờ sự bố thí của người ta thôi, không có gì cả ; hay nói đúng hơn anh ta chỉ có cái nghề đi ăn mày thôi, có dám theo không, nên anh ta nói :

Lấy anh, anh sắm sửa cho :

Cái bị, cái bát, cái quạt mo đuổi ruồi.

  1. b) Phải qua cửa hẹp.

Theo Chúa thì đòi buộc phải hy sinh, hy sinh cả những cái được phép, có khi phải hy sinh cả thân mình và phải nhận đến cái chết. Theo Chúa là phải khép mình vào như Chúa nói :”Hãy vào qua cửa hẹp” (Mt 7,13-14 ; Lc 13,24) vì”Nước Trời chỉ có thể chiếm được bằng sức mạnh”, sức mạnh đây không phải là sức mạnh thể xác nhưng là sức mạnh tinh thần, phải chiến đấu kiên cường, không chịu lùi bước theo phương châm :”Per crucem ad lucem”.

Từ bỏ mình… Vác thập giá… là khoái khổ sao ? Không. Cần phải từ bỏ mình, thẳng thắn mà tuyên bố tiêu diệt cái “tôi” của chúng ta. . Thế nhưng không phải tiêu diệt “cái tôi” tốt lành, “cái tôi” chân thật. Đức Giêsu yêu cầu chúng ta hãy hiến cái tôi giả tạo mà chúng ta tạo nên bằng những nhu cầu vô ích và những phù phiếm trẻ con :”Đó là cái tôi, thánh Gioan Thánh giá nói, của những thèm muốn thúc giục chúng ta trở nên bất hạnh đối với chúng ta, khô khan đối với tha nhân, nặng nhọc và biếng nhác đối với các công việc của Chúa” (A. Sève, Sương mai, tr 209).

  1. c) Vâng ý Cha trên trời.

Theo Chúa thì không còn gì là của mình nữa vì đã phó thác trọn vẹn cho Chúa để hoàn toàn thuộc về Người. Trong mọi việc chúng ta chỉ còn biết làm theo thánh ý Chúa, ý Chúa trên hết theo như kinh Lạy Cha :”Vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời”. Vì thế, Đức Giêsu đã khuyên nhủ những người đã theo Ngài muốn vào được Nước Trời thì phải thi hành thánh ý Chúa :”Không phải cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa, mà được vào Nước Trời, mà chỉ có những ai thi hành ý Cha Ta ở trên trời”(Mt 7,21-23 ; Lc 6,46 ; 13,26-27).

Truyện : Cậu bé đánh trống.

Trận chiến giữa Pháp và hai nước liên kết Ý và Áo đầu năm 1796, kết liễu ngày 17.11.1796 như sau:

Đại tướng Bonaparte đưa quân đến một địa điểm, có cái cầu bắc qua trận tuyến địch. Trong lúc trận thế đang nguy, đại tướng Bonaparte hô tiến qua cầu. Không một ai qua ! Đại tướng xuống ngựa, giựt lá cờ quân đoàn chân bước qua cầu, miệng hô :”Ai yêu tổ quốc thì theo ta”. Ngó lại, trên cầu chỉ có một mình mà lá cờ rách nhiều mảnh vì đạn của quân địch. Khi ấy có cậu bé mới 13 tuổi đánh trống thúc quân. Hai tay đập mạnh vào trống chân bước qua cầu theo đại tướng. Quân sĩ tràn theo qua cầu, đại tướng Bonaparte toàn thắng và cũng chấm dứt cuộc chiến tranh ấy.

Tám năm sau, Bonaparte đã là hoàng đế Napoléon trở lại chỗ cũ, có nghi lễ đón tiếp rất linh đình. Hoàng đế Napoléon muốn bắt tay cậu bé Vidal đã 20 tuổi hiện trong quân đoàn tại đó.

Hỏi đến Vidal thì cậu đã nghỉ phép để đưa đám tang mẹ. Hoàng đế Napoléon đã bãi bỏ mọi lễ nghi quân cách, đi thẳng đến làng Vidal, theo sau đám tang đến huyệt, đọc bài điếu văn. Rồi đi bộ với Vidal trở về. Vidal từ chối và mời hoàng đế lên xe. Hoàng đế Napoléon đáp :”Tám năm trước con đã liều chết theo ta trên con đường chết, nay trên đường đau khổ, con cho ta theo con cho có bạn”(Ms Lê văn Thái, Những tia sáng, tập 1, tr 5).

Đạo là đường đưa dẫn đến sự sống chính là Chúa, và không có gian lao khổ cực nào làm cho ta chối bỏ được. Những tháng năm đầu thế kỷ 20 này, nhiều người đã gặp những anh hùng vô danh còn sống sót trên đất nước Việt nam chúng ta. Đó là các cụ ông, cụ bà trước đây đã bị bắt giam cầm, bị người ta rạch mặt lấy mực tầu xâm lên trên má hai chữ “Tả dạo”, đi đâu ai cũng nhận ra là người theo tả đạo ; nhưng đối với giáo dân, đây là biểu tượng của Đức tin kiên cường sáng chói.

Kinh Thánh ca tụng những vị anh hùng bất khuất đã kiên vững theo Chúa đến cùng : “Chúng ta hãy ca tụng những bậc vĩ nhân, những bậc tiền bối của chúng ta”(Gv 44.1), đã tin Đạo, đã sống Đạo, đã hy sinh vì Đạo, gương sáng chói cho chúng ta trên đường về Trời.


[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]

 

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*