• Video đáp ca tuần 8 thường niên-Tâm Linh Vào Đời
  • Suy tư tin mừng 8 thường niên-Mai Tá dịch
  • Chuyện phiếm-trần ngọc mười hai
  • Đức tin-trầm thiên Thu
  • Bảo hiểm vĩnh viễn-Trần Bình An
  • Tiền Không Thể Cứu Độ Được Con Người-Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  • Biết Vui Với Phận Mình-Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
  • Phó thác-Lm. Giuse Trần Việt Hùng
  • Nụ hôn của Thiên Chúa-Rev. Ron Rolheiser, OMI
  • Hãy ngắm chim trời-Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
  • Nô lệ hay tự do-Thiên Phúc
  • Tiền bạc: ông chủ hay đầy tớ-Lm Đan Vinh
  • Có tin có khác-Lm Nguyễn Văn Nghĩa
  • Chọn Thiên Chúa hay tiền của - Lm Đinh lập Liễm
  • Title 3

VIDEO ĐÁP CA

Kính gởi quý vị – đặc biệt là quý ca trưởng

 

Lời dẫn và Đáp ca bằng Video

Chủ nhật 8 Thường niên – Năm A

https://www.youtube.com/watch?v=8Kv0Del8Nag

Và bài Thánh ca của LM La Thập Tự

Rất quý mến

Tamlinhvaodoi

SUY TƯ TIN MỪNG 8 THƯỜNG NIÊN

Mai Tá dịch

 

Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 8 thường niên năm A 26/02/2017

 

Tin Mừng: (Mt 6: 24-34)

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được. Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.

 

“Có hoa nào qua mùa không héo?”

“Có tiếng nào, giàu đẹp hơn không?”

(dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)

Hoa nào lại không héo, vào mùa Đông? Tiếng nào giàu/đẹp hơn Lời Vàng được thánh Mátthêu Tin Mừng những ghi chép? Lời Vàng thánh Mátthêu Tin Mừng ghi, là hoa tươi, là tiếng nói giàu/đẹp thánh nhân đưa vào trình thuật truyện kể và bài giảng lấy hứng từ Tin Mừng thánh Mác-cô. Và, đó cũng là điều mà hầu hết các nhà chú giải đều đồng ý. Tuy nhiên, vẫn có những đoạn trình thuật mang tính chất rất riêng tư như thánh Mátthêu đề cập đến ở Lời Chúa, rất hôm nay.

Điển hình hơn cả, là: đoạn trích được thánh sử rút từ sách Ysaya, nhằm

phản ánh truyền thống sống động về sinh hoạt của Đức Giêsu và về Lời dạy rất thánh, của Ngài. Các đoạn trích tập trung nơi Tin mừng thời tiên khởi. Thời này, đã tràn lan xuất hiện các chỉ thảo có từ Sách Tanak như: thánh vịnh, Đệ Nhị Luật và Sách ngôn sứ Ysaya. Xem thế, ta có thể kết luận là: cộng đoàn Mát-thêu ngay từ đầu, đã thủ đắc các phó bản của sách Ysaya này.

Tuy là thế, Mátthêu đây vẫn dùng đến sách của các ngôn sứ khác, nhưng chỉ để hỗ trợ cho việc trưng dẫn sách Ysaya, trong chủ đích này. Tin Mừng thánh nhân ghi, tuy không trích dẫn từng lời nói của vị ngôn sứ, nhưng thánh nhân cũng sử dụng nhu liệu làm nền từ vị ngôn sứ này. Vì thế, có thể nói: thánh Mát-thêu nhận ra Đức Giêsu là Đấng đã thực thi những gì được ngôn sứ nói, từ thời Cựu Uớc.

Điều mà thánh nhân nhấn mạnh, là: bảo vệ niềm tin của cộng đoàn mình đặt nơi Chúa. Và từ đó, xác tín rằng chính Đức Giêsu là Đấng Mêsia, như chủ thuyết Giuđa minh định. Ngang qua sách Ysaya, thánh sử có nói về 3 chủ đề chính ngõ hầu hỗ trợ cho lập trường được nhắm đến, là: Tạo Dựng Mới. Tin Mừng Cứu Độ ở nơi Chúa. Và, Trở về từ đất miền lưu đày, ngang qua sa mạc.

Ngoài ra, Mátthêu Tin Mừng còn chứng minh điều mà Đức Giêsu nói: Ngài là Đấng Tạo Thành Mới. Tin Mừng là Tin Vui Cứu Độ gửi đến mọi người. Nếu ai cũng biết đặt mình vào Tạo Dựng Mới, sẽ chẳng còn ai phải lưu đày ở chốn khách này, nữa. Thế nên, thánh nhân coi Tin Mừng do mình viết, là một Khởi Nguyên mới. Là, công việc mới mẻ để mọi người hiểu rằng: Chúa đã và đang thực hiện vai trò Luật gia Torah rất đích thực. Và, những gì khi xưa sách Ysaya xưa đã đề cập, nay thành hiện thực nơi Ngài. Và, sự thực ấy, nay trải dài ở Tin Mừng của thánh nhân, ít là ở 10 bản văn.

Bản văn đầu, về Gia Phả, Mátthêu muốn minh định: lời ngôn sứ loan: “Nhà Đavít có Vị nối dõi tông đường nay đã thể hiện nơi Đức Kitô”. Loan báo, là loan và báo khác hẳn gia phả giòng tộc vua quan khác ở Đamát, Samari và Assyri (Is 7: 10, 9: 11). Vì thế, thánh nhân kể rõ từng chi tiết trong gia phả của Chúa. Và, việc Đức Mẹ đưa Hài Nhi Giêsu qua Ai Cập là để xác chứng rằng lời Chúa hứa giúp dân Do thái thoát khỏi ách nô lệ để trở về, nay đã thành chuyện có thực.

Bản văn thứ hai chứng minh thêm một điều, là: ngôn sứ Ysaya hứa giải cứu dân Do thái thoát ách nô lệ ngoại bang để trở về, nay hiện thực hiện ngay nơi hoang vắng có Chúa nguyện cầu. Đây, còn là chốn miền để Chúa gặp gỡ Cha Ngài. Ở Tin Mừng, Mátthêu nói nhiều về chốn hoang sơ/sa mạc ở Giuđêa, nơi đó thánh Gioan Tiền Hô từng rao báo những điều đã ghi ở sách Ysaya ở chương 40.

Với Ysaya, dân Do thái trở về, là về từ nơi chốn lưu lạc bên Ai cập, ngang qua chốn hoang vu sa mạc. Và trở về mà hoàn tất ơn cứu độ nhờ Đức Chúa dẫn dắt như vị Chủ chăn. Tổ phụ Môsê, vị chủ chăn từng giúp dân Do thái vượt biên/vượt biển thành công được, cũng nhờ có sự trợ giúp của Thần Khí Chúa. Với Tin Mừng, Mátthêu Tin Mừng kể về việc Chúa chấp nhận dìm mình dưới nước sông Giođan, để rồi dẫn dắt dân con Ngài vào chốn hoang vu, nhờ đó Thần Khí Chúa biến Ngài thành Con Thiên Chúa Hằng Sống. Ở Tin Mừng, Đức Giêsu là Môsê Mới cũng sử dụng lời lẽ từ sách Đệ Nhị Luật để đuổi xua tên cám dỗ sừng sỏ dám thách đố Ngài. Và, Ngài nói đến “chốn núi cao”, như Cựu Ước từng nói.

Bản văn thứ ba, đem đến cho người đọc nguồn ánh sáng chiếu rọi trên dân con Chúa. Họ đón nhận ánh sáng ấy nếu biết ứng dụng Luật Torah theo tinh thần Chúa sáng soi (Is 9: 4). Động lực ‘ánh sáng’ đưa mọi người đến ý nghĩ về “cặp mắt xấu” (tức lòng tham vô đáy) và năng lượng tạo lửa ngọn hực cháy. Tạo nên đá tảng cho an bình nội tâm, càng thêm vững.

Bản văn thứ tư gợi ý nói về Người Tớ Khổ Đau. Tức, tập trung vào nỗi khốn khổ, đớn đau của con người. Từ đó, thánh nhân diễn rộng thành truyền thống coi Chúa là Vị Thày Chữa Lành mọi sự. Các chương 8 và 9 gồm 10 trình thuật nói về việc Chúa chữa lành. Tất cả chia thành hai nhóm, mỗi nhóm gồm 5 trình thuật truyện kể. Mỗi nhóm, nói đến người bị ruồng bỏ như trẻ nhỏ, kẻ goá bụa và những người được chữa đến hai lần. Tất cả, nói lên lý lịch của Chúa là Đấng Mêsia, rất đích thực. Rõ nhất, là vai trò Chủ Chăn của Chúa (như vua Đavít), rút từ sách Isaya chương 53. Và từ đó, Chúa nói đến chiên lạc nhà Israel. Rồi, Ngài diễn rộng bằng bài thuyết giảng về sứ vụ rao báo, ngõ hầu giúp tông đồ Ngài trở nên sứ giả chuyên phổ biến Tin Vui An Bình, ngang qua trình thuật kể về nỗi khổ đau của Tôi Tớ Đau Khổ.

Bản thứ năm trích nhiều từ đoạn 42, qua đó người đọc thấy được lý lịch của Chúa như Con Người. Và, như Người Con của Giavê Thiên Chúa, Đấng sẽ đến lại vào ngày Quang Lâm. Đức Chúa của ngày Sabát, là Con vua Đavít, vẫn cao sang hơn đền thánh. Hơn Yôna, Salômôn khôn ngoan/quyền quý mà mọi người quý trọng. Với Mátthêu, cung cách của Người Tớ Khổ Đau nói ở Cựu Ước được đánh giá cao qua công việc Ngài làm. Việc này, còn được diễn bày rất nhiều, về sau. Nhưng trước mắt, thành công đạt được là nhờ Thần Khí Chúa dẫn dắt. Và Mátthêu định danh Thần Khí Chúa như Nguồn Mạch chữa lành và trừ tà.

Bản văn thứ sáu, là trình thuật về lời mời gọi Ysaya trở thành ngôn sứ. Lời mời, ăn khớp với việc Chúa quan phòng dẫn dắt dân con Ngài ngang qua lưu đầy, khốn khổ. Thời đó, các nhiệm tích được chuyển tải theo cung cách kín ẩn cho đến khi dân con kết cuộc mọi lưu lạc, trở về thành “hạt giống thánh”. Hạt giống đâm chồi nảy lộc ngay trên đất của mình. “Hạt Giống Thánh Thiêng” đây, là Đấng Mêsia thuộc giòng họ rất Đavít.

Bản văn thứ bảy, rút từ chương 29 được thánh Mát-thêu coi như cảnh tình của dân con mọi người có nghe biết, mà chưa hiểu. Và, thánh nhân diễn rộng điểm này ở chương 6. Ở Isaya 29, toàn bộ thị kiến của ngôn sứ là sách quí dành cho cả người không biết đọc, lẫn người học rộng. Bởi, Chúa giấu kín mọi nhiệm tích khỏi người khôn ngoan. Ngài khiến kẻ điếc được nghe, kẻ mù được thấy, để họ hiểu rõ những gì mình nghe và biết, điều quan trọng hơn là lập đi lập lại giới luật do Pharisêu và Xađốc quảng bá. Chính vì thế, Mátthêu đưa ra các khích bác về Lời của Chúa, cho người thời đại, cả đến hôm nay.

Truyền thống Giáo Hội liên kết các khích bác ấy với trình thuật Chúa làm dấu lạ qua nhân rộng 5 chiếc bánh và hai con cá, cho cả ngàn người no đầy. Đây là chi tiết rất ăn khớp với truyện kể ở Isaya 29, câu 8 khi tác giả sách ngôn sứ kể về người đói bụng chìm trong giấc mơ tuy ăn nhiều nhưng không mãn nguyện. Và, qua trình thuật phép lạ về bánh và cá, Mátthêu Tin Mừng muốn đề cập đến việc Chúa chữa lành cho cả người điếc lẫn người mù, khiến họ thoả mãn, thích thú.

Bản văn thứ 8 là chương 68-69, tóm lược từ đoạn Zakaria 9, được thánh Mát-thêu sử dụng cốt ý nói đến việc Chúa về với Giêrusalem. Chủ đề này, là để đền bù đáp ứng lòng thù hận; lấy xót thương, tử tế, sẻ san nỗi thống khổ mà đoàn dân quay trở về từ đất miền lưu lạc, nay cảm nghiệm. Đavít xưa tuy toàn thắng nhưng vẫn khiêm hạ. Ông quyết ngồi trên lưng lừa, chứ không dùng ngựa, bởi ngựa bị cấm không được trở về với Giêrusalem. Nhất nhất mọi điều nói lên lòng xót thương/khiêm hạ của Đấng chủ chăn cộng đoàn.

Bản văn thứ 9 là từ Ysaya 56 đặt nặng nhu cầu bảo vệ công lý/chính trực cho kẻ thấp cổ bé họng, những người bị bỏ rơi, cô quạnh. Ngài có nói: đền thờ là nơi nguyện cầu, dành cho hết mọi người. Đối nghịch tính đồi bại, nguy hại của thể chế rất thành văn, của tôn giáo. Điều này đuợc nhắc đến ở Gêrêmia 7, là sách nói đến sào huyệt của dân cướp cạn. Bởi, ở nơi đó, họ thực hiện những bất công, cùng tệ nạn sùng bái ngẫu thần và cả chuyện hy sinh giết trẻ nhỏ để tế lễ. Các sự kiện cuối đời hoạt động của Chúa, soi rọi quanh chủ đề cánh chung, ngày Chúa đến lại, trong vinh quang mai ngày.

Và, bản văn 10 từ Isaya 53: 4-6, cho chí Is 52: 13 và 53: 12, được thánh Mát-thêu sử dụng để tóm kết đoạn sách Gerêmia 13: 7. Mátthêu dùng chương này, cốt để nói lên cố gắng của Chúa Chiên Lành là Đức Giêsu trước âm mưu ám hại Ngài. Chúa vẫn âm thầm, câm nín như chiên con đi vào lò sát sinh. Chủ đề, thấy rõ ở sách ngôn sứ Gêrêmia, qua đó vị chủ chăn bị đánh, chiên con chạy tán loạn. Ở Tin Mừng, Mátthêu thánh nhân thêm vào đoạn nói ở sách Ysaya, qua đó cho biết Đức Giêsu sẽ trỗi dậy từ cõi chết. Và, Ngài về lại Galilê là để gặp gỡ hết mọi người, cả tông đồ cũng như dân con, hằng mong đời.

Nói cho cùng, hai sách Đệ Nhị Luật và Ysaya gộp lại thành tấn thảm kịch diễn lại sự giải thoát dân Israel, qua Cyrus và dân con người Ba Tư. Nhưng Mátthêu dùng sách, để trình bày về Đức Giêsu là Đavít Mới. Là, Đức Vua. Là, Thi nhân Đavít Mới quyết đem mọi điều tích cực đến với mọi người. Chứ Ngài không chỉ dành ân huệ cao quí ấy cho mỗi dân Do thái. Đavít không chỉ là vua quan/lãnh chúa, mà còn là “nhà thơ” từng chứng kiến mọi đổi thay nơi dân mình, qua các thánh vịnh do ông sáng tác. Ở đó, có sự nối kết giữa Đavít toàn thắng về binh bị với Đavít chuyên gia âm nhạc và thơ. Tất cả, đều là ý của vị ngôn sứ.

Đức Giêsu, đích thực là hậu duệ của “thi sĩ” Đavít. Ở nơi hoang vu, Ngài học hát những bài ca của Môsê. Là Môsê Mới, Ngài chữa lành hết mọi người bằng thi ca/âm nhạc, biến Giêrusalem là chốn Ngài lấy lại, thành Vương Quốc Nước Trời. Nước Trời, không theo nghĩa của trần gian mà là sự công chính. Vương quốc của Ngài biến thành bài ca/giọng hát, cho muôn người. Trên thập tự, “vương quốc” bình thường đã qua đi. Nhưng, nhờ sống lại, “Nước Trời” ấy trổi lên thành thi ca/âm nhạc vượt quá văn xuôi, rất tầm thường. Từ đó, thánh Mát-thêu đã lấy lại chất thơ rất Ysaya. Bởi, Đức Giêsu đã cấu trúc Giuđêa lại, qua cung cách rất thơ của ngôn sứ Ysaya.

Xem thế thì, Đức Giêsu là hậu duệ của nền thơ Đavít. Thứ thi ca đã kinh qua hoang vắng, và qua cả cốt cách Môsê, rất đổi mới. Ngài là Đấng chiếu sáng muôn dân bằng thơ. Chữa lành mọi người bằng nhạc, chứ không thuần mỗi chính trị, hoặc, binh bị cho mọi người, cả những người đang có, lẫn các kẻ còn thiếu thốn. Nơi Ngài, Nhà Thơ Tối Cao, Thiên Chúa đã đến để lấy lại Giêrusalem vì mục đích cao cả hơn chính trị.

Công lý, hoà bình và ơn cứu độ sẽ theo đó mà về với mọi người, chứ không chỉ với một dân tộc. Dù dân tộc ấy đã được chọn. Trên thập tự, vương quốc của Ngài đã qua đi. Nhưng qua sự sống lại, hồn thơ đã trỗi dậy. Hồn thơ ấy, là sự giải thoát. Là Đức Giêsu, Đấng chữa lành/giải thoát hết mọi dân tộc, mọi người. Ở đây đó.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn – Mai Tá lược dịch

CHUYỆN PHIẾM

Trần Ngọc Mười Hai

Chuyện Phiếm Đọc Trong Tuần thứ 8 mùa Thường niên năm A 26/02/2017

 

“Một đời tôi vẫn nhớ đến em

trong những tháng năm dài, Ôm mối tình sầu với em tôi biết sẽ tàn phai. Một hồn tôi ray rứt bước chân đi trên cát buồn. Biển vắng đêm nay xót xa một mối tình không may.

(Diệu Hương – Một Đời Vẫn Nhớ)

(Giacôbê 1: 2-3)

Nhớ thế sao? Thế bạn và tôi, ta có nhớ “người em bé bỏng” ở đâu đó, trong các “viện” như được kể thế này không? Truyện kể, là kể về các người “Em” ấy như thế này đây:

“Theo thống kê của Cơ quan an sinh xã hội bang California, Mỹ thì: trong tổng số 400 nghìn người Việt hiện đang sống ở miền Nam California, có khoảng 15 nghìn người trên 65 tuổi. 1/3 số người ấy đang sống chung với con cháu. Số còn lại, đang ở trong viện dưỡng lão (nursing home). Vẫn theo thống kê này, những người Việt già trên đất Mỹ rất sợ bị đưa vào nursing home! Dưới đây là vài dữ-kiện:

Xế chiều 29 tháng Chạp vừa qua, tôi lái xe đến Viện Dưỡng Lão ở thành phố Westminster, Orange County. Đây là cơ sở được xem như khá nhất trong số các viện dưỡng lão tại miền Nam Cali. Vì là ngày giáp tết nên quang cảnh ở đây khá lặng lẽ. Các lối đi trong khu vực dành cho người Việt, trên những băng ghế đặt rải rác dưới những tàn cây, không thấy cụ nào tản bộ hay ngồi nghỉ chân, trò chuyện với nhau. Bãi đậu xe cũng chỉ lác đác vài chiếc của nhân viên trực. Nhìn khu dành cho người Mỹ, người Hàn Quốc và khu dành cho người Mexico thì đông người hơn, có lẽ các vị này không biết hôm nay là đêm giao thừa của người Việt.

 

Bước vào bên trong, tất cả đều vắng vẻ. Nhìn một lát, tôi mới thấy y tá đẩy một chiếc xe lăn, trên đó có một cụ ngồi ngoẹo đầu, mắt nhắm nghiền, nước dãi chảy dài xuống khóe miệng. Trước cửa phòng số 6, một cụ bà khác ngồi im lìm trên ghế nhựa, nét thẫn thờ. Tôi hỏi: “Có con cháu nào vào thăm Bà chưa?”. Nhìn tôi một lát, bà lắc đầu kèm theo tiếng thở dài nghe mệt mỏi.

 

Tên bà là Trần Thị Nghị, 74 tuổi. Bà sang đây theo diện bảo lãnh của con trai. Bà kể: “Lúc đầu, mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng chỉ được vài năm, con dâu nói: thấy tôi ở dơ vì khi cháu nội của tôi sổ mũi, tôi bèn lấy tay bóp vào mũi nó, vắt nước cho sạch. Bực mình quá, tôi bèn nói: hồi nhỏ, tao cũng hay vắt nước mũi cho chồng mày vậy, có sao đâu! Thế là nó cấm tôi không được đụng đến con nó nữa. 3 tháng sau, chồng nó nghe lời ton hót của nó, bèn đẩy tôi vào đây”.

 

Một phòng khác, cụ ông Nguyễn Văn Đức, 71 tuổi, nằm co quắp trên giường. Hỏi ra mới biết cụ bị bệnh suyễn. Đưa tay chỉ vào hộp bánh, 2 hộp mứt, 2 hộp kẹo nằm chỏng chơ trên bàn, cụ phều phào bảo: “Cái này con tôi nó cho, cái kia là của hội, còn hộp đó là quà của nhà chùa”.

 

Theo tập tục người Việt mình, thì cứ gia đình nào gồm 2, 3 thế hệ ông bà, cha mẹ, con cháu cùng ở chung với nhau đều được xem là gia đình hạnh phúc, ăn ở có đức, có hiếu. Nhưng, đối với  người Mỹ và người phương Tây có bản tính thực tế, thì họ lại không nghĩ vậy; bởi lẽ, ngay từ hồi còn trẻ, họ đã học được tính tự lập – và điều này đã tác động rất mạnh lên thế hệ thứ 2 người Việt. Thứ 3 nữa, là: người sang Mỹ từ khi còn bé, hoặc sinh ra trên đất Mỹ, tất cả hầu như ít nói tiếng Việt mà chỉ sử-dụng tiếng Anh, tiếng Mỹ, cả khi về nhà.

 

Phần lớn họ chịu ảnh hưởng nặng từ lối sống của Mỹ: 18 tuổi ra ở riêng; cha mẹ già thì đưa vào viện dưỡng lão. Mọi thành công về mặt tiền bạc, học vấn, vv. đã khiến họ chẳng quan tâm nhiều đến quá khứ của bậc cha ông. Nếu như còn ở Việt Nam, hầu như con cái đều ngồi im nghe cha mẹ chỉ giáo, dù miễn cưỡng; còn thì ở Mỹ, phần lớn người Việt thuộc thế hệ thứ 2, thứ 3 lại chọn lối bỏ ra ngoài sống, không quan tâm gì đến cha mẹ, và điều đó dẫn đến xung đột thế-hệ… Xung đột có khi chỉ bắt nguồn từ nguyên nhân nhỏ nhưng không được giải quyết cho thấu đáo, thường dẫn đến mâu thuẫn ngày một trầm trọng.

 

Bà Lý Thị Vân, 69 tuổi nằm phòng số 3 có nói: “Có nhiều điều ở Việt Nam ta coi như bình thường thì qua đây lại trở thành bất thường. Về bữa ăn chẳng hạn, nếu tôi dùng muỗng riêng của mình để múc canh trong tô chung thì anh rể nhà tôi sẽ trợn mắt nhìn tôi, rồi từ lúc đó đến cuối bữa ăn, nó không hề đụng vào tô canh ấy nữa!”

 

Vì vậy, đối với người Việt cao tuổi sống ở Nam Cali, thì ba chữ “viện dưỡng lão” từ lâu vẫn là cơn ác mộng. Nó đánh thốc vào tâm can, tạo cơn kinh hoàng đến độ có cụ quỳ sụp xuống ngay trước cổng vào viện dưỡng lão, chắp tay vái con ruột mình: “Ba lạy con, con cho ba về nhà, ba trải ghế bố nằm trong gara cũng được chứ đừng bắt ba vô đây”. Ông Trần Ngọc Lâm chẳng hạn, khi tôi hỏi vợ con ông ra sao, có thường xuyên đến thăm ông không, thì ông bực bội nói: “Làm ơn đừng nhắc đến vợ con tôi nữa. Vợ, con gì mà để tôi sống như thế này đấy!”

 

Ông Lê Cẩm, phòng số 9 kể: “Năm tôi 68 tuổi, việc đi đứng bắt đầu yếu, mắt bắt đầu mờ, tay thì run nên con trai tôi nó bảo: mai con đưa ba vô “nursing home”. Tưởng nó giỡn chơi, ai dè sáng hôm sau nó đưa tôi vô đây thiệt. Tôi có bảo nó là sao con nỡ lòng nào làm vậy đối với ba?, thì nó nói tỉnh bơ: Ba già rồi thì vô viện dưỡng lão sống, chứ làm vậy là làm sao?” Tôi hỏi: bác có biết mai là Tết Nguyên Đán rồi không? Ông nói: tôi cũng biết chuyện đó, vì ba bữa trước đây con tôi vô thăm, có đem cho tôi mấy hộp kẹo, mứt. Thoáng nhìn gò má nhăn nheo của ông, tôi bỗng thấy lăn dài những giọt nước mắt: “Tết nhất là ngày sum họp gia đình. Vậy mà…”.

 

Công bằng mà nói, nỗi kinh hoàng viện dưỡng lão của các cụ cao tuổi người Việt – ngoài việc bị tách khỏi môi trường gia đình quen thuộc ra, thì: hầu hết các cụ đều nghĩ là mình bị bỏ rơi, hoặc con cháu hắt hủi nên mới thế. Còn một nguyên nhân nữa, đó là: khi tuổi tác đã  cao, sức khỏe tàn dần, các cụ cũng xuống tinh-thần nhiều thì bệnh tật ắt phải có. Chuyện các cụ không thể tự chăm sóc cho mình là lẽ thường tình nên khi bệnh tật của các cụ đã đến thời kỳ nghiêm trọng, thì chỉ còn cách duy nhất là đưa các cụ vào viện dưỡng lão thôi.

 

Kevin Nguyen, có người mẹ 72 tuổi, hiện đang sống ở viện dưỡng lão, có nói: “Tôi và vợ tôi đều phải đi làm, hai đứa con thì đi học, nên không lấy đâu ra thời giờ chăm sóc mẹ.  Còn, mướn y tá hay điều dưỡng đến nhà ăn ở, nấu nướng và chăm sóc cho mẹ thì tôi không đủ tiền”.

 

Một trong những nguyên nhân khác dẫn đến việc các cụ buộc phải vào viện dưỡng lão, đó là: khi về già, các cụ thường bị lú lẫn hoặc ít ra là mất trí nhớ, thậm chí không nhận ra vợ ra chồng hoặc con cái, nên mới bảo mấy người đừng tới gần. Kevin Nguyen nói tiếp: “Mẹ tôi nay đã đổi tính, nên khó chịu. Lúc nào cụ cũng gắt gỏng, nghi ngờ hết mọi người”.

 

Chị Lam Hương, cũng có mẹ sống ở viện dưỡng lão, đã tâm sự: “Cụ nhà tôi lúc nào cũng nghi ngờ là trong nhà có người ăn cắp tiền của cụ mặc dù tiền đó là của con, cháu cho cụ. Ngày nào cũng vậy, cụ cú lôi túi tiền ra đếm đi đếm lại đến vài chục lần rồi cụ chửi um xùm, bỏ ăn, thậm chí có hôm còn cuốn quần áo đòi ra khỏi nhà, vì như cụ nói: “Nhà này toàn quân ăn trọm không à!”. Riết rồi không ai chịu nổi cụ nữa đành đưa cụ vào viện”.

 

Lại có lý-do dẫn tới nỗi sợ phải nhập viện dưỡng lão, đó là: một số nhân viên ở nhiều viện do thiếu khả năng chuyên môn, thiếu nhiệt tâm và không được huấn luyện kỹ, cộng với tình hình bị cắt giảm ngân-sách tài trợ từ chính phủ do thâm thủng ngân quỹ dẫn đến tình trạng nhiều người bị ngược đãi hoặc bỏ mặc về phương diện sinh lý lẫn tâm lý ngày càng tăng, chưa kể tình-trạng có cụ bị bắt phải nín lặng, không được phép than-van, kêu cứu khi lên cơn đau dạ dày hay thấp khớp.

 

Cụ Trần Văn Sinh, trước khi sang Mỹ là y tá ở Bệnh viện Bình Dân ở thành-phố có nói: “Một thời gian dài, tôi bị trầm cảm vì tuyệt vọng và tôi buộc phải uống thuốc an thần nhiều nên rất thản nhiên. Khi tôi báo cáo sự việc này lên ban quản trị, thì con tôi lúc vào thăm đã bị ngăn chặn với lý do là làm trở ngại công việc điều hành bệnh viện”.

 

Theo tôi tìm hiểu, Viện Dưỡng lão ở Westminster có khoảng 90% người già trên 65 tuổi. Số còn lại từ 80 trở lên. Cũng xin nói thêm là ở Orange County, các viện dưỡng lão đều do người Mỹ làm chủ và điều hành. Các viện này thường được chia làm hai khu chính là: nội trú và bán trú với nhiều khu phụ. Khu nội trú dành cho các cụ ở thường trực. Khu bán trú dành cho bệnh nhân sau khi điều trị ở bệnh viện, nhưng không đủ tiền nằm lại vì viện-phí rất cao, nên phải chuyển vào viện dưỡng lão để nằm chờ bình phục rồi mới về nhà.

 

Thường, thì nhân viên quản lý sắp xếp các khu ốc theo sắc tộc, như khu dành cho người da trắng, khu người Việt, khu Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan v.v… Nếu thiếu phòng, các cụ phải nằm bất cứ khu nào còn trống. Chả thế mà cụ Lê Thị Lài 67 tuổi, sau hơn 2 tháng ở chung với khu người Mỹ da đen rồi được chuyển sang khu người Việt, cụ cứ ngơ ngác như người bị tâm thần, hỏi gì cũng ú ớ. Nếu con số người Việt ở đây đông, các cụ sẽ được nhà bếp nấu riêng món ăn Việt, nhưng chỉ là bữa trưa và tối thôi, còn bữa sáng vẫn phải ăn món ăn của Mỹ.

 

Hầu hết trường hợp các cụ được đưa vào đây là do bị bệnh cần có sự trợ giúp thường xuyên của nhân viên y tế cũng như thiết bị mà chỉ các viện dưỡng lão mới có khả năng cung cấp. Các cụ đây thường mắc những bệnh mất năng lực thể chất lẫn tinh thần các cụ yếu đến độ không thể di chuyển, tự tắm rửa hay tự ăn uống được.

 

Trao đổi với tôi, phóng viên Vince Gonzales thuộc Đài CBS, người từng thực-hiện nhiều phóng sự về chuyện ngược đãi người già ở viện dưỡng lão cho biết: “Nhiều người trong số các cụ cần có được chăm sóc suốt đời, vì các cụ không thể hồi phục để tự chăm sóc cho mình, chứ đừng nói là cho về nhà. Tương lai các cụ một là sẽ chết trong viện dưỡng lão, hai là chuyển vào bệnh viện nếu bệnh nặng rồi sẽ chết ở đó, và thứ ba là bệnh viện trả về để chờ chết…”.

 

Đến bữa, các cụ còn khỏe thì chậm chạp lê chân bước hoặc tự mình lăn xe xuống nhà ăn. Yếu quá thì nằm trong phòng chờ điều dưỡng mang thức ăn đến. Cô Jenny Pham, một điều-dưỡng-viên người Việt ở đây, cho biết: “Viện có rất ít điều dưỡng người Việt nên tụi em thường bị điều đi phục vụ trong toàn khu, chứ không chỉ khu người Việt mà thôi”. Theo luật tiểu bang California, mỗi viện dưỡng lão phải có đủ nhân viên săn sóc cho bệnh nhân, nhất là dịch vụ khẩn cấp, mỗi bệnh nhân phải được y tá săn sóc ít nhất 3 hoặc 2 tiếng một ngày.

 

Jenny Pham tiếp: “Khi có kiểm tra, viện dưỡng lão thuê thêm điều dưỡng cho đông, đồng thời sắp xếp cứ 1 điều-dưỡng-viên chăm sóc 10 người theo luật định để che mắt đoàn. Khi kiểm tra đi rồi, mỗi đứa tụi em lại phải chăm sóc đến 19, 20 người…”. Tôi hỏi: “Mấy bữa nay, gia đình có vào thăm các cụ nhiều không?” Jenny Pham đáp: “Cũng ít thôi, chủ yếu là các hội đoàn thiện nguyện, hoặc các tổ chức tôn giáo. Em biết có 26 cụ từ ngày vào đây, có cụ ở đã 5 năm trời không có ai đến thăm lần nào”.

 

Tôi hỏi: “Đêm giao thừa, đây có tổ chức gì không?” Jenny Pham lắc đầu: “Dạ không, mấy cụ còn khỏe hoặc minh mẫn thì tụ họp nhau lại uống trà, kể chuyện xưa. Còn, thì hầu hết đều nằm trên giường. Nhiều cụ khi em hỏi ngày mai là mùng 1 tết rồi, có biết không? Có cụ nhe răng cười, chẳng biết gì hết”.

 

Tôi ra về và khi bước ngang phòng số 7, thấy có đôi vợ chồng trẻ cùng hai đứa con đứng cạnh một cụ già ngồi xe lăn, người phụ nữ nói: “Chào ông nội rồi đi về con”. Ông cụ miệng méo xệch: “Bay cho nó ở chơi thêm chút nữa, vừa mới vô mà”. Anh con trai đỡ lời: “Con đưa các cháu vào chúc Tết ba, bây giờ dẫn  tụi nó đi coi xiếc cá heo. Vé mua rồi, sắp tới giờ diễn rồi…”.

 

Dù có biết là: ở bầu thì tròn ở ống thì dài, sống đâu theo đó, nhưng sao tôi vẫn thấy nao nao vì bên quê nhà giờ này, gia đình nào cũng đang quây quần, họp nhau vui vẻ…” (Siêu Tầm sưu tầm)

 

Niềm vui nỗi nhớ xảy đến vào ngày “đầu năm”, kể cũng nhiều. Nhưng, nỗi-niềm nhung nhớ của mỗi người và mỗi vị, lại vẫn khác. Khác hoàn cảnh, tuỳ vào văn-minh/văn-hoá mỗi sắc tộc của nhiều người.

Ngày đầu xuân mỗi năm, người người đều có niềm vui riêng. Niềm vui ấy, có khi đượm ướt nỗi niềm nhung nhớ những ngày xa xưa, lại cũng là nỗi nhớ “ngày đầu xuân”, thôi. Bần đạo đây, nay bất chợt tìm ra được nhạc-bản cũng hơi buồn của tác-giả Diệu Hương, xứng-hợp với đề tài dự tính bàn-luận, thế nên xin trích-dẫn đôi ba ý-tứ nơi ca-từ của tác-giả, rất như sau:

“Làm sao em biết tình này chất chứa thật đầy, Giấu kín từ trong con tim buồn bã? Tình vô biên quá, để rồi khó nói bằng lời, Cho môi khô héo dần thôi. Một đời tôi vẫn nhớ tới em, trong những phút xa xôi. Em đến tình cờ với tôi, như thoáng một giấc mơ. Vì biển ơi! con sóng xóa tan con thuyền trôi giữa giòng. Tôi biết tình ta mãi là một góc đời cách xa.”

(Diệu Hương – bđd)

Nghe hát câu “Nhớ tới Em trong những phút xa xôi”, bần đạo lại nhớ đến “Người Em” nọ trong Hội thánh từng viết bức thư đầy tình-tiết gửi lên Mẹ Bề Trên Cabrini có ý/lời như sau:

“Mẹ Cabrini thân mến,

 

Tôi viết cho Mẹ bức thư này kèm một ý-tưởng về bộ phim tập nhiều kỳ có tiêu-đề là “Saint and the City” lồng trong truyện kể về đời của Mẹ.

 

Dĩ nhiên, chốn thị-thành được kể ở trong phim, chắc phải là thành-phố New York, nơi Mẹ từng đặt chân đến tá-túc, sau khi rời nước Ý năm 1889. Nhưng, bộ phim dài nhiều tập kể ở đây, lại nói đủ mọi thứ chuyện chứ không như cuốn phim có tựa đề hơi hơi giống là phim: “Sex and the City”, nói rất ít.

 

Phim truyện đây, không thấy nói đến các cô đi giày cao gót cứ “ì xèo”, mà chỉ lác đác trình chiếu một vài cao ốc rải rác thôi. Tuy nhiên, phim truyện đây, lại có đủ của ăn/thức uống, áo quần, tức những nhu-yếu-phẩm cần cho cuộc sống, mà Mẹ đem giúp đám di-dân vừa rời châu Âu chốn tả tơi tuyệt vọng, đi loạng-choạng trong khung-cảnh một châu Mỹ khá chộn-rộn. 

 

Tôi thầm đoán là Mẹ cũng cần đến “Netflix” để giải khuây ở trên đó chốn quê trời lồng lộng. Thế nên, xin cho phép tôi được kể cho Mẹ nghe một trong các chủ-đề được đề-cập ở phim “Sex and the City” khi mọi người cứ đi tìm ông Chủ Bự, một đối-tác trọn-hảo trong phim truyện. Còn, phim của Mẹ, thì việc kiếm tìm ông Chủ Bự, là một tìm kiếm rất sâu-sắc khiến Mẹ bị đánh động nhiều, đó là độ dài nối kết với việc kiếm tìm tương-quan đích-thực với Thiên-Chúa. Mẹ dư biết, là: Thiên-Chúa có bao giờ Ngài chịu đi mua sắm ở Đại-lộ số 5 đâu. Ngài cũng không ăn vận diêm dúa, đầy những lụa-là để gây ấn-tượng cho bất cứ một ai.

 

Thế nhưng, ông Chủ Bự đây, lại không biết đến hãi sợ, nếu ông buộc phải có quyết-tâm nào đó. Không như hàng triệu người khác, tâm can Mẹ đây không bị đánh động từ các truyện thần kỳ kể về thành-tựu của nước Mỹ, coi đó như truyện kể về những người từng đạt mọi thành-tựu. Thần dân của Mẹ, vẫn chiến-đấu không ngừng nghỉ bằng mọi cách, từ: ngôn-ngữ, nghề-nghiệp, tiền bạc, cho đến nỗi nhớ nhà, sự hỗn độn/căng-thẳng về gia-cảnh, và cả đến nỗi sầu mất mát, những cố-gắng nghèo-nàn để có được một nền y-tế, giáo-dục cũng khả-quan. Mẹ là nguồn hứng-khởi cho phần đông chúng tôi, những người được mời gọi hãy đáp trả mức-độ hỗn-độn ngoại-thường ở thế-giới tân-kỳ này.

 

Cao Uỷ Tỵ Nạn cho chúng tôi biết, là: hơn 60 triệu người trên thế-giới, nay bị bứng gốc; hơn 20 triệu người buộc phải rời bỏ nước ra đi làm kẻ tỵ nạn, xin tầm trú. Mỗi ngày, có đến 34 ngàn người phải xa quê chỉ vì nơi họ ở, đang có xung-đột/bức-bách đủ mọi cách. Con số những người như thế, vẫn dao-động hết mọi người. Vâng. Mẹ thấy đó, từng đợt và từng đợt, rất nhiều người cứ phải di-dời ra khỏi nơi mình ở, như vận-chuyển của Thánh Thần Chúa, đấy.

 

Thật khó có thể thăm-dò đo-đạc hiện-tượng dao-động này. Nhưng, đây lại vẫn là lời mời gọi gửi đến hết mọi người, để ta ôm chặt sự sống mà không biết đến hãi sợ. Mẹ là lữ-khách đi khắp nơi về khắp chốn mà không biết mệt, hiểu theo nhiều nghĩa. Khi Mẹ đặt chân đến vùng trời New York vào độ tuổi 38 cùng với 6 nữ-tu khác, Mẹ chỉ có một ít thứ gọi là “của riêng”. Lúc ấy, Mẹ cũng chẳng biết mọi người có vui lòng đón tiếp Mẹ hay không nữa. Cộng-đoàn Dòng bé nhỏ của Mẹ đã di-dời về khu nhà ổ chuột và phải xin xỏ đây đó mới đủ nuôi sống bấy nhiêu chị. Tự trong xương tuỷ, Mẹ biết thế nào là tình-trạng không được nghênh-đón đành phải phục-vụ những người có cùng một trải-nghiệm như mình. Tôi nắm chắc rằng, những năm tháng ngày giờ trở về sau, Mẹ thấy vui hơn khi biết được rằng tên tuổi của Mẹ nay gắn liền với Trạm trú-ẩn, tỵ nạn ngay trong thành-phố Melbourne của Úc.

 

Tôi tự biết mình không nên đề-cập những chuyện như: tầm-cỡ cao thấp/lớn nhỏ như bao giờ. Thế nhưng, khi ấy Mẹ thuộc những người nhỏ thó, thấp bé không ai quan-tâm. Tôi bị mê-hoặc bởi truyện kể về những người hăng say/kiên-quyết nhưng cứ lầm lẫn về tầm vóc, kích-thước của mỗi người. Thánh nữ Têrêxa thành Calcutta chẳng hạn, bà cũng chỉ cao không đầy thước rưỡi thế mà bà vẫn làm được nhiều việc cả thế. Mẹ đây, lại cũng thấp bé như bà và có thể thấp hơn nữa. Mẹ là người con áp út trong số 11 anh chị em trong gia đình đông-đúc, trong đó chỉ có 4 người đạt đến tuổi trưởng-thành.

 

Như thế nghĩa là, Mẹ được dưỡng-nuôi trong một gia-đình có khả-năng đối-đầu với mọi mất mát, thua thiệt. Ngay đến sức khoẻ, Mẹ cũng bị coi là người mỏng-mảnh, dễ bể. Bất cứ ai gặp Mẹ, đều nghi-ngờ rằng với sức khoẻ tồi-tệ như thế, sao Mẹ lại có thể kéo dài, tồn tại được.

 

Nước Mỹ, nay có vai-trò đáng kể trong việc vượt lằn ranh của chính họ. Và nay, họ vừa  trải qua cuộc vận-động tranh cử vào cuối năm 2016 rồi, khiến đôi lúc, tôi cũng mong sao có người như Mẹ đây, và một số công-dân rất ít được tấn-phong thành bậc hiển-thánh, đứng trên bệ cao để chỉ đường đi nước bước cho mọi người; và cũng cởi mở đủ, để không cần gì đến ảnh hình này khác mà chỉ cần lương-thiện và tình thương, thôi. Tôi vẫn tin vào lời thán-phục ghi bên cạnh Nữ Thần Tự Do, một tượng đài luôn ghi rõ lời mời chào nổi tiếng những bảo rằng: “Hãy cho tôi đám đông nghèo đói, mệt mỏi và chộn rộn của bạn đi!”

 

Điều trớ trêu, là Mẹ đã ra đi về cõi vĩnh hằng chỉ ít ngày trước lễ Giáng Sinh năm 1917, khi Mẹ trở bệnh sau ngày chuẩn bị gói quà đem cho trẻ nghèo. Giáng sinh mời gọi Mẹ và tôi, ta suy tư nhiều hơn nữa về lời của Thân Mẫu Đức Giêsu khi Cụ bảo: “Lòng từ-bi của Ngài ở tuổi này tuổi khác, đạt đến những người biết kính sợ Ngài”. Thông điệp đây, còn tốt và đẹp hơn ánh đèn mầu nhấp-nháy ở Quảng Trường Thời-Đại bên New York nhiều. Hẳn, ta cũng nên dựng lên kênh truyền-hình để chiếu phim tập hay như thế.

 

Michael McGirr

(X. A Letter to Mother Cabrini, Australiancatholics magazine số Christmas 2016 tr.27)

Thông-điệp trên, nay ta cũng nên phổ-biến cho chán vạn người đang sầu/buồn vào đêm Giáng Sinh, ở đây đó. Ấy đấy, lại là ý-tưởng mà bần đạo có được sau lễ Giáng Sinh 2016 và đầu năm Đinh Dậu 2017, rất Âm-Lịch.

Sầu/buồn ngày lễ hội, lại vẫn là tâm-trạng của nhiều người thời cách-mạng vi-tính, rất tinh-vi. Sầu/buồn đây, có thể cũng giống như mối sầu thành thị, rất không tên. Sầu và buồn, là nỗi-niềm từ đâu tới, thật không rõ. Chỉ rõ có một điều, là: buồn và sầu đến độ chẳng biết vì sao và làm thế nào cho vợi bớt nỗi niềm không tên ấy.

Sầu/buồn nhiều nỗi, còn là tâm-trạng người nhà Đạo hôm nay, khi thấy Giáo-Hội vẫn có những thứ được nhiều linh mục nói đến ở các bài giảng và bài viết, như giòng chảy, ở bên dưới:

“Tình thương-yêu và lòng từ-bi nhân-hậu của Chúa đã tạo nhiều ảnh-hưởng hơn những chuyện tầm-phào/yếu kém trong cuộc sống của ta. Thành ra, ta có thể vui hưởng tính hài-hước trong cặp đôi bất-xứng giữa sự thật lớn lao ta tin tưởng và cung-cách bé nhỏ qua đó ta xử-thế. Hoặc, các vụ tranh-cãi giữa những người không hợp lòng hợp ý với nhau và cả những chuyện người đi nhà thờ không chịu nổi cảnh cứ phải ngồi lâu nghe giảng giải đến khá dài ở nhà thờ.

 

Vốn biết Chúa thương yêu mỗi người chúng ta cả vào khi ta phạm lỗi tày trời rất nhiều lần, Ngài vẫn tha thứ cho ta trước khi ta xưng thú hoặc yêu cầu Ngài quên đi; mặc dù thế, ta vẫn có thể vui vẻ chịu đựng tính-khí rất thất-thường đối với nhau; cả những khi kể cho nhau nghe những câu chuyện về các giám mục và linh-mục hoặc thấy thoải mái khi nghe người ngoài đạo kể chuyện tiếu lâm về người đi Đạo…” (Xem thêm Lm Andrew Hamilton sj, The Church’s Divine Comedy, AustralianCatholics Magazine số Christmas 2016 tr. 17-20)

Nói về các bậc nữ-lưu chân-phương/lành thánh giống như trên, là nói rất nhiều về giáo hội ở nhiều nơi. Nói như trên, chỉ có thể nói về người đi Đạo và/hoặc cho người đồng Đạo, rất quen với giáo-lý, thần học, đúng ra là nói về các nữ-phụ an lành/hạnh đạo, là phải nói như người ngoài đời sống ở đời, rất “ngoài luồng”. Tức, đượm chút mắm muối tiêu đường, thật rất tếu.

Nói về nam-nhân/nữ-phụ tốt lành/hạnh đạo, đôi lúc ta cũng nên nói như kể truyện đời nhiều chất dí-dỏm, dị-hợm để cười đùa cho quên nỗi sầu buồn, một đời người. Nói thế, là nói như truyện kể thêm thắt ở bên dưới cho đỡ buồn đời:

“Hai vợ chồng nọ kéo nhau vào siêu-thị mua sắm. Đến gian-hàng nọ có đặt chiếc cân điện-tử nói thành tiếng, khi từng lượt người bước lên cân. Thấy chiếc cân quá hiện-đại rất tầm cỡ, mọi người đều thích thú thay nhau, bước lên bàn cân.

 

Một cô khách bước lên bàn cân, thì chiếc cân điện-tử bèn nói: “Cô cân nặng 62 pounds, so với chiều cao như thế này mà cân được 92 pounds thì cô là người hoàn-toàn, có sức hấp-dẫn nhiều đàn ông.

 

Một bà mệnh-phụ vừa bước lên cân, đã nghe chiếc cân điện-tử phán những câu xanh rờn, rằng: “Bà cân nặng 102 pounds, hơi bị quá có một chút thôi, chỉ cần đi bộ 2, 3 cây số mỗi ngày là bà sẽ có vóc dáng đáng yêu ngay thôi, chẳng cần phải kiêng cữ gì hết”. Bà vợ nghe thế, lấy tay đẩy ông chồng  rồi nói: “Anh lên cân thử đi!”

 

Khi đức ông chồng bước lên, thì chiếc cân liền lên tiếng: “Ông bạn chỉ có 93 pounds thôi thì quá gầy ốm. Vợ ông cần phải tẩm bổ/bồi dưỡng cho ông, và cấm ngặt không được làm ăn chăn gối gì hết trong 3 tháng…”

 

Nghe thế, bà vợ nhà lại bước lên cân lần nữa, thì lần này chiếc cân chẳng nói năng gì, đợi mãi cũng chẳng thấy tăm hơi gì hết, bà bực quá bước xuống. Tức thì, chiếc cân mới phát ra hiệu lệnh thật rõ ràng: “Xin bà con vui lòng bước lên từng người một, đừng chen lấn kẻo hư cân…” (Truyện kể đăng trên mạng)       

 

Kể những chuyện vui cười xảy ra trong cộng đồng nhà Đạo hay ngoài luồng, không phải và không chỉ kể về những giòng chảy thần học khô cứng đến chán nản, không ai còn muốn nghe nữa. Thế nhưng, nói về chuyện đạo hạnh nhà Đạo, tưởng cũng nên kể những lời hay/ý đẹp của đấng thánh hiền vẫn nhủ khuyên dân con Đạo mình như sau:

Thưa anh chị em,

anh chị em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui

khi gặp thử thách trăm chiều.

Vì như anh chị em biết:

đức tin có vượt qua thử thách mới sinh lòng kiên nhẫn.

Chớ gì anh chị em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra

bằng những việc hoàn hảo, để anh chị em nên hoàn hảo,

không có gì đáng trách, không thiếu sót điều gì.”

(Giacôbê 1: 2-3)

 

Nói gì thì nói, tưởng cũng nên nói cho mọi người bằng giòng nhạc có giai-điệu bay bổng hoặc trầm lắng như sau:

“Tình vô biên quá để rồi khó nói bằng lời Cho môi khô héo dần thôi Một đời tôi vẫn nhớ tới em trong những phút xa xôi Em đến tình cờ với tôi như thoáng một giấc mơ Vì biển ơi con sóng xóa tan con thuyền trôi giữa dòng Tôi biết tình ta mãi là một góc đời cách xa. “

(Diệu Hương – bđd)

Hôm nay đây, người viết nhạc mang tên Diệu Hương đã nói thay cho nhiều vị, nhiều người. Chí ít, là những người, hoặc những vị đang có vấn-đề gì đó trong cuộc sống khó phôi pha. Thế nhưng, như câu hát ở trên đã đề-cập, cũng nên đề nghị với bạn và với tôi, những người đang đọc các giòng chữ ở đây, một lời nhắn thêm nữa của tác-giả, mà rằng:

“Một đời tôi vẫn nhớ đến em trong những tháng năm dài Ôm mối tình sầu với em tôi biết sẽ tàn phai Một hồn tôi ray rứt bước chân đi trên cát buồn Biển vắng đêm nay xót xa một mối tình không may.

(Diệu Hương – Một Đời Vẫn Nhớ)

Vẫn nhớ một đời người, không là “xót xa một mối tình không may”, hoặc tệ hơn nữa khi em “Ôm mối tình sầu với em tôi biết sẽ tàn phai.” Nhưng vẫn là: “Em đến tình cờ với tôi như thoáng một giấc mơ. Giấc mơ có một đời phúc hạnh, sướng vui mãi không ngờ.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ chúc và mừng mọi người

Những ngày vui hơn pháo Tết

Suốt một đời.

ĐỨC TIN

trầm thiên Thu

(Chúa Nhật VIII TN, năm A)

Tin là CHẤP NHẬN hoặc TỪ CHỐI. Nhưng đức tin vẫn cần có lý trí đúng đắn để không mê tín dị đoan hoặc tin điều mù quáng.

Đức tin là một trong ba nhân đức đối thần, rất quan trọng trong đời sống con người khi còn trên đường lữ hành trần gian. Thánh Augustinô nói: “Đức tin là TIN những gì bạn không thấy, và phần thưởng của đức tin là THẤY những điều bạn tin”. Thánh Gioan Maria Vianney xác định: “Đức tin chính là lúc con người TRÒ CHUYỆN với Thiên Chúa, giống như người nói chuyện với người vậy”. Thánh Tôma Aquinô phân tích: “Công hiệu của năng lực cầu nguyện đến từ đức ái, nhưng năng lực để cầu nguyện có hiệu quả vẫn là do ĐỨC TIN và ĐỨC CẬY của mình”.

Về đời thường, đức tin (niềm tin, lòng tin, sự tin tưởng, kể cả sự tự tin) cũng vẫn thực sự quan trọng đối với con người. Johann Wolfgang von Goethe (1749–1832, văn sĩ, khoa học gia, kịch tác gia và họa sĩ người Đức) nói: “Có 9 điều cần thiết để sống thỏa nguyện: Đủ sức khỏe để biến công việc thành lạc thú, đủ tiền bạc để đáp ứng nhu cầu bản thân, đủ sức mạnh để chống lại và vượt qua nghịch cảnh, đủ trang nhã để thú nhận tội lỗi và bỏ chúng lại sau lưng, đủ kiên nhẫn để lao lực cho tới khi đạt được điều gì đó tốt đẹp, đủ khoan dung để thấy được điểm tốt ở hàng xóm, đủ yêu thương để khiến mình có ích cho mọi người, ĐỦ ĐỨC TIN ĐỂ BIẾN LỜI RĂN CỦA CHÚA TRỜI THÀNH HIỆN THỰC, đủ hy vọng để vứt bỏ nỗi sợ hãi bất an hướng về tương lai”.

Ngày xưa, dân Sion đã từng mất niềm tin nên đã nói: “Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng tôi đã quên tôi rồi!” (Is 49:14). Chắc hẳn chúng ta cũng đã hơn một lần bị nao núng trước đau khổ, đã từng lung lay đức tin hoặc thất vọng, thậm chí là tuyệt vọng và mất niềm tin. Tại sao? Bởi vì chúng ta nghi ngờ lòng tín thành của Thiên Chúa. Hôm nay, ngay bây giờ, hãy ghi lòng tạc dạ lời hứa của Ngài: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49:15). Thiên Chúa là ĐẤNG TRUNG TÍN (Tv 146:6b; Dt 10:23; 2 Tx 3:3), không bao giờ sai lời.

Có tự tin mới dám thể hiện chính mình, có vững tin mới dám hành động. Khi đã có niềm tin kiên định, người ta sẽ hoàn toàn thanh thản, vô tư và vui sống, dù cuộc sống nghèo nàn và rất ư bình thường. Có Chúa là có tất cả. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh xác định: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn. Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến, duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi, là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng” (Tv 62:2-3). Đức tin sẽ cứu sống chúng ta (x. Gl 3:11), và chính Chúa Giêsu đã xác định với cha của đứa bé mắc bệnh động kinh, do quỷ câm điếc ám: “Mọi sự đều có thể đối với người tin” (Mc 9:23).

Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Đnl 6:4; Nkm 9:6; Es 4:17; Xh 20:3; Đnl 5:7; Đnl 32:39; Gđt 8:20; Kn 12:13; Is 43:10; Is 45:6; Is 46:9; Đn 3:28-29; Đn 14:41; Hs 13:4), Ngài toàn năng và giàu lòng thương xót, không có thần linh nào khác ngoài Ngài. Tác giả Thánh Vịnh minh định: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn. Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến, duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi, là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng. Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu độ và vinh quang, Người là núi đá vững vàng, ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân” (Tv 62:6-8). Và không thể lặng im, tác giả Thánh Vịnh mời gọi mọi người cùng tín thác vào Thiên Chúa: “Hỡi dân ta, hãy tin tưởng vào Người luôn mãi, trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm can: Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu” (Tv 62:9).

Có thể nhận biết Thiên Chúa và tin vào Ngài, đó là diễm phúc lớn. Nhưng đức tin không thể dừng lại ở mức độ đó, mà phải minh chứng đức tin: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Đây là mức độ khó khăn hơn. Liên quan đức tin, Thánh Phaolô cho biết: “Chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức Kitô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mà người ta chỉ đòi hỏi ở người quản lý một điều, là phải chứng tỏ lòng trung thành. Đối với tôi, dù có bị anh em hay toà đời xét xử, tôi cũng chẳng coi là gì. Mà tôi, tôi cũng chẳng tự xét xử lấy mình” (1 Cr 4:1-3). Đó là cách sống đức tin sống động, tích cực chứ không thụ động.

Người ta nghĩ gì về mình, đối xử với mình thế nào, gièm pha mình điều gì,… tất cả đều không thành vấn đề. Nói như vậy không có nghĩa là bất cần, mà là đừng quá lệ thuộc vào người khác. Vấn đề quan trọng là lương tâm mình vẫn trong sạch, không lệch lạc, như Thánh Phaolô đã chia sẻ: “Quả thật, tôi không thấy lương tâm áy náy điều gì, nhưng đâu phải vì thế mà tôi đã được kể là người công chính. Đấng xét xử tôi chính là Chúa” (1 Cr 4:4).

Triết gia Voltaire (1694-1778, Pháp quốc) nhận định: “Dư luận là con thú dữ tợn; bạn phải xích nó lại hoặc bỏ chạy thoát khỏi nó”. Quả thật không dễ đứng vững trước dư luận, vì thế chúng ta cần đủ sức mạnh và can đảm để có thể đạp trên dư luận mà sống. Thánh Phaolô nói: “Xin anh em đừng vội xét xử điều gì trước kỳ hạn, trước ngày Chúa đến. Chính Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm con người. Bấy giờ, mỗi người sẽ được Thiên Chúa khen thưởng đích đáng” (1 Cr 4:5).

Trình thuật Mt 6:24-34 đề cập hai vấn đề liên quan đức tin: [1] Không Được Làm Tôi Hai Chủ, và [2] Tin Tưởng Vào Chúa Quan Phòng. Tin một chủ chứ không tin hai chủ. Tình trạng làm tôi hai chủ thực chất không là sự tin tưởng mà chỉ là nịnh bợ chủ này và tâng bốc chủ kia mà thôi.

Chúa Giêsu nói thẳng thắn: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em KHÔNG THỂ vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được”.

Tiền cần thiết cho cuộc sống, nhưng chúng ta phải làm chủ nó, chứ đừng để nó làm chủ mình. Tiền chỉ là tờ giấy vô tri vô giác, được quy ước bằng những con số, thế nhưng nó lại có ma lực khó có thể cưỡng lại. Chỉ vì tiền mà mọi mối quan hệ có thể gặp nguy hiểm – kể cả cốt nhục thâm tình, và cũng chỉ vì tiền mà người ta dám làm mọi chuyện tày trời. Thánh Phaolô đã xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10).

Thật lạ, con người luôn tự mâu thuẫn với chính mình, tìm cách bán thời gian để kiếm tiền, rồi lại dùng tiền để giết thời gian. Người giàu cũng khóc, có tiền thì sung sướng, thế mà sao lại khóc? O.W. Holmes nói: “Tiền bạc là phương tiện của người thông minh nhưng là mục đích của kẻ ngu dốt. Bạn đừng đặt sự tín nhiệm nơi tiền bạc mà hãy đặt tiền bạc nơi tín nhiệm”.

Tiền bạc và vật chất có liên quan cuộc sống hằng ngày, tác giả sách Châm Ngôn cầu nguyện: “Con chỉ xin hai điều, Ngài đừng nỡ chối từ trước khi con nhắm mắt: Xin đẩy xa con lời dối trá và chuyện lọc lừa. Xin ĐỪNG để con túng nghèo, cũng ĐỪNG cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài mà nói: ‘Đức Chúa là ai vậy?’, hay nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con” (Cn 30:7-9). Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta chân thành cầu nguyện: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Kinh Lạy Cha, Mt 6:9-13 – bản kinh cũ là “Xin Cha cho chúng con rày hằng ngày dùng đủ”).

Cuộc sống không thể không lo, nhưng Chúa Giêsu bảo chúng ta “đừng quá lo” mà hãy tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, Đấng quan phòng và tiền định: “Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?”.

Lo thì vẫn lo, sợ thì vẫn sợ, phàm nhân là thế, cuộc đời là thế, “bể khổ trần gian” mà! Tuy nhiên, xét cho cùng thì chúng ta có lo sợ cũng chẳng thay đổi được gì, tốt nhất là tín thác vào Thiên Chúa, đó là cách sống khôn ngoan. Thật vậy, Chúa Giêsu đã đặt vấn đề để chúng ta hiểu rõ lý do và tại sao cần phải củng cố đức tin: “Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!”.

Chúa Giêsu vừa giải thích vừa kết luận: “Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy”. Nói vấn đề này với người không có niềm tin thì chắc chắn chúng ta sẽ bị chế nhạo, bị cho là ngu xuẩn. Phải thực sự có niềm tin thì mới khả dĩ chấp nhận “nguyên tắc sống” mà Chúa Giêsu đề cập.

Có tiền mua tiên cũng được. Có tiền thì dễ tính toán, dễ ăn nói, dễ hành động, nhưng TIỀN KHÔNG LÀ TẤT CẢ. Tiền mua được chiếc giường nhưng không mua được giấc ngủ, tiền mua được thuốc men nhưng không mua được sức khỏe, tiền mua được chức tước nhưng không mua được uy tín, tiền mua được lương thực nhưng không mua được sự sống, tiền mua được bức tượng nhưng không mua được đức tin,…

Đức tin có liên quan chặt chẽ với đời sống của con người, nhưng đức tin đối lập với tiền bạc và vật chất. Thánh GH Gioan Phaolô II nói: “Đức tin chưa biến thành văn hóa là đức tin chưa được đón nhận trọn vẹn, chưa thực sự suy tư là chưa sống chân thành”. Chắc hẳn ai cũng biết rằng lo cũng chẳng được gì, lo bạc râu, sầu bạc tóc, nhưng tự thoát ra khỏi “vùng lo âu” đó không hề đơn giản. Với kinh nghiệm tín thác, tác giả Thánh Vịnh chia sẻ: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37:5). Sách Huấn Ca cũng căn dặn: “Hãy tin vào Người thì Người sẽ nâng đỡ con” (Hc 2:6).

Không thể diệt khổ, càng tránh né đau khổ thì càng đau khổ, muốn thoát đau khổ chỉ có cách duy nhất là đi xuyên qua đau khổ. Sách Huấn Ca lý giải về sự đau khổ: “Vì vàng phải được tôi luyện trong lửa, còn những người sáng giá thì phải được thử trong lò ô nhục” (Hc 2:5). Nghĩa là phải duy trì đức tin, nhờ vững tin mà người ta mới đủ sức chịu mọi đau khổ – tức là đi xuyên qua đau khổ.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con thoát ra khỏi vòng lẩn quẩn của cuộc đời, xin gỡ “vòng kim cô” lo lắng trần tục để con có thể ngày đêm hướng về Ngài, “xin giúp lòng tin yếu kém của con” (Mc 9:24) để con đủ sức chiến thắng bản thân và vượt qua mọi gian khó. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

BẢO HIỂM VĨNH VIỄN

Trần Bình An  

Chia sẻ Tin Mừng CN 8 TN NA 2017 (Mt 6, 24-34)

Ngày 9-6-2004, bà Võ Thị Khuyên có ký hợp đồng bảo hiểm mang tên “An sinh thịnh vượng 15 năm” với Công ty AIA. Theo đó, trong vòng 15 năm, bà Khuyên có trách nhiệm đóng cho Công ty AIA số tiền 100 triệu đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, khách hàng chẳng may tử vong sẽ được Công ty AIA thanh toán quyền lợi bảo hiểm tử vong là 100 triệu đồng.

Hợp đồng bảo hiểm sẽ có hiệu lực sau khi bên mua hoàn tất hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và đóng đủ phí bảo hiểm lần đầu tiên. Mẹ ông Nghĩa đã chọn hình thức đóng phí bảo hiểm là 6 tháng/lần, số tiền mỗi lần đóng là 5.361.000 đồng. Bà Khuyên đóng phí bảo hiểm từ ngày 9-6-2004 đến ngày 30-9-2009 thì đột ngột qua đời. Tính đến thời điểm bà Khuyên chết, bà đã đóng phí bảo hiểm cho Công ty AIA với số tiền hơn 50 triệu đồng.

Ông Nghĩa cho biết: “Sau khi mẹ tôi chết, phía Công ty AIA có đến chia buồn và yêu cầu gia đình đưa bản hợp đồng bảo hiểm bản gốc, giấy báo tử, hộ khẩu để công ty thanh toán số tiền là 106 triệu đồng. Nhưng sau đó, Công ty AIA có văn bản cho biết chỉ trả cho gia đình tôi số tiền là 28.881.000 đồng. Công ty cũng không trả lại hồ sơ bảo hiểm bản gốc mà chỉ trả lại bản photocopy cho gia đình tôi”.

Không đồng ý nhận số tiền trên, ông Nghĩa gửi đơn khiếu nại và được Công ty AIA trả lời là do bà Khuyên đã bị bệnh trước khi ký kết hợp đồng bảo hiểm và đã không khai báo bệnh trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, nên không thanh toán tiền đúng như thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm đã ký.

Ông Nghĩa bức xúc: “Trước khi ký kết hợp đồng, đại diện Công ty AIA có đưa mẹ tôi đi khám bệnh tổng quát. Bốn ngày sau lần khám đầu tiên, công ty tiếp tục đưa mẹ tôi đi khám một lần nữa. Cả hai lần khám, các bác sĩ đều tiến hành đo tim mạch, huyết áp, thử máu, phân, đường nước tiểu, điện tâm đồ. Kết quả là mẹ tôi không hề mắc bệnh. Tất cả quá trình từ việc chỉ định bác sĩ khám, nơi khám bệnh và chi phí khám bệnh đều do Công ty AIA chỉ định và thanh toán chi phí.

Ông Nguyễn Xuân Việt Bình, cố vấn pháp lý Công ty AIA, cho biết: “Theo tìm hiểu của chúng tôi, trước khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, bà Khuyên đã có 3 lần điều trị bệnh tim và sau khi đã ký kết hợp đồng bảo hiểm, bà Khuyên cũng đã nhiều lần nhập viện nên chúng tôi từ chối thanh toán quyền lợi bảo hiểm theo hợp đồng đã ký. Mặt khác, bà Khuyên đã không khai là đã bị mắc bệnh vào hồ sơ yêu cầu bảo hiểm trước khi ký kết hợp đồng.” Ông Bình nói: “Chúng tôi căn cứ trên hồ sơ khai của bà Khuyên là không mắc bệnh nên không cho khách hàng khám chuyên sâu và không phát hiện được bệnh. Nếu khách hàng khai trong hồ sơ có bệnh thì chúng tôi sẽ khám kỹ và chắc chắn sẽ phát hiện bệnh.” Hiện ông Nghĩa đã khởi kiện Công ty AIA ra TAND TP Mỹ Tho, Tiền Giang. (Trường Hoàng, Rắc rối việc chi trả bảo hiểm, Người Lao Động)

Công ty bảo hiểm đã vịn vào lý do khai báo tình trạng bệnh tật thiếu thành thật, để từ chối bồi thường thoả đáng. Tuy nhiên, đây không hẳn là lỗi hoàn toàn của khách hàng, mà còn là do đại lý không hướng dẫn tường tận, cùng các điều khoản trong hợp đồng thường cố tình in size chữ rất nhỏ, khiến khách hàng bỏ qua, dễ dàng sập bẫy, nên khiếu nại chỉ là con kiến kiện củ khoai. Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay, Đức Giêsu quảng bá cho mọi người chương trình bảo hiểm vĩnh cửu, từ đời này sang đời sau.

Chọn Chúa hay thế gian?

 

“Không ai có thể làm tôi hai chủ…” Đức Giêsu lập lại thêm, nhấn mạnh hơn nữa: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của được.” Tiền bạc, của cải, danh lợi vốn mãnh liệt, có thể tiêu biểu cho quyền lực thế gian phù phiếm, dối gian, đen tối, chết chóc.

Người không thể chấp nhận bất cứ ai đóng vai gián điệp nhị trùng, phục vụ cho cả hai thế lực đối nghịch. “Vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ,” vốn khôn khéo vụ lợi theo thế gian. Do vậy, Người buộc con người phải dứt khoát chọn lựa, theo Chúa hay theo thế gian. Dĩ nhiên chọn Chúa thì chịu nhiều thử thách, gian nan, đau khổ. Chọn thế gian thì vinh thân phì gia, sung sướng kiếp phù du.

Phó thác vào Chúa

 

Không cần ký kết hợp đồng, cũng chẳng buộc công chứng, Đức Giêsu luôn tôn trọng sự tự do của con người, chẳng bao giờ o ép bất cứ ai phải theo Người, mà luôn mở rộng vòng tay, mời gọi tất cả những ai vất vả, khốn đốn, đói khát, cơ cực đến nương tựa. “Hãy đến với Ta, hỡi những ai vất vả cực nhọc.”(Mt 11, 28 – 30).

Người ngạc nhiên thấy thiên hạ quá sức bận tâm, lo lắng, ráo riết tìm kiếm của ăn, áo mặc, mà quên mất tĩnh dưỡng thân xác và sống cao đẹp, hữu ích, nhân ái hơn. Thiên hạ chẳng lo chăm sóc tâm hồn an bình, linh hồn vững mạnh. Cũng chẳng tha thiết đời sau vĩnh cửu, vì thiên hạ đã từ chối Chúa hiện diện trong đời.

Chim trời, hoa đồng chẳng gieo cấy, chẳng thu hoạch, cũng chẳng dệt sợi, may thêu, thế mà Chúa vẫn nuôi chim no nê, vẫn cho hoa xiêm y rực rỡ, “huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin.”

 

Lo lắng cách mấy cũng chẳng có thể thay đổi được vóc dáng, thân phận, hay hoàn cảnh. Cớ sao không vui vẻ cảm tạ, chấp nhận quà tặng Chúa ban cho nhưng không? Khi lâm vào nguy nan, khốn khó, đau khổ, sao không tín thác, chạy đến Chúa an ủi, chở che, cứu thoát, giúp đỡ, vì Người phán: “Ơn Ta đủ cho con.” (2Cr 12, 9)

Tìm Nước Chúa

Mê muội với ma lực của cải, tiền bạc, phủ phê thân xác hưởng thụ, phó mặc lòng tham chi phối, chiều chuộng ham muốn nhục dục, vun đắp tánh kiêu ngạo ngông cuồng, làm sao nghĩ đến linh hồn, nhớ đến đời sau, ý thức rằng, Chúa vẫn hiện hữu, tồn tại trên cõi trần?  “Vì tham tiền là cội rễ mọi sự dữ. Cầu thỏa lòng tham, thì có kẻ đã lạc xa đức tin và bị bao nỗi đớn đau xâu xé.” (1Tm 6, 9-10)

Tóm lại, “Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó, Người sẽ ban thêm cho các con.” Vậy muốn được sống đời, chỉ có độc đạo duy nhất là kiên quyết, trung thành đi theo Chúa, phó thác cho Chúa hết mọi sự lo toan ở đời.

 

“Cứ nghe theo Chúa dạy, rồi Chúa lo liệu. Mình tưởng mình lo liệu khôn hơn Chúa sao? Cứ chân thành phó thác, thì Chúa sẽ lo liệu tốt đẹp còn hơn mình tưởng.” (ĐHY Fx. Nguyễn Văn Thuận, Bài giảng 10 Điều Răn)

Lạy Chúa Giêsu, xin luôn thức tỉnh chúng con, đừng để chúng con sa chước cám dỗ thế gian, đắm đuối mê say của cải, hư danh, lạc thú, để chúng con luôn biết chọn Chúa làm lẽ sống cuộc đời.

Kính xin Mẹ yêu thương, cầu bầu, che chở, nhắc nhủ chúng con đừng quá lo lắng sự đời, mà quên đi đời sau vĩnh cửu. Xin Mẹ luôn chỉ đường, dẫn chúng con về với Chúa nhân từ. Amen.

TIỀN KHÔNG THỂ CỨU ĐỘ ĐƯỢC CON NGƯỜI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT VIII – A

(Mt 6, 24-34)

Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của được” (Mt 6,25) là lời khẳng định của Chúa Giêsu sau khi Người tuyên bố : “Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia” (Mt 6,25) khiến chúng ta phải suy nghĩ.

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cập đến một thứ rất quen thuộc và được sử dụng hàng ngày trong cuộc sống đó là “tiền”. Chẳng ai muốn nói tới tiền, vì đó là một chủ đề cấm kỵ. Tiền vừa là thứ được yêu thích, và cũng là thứ gây mặc cảm.

Tiền chỉ là một mảnh giấy, một vật làm bằng kim loại vô tri vô giác, nhưng nó đã đuợc chọn làm tương giao đổi chác, chi phối chúng ta quá nhiều. Tiền giữ một vị trí quan trọng, khiến nhiều bậc thang có giá trị bị đảo lộn, nhiều người có cùng quan điểm “có tiền là có tất cả”. Tiền

Là tiên là phật

Là sức bật của tuổi trẻ

Là sức khỏe của tuổi già

Là cái đà của danh vọng

Là cái lọng che thân

Là cái cân công lý

Hoặc: Đồng bạc xé toạc công lý !

 

Tiền là anh bạn xấu

Ở đời, người ta vẫn nói với nhau rằng, mỗi người thương có ba bạn. Người bạn thứ nhất và thứ hai thì rất thân, còn người bạn thứ ba thì không thân lắm.

Người bạn thân thứ nhất trong đời ta là tiền bạc. Đồng tiền gắn liền khúc ruột, thân hơn cả vợ con, đi đâu vợ con thì không, nhưng tiền là mang theo. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta đến người khác ngay lập tức không có au revoir, good-bye gì hết.

Người bạn thân thứ hai trong đời ta là cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè. Khi ta chết, họ khóc lóc, nhưng cũng chỉ đưa ta đến cửa huyệt rồi về. Có ông chồng trước khi chết hỏi vợ:

-Tôi chết, bà làm gì cho tôi?

-Tôi sẽ chôn ông trong chiếc hòm thật đắt tiền.

-Tôi biết gì đâu ?

-Tôi sẽ khóc thương ông thảm thiết, nước mắt thấm vào xác ông.

-Tôi biết gì đâu?

-Cái chết đáng sợ thế à ?

-Nó chỉ đáng sợ với người không biết nó, không nghĩ tới nó và không chuẩn bị cho nó!

-Người bạn thứ ba, mà trong đời sống ta thường ít ưa thích, là việc lành, đạo đức. Các việc đạo đức này sẽ theo ta đến tòa Chúa phán xét, biện hộ cho ta và làm cho ta được Chúa thưởng vào Thiên đàng.

Đành rằng, tiền bạc luôn là nhu cầu tối cần thiết của con người, là công cụ đắc lực, phục vụ con người cả vật chất lẫn tinh thần. Người có đạo cũng thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Nhưng nhân cách, phẩm giá và đạo đức con người bị đặt xuống dưới đồng tiền là điều không thể chấp nhận được.

Mặc dù có nhiều nguyên nhân gây ra tội lỗi, nhưng thánh Phaolô nhấn mạnh rằng : “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham thích tiền bạc” (1Tm 6,10). Tiền là chỗ dựa không vững chắc, là thước đo lường sai và với sự hấp dẫn của nó, con người có nguy cơ bị tiền chế ngự. Thần Tiền tạo ra ảo giác rằng khi có tiền, tôi có thể có được mọi thứ, mọi ước muốn sẽ được thoả mãn, và qua đó, tiền làm cho chúng ta thành nô lệ. Câu chuyện minh họa ba người bạn trên chứng tỏ tiền là anh bạn phản bội xấu xa.

 

Chọn Chúa và tin vào Chúa

Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phục thực sự. Ngài muốn chúng ta đi vào Giao Ước, chứ không phải là Bò vàng, Mammon, một giá trị biểu trưng sự an toàn tuyệt đối. Nếu không muốn trở thành nô lệ, cách thức duy nhất là chọn làm tôi Chúa và phục vụ Ngài. Chỉ có Thiên Chúa mới giải thoát được chúng ta.

Trong Mười Điều Răn, không có điều răn nào nói về tiền bạc. Tuy nhiên, chúng ta có thể lỗi phạm điều thứ nhất, nếu chúng ta hành động vì tiền. Đó là tội thờ ngẫu tượng. Vì tiền trở nên thần tượng để chúng ta tôn thờ. Ma quỷ luôn cám dỗ người ta về: sự giàu có, thỏa mãn; tự phụ, cảm thấy mình quan trọng ; và kiêu ngạo. Và cuối cùng, tiền tạo ra sự tôn thờ ngẫu tượng.

Chúa Giêsu dạy: “Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng : Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì lấy gì  mà mạc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều ấy” (Mt 6, 31-32). Và Người mời gọi chúng ta hãy đặt lên hàng đầu việc “tìm kiếm nước của Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó, Người sẽ ban them cho” (Mt 6, 33). Tin vào Chúa quan phòng không thế chỗ cho những nỗ lực chiến đấu để hướng đến một cuộc sống đúng với phẩm giá con người, nhưng giải phóng chúng ta khỏi những nỗi bận tâm về của cải và những nỗi sợ hãi trong tương lai. Sau cùng phải khẳng định :

 

Tiền có thể cứu độ được con người không ?

Giảng trong thánh lễ sáng thứ Sáu 20 tháng 9 năm 2013, Đức Phanxicô nhắc lại rằng : “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” bởi vì “một khi người ta dành tình yêu cho tiền và hướng về, thì tiền lôi kéo người ta xa rời Thiên Chúa”. Ngài kết luận : “Không ai có thể được cứu độ bằng tiền”. Vậy, phải chọn lựa, chúng ta không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền của được. Chúng ta không thể. Hoặc là Thiên Chúa hoặc là tiền của.

Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới mà đồng tiền thống trị và điều khiển mọi sự. Con người bị chi phối và nghiêng chiều về nó, sẵn lòng phàm hóa mọi sự, bỏ Chúa ra khỏi đời sống, chẳng tin tưởng vào Thiên Chúa nữa. Lời Chúa mời gọi chúng ta chọn Chúa, thờ phượng Chúa, và vững tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa tình yêu. Vì Thiên Chúa phán : “Cho dù người mẹ có quên, nhưng Ta sẽ không quên người đâu” (Is 49, 14- 15). Ðó là lời mời gọi tin tưởng vào tình yêu không bao giờ phôi phai của Thiên Chúa. Tiền chẳng bỏ rơi chúng ta và chẳng bao giờ cứu độ được chúng ta, nhưng Thiên Chúa thì luôn trung thành và Ngài sẽ cứu độ chúng ta.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con khỏi rơi vào cái bẫy của thần tượng bạc tiền và chọn Chúa, vì chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ chúng con. Amen.

BIẾT VUI VỚI PHẬN MÌNH

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Cuộc sống luôn mang đến cho ta những chọn lựa. Có chọn lựa nên cũng có thể đúng hoặc sai. Nó có thể mang lại cho ta hạnh phúc hay nuối tiếc. Vui hay buồn. Tiếp tục hay từ bỏ. . .

Dẫu biết chọn lựa sẽ có rủi ro nhưng cuộc sống đòi buộc ta phải can đảm chọn lựa. Phải nắm cái này và bỏ cái kia. Vì dòng chảy cuộc đời luôn tiến tới khiến chúng ta không ngừng phải chọn lựa bỏ cái cũ để nắm bắt cái mới. Bỏ cái không phù hợp để nắm bắt cái phù hợp với hiện tại. Giống như chân phải bước tới. Dù chân trái hay chân phải bước trước. Điều đặc biêt là không thể cùng một lúc bước hai chân. Phải chọn một để bước tới. Nếu cứ phân vân, ta sẽ dặm chân tại chỗ.  . .

Lời Chúa hôm nay mới gọi chúng ta phải chọn lựa giữa Nước Trời và trần thế. Nước Trời thì vĩnh cửu. Trần thế thì mau qua. Chọn Nước trời thì phải can đảm từ bỏ những bon chen của danh lợi thú. Chọn Nước Trời thì phải biết sống vui với phận mình để phó thách cho Thiên Chúa. Chọn Nước Trời là đứng về bên Chúa để bỏ đường tội lỗi. Chúa cũng hứa rằng: theo Chúa sẽ không bao giờ thiệt thòi vì hãy xem chim trời, hoa cỏ chúng không gieo không gặt thế mà chúng vẫn no đủ, sang trọng rực rỡ muôn màu. Chính Thiên Chúa đã làm nên mọi sự. Chính Ngài sẽ quan phòng mọi sự nếu chúng ta biết bước đi theo đường lối của Ngài.

Nói như thế không phải là chúng ta không làm vẫn có cái ăn. Chúa mời gọi chúng ta phải ra công làm việc nhưng làm trong sự quang minh chính đại, làm trong đường lối huấn thị của Chúa thì sẽ được Chúa chúc phúc cho cả đời này và đời sau. Chúa mời gọi đặt ưu tiên cho công việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài. Nếu phải chọn lựa thì cần phải dứt khoát thoát khỏi những tham lam vô độ về: của cải, danh vọng, thú vui trần thế mau qua mà chọn lựa giá trị Nước Trời vĩnh cửu.

Cuộc sống sẽ bình an nếu chúng ta biết vui với phận mình. Nghĩa là đón nhận cuộc sống hiện tại trong niềm tín thác vào Chúa. Không bon chen. Không tranh dành. Không cầu danh lợi. Biết khôn ngoan chọn lựa điều hằng sống mà can đảm bỏ qua những  phù phiếm trần gian.

Nhưng xem ra con người đâu mấy ai bình yên. Nhân gian vẫn cầu danh lợi, vẫn bon chen giành giựt nhau đã biến thế gian thành chiến trường tranh chấp. Con người không đủ niềm tín thác vào Chúa nên vẫn tự giải quyết mọi sự theo ý mình và có lợi cho mình, bất chấp lỗi công bình bác ái với tha nhân. Thế nên, ở đâu đó vẫn còn tiếng than trách vì Trời đã không thương nên làm ăn thua lỗ, vì trời đã bỏ rơi nên nghèo vẫn hoàn nghèo. Ở đâu đó vẫn còn tiếng khóc của oan khiên, trái ngang vì bị người lường gạt, phản bội . . .

Xin Chúa ban cho chúng ta đủ niềm tin để tín thác vào Chúa. Cho dẫu cuộc đời vẫn còn đó khó khăn, vẫn còn đó thử thách nhưng cuối chân trời là ánh bình minh mà Chúa sẽ luôn mang lại niềm vui hạnh phúc cho chúng ta. Xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta để luôn kiên vững giữa cuộc đời đầy tranh chấp, bon chen, nhờ đó mà giữ lòng luôn thanh thoát bình an. Amen

PHÓ THÁC

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN. A

(Mt. 6, 24-34)

 

PHÓ THÁC

Làm tôi hai chủ là sao?

Tinh thần vật chất, thế nào biện phân.

Làm tôi Thiên Chúa chí nhân,

Phụng thờ kính mến, thiện chân cõi lòng.

Đừng theo tiền của ước mong,

Phù hoa chớp nhoáng, xuôi dòng thời gian.

Con đừng lo lắng miên man,

Chăm phần thân xác, dối gian tinh thần.

Của ăn áo mặc rất cần,

Chăm lo mạng sống, thế trần bước theo.

Chim trời không gặt không gieo,

An bài Tạo Hóa, ca reo sớm chiều.

Dưỡng nuôi muôn vật thật nhiều,

Của ăn thức uống, trăm điều phủ phê.

Ngắm xem hoa huệ bên lề,

Không canh không cởi, mọi bề đẹp xinh.

Các con cao trọng sinh linh,

Kiếm tìm Nước Chúa, an bình thế nhân.

Mỗi ngày ân đức tự thân,

Sống vui hạnh phúc, tinh thần lạc an.

 

Chúa Giêsu nhắc nhở rằng các con không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của được. Chúng ta đang sống với con người ở giữa thế gian. Nhu cầu của đời sống vật chất vây quanh và kéo dìu chúng ta vào những đam mê trần tục. Chúng ta lo kiếm sống, lo làm giầu và lo tích trữ cho ngày mai. Của cải vật chất cứ dần đưa chúng ta vào cạm bẫy tham lam. Có một muốn hai, có hai muốn ba và cứ thế chúng ta phải chạy đua không ngừng. Vì mải mê cúi xuống đi tìm của cải vật chất, chúng ta quên ngước nhìn lên trời cao.

Các thầy ẩn tu, theo truyền thống, họ là những người sống thanh bần. Không giữ của cải vật chất làm của riêng. Hoàn toàn sống phó thác nơi sự quan phòng của Chúa. Truyện kể: Các thầy tu mỗi người chỉ có một chiếc chén ăn xin bằng vàng được nhà vua trao tặng. Vào một đêm kia, một thầy để ý thấy một tên ăn trộm rình mò sau bụi cây. Thầy nói với tên ăn trộm rằng làm ơn lấy chiếc chén này đi. Như thế anh sẽ không quấy rầy tôi nữa. Tôi sẽ đi ngủ. Rồi thầy trao chén vàng cho anh ta. Sáng hôm sau, tên ăn trộm trở lại nói rằng tôi phải thức trắng đêm. Thầy hỏi tại sao thế? Tên ăn trộm trả lời: Tôi tự hỏi tại sao thầy có thể cho tôi chén vàng một cách đơn giản và tự do như thế. Bây giờ xin thầy dạy tôi làm sao có được sự giầu sang như thầy. Sự giầu sang giúp thầy có thể từ bỏ của cải như thế.

Chúng ta thấy dưới con mắt của thầy, chén vàng cũng chỉ là chén để đi ăn xin, không hơn không kém. Giá trị của cải vật chất không có ý nghĩa đối với thầy. Chúa Giêsu khuyên dạy rằng mạng sống cao qúy hơn của ăn và áo mặc. So sánh chim trời, chúng không cần lao động, Chúa Trời vẫn nuôi chúng. Hoa huệ ngoài đồng không canh cửi nhưng vẫn mang vẻ đẹp tuyệt vời.

Chúng ta qúa lo lắng cho ngày mai, để rồi quên ngày hôm nay. Qúa lo lắng cho của ăn, áo mặc mà quên đi của ăn nuôi dưỡng tinh thần. Chúng ta hãy quan sát mọi sự trong vũ trụ, tất cả đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta là con cái mang hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta chẳng phải lo chi qúa độ.  Tiên vàn, chúng ta hãy tìm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài. Mọi sự Ngài sẽ ban cho. Hãy biết phó thác và cậy trông vào sự quan phòng của Chúa. Có Chúa, chúng ta sẽ có tất cả.

THỨ HAI, TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN

(Mc 10, 17-27).

 

NHÂN LÀNH

Một người quỳ gối dâng lời,

Làm sao được sống đời đời Chúa ơi!

Một mình Thiên Chúa cao vời,

Nhân lành tuyệt đối, mọi người kính tin.

Con hằng thờ Chúa nguyện xin,

Chu toàn Thập Giới, con tin vào Ngài.

Ngoại tình, lường gạt lưới chài,

Giết người, trộm cắp, không sai điều nào.

Thảo cha kính mẹ thanh cao,

Trọn lành con muốn, điều nào cần hơn.

Chúa thương bạn trẻ van lơn,

Hãy về bán hết giang sơn ở đời.

Mang đi bố thí cho người,

Anh rầu nét mặt, không lời bỏ đi.

Người giầu giữ được thứ gì,

Thế gian của cải, mất đi phần hồn.

THỨ BA, TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN

(Mc 10, 28-31).

 

GẤP TRĂM

Phê-rô thưa Chúa điều nầy,

Từ bỏ mọi sự, theo Thầy được chi?

Gấp trăm phần thưởng khắc ghi.

Bỏ nhà bỏ cửa, sự gì đã trao.

Bỏ cha bỏ mẹ máu đào,

Bỏ đi đồng ruộng, vườn cao thổ điền.

Vì Thầy buông bỏ túi tiền,

Phúc âm tin tưởng, cửa thiên cao vời.

Hy sinh chịu khổ trong đời,

Gia tài phúc lộc, rạng ngời phúc thiêng.

Theo Thầy ngưỡng vọng cõi thiên,

Trần đời trút bỏ, linh thiêng tìm về.

Chúa ban phần thưởng tư bề,

Cùng đường kiên vững, lời thề tín trung.

Nước Trời nhắm hướng tới cùng,

Vinh quang vĩnh cửu, thiên cung sáng ngời.

 

THỨ TƯ LỄ TRO

(Mt 6, 1-6. 16-18).

 

HÌNH THỨC

Mùa chay sám hối trở về,

Nội tâm sâu thẳm, trọn thề ăn năn.

Chúa thương nhắc nhở khuyên răn,

Các con ghi nhớ, giới răn luật truyền.

Chuyên chăm thực hiện lời khuyên,

Đừng phô công đức, hữu duyên vô tình.

Khoe khoang thiên hạ hằng rình,

Khen lao công phúc, lộ hình chúc khen.

Thổi loa báo trước tòa sen,

Giả hình đạo đức, tâm hèn trí kiêu.

Các người bố thí bao nhiêu,

Thành tâm giữ kín, thiên triều khắc ghi.

Nguyện cầu bí ẩn, từ bi,

Ăn chay kín đáo, thực thi công bình.

Cha ngươi thấu suất nội tình,

Thưởng công bội hậu, thiên đình hứa ban.

THỨ NĂM SAU LỄ TRO

(Mt 9, 22-25).

 

ĐAU KHỔ

Đường lên thượng giới còn xa,

Bỏ mình theo Chúa, phôi pha cuộc đời.

Khổ đau bách hại mọi thời,

Khai trừ giết chết, gọi mời chứng nhân,

Các thầy Thượng Tế mị dân,

Cùng phe Luật Sĩ, dự phần tẩy chay.

Chúa rằng ai muốn theo Thầy,

Hãy cùng gánh vác, hằng ngày theo Ta.

Vai mang thập giá đường xa,

Kiên tâm chịu đựng, ơn Cha đầy tràn.

Cho dù cuộc sống gian nan,

Gian trần lời lãi, ai ban được gì.

Thà rằng mạng sống mất đi,

Vì danh Thiên Chúa, quang uy sống đời.

Tín trung vững bước vào đời,

Bước đi theo Chúa, Nước Trời ngay bên.

THỨ SÁU SAU LỄ TRO

(Mt 9, 14-15).

 

GIỮ CHAY

Ăn chay cầu nguyện liên miên,

Thực hành bác ái, nhân hiền thẳng ngay.

Bốn mươi ngày cả Mùa chay,

Chay lòng chay miệng, đắng cay xóa nhòa.

Những người Biệt Phái thổi loa,

Khoe khoang chay tịnh, mù lòa dối gian.

Gio-an môn đệ than van,

Sao không chay tịnh, hỏi han giữ mình.

Chúa rằng phù rể chí tình,

Tân lang hiện diện, bình sinh chúc mừng.

Đến khi vắng mặt xin ngừng,

Giữ chay tưởng nhớ, tôn xưng phép mầu.

Chúa thương chịu chết âu sầu,

Nguyện cầu suy niệm, cầu bầu xót thương.

Con Người là chỗ tựa nương,

Hy sinh đền tội, mở đường cứu dân.

 

THỨ BẢY SAU LỄ TRO

(Lc 5, 27-32

 

THEO THẦY

Một người quan thuế trong thành,

Đi ngang Chúa gọi, bỏ ngành theo Ta.

Lê-vi thu thuế thanh tra,

Đứng lên trút bỏ, ngay ca giữa dòng.

Tâm hồn thanh lặng tinh trong,

Ông bèn đứng dậy, tấm lòng anh minh.

Về nhà dọn cỗ linh đình,

Tiệc tùng thiết đãi, khai trình chúng nhân.

Mấy người thu thuế trong dân,

Cùng người tội lỗi, theo chân bước vào.

Các thầy Biệt Phái xôn xao,

Xì xầm lẩm bẩm, cớ sao ngồi cùng.

Vui cười ăn uống chia chung,

Với người thu thuế, trong vùng tội nhân.

Chúa rằng đau yếu mới cần,

Kiếm tìm thầy thuốc, canh tân cuộc đời.

Bronx, New York.

NỤ HÔN CỦA THIÊN CHÚA

Rev. Ron Rolheiser, OMI

NỤ HÔN CỦA THIÊN CHÚA LÊN LINH HỒN

Đâu là gốc rễ thực sự của sự cô đơn trong con người?  Một sai sót trong cấu thành của chúng ta?  Sự bất xứng và tội lỗi?  Hay, như câu nói trứ danh của thánh Âugutinô, “Ngài đã tạo thành chúng con, lạy Chúa, và lòng chúng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài.”

Dù rất giá trị, nhưng câu châm ngôn của thánh Âugutinô vẫn không đủ.  Chúng ta là những linh hồn vô hạn bên trong cuộc sống hữu hạn, và chỉ một điều này thôi là đã đủ để giải thích cơn nhức nhối triền miên không thỏa của chúng ta, ngoại trừ một điều là linh hồn chúng ta khi đi vào thế giới đã mang lấy sự bất diệt rồi, và điều này cho toàn bộ cơn nhức nhối của chúng ta một sắc thái đặc biệt.

Có nhiều cách để giải thích cho điều này: Ví dụ như, Bernard Lonergan, triết gia và thần học gia đáng trọng, đã cho rằng linh hồn con người không đến thế giới như thể một tabla rasa, một tờ giấy trắng, không tì vết để có thể viết gì lên đó cũng được.  Với ông, chúng ta được sinh ra với các nguyên tắc tiên quyết ghi tạc vào trong linh hồn không bao giờ phai.  Ý ông là gì?

Thần học và triết học kinh điển, xác định bốn sự mang tính siêu việt, có thể nói là chân tính của mọi sự có tồn tại, chúng là nhất, chân, thiện, và mỹ.  Mọi sự tồn tại đều có bốn phẩm chất này.  Tuy nhiên các phẩm chất này chỉ hoàn hảo nơi Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng toàn nhất, toàn chân, toàn thiện và toàn mỹ.  Nhưng theo Lonergan, Thiên Chúa đã ghi tạc 4 sự này, trong tình trạng hoàn hảo, và cốt lõi linh hồn con người.

Do đó, chúng ta đến trong thế giới, thì đã biết, dù còn mập mờ, về sự toàn nhất, toàn chân, toàn thiện và toàn mỹ, vì chúng ta đã có sẵn trong chúng ta, một dấu ấn không phai.  Như thế, chúng ta có thể phân biệt đúng sai, vì đã biết sự thật hoàn hảo và sự thiện hoàn hảo trong cốt lõi linh hồn mình, và cũng nhận biết theo bản năng về tình yêu và vẻ đẹp, bởi chúng ta đã biết chúng một cách hoàn thiện trong bản thân mình.  Trong đời này, chúng ta không học biết sự thật, mà là nhìn nhận sự thật, chúng ta không học yêu mà là nhận ra tình yêu, và chúng ta không học biết nhưng là nhận ra cái gì là tốt lành. Chúng ta nhận ra được vì đã có chúng trong cốt lõi linh hồn mình.

Một vài nhà thần nghiệm đã có một mô tả thế này: Linh hồn con người đến từ Thiên Chúa và trước khi đặt linh hồn vào trong cơ thể, điều cuối cùng Thiên Chúa làm là hôn linh hồn đó.  Rồi linh hồn đi qua đời sống, vẫn luôn nhớ về nụ hôn đó, một nụ hôn của tình yêu hoàn hảo, và linh hồn xác định mọi tình yêu và nụ hôn trong đời qua nụ hôn hoàn hảo ban sơ đó.

Các nhà khắc kỷ Hy Lạp cũng nói về một điều tương tự.  Họ dạy rằng linh hồn đã tồn tại sẵn trong Thiên Chúa, và trước khi đặt linh hồn và trong một cơ thể, Thiên Chúa xóa đi ký ức về hiện hữu của nó.  Nhưng linh hồn luôn hướng về Chúa một cách vô thức, bởi khi đến từ Thiên Chúa, linh hồn luôn nhớ về mái ấm đích thực của mình, và khắc khoải mong được về lại.

Người Hy Lạp cho rằng Thiên Chúa đặt linh hồn vào thân xác chỉ khi đứa bé đã thành hình trọn vẹn trong lòng mẹ.  Ngay sau khi đặt linh hồn vào thân xác, Thiên Chúa liền khóa chặt ký ức tiền hiện hữu của nó bằng cách khóa chặt môi đứa trẻ để nó không bao giờ nói về tiền hiện hữu của mình.  Đây là lý do vì sao chúng ta có một rãnh lõm dưới mũi, ngay trên môi.  Đây là nơi Chúa đặt ngón tay lên để khóa lại.  Đây là lý do vì sao bất kỳ lúc nào cố gắng để nhớ chuyện gì đó, chúng ta vô thức đặt ngón tay lên nơi này.  Chúng ta đang cố gắng phục hồi một ký ức ban sơ.

Có lẽ, tôi cần đưa thêm một ẩn dụ nữa.  Chúng ta thường nói về những sự “đúng rõ ràng” hay “sai rõ ràng.” (ringing true và ringing false).  Nhưng chỉ có chuông mới rung (ring).  Trong chúng ta có một chiếc chuông rung lên khi đúng và sai hay sao?  Về căn bản, thì có!  Chúng ta nuôi dưỡng một ký ức vô thức về một thời từng được biết một tình yêu, sự thiện và vẻ đẹp trọn hảo.  Do đó, mọi sự sẽ ngân lên đúng hay sai, dựa vào việc liệu chúng có theo tiêu chuẩn là tình yêu, sự thiện và vẻ đẹp hoàn hảo vốn đã có nơi cốt lõi linh hồn chúng ta hay không.

Và cốt lõi đó, trung tâm đó, nơi đó trong linh hồn chúng ta, nơi chúng ta được ghi dấu với các nguyên tắc tiên quyết và nơi chúng ta ghi nhớ nụ hôn của Thiên Chúa khi chúng ta được sinh ra, với nỗi khắc khoải không ngơi, trong đời này.  Như lời Henri Nouwen, thì chúng ta mang một ký ức mơ hồ về một thời từng được âu yếm trong đôi bàn tay trìu mến nhiều hơn bất kỳ bàn tay nào từng gặp trong đời.

Linh hồn chúng ta mơ hồ nhớ về một thời từng được biết tình yêu hoàn hảo và vẻ đẹp hoàn hảo.

Nhưng, trong đời này, chúng ta không bao giờ gặp được sự hoàn hảo đó, dù cho chúng ta cứ luôn mãi đau đáu một người hay một sự nào đó đáp ứng được chiều sâu thẳm này trong chúng ta.  Điều này tạo nên trong chúng ta một sự cô đơn tinh thần, một khao khát những gì mà chúng ta xác định là tri kỷ, một người có thể thực sự nhìn nhận, chia sẻ và tôn trọng những gì thâm sâu nhất trong chúng ta.

HÃY NGẮM CHIM TRỜI…

Lm Carôlô Hồ Bạc Xái

Chúa nhật 8 thường niên, năm A

“Hãy ngắm xem chim trời… Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng” (Mt 6,26.28)

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến

Trong Thánh lễ hôm nay, Lời Chúa sẽ cho chúng ta biết rằng Ngài rất yêu thương chúng ta, Ngài biết rõ chúng ta cần gì ngay trước khi chúng ta mở miệng xin Ngài, Ngài hằng chăm sóc chúng ta từng phút từng giây, và ngay cả khi chúng ta quên Ngài thì Ngài vẫn không quên chúng ta.

Vậy chúng ta hãy dâng Thánh lễ trong tâm tình tạ ơn, và hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta luôn sống phó thác trong sự chăm sóc của Ngài.

GỢI Ý SÁM HỐI

-Chúng ta quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống vật chất đến nỗi quên phó thác vào Chúa.

-Chúng ta bỏ nhiều thời giờ và công sức để tìm kiếm của cải vật chất, mà không ưu tiên tìm biết để thi hành Thánh ý Chúa.

-Chúng ta hay xét đoán và lên án người khác.

LỜI CHÚA

Bài đọc I (Is 49,14-15) :

Vì phải sống kiếp lưu đày bên Babylon, chịu biết bao khổ cực, cay đắng, dân Israel nản lòng, đức tin yếu đi. Họ than “Chúa bỏ rơi tôi, Chúa đã quên tôi rồi”.

Đoạn sách này là phần thứ hai của sách mang tên ngôn sứ Isaia, còn được gọi là “Sách an ủi”. Tác giả, một đồ đệ của Isaia, khẳng định với dân : Thiên Chúa không bao giờ bỏ quên họ, bởi vì họ là con của Ngài. “Nào người mẹ có thể quên con mình sao ? Cho dù có người mẹ nào quên con thì Ta, Ta sẽ không quên con đâu”.

Đáp ca (Tv 61) :

Tv này nối tiếp ý tưởng của Đệ nhị Isaia : Bởi vì Chúa không bao giờ quên chúng ta là con cái của Ngài, cho nên chúng ta hãy vững tin rằng lúc nào cũng có thể tìm được nơi Ngài sự nghỉ ngơi, ơn cứu độ và sự che chở : “Duy nơi Thiên Chúa mà thôi, linh hồn tôi mới nghỉ ngơi yên hàn”.

Tin Mừng (Mt 6,24-34) :

Khởi đầu đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu bảo chúng ta hãy chọn lựa một là phụng sự Thiên Chúa, hai là phụng sự tiền của, bởi vì “không ai có thể làm tôi hai chủ được”.

Phụng sự Thiên Chúa là ưu tiên tìm Nước Thiên Chúa – nghĩa là cố gắng sống theo Hiến chương Nước Trời – và tìm sự công chính của Ngài – nghĩa là tìm biết và thi hành thánh ý Chúa.

Ngài còn bảo đảm : tất cả mọi như cầu khác về cuộc sống vật chất, như của ăn, áo mặc, sức khoẻ v.v. Ngài sẽ lo hết cho chúng ta.

Bài đọc II (1 Cr 4,1-5) :

Tín hữu Côrintô có rất nhiều tính xấu. Chúng ta đã thấy một số tính xấu trong những đoạn thư được trích đọc trong các Chúa nhựt trước, như óc bè phái, tính hay tranh cãi, tính tự kiêu v.v. Hôm nay ta thấy thêm một tính xấu khác, đó là hay xét đoán.

Thánh Phaolô lưu ý họ một chân lý nền tảng : Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền xét đoán, bởi vì duy có Ngài là biết rõ mọi sự trong đầu và trong tim mỗi người. Còn chúng ta là người phàm không biết rõ thì đừng bao giờ xét đoán ai.

GỢI Ý GIẢNG

Có người mẹ nào quên con mình được không ?”

Tại Dublin có một người mẹ hết sức đau khổ vì bà có một đứa con trai hư đốn. Nó không chịu học hành mà cũng chẳng chịu làm ăn. Suốt ngày chỉ biết ăn uống nhậu nhẹt và kết bạn với những tên lưu manh. Tiền bạc và đồ đạc gì có giá trị của bà hể hở ra thì bị nó ăn cắp. Nhiều lần Bà hết khuyên dạy đến năn nỉ nó sửa mình, nhưng chẳng bao giờ nó nghe theo. Cuối cùng nó bị bắt giam trong tù. Nhiều người nghĩ rằng bây giờ bà có thể nhẹ gánh khỏi phải lo cho nó nữa. Nhưng không, tuần nào bà cũng đều đặn vào tù thăm nó với một túi xách đầy những thứ nó cần.

Một hôm khi Bà đang trên đường vào tù thăm con thì gặp Cha Xứ. Cha nói :

– Thằng con của Bà đã phá hỏng tất cả hạnh phúc của đời Bà. Thôi từ này về sau đừng thèm nghĩ tới nó nữa.

Nhưng Cha rất đỗi ngạc nhiên khi Bà đáp lại :

– Dù nó đã gây biết bao tội lỗi và dù con không hề thích những tội lỗi của nó, nhưng dù sao nó vẫn luôn là con của con, con không thể bỏ nó được.

Lời bà mẹ này nói cũng chính là lời Chúa nói qua miệng ngôn sứ Isaia trong bài đọc I hôm nay : “Có người mẹ nào quên con mình được chăng ? Và cho dù có người mẹ nào như thế, thì Ta, Ta sẽ chẳng bao giờ quên ngươi đâu”.

Quả thật không có tình yêu nào bao la và bền vững như tình mẹ,ï tình cha, và trên cả tình mẹ cha là tình yêu Thiên Chúa.

Chính vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta với một tình yêu bao là bền vững như thế cho nên trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu mới khuyên chúng ta hãy phó thác tất cả nơi tình yêu của Ngài : Đừng lo chi đến cái ăn, cái mặc, cũng đừng lo đến mạng sống và tuổi thọ. Hãy chỉ lo một điều duy nhất mà thôi là lo tím kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.

Hãy xem chim trời và cỏ hoa đồng nội

Những người lớn quá bận rộn nên không còn thời giờ làm một việc mà hồi nhỏ rất thường làm, đó là ngắm nhìn thiên nhiên. Hôm nay, chúng ta hãy tạm gác qua một bên mọi bận rộn của người lớn để tìm lại thú vui thời con nít.

Hãy ngắm chim trời : mặt trời mọc lên, chim thức giấc với những tiếng hót líu lo, bắt đầu một ngày cách rất lạc quan. Rồi chim mẹ đi kiếm ăn. Xem ra ngay cả việc kiếm ăn này dù cực khổ nhưng cũng rất lạc quan : chim bay đi bay lại trong bầu trời cao rộng, lượn lờ trên những khóm cây, vừa bay lượn vừa tíu tít ca hót. Tìm được một chút thức ăn, chim vui mừng mang về tổ cho con, chim còn vui mừng hơn nữa khi thấy đám con vui sướng với những miếng mồi nhỏ xíu mình mang về… Cứ thế cho đến khi mặt trời sắp gác bóng, chim tìm về tổ ấm, cả gia đình chim cùng nhau đi vào giấc ngủ thảnh thơi, không cần lo lắng gì cho ngày mai…

Hãy ngắm hoa cỏ ngoài đồng : chúng đẹp rực rỡ, “ngay cả Salomon trong tất cả vinh hoa của ông cũng không trang phục được bằng một trong những đóa hoa đó”. Có đóa màu vàng tươi sáng, có đóa màu hồng êm dịu, có đóa màu trắng khiết trinh, rồi màu tím, màu đỏ, màu xanh… Thật là muôn màu muôn sắc. Nhưng thử hỏi hoa làm gì để có những màu sắc tuyệt vời ấy ? Ta có hỏi hoa thì hoa cũng chẳng biết trả lời. Hoa chỉ nói : “Em chỉ biết sống trong thiên nhiên thôi, em hứng lấy sương trời, em tiếp nhận nhựa sống từ thân cây, em vui đùa trong ánh nắng. Em không biết tại sao từ một chiếc búp rồi tới ngày em hé nhụy, cánh em nở ra, sắc màu em tươi thắm”. Nếu hoa biết suy nghĩ thì hoa sẽ nói thêm : “Chúa làm đó !”

Chim và hoa chỉ biết làm theo những gì mà thiên nhiên hướng dẫn chúng làm. Ngoài ra, chúng chẳng lo lắng gì cả. Mọi kết quả tốt đẹp rực rỡ đều là thiên nhiên làm cho chúng. Mà “thiên nhiên” là gì ? Thưa là Tạo Hoá, là Thiên Chúa. “Tiên vàn các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Còn tất cả những điều khác Người sẽ ban thêm cho các con”.

Suy nghĩ về sự lo lắng

Theo kết quả thống kê, người Mỹ thường lo lắng về những điều sau đây :

Lo về tiền bạc : 45 %

Lo về người khác : 39 %

Lo về sức khoẻ bản thân : 32 %

Lo về học hành thi cử : 20 %

Lo mất công ăn việc làm : 15 %

Thực ra biết lo không phải là vô ích, vì nhờ biết lo xa nên người ta mới thoát khỏi những tình trạng bối rối (như chuyện ngụ ngôn Con Ve và Con Kiến của Lafontaine). Nhưng sự lo lắng thái quá rất có hại.

Chính vì thế, Đức Giêsu không bảo ta đừng lo gì hết. Ngài dạy chúng ta cách giảm bớt sự lo lắng : một mặt là tin tưởng và phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa là Cha, mặt khác là hãy tập trung lo điều chủ yếu quan trọng nhất mà thôi, tức là lo làm theo ý Chúa (ý nghĩa của kiểu nói “Tìm Nước Thiên Chúa và Sự công chính của Ngài”).

Thánh Augustinô chia xẻ cho chúng ta một cách sống hồn nhiên và vô tư như sau : “Phó thác quá khứ cho lòng Thương xót của Chúa, hiện tại cho Tình yêu của Ngài, và tương lai cho sự Quan phòng của Ngài”.

Làm tôi tiền của

“Làm tôi tiền của”, một câu nói quá nặng ! Chắc không ai chịu nhận rằng mình đang làm tôi mọi cho tiền của. Tuy nhiên, ta hãy bình tĩnh để làm hai bảng trắc nghiệm.

A/ Bảng trắc nghiệm thứ nhất :

Tôi vừa khai trương quán ăn. Mấy bữa trước khách đến lưa thưa. Hôm nay Chúa nhựt chắc chắn sẽ đông từ sáng tới chiều. Tiếc quá, tôi phải đến nhà thờ dự lễ. Không có tôi thì ai đón khách ? ai coi chừng tủ tiền ?

rủi có chuyện gì xảy đến thì ai có thể xử lý ? Tôi nên bỏ lễ không ? Con của thằng em tôi bệnh nặng phải đưa vào bệnh viện. Nó túng quá đến mượn tiền tôi. Mà tôi thì đang để dành tiền để sắm một chiếc Wave. Tôi sẽ từ chối nó ?

Khi trả tiền mua một món hàng, cô bán hàng thối lại cho tôi dư một số. Tôi biết cô này thường bán mắc lắm, tôi nghĩ bấy lâu này cô đã lời của tôi hơn số tiền này nhiều. Vậy tôi sẽ làm như không biết gì cả, coi như hôm nay mình hên vậy chăng ? Đặt mình vào 3 tình huống trên, nếu bạn đều trả lời “Phải” hay “Có” thì bạn đã làm tôi cho tiền của rồi, vì rõ ràng bạn đã coi tiền của trọng hơn Chúa, trọng hơn anh em ruột của mình, thậm chí còn trọng hơn danh dự và lương tâm của mình nữa.

B/ Bảng trắc nghiệm thứ hai :

Nhà tôi bị trộm, vợ tôi tiếc nên cứ than vắn thở dài mãi. Phần tôi thì nghĩ “Có tiếc thì cũng mất rồi. Thôi từ từ sẽ làm lại”. Đồng bào nhiều nơi đang bị lũ lụt. Nhiều tổ chức từ thiện đi quyên góp. Gia đình tôi thì không dư dả gì, nhưng cũng hy sinh góp một ít tiền, vì tôi nghĩ “Mình nhịn ăn nhịn xài một chút, để giúp cho những người đang thiếu thốn những nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống”.

Tôi đang thất nghiệp. Có người bạn chỉ tôi đi buôn lậu, vốn rất ít mà lời rất nhiều. Tôi thà nghèo chứ không thèm đến những đồng tiền bất chính.

Nếu tôi đồng ý với cách những giải quyết trên thì chứng tỏ tôi quả thực không bị nô lệ cho đồng tiền.

Đừng xét đoán

Một thực tế rất rõ ràng là người ta hay xét đoán nhau, chính chúng ta cũng hay xét đoán người khác : Anh đó sai, Cô đó làm vậy là xấu, mấy người ấy thật đáng trách… Thử nhớ lại những cuộc trò chuyện của chúng ta. Có bao nhiêu cuộc trò chuyện mà trong đó không có những lời xét đoán người khác ?

Giả như ai đó vì tín nhiệm chúng ta nên đem một vụ việc đến nhờ chúng ta xét đoán. Muốn xét đoán cho nghiêm túc, chúng ta phải làm gì ? Trước tiên là tìm hiểu vụ việc, không chỉ tìm hiểu một phía mà cả hai, có khi nhiều phía. Rồi tìm bằng chứng hay lý chứng. Rồi suy nghĩ thật kỹ. Sau cùng mới đưa ra kết luận.

Có khi nào chúng ta làm đúng và đủ những việc cần thiết đó không ? Ngay cả các quan tòa làm việc rất nghiêm túc mà cũng có khi đưa ra những xét đoán sai lầm.

Bởi vậy, Thánh Giacôbê hỏi : “Bạn là ai mà dám xét đoán người khác ?”

Còn thánh Phaolô trong bài Thánh thư hôm nay nhắc : “Anh em đừng đoán xét ; Đấng đoán xét chính là Thiên Chúa”.

Chuyện minh họa

Dân chúng ở một thành phố nọ có quá nhiều điều phải lo lắng. Vì thế họ họp nhau bàn cách giải quyết vấn đề này.

Một người đề nghị phải lập một công viên để người ta đến đó giải khuây. Người thứ hai đề nghị làm một sân chơi golf. Người thứ ba đề nghị xây một rạp xinê. Người thứ tư có một đề nghị độc đáo :

– Chúng ta hãy hùn tiền mướn một người gánh hết mọi nỗi lo của chúng ta.

– Nhưng người đó là ai ?

– Là anh thợ vá giày David đó.

– Mướn bao nhiêu ?

– Mỗi tuần 1000 bảng anh.

Tất cả mọi người đồng ý. Họ hỏi David người thợ vá giày :

– Anh có đồng ý với việc làm mới này không ?

David cười rạng rỡ :

– Tại sao không !

Tưởng là mọi việc đã thu xếp ổn thỏa. Nhưng bỗng một người đặt vấn đề :

– Chúng ta mướn David gánh hết mọi nỗi lo. Nhưng mỗi tuần hắn có 1000

bảng anh thì hắn còn gì phải lo nữa ? (Flor McCarthy)

LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

CT : Anh chị em thân mến

Thiên Chúa quan phòng muốn chúng ta ưu tiên tìm biết để thi hành thánh ý của Người, còn mọi sự khác hãy phó thác để Người lo cho chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ tình thương của Chúa và dâng lên Người những lời cầu xin tha thiết.

1- Sứ mạng của Hội Thánh là hướng dẫn cho mọi người biết thánh ý Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết làm theo những hướng dẫn của Hội Thánh.

2- Chúa trao cho những vị lãnh đạo các nước trách nhiệm lo cho dân mình được ấm no hạnh phúc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người cầm quyền / xin Chúa cho các vị biết hết lòng thương dân và lo cho dân.

3- Có nhiều người khổ sở vì thiếu thốn vật chất / nhưng lại có nhiều người khác khổ sở hơn / vì tuy dư thừa về vật chất nhưng lại túng thiếu về tinh thần / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người ấy / biết quan tâm đến những giá trị tinh thần và đạo đức.

4- Ngay cả nhiều người tuy là kitô hữu mà cũng chưa dám phó thác trọn vẹn vào Chúa quan phòng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn xứ đạo chúng ta / xác tín tình thương bao bọc của Chúa / để có thể an tâm ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.

CT : Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con. Cha đã hứa rằng dù có người mẹ nào quên con mình thì Cha cũng không bao giờ quên chúng con. Chúng con thành thật xin lỗi vì biết bao lần không tin tưởng phó thác vào tình thương của Cha. Từ nay chúng con sẽ cố gắng ưu tiên làm theo ý Cha và phó thác mọi sự khác trong tay Cha. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô là Chúa chúng con.

NÔ LỆ HAY TỰ DO

Thiên Phúc

CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN, NĂM A

NÔ LỆ HAY TỰ DO (Mt 6,24-34)

Hôm ấy, trời vừa rạng đông, ông hoàng nói với tên đầy tớ: “Xem chừng anh mơ ước giàu có lắm. Vậy từ giờ này cho tới lúc mặt trời lặn, anh có sức ngần nào thgi cứ chạy. Tất cả những ruộng vườn, ao cá anh chạy vòng quanh được, ta cho anh hết”.

Anh vui sướng quá ! Cha chết sống dậy cũng không bằng. Anh liền cắm đầu chạy, chạy vùn vụt như Hạng Vũ trên con ngựa Ô-Truy. Chín mười tiếng đồng hồ qua, chàng làm chủ được mấy cánh đồng bao la mù mịt. Chàng vừa dừng chân, thì một hồ cá mênh mông với mặt nước trong ngần huyền ảo phản chiếu ánh mặt trời đã xế chiều. Chàng lại chạy tiếp. Sau cùng, màn đêm buông rơi. Chàng thở hổn hển quay bước trở về, để làm bậc tỉ phú với “Ruộng vườn cò bay thẳng cánh, ao hồ mặc sức cá đua”.

Nhưng vừa bước chân vào ngưỡng cửa, chàng ngã lăn xuống bất tỉnh. Vợ con vội vàng thuốc thang săn sóc… Nhưng vô hiệu. Nhà tỉ phú đã trút linh hồn sau một ngày dài lao lực quá mức. Người ta đào cho chàng một chỗ nghỉ trong lòng đất, vừa dài, vừa rộng, nhưng không quá ba tấc đất!

***

Đó là kết cục của một con người ham mê tiền của, để nó sai khiến như một tên nô lệ, phải vắt cạn kiệt sức lực cho tới chết, mà không được mảy may hưởng dùng!

Đức Giêsu đã cảnh báo cho những con người tôn thờ tiền của ấy như sau: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được” (Mt 6, 24). Tiền của ở đây được viết hoa, tiếng Aram là Mammon, có nghĩa là Thần tiền. Nếu tiền được thần hóa như thế, thì sức mạnh thống trị của nó không thể coi thường. Nếu tiền và Thiên Chúa đã được Đức Giêsu đưa lên bàn cân để người ta chọn lựa, thì quyền lực của nó phải là vô song.

Sống là một chuỗi những chọn lựa. Chính những chọn lựa này sẽ làm cho người ta thành công hay thất bại, trở nên người tốt hay hóa ra kẻ xấu, được hạnh phúc hay phải khổ đau. Đã chọn lựa điều này thì phải từ bỏ điều kia. Từ bỏ bao giờ cũng nuối tiếc dằng co. Đức Giêsu muốn các môn đệ của Người phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất. Hoặc làm tôi Thiên Chúa hoặc làm tôi tiền của.

Tiền của có một sức mạnh vạn năng, nó giải quyết phần lớn các nhu cầu của con người, nên tiền của hấp dẫn lạ thường. Việt nam ta có câu: “Có tiền mua tiên cũng được”. Ngay cả việc đạo cũng phải có tiền mới xong: “Có thực mới vực được đạo”. Nhưng tại sao Đức Giêsu lại gay gắt với tiền của như thế? Thật ra, Người không lên án tiền của, Người chỉ cảnh báo những ai ham mê của cải mà thôi.

Tiền của là phương tiện hữu hiệu Chúa ban, để bảo tồn sự sống đời này, và để mua nước Thiên Đàng đời sau. Tự bản chất tiền của là tốt, nó là hồng ân của Thiên Chúa tặng ban cho con người.

Tiền của chỉ trở nên xấu khi ta quá tôn thờ nó, như một ông chủ sai khiến hành hạ đời ta, thậm chí lấy luôn mạng sống ta như anh đầy tớ trong câu chuyện trên đây.

Tiền của chỉ trở nên đáng ghét khi ta qúa tham lam thu tích nó mà quên đi bổn phận chia sẻ với anh em, như người giàu có xử tệ với Ladarô nghèo khó.

Tiền của chỉ trở nên án phạt khi ta quá ham mê nó mà từ bỏ Thiên Chúa, như Giuđa bán Thầy vì mê 30 đồng bạc.

Tiền của chỉ trở nên cạm bẫy khi ta quá bám víu vào nó mà không còn tin cậy nơi Thiên Chúa quan phòng, như người phú hộ ham hưởng khoái lạc không kịp ăn năn.

Vì thế Đức Giêsu thật có lý khi cấm chúng ta không được làm tôi tiền của. Người còn khuyên chúng ta đừng lo lắng về “của ăn, áo mặc”. Động từ “lo lắng” được lập đi lập lại 6 lần, chứng tỏ tính cấp bách phải từ bỏ mọi lo âu thái quá, vì cả cuộc sống chúng ta đều ở trước mặt Chúa Cha, Đấng biết rõ mọi thứ chúng ta cần.

Nói như thế, không phải là Người cổ vũ cho sự lười biếng ỷ lại, hay sự vô tâm thụ động, không làm gì để Chúa làm tất cả. Người khuyên chúng ta đừng lo lắng, chứ không cản chúng ta lo liệu. Lo lắng vì không tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Mọi lo lắng đều liên hệ đến tương lai, mà tương lai là điều chưa có thật. Trái lại, lo liệu là vẫn lo làm việc hôm nay, tiên liệu cho ngày mai, nhưng luôn tin cậy phó thác nơi Chúa.

Nếu Chúa đã nói: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngài mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6,34) thì chúng ta phải hiểu là: Quá khứ đã qua đi rồi, hãy quên nó đi; hiện tại đang trong tầm tay, phải chu toàn nó; tương là là của Chúa, hãy phó thác cho Người.

*** Lạy Chúa, Chúa đã dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người trước” (Mt 6,33), xin cho chúng con trong khi bôn ba cho cuộc sống này, vẫn dành ưu tiên cho việc làm sáng danh Chúa và luôn sống theo thánh ý Người. Amen.

By Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu.

TIỀN BẠC: ÔNG CHỦ HAY ĐẦY TỚ

Lm Đan Vinh

HIỆP SỐNG TIN MỪNG LM ĐAN VINH – HHTM

Chúa Nhật 8 THƯỜNG NIÊN A

Is 49,14-15; 1 Cr 4,1-5; Mt 6,24-34

TIỀN BẠC: ÔNG CHỦ HAY ĐẦY TỚ ?

  1. HỌC LỜI CHÚA
  2. TIN MỪNG: Mt 6,24-34

(24) “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được. (25) “Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? (26) Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? (27) Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? (28) Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; (29) thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. (30) Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! (31) Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? (32) Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. (33) Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. (34) Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai : ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.

  1. Ý CHÍNH:

Tin Mừng hôm nay tiếp tục Bài Giảng Trên Núi. Đức Giê-su dạy các tín hữu về thái độ phải có đối với tiền bạc vật chất: Họ không được coi đồng tiền là ông chủ mà phải bắt nó phục vụ mình như đầy tớ. Không nên quá lo tìm kiếm cái ăn cái mặc vì tin vào tình thương của Chúa quan phòng. Điều phải quan tâm trước hết là “lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn các điều khác Ngài sẽ ban cho”.

  1. CHÚ THÍCH:

-C 24-25: +Không ai có thể làm tôi hai chủ: Đức Giê-su đưa ra một nguyên tắc chung về cuộic sống đức tin là không ai có thể phụng sự hai ông chủ một trật. Cần phải dứt khóat chọn một trong hai là phụng sự Thiên Chúa hay tiền bạc. +làm tôi: mang ý nghĩa như một nô lệ bị mất quyền tự chủ và phải hòan tòan lệ thuộc vào ông chủ của mình. +Tiền Của: Được viết Hoa để nhấn mạnh là Thần Tài. Tiền được nâng lên địa vị là một vị thần có sức mạnh vạn năng như người ta thường nói: Có tiền mua tiên cũng được”. Đức Giê-su khuyên các tín hữu cần có thai độ dứt khóat chọn một trong hai làm chủ cuộc đời của mình. +Đừng lo cho mạng sống: Đừng lo âu thái quá tìm kiếm cái ăn cái mặc vì “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (x Mt 6,32) Tuy vậy, Đức Giê-su không cổ võ thái độ thụ động và ỷ nại để hưởng nhàn, vì “Nhàn cư vi bất thiện!” nghĩa là sự lười biếng ở không là nguồn phát sinh mọi tội lỗi. Các tín hữu chỉ cần bình tâm làm việc để kiếm cơm áo hôm nay và phó thác tương lai cho Chúa quan phòng như lời cầu trong Kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày” (Mt 6,11). +Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? : Đừng lo lắng làm chi vì Thiên Chúa sẽ luôn bảo đảm cho ta có đủ cơm ăn áo mặc cho cuộc sống thể xác.

-C 26-29: +Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho: Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc đến các tạo vật như lòai chim nhỏ bé mà Ngài đã dựng nên, để cho chúng có thể tồn tại. +Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ?: Chim trời không có giá trị bao nhiêu mà còn được Cha trên trời quan tâm như vậy, phương chi chúng ta là con cái của Ngài. +Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? : Hơn nữa, dù ta có lo lắng bao nhiêu đi nữa cũng vô ích, vì mọi sự đều do ơn Chúa ban như lời thánh Phao-lô: “Tôi trồng, A-pô-lô tưới, còn Thiên Chúa cho mọc lên”. +Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào: Về áo mặc, Đức Giê-su lấy ví dụ về vẻ đẹp của một bông hoa huệ ngòai đồng nay còn mai mất mà Thiên Chúa còn ban cho mặc đẹp hơn vinh quang của vua Sa-lô-mông, phương chi con người là con cái Thiên Chúa lại không được Ngài ban cho áo mặc hay sao?

-C 31-34: + Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? : Những điều cần cho thân xác như của ăn áo mặc không đáng gì trước tình thương quan phòng của Thiên Chúa. +Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm: Dân ngọai đi tìm của cải vật chất vì họ không tin có đời sau, nên chỉ lo tìm kiếm hạnh phúc vật chất cho đời tạm này. +Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó: Thiên Chúa là Cha yêu thương nên biết rõ chúng ta cần và luôn quan tâm thỏa mãn những nhu cầu của chúng ta. +Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho: Thái độ khôn ngoan là phải ưu tiên làm sáng danh Thiên Chúa, làm cho Nước Cha mau trị đến như Đức Giê-su đã dạy cầu nguyện trong Kinh Lạy Cha. Một người hy sinh lo việc cho Chúa thì chắc chắn Chúa sẽ bù đắp những thiệt thòi để quan phòng cho họ có đủ cơm ăn áo mặc hằng ngày. +Anh em đừng lo lắng về ngày mai. Ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy: Cuộc sống ở trần gian còn nhiều gian nan thử thách. Nhưng các tín hữu đừng khờ dại khi chỉ lo tích trữ của cải vật chất nay còn mai mất. Hãy cứ lo sống sung mãn trong từng giây phút hiện tại, bằng cách chu tòan các việc bổn phận với lòng mến Chúa yêu người, và tín thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa.

  1. CÂU HỎI: 1) Một người chọn làm tôi Tiền Của với người thứ hai chọn làm tôi Thiên Chúa khác nhau thế nào về cách suy nghĩ, nói năng và ứng xử với tha nhân trong cuộc sống? 2) Khi dạy “Đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? ” Phải chăng Đức Giê-su cổ võ thái độ lười biếng của người tín hữu chỉ biết khoanh tay cầu nguyện và ỷ nại vào Thiên Chúa sẽ quan phòng mọi sự thay cho mình? 3) Câu “trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” có ý nghĩa thế nào?

II.SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24).
  1. CÂU CHUYỆN:

1) KHI TIỀN VÀO NHÀ THÌ CHÚA ĐI RA:

Có một đôi vợ chồng tá điền kia làm công cho một ông lãnh chúa giàu có. Hai vợ chồng tuy nghèo nhưng rất có lòng đạo đức: Ngày nào cũng vậy, cả hai đều thức giấc khi gà vừa gáy sáng và dâng giây phút đầu ngày tạ ơn chúc tụng Thiên Chúa. Trong ngày dù phải chịu vất vả làm việc nắng nôi, họ cũng không quên hát những bài thánh ca quen thuộc. Trước và sau bữa ăn đạm bạc, cả hai đều có những lời cầu nguyện sốt sắng. Ngày nào họ cũng đọc kinh tối: ăn năn sám hối tội lỗi và đọc 50 kinh Mân côi dâng kính Đức Mẹ rồi phó thác hồn xác cho Chúa trước khi nghỉ đêm. Tiếng lành về lòng đạo đức của đôi vợ chồng tá điền đã đến tai ông lãnh chúa. Ông ta quyết định thử để biết nếu đôi vợ chồng này giàu lên thì họ có còn giữ được lòng đạo đức như hiện tại hay không ?

Một hôm chờ lúc đêm khuya ông lãnh chúa sai đầy tớ bí mật mang một hòm tiền đựng 100 đồng vàng đến để trước cửa nhà của đôi vợ chồng tá điền rồi quan sát động tĩnh. Hôm ấy khi nghe tiếng gà gáy sáng, theo lệ thường hai vợ chồng bác nông dân liền thức dậy đọc kinh râm ran rồi ăn sáng qua loa trước khi ra đồng làm việc. Chợt anh chồng phát hiện ra một chiếc hòm rất đẹp nằm ngay trước cửa nhà. Anh liền gọi vợ ra khiêng vào nhà. Cả hai rất đỗi ngạc nhiên khi mở hòm ra đếm được tới 100 đồng tiền vàng, một tài sản lớn lao mà không bao giờ hai người dám mơ ước. Thế là họ không đi làm như mọi khi mà ở nhà bàn nhau cách cất giấu hòm tiền vàng. Họ hết đào góc nhà lên chôn hòm tiền vàng xuống, rồi lại moi lên mang cất giấu chỗ khác trong nhà vì không yên tâm. Buổi trưa hôm ấy họ không cảm thấy đói và bỏ ăn luôn cả bữa chiều. Đến tối họ cũng không còn đọc kinh râm ran như mọi khi và lúc nào cũng thắc mắc hòm tiền kia của ai và lý do tại sao xuất hiện trước cửa nhà mình. Ba ngày sau, do ăn uống thất thường và tâm trạng quá lo lắng, nên sức khỏe suy kiệt và cả hai vợ chồng đều nằm liệt giường với chiếc hòm tiền được cất giấu ngay dưới gầm giường.

Tất cả thái độ và cách ứng xử của đôi vợ chồng đều được gia nhân báo cáo cho ông lãnh chúa nên ba ngày sau, ông liền đến nhà đôi vợ chồng tá điền thăm hỏi và báo tin nhà ông bị trộm mất một hòm tiền vàng. Lúc đầu cả hai vợ chồng đều chối, nhưng một phần vì sợ bị đi tù và phần khác biết không thể tiếp tục dấu được mãi, nên hai vợ chồng đành phải thành thật khai báo đã cất giữ hòm tiền vàng ra sao và xin được hoàn lại chủ cũ để tránh sự tù tội. Từ ngày đó, do không còn lo lắng về tiền của bất minh nên hai vợ chồng bác nông dân đã dần dần bình tâm trở lại và tiếp tục thói quen cầu nguyện chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa như trước. Từ nay họ bằng lòng với hòan cảnh hiện tại và đã rút ra bài học này: “Khi tiền vào nhà thì Chúa đi ra!”.

2) THAM THÌ THÂM:

Một buổi sáng kia khi mặt trời vừa ló dạng, ông lãnh chúa đã gặp người đầy tớ và nói với anh như sau: “Ta thấy anh đã giúp việc cho ta rất đắc lực trong nhiều năm qua. Hôm nay ta sẽ thưởng công cho anh bằng việc ký văn tự cho anh một phần đất của ta như sau: Từ bây giờ anh sẽ đi đánh dấu với cục phấn mang theo rồi trở lại đây vào đúng 6 giờ chiều. Tất cả nhà cửa ruộng vườn ao hồ anh đã đánh dấu phấn trắng đều thuộc về anh. Nhưng ta nhắc lại một điều rất quan trọng là anh phải trở lại đây trước 6 giờ chiều để tránh bị trắng tay nếu về trễ dù chỉ một phút”. Nghe ông lãnh chúa nói như vậy, anh đầy tớ rất phấn khởi và lập tức lên đường với hy vọng đánh dấu được nhiều nhà cửa đất đai bao nhiêu có thể. Anh cố đi thật nhanh và không quên vạch phấn lên cây cối nhà cửa và các cột mốc bên đường để làm dấu quyền sở hữu của anh. Đến trưa anh cảm thấy vui mừng khi nhìn thấy đã đánh dấu được nhiều nhà cửa đất đai đồng lúa. Anh chỉ lo chạy mà quên việc phải dừng lại để nghỉ ngơi ăn uông. Đến khi cần vòng lại cho kịp thời gian thì lại thấy trước mặt một cái hồ nước trong xanh có nhiều cây cối chung quanh bờ hồ khiến anh nổi máu tham cố chạy vòng qua hồ mất thêm cả tiếng đồng hồ để lấy thêm hồ nước cho mình. Khi thời gian không còn bao nhiêu anh mới nghĩ đến việc chạy vòng về cho kịp giờ hẹn. Không may cho anh, khi về cách nhà khoảng vài chục mét thì đã nghe tiếng đồng hồ quả lắc điểm 6 giờ chiều. Anh đầy tớ liền té ngã ra bất tỉnh vì bị đuối sức do đã nhịn ăn nhịn uông nhiều giờ, phần nữa do đã trễ giờ hẹn bị mất tất cả đất đai nhà cửa đã đánh dấu và cuối cùng anh đã bị đột quỵ chết thảm. Cảm thương cho người đầy tớ trung thành nhưng bất hạnh do lòng tham quá đáng, ông lãnh chúa đã tổ chức lễ an táng cho anh thật long trọng và chôn cất anh trong một ngôi mộ đẹp ngay tại thửa vườn nơi anh đã từng sinh sông nhiều năm, nhưng mộ anh chỉ chiếm diện tích không đầy ba thước vuông!

  1. SUY NIỆM:

1) KHÔNG AI CÓ THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ:

-Ngày nay nhiều người rất coi trọng đồng tiền và thường đề cao sức mạnh vạn năng của nó như sau: “Đồng tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý”; Hoặc “Có tiền mua tiên cũng được!”; “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền”; “Có thực mới vực được đạo”…

-Đức Giê-su không coi thường tiền bạc: vì chính Người hiểu rõ giá trị của đồng tiền cần cho các sinh hoạt đời thường. Chẳng hạn: Người hỏi Phi-líp-phê : “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” (Ga 6,5). Có lần Người đã bảo Si-mon: “Anh hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, anh hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần anh” (Mt 17,26); Người đòi đầy tớ phải làm lợi ra gấp đôi số nén vàng bạc được chủ trao phó trước khi đi xa để xứng đáng được ban thưởng khi ông trở về. Còn đầy tớ nào lười biếng đem chôn giấu nén vàng được giao thì sẽ bị chủ trách mắng là lười biếng với lý do như sau: “Sao ngươi không gửi bạc ta ở ngân hàng, để rồi khi ta trở về, ta có thể lấy cả vốn lẫn lời” (Lc 19,23). Đức Giê-su dạy môn đệ phải biết cách sử dụng tiền bạc như sau: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16,9); Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su cũng cần tiền cho các sinh hoạt ăn ở của thầy trò, nên Người đã trao nhiệm vụ quản lý số tiền người ta giúp đỡ cho Giu-đa. Tin Mừng Gio-an cũng cho biết về tính tham tiền của ông này khi thuật lại lời ông ta trách cô Ma-ri-a ở Bê-ta-ni-a đã lấy chai dầu thơm quý giá đắt tiền xức chân Đức Giê-su. Tin mừng Gio-an còn chú thích thêm: “Y nói thế không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga 12,6). Ngoài ra cùng đi với Đức Giê-su trên bước đường truyền giao, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh… “Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ” (Lc 8,3).

2) NHỮNG NGUY HIỂM KHI ĐỒNG TIỀN TRỞ THÀNH ÔNG CHỦ:

Đồng tiền sẽ là một người đầy tớ tốt nhưng lại là một ông chủ xấu: Đức Giê-su đòi các môn đệ không được làm tôi hai chủ như sau: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được”. Vậy khi đồng tiền trở thành ông chủ sẽ gây ra hậu quả nào ?

– Đồng tiền khi trở thành ông chủ sẽ làm lu mờ lương tâm bất chấp tội phúc miễn sao có nhiều tiền như Giu-đa đã phản nộp Thầy với giá ba mươi quan tiền! (x. Mt 27,3).

– Đồng tiền khi làm chủ sẽ khiến tâm hồn người ta trở nên vô cảm. Trong câu chuyện La-da-rô nghèo khó, ông phú hộ đã tỏ thái độ vô cảm khi nhắm mắt để không thấy không giúp đỡ La-da-rô nghèo khó đang nằm ngay trước cửa nhà ông (x. Lc 16,19-21).

– Đồng tiền khi làm chủ sẽ khiến người ta trở nên tán tận lương tâm, không còn coi trọng tình nghĩa vợ chồng, cha con, thầy trò… Những người chồng tham lam đồng tiền bất chính, khi cần có thể bán cả nhà cửa vợ con để chơi trò đỏ đen may rủi! Hoặc có thể phạm phải những tội ác như cướp của giết người, buôn bán sì-ke ma túy… miễn sao kiếm được thật nhiều tiền.

3) PHẢI TRÁNH LÒNG THAM LAM TIỀN BẠC BẤT CHÍNH:

– Khi lòng tham nắm quyền thống trị người nào, thì người ấy sẽ bị mất quyền làm chủ bản thân và phải tuân theo sự sai khiến của lòng tham không đáy. Một số bác sĩ thừa biết “lương y như từ mẫu”, nhưng do lòng tham đã làm chủ tâm trí nên sai khiến họ phải làm những điều gian dối để trục lợi hoặc từ chối cấp cứu nạn nhân đang bị nguy kịch không tiền viện phí, khiến cho nhiều bệnh nhân nghèo đã bị chết oan.

– Không ít thầy cô giáo thừa biết thế nào là đạo đức nhà giáo, nhưng khi bị lòng tham thống trị, họ sẽ bắt học sinh phải học thêm ngoài giờ để thêm thu nhập, khiến các phụ huynh vừa tốn thêm tiền, mà con em còn bị học quá tải có hại cho sức khỏe sau này.

– Không ít cảnh sát giao thông tuy biết rõ tham nhũng là một quốc nạn, là một tội ác làm giảm uy tín của chế độ trước nhân dân. Nhưng do tâm trí đã bị lòng tham thống trị, nên họ sẵn sàng bỏ ngoài tai các lời phê phán chỉ trích của dư luận báo chí để tiếp tục “làm luật”, xử phạt các lỗi vi phạm giao thông cách bất công hầu kiếm thêm những đồng tiền bất chính.

4) TÍN THÁC VÀO SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA:

– Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã dạy các môn đệ phải tín thác vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Tín thác không đồng nghĩa với sự phó mặc cho Chúa định liệu mọi sự của mình, nhưng là bình tâm làm việc để kiếm tiền nuôi thân với niềm tin Chúa sẽ ban đủ lương thực hằng ngày. Vì như chim trời chẳng đáng giá là bao và không gieo không gặt, thế mà Cha trên trời vẫn nuôi chúng; hoặc bông huệ ngòai đồng sớm nở tối tàn mà vẫn được Cha trên trời cho mặc áo đẹp hơn áo của vua Sa-lô-mông. Tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa là luôn bình tĩnh trước mọi tình huống để không quá lo lắng, vì tin vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Tín thác vào Chúa quan phòng cũng đồng nghĩa với việc sẵn sàng nhìn nhận khuyết điểm của mình để tu sửa, khoan dung trước những thiếu sót giới hạn của người dưới và coi các sự thất bại như cơ hội giúp mình thêm kinh nghiệm để làm tốt hơn trong tương lai.

– Dân ngọai vì không nhận biết Thiên Chúa và không tin có đời sau, nên chỉ biết lo tìm kiếm cơm ăn áo mặc đời này. Đức Giê-su dạy các tín hữu phải ưu tiên làm việc cho Nước Chúa mau trị đến, ý Chúa sớm nên hiện thực dưới đất cũng như trên trời. Do đó, chúng ta cần chu tòan các việc bổn phận với lòng tin cậy phó thác vào Chúa quan phòng. Hãy luôn ưu tiên chọn phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân vô vị lợi hơn là làm điều gian dối để có được nhiều tiền. Nếu chúng ta quảng đại dâng hiến tương lai đời mình cho Chúa thì Người cũng sẽ quảng đại ban phát muôn ơn lành cho ta như lời Đức Giê-su: “Anh em đong bằng cái đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng chính cái đấu ấy” (Mt 7,2). Do đó, các tín hữu chúng ta cần thực hành lời Chúa hôm nay: “Trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những sự khác, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).

  1. THẢO LUẬN: 1) Câu chuyện “Tiền vào nhà Chúa đi ra” nói trên dạy chúng ta bài học gì về thái độ phải có đối với của cải tiền bạc? 2) Qua câu: “Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn? ; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc?”, phải chăng Chúa dạy chúng ta chỉ cần đọc kinh dự lễ và làm các việc bác ái truyền giáo, rồi hòan tòan phó mặc công việc làm ăn nuôi sống gia đình cho người thân lo liệu? 3) Tuần này mỗi người chúng ta nên làm gì để sống lời Chúa: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” ?

5.CẦU NGUYỆN:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa muốn chúng con sống từng phút giây hiện tại cách tốt đẹp theo thánh ý Chúa Cha. Chúa muốn chúng con làm theo lời Chúa. Xin cho chúng con luôn biết sống theo châm ngôn “làm mọi sự vì vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”. Xin giúp chúng con biết quảng đại cho đi hơn là nhận lãnh, “Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc…”, hầu đến ngày tận thế chúng con sẽ được Chúa xếp vào hàng chiên ngoan và sẽ được hưởng hạnh phúc trong Nước Trời muôn đời.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

CÓ TIN, CÓ KHÁC

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

(Chúa Nhật VIII TN A)

“Vai mang bị bạc kè kè. Nói quấy, nói quá chúng nghe rầm rầm”. “Bần cư náo thị vô nhân vấn. Phú tại sơn lâm hữu khách tầm”. “Có tiền mua tiên cũng được”. “Vạn sự phải có cái đầu tiên là tiền đâu?”. “Hạ tầng kiến trúc quyết định thượng tầng kiến trúc”. “Ai nắm hầu bao thì người ấy có quyền quyết định”. “Có thực mới vực được đạo”. “ Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”…Rất nhiều kiểu nói văn hoa hay dí dỏm của người xưa hay người đời nay như đã minh chứng sức mạnh to lớn, sức cuốn hút khó cưỡng của vật chất, tiền bạc. Chính Chúa Kitô cũng đã từng đặt đối trọng thần tài với Thiên Chúa khi dạy bảo: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24).

Dĩ nhiên, đã là người trong thân phận xác phàm thì không thể coi thường các điều kiện thể lý và vật chất. Pascal đã từng cảnh tỉnh rằng ai muốn sống như thiên thần thì sẽ có nguy cở trở thành loài vật. Để ban ơn cứu độ cho con người, Thiên Chúa đã chọn con đường vào trần gian, mang lấy thân nhục thể. Đã đón nhận xác đất vật hèn thì Con Thiên Chúa làm người chấp nhận bị điều kiện hoá bởi các quy luật sinh hoá lý mà trong đó vai trò của vật chất, tiền bạc không nhỏ chút nào. Ngay từ lúc khởi đầu công cuộc rao giảng tin mừng, chính Người cũng đã bị thần dữ cám dỗ về lãnh vực này (x.Mt 4,1-11).

Vấn đề đặt ra đó là vị trí chủ-tớ trong tương quan giữa con người chúng ta với của cải, tiền bạc. Của cải, tiền bạc vốn là tốt nhưng chúng chỉ tốt khi phục vụ con người, nghĩa là làm tôi con người. Chúng trở thành xấu khi con người đội chúng trên đầu trên cổ, xem chúng như những vị thần toàn năng. Rất nhiều câu ngạn ngữ nói đến ý tưởng này, chẳng hạn như “tiền bạc là tên đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ tồi”… Chúng ta có thể nói rằng xưa lẫn nay người ta đều đồng thuận về chân lý này nghĩa là phải biết làm chủ tiền bạc, của cải. Thế nhưng trong thực tế thì dường như ngược lại. Chuyện để cho của cải, tiền bạc lôi kéo mình đến chỗ không hay, điều khiển mình làm những sự chẳng nên là chuyện không hiếm. Một thực tế nữa đó là những người thường lên tiếng khuyên dạy người ta cách thế làm chủ tiền của theo kiểu luân lý hay nói nôm na là dạy đời thì thường là những người đang sung túc, đủ đầy tiền của, không phải gánh chịu cảnh bán mặt cho đất, bán lưng cho trời ngày hai buổi, để kiếm cái ăn, cái mặc cho mình và gia đình. Chính vì thế mà biết bao văn chương chữ nghĩa về đề tài bạc tiền thoặt nghe rất dễ nhận nhưng chẳng làm thay đổi người nghe. Dòng đời xô bồ vẫn cứ chảy. Ma lực của đồng tiền vẫn cứ ngự trị cách này cách khác. Làm sao để đứng vững trước dòng xoáy của các nhu cầu cơm áo gạo tiền cũng như các phương tiện để sinh tồn và phát triển? Chúa Kitô cho chúng ta chiếc chìa khoá căn bản đó là lòng tin.

Đức tin tiên vàn là ân ban của Thiên Chúa. Đức tin cũng là sự đáp trả của con người trong tự do và hiểu biết. Chúa Kitô mời gọi chúng ta dùng trí khôn để suy xét, cân nhắc và chọn lựa giữa những điều hơn kém. Với trí khôn bình thường, người ta dễ dàng nhận ra phần hơn kém giữa mạng sống và của ăn, giữa thân xác và áo quần. Thế mà vẫn có đó nhiều người vì cơm áo mà đã phải thiệt thân. Lưới đã rách thì cố tìm mấy viên chì cũng chẳng được ích gì. Từ dữ kiện đời thường Chúa Kitô mời gọi chúng ta phân định phần thiệt hơn giữa sự sống đời này với sự sống đời đời, đồng thời mời gọi chúng ta hướng cái nhìn lên Đấng Toàn năng chí ái, Đấng đã cho chúng ta từ hư vô hiện hữu ở đời này.

Cần xác định rằng không một ai trên trần gian này tự quyết định hay phải trả một giá nào cho việc làm người, chào đời của bản thân. Không một ai tự mình làm người nhưng là được dựng nên, được tạo thành. Người có niềm tin nhìn nhận việc làm người của mình do Đấng toàn năng. Cách riêng Kitô hữu tin nhận Đấng Toàn Năng cũng là Người Cha chí ái. Vì yêu thương nên Thiên Chúa đã cho tôi làm người, chào đời. Không bao giờ Thiên Chúa bỏ rơi chúng ta. Chẳng có người mẹ nào quên được đứa con mình mang nặng đẻ đau. Cho dù thỉnh thoảng có một đôi người mẹ trần gian vô tâm với con của mình thì Thiên Chúa chẳng bao giờ bỏ quên chúng ta (x.Is 49,14-15). Tác giả Thánh Vịnh luận lý rằng nếu Thiên Chúa ghét bỏ bất cứ loài nào thì Người đã không dựng nên nó.

Chúa Kitô mời gọi chúng ta hãy nhìn xem hoa cỏ, chim trời để vững tin vào Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương, chăm sóc mọi loài, nhất là loài người. Có được niềm tin này thì Kitô hữu cho dù vẫn phải gắng công kiếm tìm sinh kế cho bản thân và tha nhân nhưng không quá “lo lắng” theo kiểu người chưa hoặc không nhận biết Thiên Chúa. Vẫn nỗ lực lao tác kiếm tìm của cải vật chất nhưng chúng ta phải biết sử dụng chúng để phục vụ sự sống, để phát triển tình yêu. Đây là nội hàm lời dạy của Chúa Kitô: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người…”(Mt 6,33).

Chúng ta ra sức kiếm tìm vật chất, tiền của để làm gì? Trả lời rốt ráo câu hỏi trên theo ánh sáng mạc khải thì chúng ta sẽ biết cách kiếm tìm của cải đẹp lòng Thiên Chúa. Thử hỏi rằng đã có nét khác biệt nào giữa Kitô hữu và bà con lương dân hay người khác đạo trong cách thế kiếm tìm vật chất, của tiền cũng như cách thế sử dụng chúng? Thiết nghĩ đây là một cách thế biểu lộ niềm tin mang tính khả tín và cũng là một cách thế rao giảng tin mừng hữu hiệu ngay giữa môi trường sống của Kitô hữu chúng ta. Và sẽ không thừa khi đề cập đến một hiện thực đó là đã có nhiều anh em lương dân hay bà con khác đạo xa lánh, từ chối ánh sáng tin mừng chỉ vì các gương xấu của Kitô hữu trong vấn đề kiếm tìm và sử dụng của cải, tiền bạc.

Dùng niềm tin để biện minh cho lối sống thì ít thuyết phục hơn là dùng chính cuộc sống để minh chứng cho niềm tin.

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Thuận Hiếu – Ban Mê Thuột

CHỌN THIÊN CHÚA HAY TIỀN CỦA

Lm Đinh lập Liễm

CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN A

  1. DẪN NHẬP

Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Bất cứ ai đều phải có sự lựa chọn cho đời sống của mình về phương diện tinh thần cũng như vật chất. Trên bình diện tôn giáo, Đức Giêsu đã chỉ dẫn cho chúng ta cách lựa chọn: ”Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được”(Mt 4,24). Và Ngài đã đòi chúng ta một sự lựa chọn dứt khoát: một là Thiên Chúa, hai là Tiền của. Chúng ta có quyền tự do lựa chọn và phải gánh chịu hậu quả về sự lựa chọn đó.

Chúng ta là những người khôn ngoan đã dứt khoát chọn lựa Thiên Chúa vì chúng ta là con của Ngài, đã được dựng nên giống hình ảnh Ngài. Một khi đã chọn Thiên chúa, chúng ta phải tuyệt đối yêu mến và tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài. Chúa khuyên chúng ta đừng quá lo lắng về cơm ăn áo mặc, hãy nhìn xem chim trời, hoa cỏ đồng nội thì biết. Nhưng chúng ta phải lưu ý: Chúa khuyên chúng ta đừng “lo lắng” nhưng phải biêt “lo liệu”. Lo lắng là dấu chỉ chưa đủ tin tưởng vào Chúa, còn lo liệu là biết khôn ngoan sắp đặt mọi sự trong hiện tại cũng như trong tương lai trong sự yêu mến và tin tưởng phó thác cho Chúa.

Tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng không có nghĩa là ỷ lại, để cho Chúa lo mọi sự, nhưng trái lại, phải có sự cộng tác của chúng ta. Đây là bằng chứng: ngày từ đầu Thiên Chúa đã trao trái đất cho con người coi sóc, Đức Giêsu đã làm nghề thợ mộc tại Nazareth và thánh Phaolô cũng chủ trương ai không làm việc thì không có quyền ăn. Vậy, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cứ làm việc bình thường, đừng bồn chồn lo lắng. Hãy quên đi quá khứ, hăng say làm việc trong hiện tại và đặt tương lai vào trong bàn tay Chúa quan phòng.

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Is 49,14-15

Dân Israel bị lưu đày bên Babylon, sống cơ cực dưới sự đè nén của ngoại bang, họ đâm ra chán nản, thất vọng. Họ cho rằng Thiên Chúa đã quên họ. Họ đã bị bỏ rơi. Niềm tin bị giảm sút.

Nhưng tiên tri Isaia đã khẳng định với dân: Thiên Chúa không bao giờ bỏ quên họ bởi vì họ là con của Ngài. Ông đưa ra một hình ảnh sống động và cụ thể: có người mẹ nào mà bỏ quên con mình? Cho dù người mẹ có bỏ quên con mình đi nữa thì Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ quên đâu.

+ Bài đọc 2: 1Cr 4,1-5

Tín hữu Corintô có nhiều tinh xấu như óc bè phải, tính kiêu căng, tự phụ. Hôm nay thánh Phaolô nhắc nhở họ phải đề phòng một tính xấu khác, đó là xét đoán.

Thực ra, không ai biết được con tim khối óc của người khác, chỉ là phỏng đoán, duy một mình Thiên Chúa mới biết được chính xác. Vì thế, mọi người hãy dành quyến xét xử cho Thiên Chúa “Đấng thấu suốt lòng mọi người”.

+ Bài Tin Mừng: Mt 6, 24-34

Hôm nay Đức Giêsu nói với cả người giầu lẫn người nghèo phải biết lựa chọn. Chỉ có hai con đường để lựa chọn, đó là phụng sự Thiên Chúa hay phụng sự Tiền của.

Phụng sự Thiên Chúa là sống theo Tin mừng, theo Hiến chương Nước Trời và tìm kiếm sự công chính của Thiên Chúa, nghĩa là tìm biết và thi hành thánh ý Ngài.

Nếu phụng sự Chúa thì phải tin vào Chúa quan phòng. Đành rằng chúng ta phải làm việc để giải quyết đời sống vật chất như cơm ăn áo mặc… nhưng chúng ta phải dành ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho.

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Bắt cá hai tay

Người Việt nam chúng ta thường dùng câu tục ngữ “Bắt cá hai tay” để chỉ những người tham lam, mưu cầu nhiều việc. Ta phải hiểu câu tục ngữ này như thế nào? Nhân dân ta hiểu câu tục ngữ này theo nghĩa đen là: mỗi tay bắt một con, và kết quả là tuột mất hết chẳng bắt được con cá nào. Chẳng thế mà ca dao Việt nam đã từng khuyên nhủ mọi người:

Thôi đừng bắt cá hai tay

Cá thì xuống bể, chim bay về ngàn.

Câu tục ngữ này có thể minh họa một phần nào lời Đức Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay: ”Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia; hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được” (Mt 6,24).

  1. PHẢI BIẾT CHỌN LỰA
  2. Lựa chọn là điều cần thiết

Ngày nay người ta nói nhiều đến dấn thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của con người. Sống là dấn thân, mà dấn thân thì phải lựa chọn. Sống là một chuỗi những lựa chọn. Chính những lựa chọn này sẽ làm cho người ta thành công hay thất bại, trở thành người tốt hay người xấu, được hạnh phúc hay phải đau khổ. Đã chọn lựa điều này thì phải bỏ điều kia. Từ bỏ bao giờ cũng là một giằng co, nuối tiếc.

Đức Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất. Hôm nay phải chọn lựa hoặc Thiên Chúa hoặc Tiền của.

  1. Phải chọn lựa thế nào?
  2. a) Thời xa xưa, trong thời vua Achab trị vì, dân Israel đã bỏ Chúa mà đi thờ dân ngoại Baal. Tiên tri Êlia đã hô hào dân chúng hảy trở về với Thiên Chúa, phải dứt khoát lựa chon: ”Các ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, hãy theo Người; còn nếu là Baal thì cứ theo nó” (1V 18,21)
  3. b) Thời nay, Đức Giêsu cũng cảnh báo cho những người tôn thờ tiền của như sau: ”Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được” (Mt 6,24)

* Ý nghĩa chữ “Tiền của”

Tiền của ở đây được viết bằng chữ hoa, tiếng Aram là MAMMON, có nghĩa là Tiền của. Nếu tiền được thần hóa như thế, thì sức mạnh thống trị của nó không thể coi thường. Nếu tiền và Thiên Chúa đã được Đức Giêsu đưa lên bàn cân để người ta lựa chọn, thì quyền lực của nó phải là vô song.

* Ý nghĩa chữ “tôi” và “chủ”.

Đối với người xưa “không ai được làm tôi hai chủ” có ý nghĩa hơn đối với chúng ta. Từ ngữ là “tôi” trong nguyên ngữ Hy lạp là “nô lệ”, làm nô lệ cho; còn từ “chủ” để chỉ quyền sở hữu tuyệt đối. Ý nghĩa câu này sẽ rõ hơn nếu chúng ta dịch: không ai có thể làm nô lệ cho hai ông chủ.

Để hiểu ý nghĩa, có hai điều chúng ta cần nhớ về người nô lệ thời xưa. Nô lệ, trong quan điểm luật pháp, không phải là một con người mà là một đồ vật. Nô lệ tuyệt đối không có gì cả, chủ có thể sử dụng nô lệ thế nào cũng được. Đối với luật pháp, nô lệ là một dụng cụ sống, ông chủ có thể bán, đánh đập, quăng ra ngoài hoặc giết đi, vì ông ta sở hữu người nô lệ y như sở hữu một đồ vật. Thứ đến, nô lệ thời xưa không có chút thời giờ nào là của riêng. Mỗi giây phút của đời sống nô lệ đều thuộc về chủ…

Đây chính là mối dây liên hệ của chúng ta đối với Thiên Chúa, ta không có quyền gì cả. Thiên Chúa là chủ tuyệt đối. Không bao giờ chúng ta được hỏi: tôi muốn làm gì? Nhưng luôn luôn hỏi: Chúa muốn tôi làm gì?

  1. Nguy hại của thần Mammon.

Thần Mammon hay thần Tiền của có một sức mạnh vạn năng, nó giải quyết phần lớn các nhu cầu của con người, nên tiền của hấp dẫn lạ lùng. Người Vệt nam chúng ta có câu:

Có tiền mua tiên cũng được

Hoặc:

Mạnh về gạo, bạo về tiền

Lắm tiền, nhiều gạo là tiên trên đời.

Ngay cả việc đạo cũng phải có tiền mới xong:

Có thực mới vực được đạo.

Nguyên ngữ Mammon chỉ có nghĩa là của cải vật chất. Nguyên nghĩa của nó không phải là một chữ mang ý nghĩa xấu. Các rabbi Do thái vẫn dạy: ”Hãy quí trọng mammon của người khác như của chính ngươi”, nghĩa là mọi người phải coi tài sản vật chất của người khác quí trọng như tài sản của mình.

Tiền của là như vậy, nhưng tại sao Đức Giêsu lại gay gắt với tiền của như thế? Thật ra, Ngài không lên án tiền của, Ngài chỉ cảnh báo những ai ham mê của cải mà thôi. Hay nói cách khác, Thánh Kinh đã nói: ”Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác” (1Tm 6,10).

Và chúng ta phải công nhận rằng tiền của là phương tiện hữu hiệu Chúa ban, để bảo tồn sự sống đời này, và để mua Nước Thiên đàng đời sau. Tự bản chất của tiền là tốt, nó là hồng ân Thiên Chúa tặng ban cho con người.

Tiền của chỉ trở nên xấu khi ta quá tôn thờ nó, như một ông chủ sai khiến hành hạ đời ta, thậm chí lấy luôn mạng sống ta.

Tiền của chỉ trở nên đáng ghét khi ta quá tham lam thu tích nó mà quên đi bổn phận chia sẻ với anh em, như người giầu có xử tệ với Lazarô nghèo khó.

Tiền của chỉ trở nên án phạt khi ta quá ham mê nó mà từ bỏ Thiên Chúa, như Giuđa bán Thầy vì mê 30 đồng bạc.

Tiền của chỉ trở nên cạm bẫy khi ta quá bám víu vào nó mà không còn tin cậy vào Thiên Chúa quan phòng, như người phú hộ ham hưởng khoái lạc không kịp ăn năn.

Vì thế, Đức Giêsu thật có lý khi cấm chúng ta không được làm tôi tiền của. Ngài cảnh báo như thể để mưu cầu hạnh phúc đời đời cho chúng ta.

Truyện: Nô lệ hay tự do

Hôm ấy, trời vừa rạng đông, ông hoàng nói với tên đầy tớ: ”Xem chừng anh mơ ước giầu có lắm. Vậy từ giờ này cho đến lúc mặt trời lặn, anh có sức ngần nào thì cứ chạy. Tất cả những ruộng vườn, ao cá anh chạy vòng quanh được, ta cho anh hết”.

Anh vui sướng quá! Cha chết sống dậy cũng không bằng. Anh liền cắm đầu chạy, chạy vùn vụt như Hạng Vũ trên con ngưa Ô-Truy. Chín mười tiếng đồng hồ qua, chàng làm chủ được mấy cánh đồng bao la bát ngát. Chàng vừa dừng chân, thì một hồ cá mênh mông với mặt nước trong ngần huyền ảo phán chiếu ánh mặt trời đã xế chiều. Chang lại chạy tiếp. Sau cùng, màn đêm buông rơi. Chàng hổn hển quay bước trở về, để làm bậc tỷ phú với “Ruộng vườn cò bay thẳng cánh, ao hồ mặc sức cá đua”.

Nhưng vừa bước chân vào ngưỡng cửa, chàng ngã lăn xuống bất tỉnh. Vợ con vội vàng thuốc thang săn sóc… Nhưng vô hiệu. Nhà tỷ phú đã trút linh hồn sau một ngày dài lao lực quá mức. Người ta đào cho chàng một chỗ nghỉ trong lòng đất, vừa dài, vừa rộng, nhưng không quá ba tấc đất.

Đó là kết cục của một con người ham mê tiền của, để nó sai khiến như một tên nô lệ, phải vắt cạn kiệt sức lực cho tới chết, mà không được mảy may hưởng dùng.

Sự nô lệ cho tiền của là một bệnh “ung thư” thật sự của xã hội chúng ta. Nhắc lại như thế là việc tầm thường. Nền văn minh Tây phương đang tự phá hủy chính mình dưới nhịp độ dữ dội mà cuộc chạy đua đuổi theo cái “tiện nghi”, cái “xa hoa”, những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con người trở thành nạn nhân của “đồ bỏ đi ấy của Satan” như cách gọi của tác giả người Ý, Papini.

  1. TIN VÀO CHÚA QUAN PHÒNG
  2. “Đừng lo lắng về của ăn áo mặc”

Tiếp theo việc phải chọn lưa giữa Thiên Chúa và Tiền của, Đức Giêsu khuyên chúng ta đừng lo lắng về cơm ăn áo mặc, hãy xem chim trời và hoa đồng nội, chúng sống thế nào!

Chúng ta cần phân biệt giữa “lo lắng” và “lo liệu”. Chúa bảo chúng ta đừng lo lắng chứ không phải đừng lo liệu. Lo lắng vì không tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Mọi lo lắng đều liên hệ đến tương lai, mà tương lai là điều chưa có thật. Trái lại, lo liệu là vẫn lo làm việc hôm nay, tiên liệu cho ngày mai, nhưng luôn tin cậy phó thác cho Chúa.

Lo lắng chủ yếu là không tín thác vào Chúa. Sự không tín thác như thế có thể hiểu được nơi người ngoại giáo với tin tưởng vào một thần linh ganh tị, thất thường, không thể đoán trước được, nhưng không thể hiểu được nơi một người đã học gọi Thiên Chúa là Cha. Khi chúng ta đặt chính mình vào đôi tay của Thiên Chúa, chúng ta mở lòng mình để hưởng nhờ ơn Chúa bảo vệ chúng ta. Và chúng ta có thể sống đời sống của mình và cử hành giây phút hiện tại.

  1. Hãy tin vào Chúa quan phòng

Quan phòng là hành động của Thiên Chúa hướng dẫn con người và thế giới cách nào đó mà ta không ngờ. Nó không phải là định mệnh, hay số mệnh như quan niệm bình dân. Bình dân hiểu: số mệnh, định mệnh là sự ấn định trước cho mỗi người phải chịu một kiếp sống tốt hay xấu, sướng hay khổ, thành hay bại giống như rút thăm, rút số ghi sẵn cái gì thì phải lãnh cái đó.

Quan phòng là việc của người Cha khôn ngoan sáng suốt, đầy tình thương mến, hy sinh tận tụy lo toan cho con, nhưng cũng rất tôn trọng tự do sáng kiến của con, khi con hết lòng yêu mến, kính phục Cha, nó sẽ hết lòng vâng theo lời hay lẽ phải của Cha.

Phụng vụ Chúa nhật hôm nay nhắc nhở cho ta điều mà ta không bao giờ được quên là ta tùy thuộc vào Chúa từng hơi thở. Chúa là Chúa các tạo vật. Ngài nắm quyền ban sự sống và đem lại cái chết. Ngài cầm vận mạng mọi loài trong tay.

Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia nhắc nhở cho dân chúng là ngay cả khi họ bị lưu đầy bên Babylon, Chúa vẫn nhớ họ và không bỏ rơi họ. Mặc dầu bị án phạt, Chúa vẫn nhớ họ và giải thoát họ khỏi nô lệ. Sứ điệp của tiên tri Isaia bảo ta là phải đặt tin tưởng phó thác vào Chúa, ngay cả trong những ngày đen tối, bởi vì Thiên Chúa không bỏ rơi dân Người. Isaia còn đưa ra hình ảnh người mẹ với đứa con, không bao giờ người mẹ bỏ quên con, và giả như người mẹ có quên con đi chằng nữa thì Thiên Chúa cũng không bao giờ bỏ ta là con Ngài.

Tin mừng cũng nói lên một sứ điệp tương tự Lời Chúa vang dội bên tai ta như là lời an ủi vỗ về: ”Các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc… Cha trên trời biết rõ chúng con cần những sự đó” (Mt 6,31-32).

Truyện: Người mẹ không quên con

Một phụ nữ nghèo nàn ở trong một giáo xứ tại Dublin có một đứa con trai và đứa con này làm tan nát đời bà.

Anh ta không chịu làm việc mà dùng thời giờ để uống rượu và la cà với những kẻ phá rối. Anh lấy trộm hết những vật có giá trị của bà trong nhà. Bao nhiêu lần, bà đã cầu xin anh thay đổi đời sống, nhưng anh từ chối không làm. Anh làm cho trái tim mẹ anh tan nát và đời sống bà trở nên khốn khổ.

Có lúc anh ta phải vào tù. Hẳn là bà bỏ mặc anh ta? Không đời nào. Bà đến nhà tù thăm anh ta không bỏ tuần nào, mỗi lần đều mang theo thuốc lá và những đồ dùng khác cho anh ta trong một cái bao nhỏ. Một ngày nọ, một linh mục trong giáo xứ gặp bà lúc bà đang trên đường đến nhà tù.

“Đứa con trai này làm đời bà tan nát” vị linh mục nói. “Nó sẽ không bao giờ thay đổi. Tại sao bà không quên nó đi”?

“Làm sao tôi có thể quên nó được”? bà đáp lại. “Tôi không thích việc nó làm nhưng nó vẫn là con tôi”.

Bạn có thể nói rằng người mẹ ấy điên. Tuy nhiên bà chỉ làm điều mà bất cứ bà mẹ nào đúng nghĩa một bà mẹ không thể không làm, đó là yêu thương con của mình dù ở hoàn cảnh nào. Một bà mẹ không bao giờ bỏ cuộc. Đối với hầu hết chúng ta, tình thương của bà mẹ là một tình yêu của con người đáng tin cậy nhất. Nên không lạ gì khi Kinh Thánh dùng tình yêu của bà mẹ như một hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa (McCarthy).

  1. Quan phòng và hành động.

Tin vào Chúa quan phòng không phải là trao hết mọi việc vào tay Chúa rồi sống ỷ lại với tư tưởng: ”Trời sinh voi, trời sinh cỏ” rồi “ngồi há miệng chờ sung rụng”. Tin Chúa quan phòng không được mang tính cách thụ động, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm, càng tin, càng phải đem hết sức mình cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa: biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Ngài dựng nên mọi sự tốt đẹp.

Nếu Đức Giêsu nói: ”Các con không phải làm gì cả, cứ tin vào Chúa quan phòng” thì tại sao trong toàn bộ Thánh Kinh, ngay từ đầu, Thiên Chúa đã nói điều ngược lại? Chương đầu tiên của sách Sáng thế đã cho chúng ta lệnh truyền: ”Hãy thống trị đất và bắt nó pục tùng”.

Thật ra, Đức Giêsu khẳng định: ”Vì thợ đáng được nuôi ăn”(Mt 10,10). Điều này được hiểu ngầm rằng người nào không làm việc, người đó không có quyền ăn như thánh Phaolô kết luận (2Tx 3,10). Và cũng phải đọc lại lời lên án nghiêm khắc của người đã không làm sinh lợi nén bạc mà người đó đã lãnh nhận (Mt 25,14-30). “Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài”.

Vả lại, Ở Nazareth, Đức Giêsu đã có một nghề nghiệp: Ngài đã trải qua kinh nghiệm sống đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Và cũng như 20 gia đình tạo thành ngôi làng nhỏ miền quê ấy, Ngài cũng phải sở hữu ít đồng ruộng và một vài gia súc. Đức Giêsu hoàn toàn biết rằng tiền bạc có ích và cần thiết cho cuộc sống.

Nhà nho cũng hiểu điều đó khi nói: ”Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”: trời hành động kiên cường thế nào thì quân tử cũng phải tự cường, hết sức làm như thế, không ngưng nghỉ. Quân tử là con trời, con vua, là hiền nhân, minh triết, phải biết tri thiên mệnh: biết ý trời, biết mệnh lệnh của trời để làm theo. Tin có thiên mệnh, tin cáo đạo Trời, chính là tin Thiên Chúa quan phòng sắp xếp mọi trật tự cho muôn loài trong trời đất.

Nhà nho chân chính Nguyễn công Trứ luôn luôn kiên cường hành đạo không mỏi mệt, không vụ danh lợi, dù làm tướng, làm quan hay làm lính “vẫn ra tay buồm lái với cuồng phong”. Nhờ thế, ông đã biến biển cả thành nương dâu, đồng ruộng Kim Sơn, Tiền Hải cho nhân dân ấm no. Nhất là ông đã biến những con người yếm thế thành những nam nhi anh hùng: ”Chí những toan xẻ núi lấp sông”, biến những tâm hồn tham danh lợi thành trong sáng thanh tao: ”Chẳng lợi danh gì lại hóa hay”. Một con người đầy chí khí không cầu thành công danh lợi, chỉ cầu thành nhân mưu ích cho đời: ”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.

Đức Giêsu đâu có thành công lúc sinh thời, nhưng đã thành Đấng Cứu Độ của muôn dân.

III. TÌM CÁI ƯU TIÊN CHO CUỘC SỐNG

Trong tất cả các tạo tạo vật nơi vũ trụ và tất cả các sinh vật trên mặt đất, mối quan tâm trước tiên của Chúa là con người, vì con người là một tuyệt tác phẩm của Thiên Chúa. Nếu Chúa quan tâm đến chim trời, đến hoa đồng cỏ nội, thì Chúa còn quan tâm hơn gấp bội đến con người, được tạo dựng giống hình ảnh của Chúa.

Nhưng chúng ta phải đặt vấn đề và giải quyết: Tại sao với đủ mọi thứ bảo hiểm cho thân xác mà ta vẫn cảm thấy bồn chồn lo lắng, chưa có hạnh phúc? Thưa, vì ta thiếu bảo hiểm cho tâm hồn. Khi mà chủ thể, cùng đích và lẽ sống của ta không phải là Chúa nhưng là thứ gì khác, và khi thứ khác đó bị mất đi, ta sẽ ngã gục, vì không còn gì để bám víu. Chúa không muốn ta để cho những hoàn cảnh hay trạng huống của cuộc sống điều khiển và chi phối. Chúa muốn ta sống thế nào để có thể cảm nghiệm được tình yêu và quan phòng của Chúa từ lúc này qua lúc khác, từ ngày nọ qua ngày kia. Để được như vậy, ta cần chiêm niệm Lời Chúa: ”Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn mọi sự khác, Người sẽ ban cho”(Mt 6,33).

Truyện: Nguyên tắc sinh tồn

Một giáo sư thực vật học, tay cầm một hạt giống nhỏ mầu nâu và nói với cả lớp rằng:

-Tôi biết rõ hợp chất của hạt giống này. Nó gồm Hydro, carbon và nitro. Tôi biết đúng tỉ lệ và có thể tạo ra một hạt giống khác trông y như hạt giống này.

Một học sinh đứng lên hỏi:

-Thưa thầy, nếu đem hạt giống thầy chế tạo đó mà gieo xuống đất, nó có thể mọc lên không ạ?

Giáo sư trả lời:

-Với hạt giống của tôi, điều đó không thể được. Nhưng nếu tôi đem hạt giống mà Thiên Chúa đã làm ra, nó sẽ mọc lên thành cây, vì nó chứa đựng nguyên tắc mầu nhiệm mà chúng ta gọi là nguyên tắc sinh tồn.

Hạt giống là một cái gì chứa đựng sự sống. Con người, có thể với sự tài giỏi của khoa học, tạo ra những hạt giống tương tự hoặc tạo ra những người máy robot, song không thể tạo ra được sự sống được. Quyến sống chết chỉ duy nhất ở trong tay Thiên Chúa thôi.

Nếu Chúa đã nói: ”Các con đừng lo lắng về ngay mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó”(Mt 6,34) thì chúng ta phải hiểu là: quá khứ đã qua đi rồi, hãy quên nó đi; hiện tại đang nằm trong tay, phải chu toàn nó; tương lai là của Chúa, hãy phó thác cho Ngài và sống trong an bình thư thái.

Giáo xứ Kim phát- Đà lạt

Tab 3 content place

[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]
[/fruitful_tabs]

 

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*