• Trái Tim Thiên Chúa Thương Xót Tội Nhân-Lm. Anton Độ
  • Niềm Vui viếng thăm - niềm vui chia sẻ-Lm Huệ Minh
  • Nguồn Thương xót-Trầm thiên Thu
  • Khiết Tâm Thương xót-Trầm Thiên Thu
  • Thực thi lòng thương xót-Trầm Thiên Thu
  • CHUYỆN LÒNG THƯƠNG XÓT-Trầm Thiên Thu dịch
  • Thiên Chúa kêu gọi bạn-Trầm Thiên Thu dịch
  • Viếng Thăm Là Dạo Khúc Cho Sứ Vụ Của Chúa Giêsu-Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II
  • Hiệp sống tin mừng-Lm. Đan Vinh, HHTM
  • Tình Yêu Sắt Son- Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
  • Tôn Sùng Khiết Tâm Mẹ-Lm. Minh Vận, CMC
  • Thánh Tâm Chúa Giêsu-Lm. Minh Vận, CMC
  • Người công chính đích thực-Tâm Linh Vào Đời
  • Thiên Chúa là tình yêu-Lm. Phêrô Nguyễn văn Quang

TRÁI TIM THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT TỘI NHÂN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Antonius-Do300

Suy Niệm lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu Năm – C

(Lc 15, 3-7)

Thứ Sáu sau lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cử hành lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu với lòng biết ơn sâu xa đối với Chúa là Đấng có Trái Tim đầy lòng thương xót đối với tội nhân. Chính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu khi còn trên Thánh Giá đã bị đâm thâu vì tội lỗi chúng ta (Ga 19, 31-37). Hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thánh hóa các linh mục. Chúng ta hãy xin với Chúa Ba Ngôi, cho Giáo hội có thêm nhiều ơn gọi thánh thiện. Đời nọ tới đời kia, Thánh Tâm Chúa vẫn hằng nuôi dưỡng ý định cứu dân Người khỏi tay thần chết và nuôi sống trong cảnh cơ hàn. (Ca nhập lễ)

« Người ấy mừng rỡ, và vác chiên lên vai »

Đây là một hành động tuyệt đẹp phát xuất từ trái tim của người chăn chiên (mừng rỡ) khi tìm thấy chiên lạc và (vác chiên lên vai).  Đoạn văn ngắn ngủi này (Lc 15, 3-7) không ngừng gây xúc động cho con người, và gợi lên nhiều ý nghĩa mới mỗi lần cho người đọc cũng như người nghe. Nó có sức nói về Thiên Chúa, đúng hơn, cho chúng ta biết khuôn mặt của Thiên Chúa là Cha Đấng giầu lòng thương xót, và hơn thế nữa, Trái Tim của Thiên Chúa nhân hiền, vì yêu thương đã tạo dựng nên chúng ta và cho chúng ta có trái tim, Người cũng đau khổ khi chúng ta lầm lạc và ăn mừng khi chúng ta trở về : « Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc! » (Lc 15, 6). Dựa vào lời Chúa Giêsu, ta thấy tình yêu của Thiên Chúa được cụ thể hóa hơn : « Trên Trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải» (Lc 15, 7).

Quả thật, trái tim của Thiên Chúa rung động vì cảm thương! Tình thương ấy thể hiện qua sự sẵn sàng tha thứ, nhẫn nại đợi chờ tội nhân trở về, không khinh rể kẻ có tội, nhưng sẵn sàng hạ mình, cất công đi tìm kiếm, vui mừng khi tìm thấy, tha thứ và đưa chiên về đàn. Thiên Chúa đi tìm kiếm tội nhân không phải vì Thiên Chúa cần gì nơi họ, nhưng chỉ vì Thiên Chúa muốn ban phát một tình yêu vô điều kiện và chia sẻ hạnh phúc cho người Chúa yêu thương. Thiên Chúa muốn ôm ấp tội nhân vào lòng, để ngực áp ngực sao cho họ cảm nhận được nhịp đập yêu thương của Trái Tim Chúa. Một Trái Tim không đầu hàng trước sự vô ơn bạc nghĩa, kể cả từ chối lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Trong Trái Tim Chúa Giêsu chứa đựng nòng cốt của Kitô giáo.

Mỗi lần chiêm ngắm tượng, ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta thấy nổi bật hơn cả ngoài Trái Tim bị đâm thâu, là ngọn lửa bốc cháy, để « Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta. » (Rm 5, 8). Còn có đôi bàn tay với những vết đanh. Chúng ta đặt mình trước Thánh Tâm Chúa và tự hỏi : Bàn tay con, lạy Chúa, đã làm những gì không phải, khiến bàn tay Chúa bị đanh đóng, và bàn chân con, đã bước đi những bước chẳng lành, để Chúa bị đóng đanh cả chân lẫn tay vào Thập giá? Câu trả lời, vì tội lỗi chúng ta, vì Chúa yêu thương loài người ta quá bội.

Biểu tượng tình yêu ấy đi xa hơn cái chết chính là cạnh sườn của Chúa bị một lưỡi đòng đâm thâu qua. Về điểm này, chứng nhân tận mắt là thánh Tông đồ Gioan đã quả quyết: « Một trong những người lính lấy đòng đâm vào cạnh sườn Người, và tức thì máu cùng nước chảy ra » (x. Ga 19,34). Lưỡi giáo của tên lính đã mở cạnh sườn Chúa, để từ vết thương máu cùng nước chảy ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi. Sau cùng, Chúa đã chết để cho chúng ta được sống, bị chôn vùi để chúng ta được phục sinh.

Còn tình yêu nào ngọt ngào êm dịu hơn, đã được trao cho Hiền Thê ; đó chính là sự mở rộng vòng tay ôm chặt của tình yêu Chúa…Tình yêu tên trộm lành đã nhận được khi xưng thú tội lỗi ; Phêrô đã nhận được khi liếc mắt nhìn Chúa và khóc lóc van xin sau khi chối Chúa, đúng là từ ánh mắt đến trái tim. Có nhiều kẻ đóng đinh Chúa đã trở lại với Chúa sau khi Chúa Phục sinh, họ đã giao ước với Chúa bằng tình yêu. Khi Chúa ôm hôn những người tội lỗi và thu thuế, Chúa đã trở thành bạn hữu của họ và khách họ mời dự tiệc…

Vậy, Chúa đã làm gì để đưa họ về với Chúa, nếu không phải là Trái tim Chúa lôi kéo ? Trái tim Chúa Giêsu là Trái tim dịu hiền do Thần Linh ban tặng! Phúc cho những ai giữ kín trong lòng, họ được ấp ủ bởi Chúa, trong Trái tim Chúa, họ sẽ được Chúa vác trên vai, tránh khỏi những rắc rối ở đời này. Phúc cho những ai hy vọng vào  sự ấm áp và chở che dưới cánh tay Chúa.

Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, cũng là ngày cầu cho ơn thánh hóa các linh mục. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Chức linh mục là tình yêu của Trái Tim Chúa Giêsu” (số 1589).

Giáo Hội đang cần những linh mục thánh thiện; cần những thừa tác viên giúp các tín hữu cảm nghiệm lòng từ bi thương xót của Chúa và những chứng nhân đầy xác tín về tình yêu này. Xin Chúa làm cho con tim của mỗi linh mục được nồng cháy tình bác ái mục tử, có khả năng đồng hóa cái tôi của mình với cái tôi của Chúa Giêsu Linh Mục, để có thể noi gương Chúa trong sự tự hiến hoàn hảo nhất, xứng đáng là thừa tác viên của lòng thương xót Chúa. Amen.

NIỀM VUI VIẾNG THĂM – NIỀM VUI CHIA SẺ

Lm Huệ Minh

Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng

Hôm nay, cùng với Giáo Hội, ta mừng biến cố hay nói đúng hơn là kỷ niệm cuộc thăm viếng của Đức Mẹ đến với bà chị họ Isave.

Ta thấy thoạt khi nhận được lời truyền tin của Sứ thần, Mẹ Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu thế. Cùng lúc ấy, và người chị họ của Mẹ cũng đang cưu mang một người con trai do quyền năng và tình thương của Thiên Chúa ban cho hai ông bà Zacaria và Isave. Trong hoàn cảnh như vậy, Mẹ Maria đã vội vã lên đường đi thăm bà chị ho của mình, một cuộc thăm viếng thánh thiện và mang nhiều ý nghĩa cao quý.

Mẹ Maria vội vã đi thăm bà Isave để chung chia niềm vui thánh thiện, hồng ân thánh thiện, quà tặng thánh thiện cả hai chị em nhận được. Hồng ân thánh, niềm vui thánh đó là cả hai chị em đều mang thai cách lạ và để giúp đỡ bà chị họ trong tuổi già.

Thánh sử Luca không nói tên địa danh mà bà Isave ở là thành Ain-Karim miền phụ cận Giêrusalem, mà chỉ nói: “Một thành xứ Giuđa miền sơn cước”. Ngôn sứ Isaia dường như diễn tả những bước gót sen của Mẹ Maria trong dịp này từ thuở trước cách tuyệt vời : “Đẹp thay trên các núi non, chân người sứ giả, kẻ loan báo bình an, kẻ loan tin mừng, kẻ loan báo ơn cứu độ và nói với Sion: Thiên Chúa của ngươi là Vua” (Is 52, 7).

Cuộc ra đi vội vã để thăm viếng người chị họ Isave của Mẹ Maria cũng chỉ đơn thuần là một cuộc thăm viếng như bao cuộc thăm viếng khác trong tình chị em mà thôi. Thật sự, trong thâm tâm, Mẹ Maria ý thức rằng, người chị họ Isave đang rất cần sự trợ giúp vì bà Isave mang thai trong lúc tuổi già và sắp sinh con.

Chính vì vậy, Mẹ Maria vội vã đến với bà Isave chỉ vì muốn giúp người chị họ của mình một tay trong lúc tạm gọi là “dầu sôi lửa bỏng”, trong lúc sinh con. Cuộc thăm viếng của Đức Maria mang đầy tình tương thân tương ái.

Với hình ảnh, với tấm lòng của Mẹ Maria chạnh thương với người chị họ ta cũng có dịp để nhìn lại bản thân của ta. Ta còn cảm thức thật sự cảnh bối rối, neo đơn của người khác để sẵn sàng và vội vã đến với họ không? Hay trong xã hội náo nhiệt này, chúng ta chỉ biết sống cho mình: “đèn nhà ai nấy sáng” hay “sống chết mặc bây”.

Chuyến viếng thăm của Mẹ Maria không chỉ dừng lại ở cuộc thăm viếng bình thường mà Mẹ mang Chúa đến cho gia đình bà Isave nữa.

Hẳn ta còn nhớ trong thời Cựu Ước, Hòm Bia Thiên Chúa lưu lại 3 tháng tại nhà ông Ôveđ Êđom và Chúa đã ban cho gia đình ông rất nhiều phúc lộc, thì việc lưu lại 3 tháng của Đức Maria với Chúa Giêsu trong lòng cũng mang lại bình an và niềm vui cho gia đình ông Dacaria rất nhiều. “Bởi đâu tôi được Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào , thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (Lc 1, 43-44). Chúa Giêsu đã thi hành sứ mạng cứu thế của Ngài trước khi sinh ra: Ngài đã thánh hoá Gioan Tẩy giả ngay lúc còn trong bụng mẹ. Và Gio-an cũng đã thi hành sứ vụ tiền hô của mình là nhảy mừng khi Đấng Cứu Thế đến.

Mẹ Maria hiện diện một cách linh thiêng giữa chúng ta. Chúng ta chiêm ngưỡng Mẹ với cùng một cặp mắt mà bà Isave đã nhìn xem Mẹ khi Mẹ vội vã tới viếng thăm bà, và nghe lời Mẹ chào bà thì bà nói: “Ngay lúc tiếng em chào vừa đến tai chị, thì hài nhi trong dạ chị liền nhảy mừng” (Lc 1, 44). Niềm vui bà Isave cảm thấy nêu bật ân huệ có thể ẩn chứa trong lời chào mừng, khi lời chào đó do một tấm lòng tràn đầy Thiên Chúa. Những bóng tối của tình trạng cô độc đè nén một tâm hồn, thường có thể bị tia sáng một nụ cười và một lời nói âu yếm phá tan.

Isave đã đáp lại lời chào mừng của Đức Trinh Nữ rất chân thành, tự đáy lòng của bà, bà nói : “Phúc cho em là người đã tin mọi điều Chúa phán truyền cho em sẽ được ứng nghiệm” (Lc 1, 45). Những lời này được nói ra do Chúa Thánh Linh và đề cao nhân đức cốt yếu của Mẹ Maria là “đức tin”.

Mang thai nhi Giêsu, Mẹ Maria là một dụng cụ ban phúc lành cho bà Isave và thai nhi của bà. Qua lời chào của Mẹ Maria, lời tiên tri của thiên thần được thực hiện: “Từ trong lòng mẹ, nó sẽ được đầy tràn Thánh Thần” (Lc 1, 15).

Nhận biết Chúa Giêsu trong cung lòng Mẹ Maria, bà Isave lên tiếng ca khen Mẹ và Con lòng Mẹ, rồi bà tỏ ra vinh dự được Mẹ Chúa đến viếng thăm. Lời ca khen của bà Isave vọng vang lời thượng tế ca ngợi bà Giuđitha: “Phúc cho con nơi Đấng tối cao, hơn mọi người nữ” (Gđt 13, 18). Bà Giuđitha, chém đầu tướng Holoferne để giải cứu dân của bà, là hình ảnh Mẹ Maria trong nhiệm cuộc giải thoát nhân loại (Lc 24, 21).

Mẹ Maria có thể không sợ hãi nhờ niềm tin của Mẹ, Mẹ đã tin rằng Thiên Chúa muốn “mặc xác phàm và đến ở giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Người muốn ẩn mình trong đời sống thường ngày vô nghĩa của chúng ta, và mặc lấy nhân tính yếu hèn phải chịu nhiều điều kiện mất thể diện. Mẹ Maria đã dám tin vào điều không thể dưới cái nhìn của người đời là không thể còn Chúa thì có thể làm tất cả mọi sự Ngài muốn. Mẹ tin cậy vào Đấng toàn năng và trở thành người cộng tác vào sáng kiến lạ lùng của Thiên Chúa đã mở ra niềm hy vọng cho lịch sử chúng ta.

Mẹ Maria viếng thăm, phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Isave. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương  cho mọi tín hữu noi theo Mẹ. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau. Chia sẽ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của con cái Chúa.

Nhìn lên gương của Mẹ, ta xin giúp cho ta biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh ta. Xin giúp ta biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu để năng đến gặp gỡ, thăm viếng nhau, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của anh chị em. Xin giúp ta luôn biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để giúp đỡ  những nhu cầu chính đáng của anh chị em đồng loại đang sống cạnh  ta.

NGUỒN THƯƠNG XÓT

Trầm thiên Thu

ows_145226988453553

(Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, năm C)

Trong thời gian từ 1968-1969, Chúa Giêsu đã mặc khải cho Mẹ Carmel tại Milan (Ý). Ngày 20-4-1968, Mẹ Carmel hỏi Ngài: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn con làm gì?”. Chúa Giêsu nói: “Hỡi con gái của Cha, con hãy viết. Con sẽ làm Tông đồ Tình Yêu Đầy Thương Xót của Cha. Cha sẽ chúc lành cho con. Và Cha sẽ đổ xuống trên con muôn vàn ơn Thánh, và những ân thưởng lớn lao. Cha cám ơn con đã phổ biến Thánh Nhan của Ta. Ta sẽ chúc lành cho các gia đình trưng bày hình ảnh của Ta, và Ta sẽ cải hoán những kẻ tội lỗi sống trong các gia đình đó. Ta sẽ giúp kẻ lành tự cải tiến thêm, và những kẻ nguội lạnh trở nên sốt sắng hơn. Ta sẽ để mắt đến các nhu cầu của họ, và sẽ giúp họ trong mọi sự cần thiết, vật chất cũng như siêu nhiên”. Rồi Ngài đã xác định: “TA LÀ GIÊSU ĐẦY LÒNG THƯƠNG XÓT”.

Khi mặc khải Thánh Tâm cho Thánh nữ Margaritta Maria Alacoque (Marguerite Marie Alacoque, 1647-1690), một nữ tu khiêm nhường của Dòng Thăm Viếng ở Paray-le-Monial (Pháp quốc), Chúa Giêsu đã cho thánh nữ thấy Thánh Tâm Ngài có lửa cháy, bị vòng gai quấn quanh và bị lưỡi gươm đâm thâu. Lần hiện ra quan trọng xảy ra trong tuần bát nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu (Corpus Christi) năm 1675 – có thể là ngày 16 tháng Sáu, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Hãy ngắm nhìn Thánh Tâm Ta yêu thương nhân loại biết bao… Nhưng thay vì được lòng biết ơn, Ta chỉ nhận được sự vô ơn…”. Chúa Giêsu đã yêu cầu Thánh nữ vận động thiết lập lễ kính Thánh Tâm vào Thứ Sáu sau lễ kính Mình Máu Thánh. Và ngày 11-6-1899, theo lệnh của ĐGH Lêô XIII, cả thế giới đã được tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Thánh Tâm Chúa Giêsu là Trung Tâm Thương Xót, nơi tuôn chảy Nguồn Tình với hai dòng Máu và Nước – như đã được mặc khải cho Thánh nữ Maria Faustina Kowalska (còn gọi là Thánh Faustina Thánh Thể, OLM, 1905-1938).

Ai cũng có tim nhưng không ai thấy tim. Mặc dù tim không nhìn thấy nhưng khả dĩ cảm nhận, và tim là một cơ phận rất quan trọng, vì tim là trung tâm phân phối sự sống. Tim còn đập là còn sống. Tim hoạt động âm thầm nhưng nuôi sống cả cơ thể. Mặc dù não là trung tâm điều khiển – ví như bộ tổng tham mưu, nhưng vẫn phải nhờ tim bơm máu. Người ta có thể chết lâm sàng chứ chưa chết thật bởi vì tim còn hoạt động, dù nhịp đập rất yếu. Những người bị chứng bại não, sống đời thực vật, không biết phân biệt điều gì, nhưng họ vẫn sống nhờ tim vẫn hoạt động. Chừng nào tim ngừng đập thì sự sống mới chấm dứt!

Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mọi hồng ân, là nguồn cứu độ, là mạch thương xót, là suối yêu thương, vì chính Thánh Tâm đã tuôn trào Nước và Máu để tẩy rửa và cứu độ các tội nhân – trong đó có mỗi người chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11:28-30). Không ai lại không đau khổ, yếu đuối, mệt nhọc, tội lỗi,… thế nên không thể không cần Thánh Tâm Chúa Giêsu và Lòng Chúa Thương Xót.

Đừng bao giờ quên rằng Chúa Giêsu luôn mong muốn chúng ta trú ngụ nơi Thánh Tâm Ngài, không chỉ ghé thăm mà ở lại đó mãi mãi: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Ước gì mỗi chúng ta biết tìm về nghỉ ngơi nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu – Cao Nguyên Yêu Thương và Đại Dương Thương Xót!

Ơn cha mẹ mà chúng ta đáp đền cả đời còn chưa cân xứng huống chi Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Nhưng thật là diễm phúc cho chúng ta vì Chúa Giêsu đã xác nhận: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5:32). Ngài đến thế gian để TÌM và CỨU những gì đã mất (Lc 19:10), chỉ cần chúng ta tin vào tình yêu cao cả của Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ không thất vọng. Chỉ có chúng ta rời bỏ Chúa chứ Chúa không bao giờ rời xa chúng ta!

Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng miệng lưỡi ngôn sứ Êdêkien để mặc khải Thánh Ước: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng. Ta sẽ chăn dắt chúng trên các núi Ít-ra-en, trong các thung lũng và tại mọi nơi trong xứ có thể ở được” (Ed 34:11-13). Đó là lời hứa chắc chắn, vì Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín trong mọi lời nói và mọi việc làm. Thật tuyệt vời!

Hồng ân nối tiếp hồng ân, Ngài lại tiếp tục thề hứa: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34:14-16). Thật hạnh phúc khi được nương bóng cánh của vị mục tử như vậy! Nhưng lại thật bất hạnh nếu chúng ta cố chấp, như Chúa đã cảnh báo: Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu (Mt 23:37; Lc 13:34).

Nếu thực sự có niềm tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, chúng ta khả dĩ tự nhủ và xác định với mọi người điều này: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (Tv 23:1), và có thể tự hào nói: “Chúa là gia nghiệp đời tôi” (Tv 16:5). Đó cũng là một cách tuyên xưng Lòng Chúa Thương Xót.

Nói về đức tin, Thánh Phaolô giải thích rạch ròi: “Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên thì có quyền trông cậy (Rm 5:2-4). Quả thật, đây là một chuỗi hệ lụy vô cùng kỳ diệu!

Còn nữa, và cũng để cho chúng ta an tâm, thánh nhân tiếp tục giải thích “dài hơi” thêm một chút: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ Máu Đức Kitô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa” (Rm 5:5-9).

Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót, hết lòng yêu thương muôn loài, đặc biệt là những kẻ xấu xa nhất, thậm chí Ngài còn chết vì họ – tức là chúng ta. Theo thế gian, cách yêu như vậy bị coi là mù quáng, ngu xuẩn, điên rồ,… Chắc hẳn chỉ có người điên mới hành động như thế. Vậy mà Chúa Giêsu đã yêu như thế. Nếu Ngài không “yêu điên rồ” như vậy thì chúng ta làm sao có được ngày nay?

Quả nhiên là vậy, “nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Ngài, phương chi bây giờ chúng ta đã được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy” (Rm 5:10). Mà không phải chỉ có thế, Thánh Phaolô xác định: “Chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5:11).

Trình thuật Tin Mừng hôm nay (Lc 15:3-7) khá ngắn gọn, chỉ có 128 từ (theo bản dịch Việt ngữ, bản của VietCatholic). Đoạn Tin Mừng này là một trong các dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót.

Một hôm, nhóm Pharisêu và các kinh sư xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Những người Pharisêu và các kinh sư là ai? Đó là những nhà thông luật, giữ luật nghiêm túc hơn người, giỏi giang hơn người, đạo đức hơn người, nói năng lưu loát hơn người, sang trọng hơn người, địa vị hơn người, quyền lực hơn người,… thậm chí có thể có ngoại hình “dễ nhìn” hơn người và giàu có hơn người, nhưng cũng hợm hĩnh, ỷ lại, hống hách và kiêu ngạo hơn người. Ngày nay người ta gọi dạng đó là “chảnh”. Nói chung, cái gì ở họ cũng hơn người ráo trọi!

Nhóm Pharisêu và các kinh sư kia cũng chẳng ai xa lạ, tức là chính chúng ta ngày nay, chứ chẳng ai trồng khoai đất này đâu!

Thấy vậy, Đức Giêsu mới kể cho dụ ngôn này: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”. Vậy, tôi nói cho các ông hay: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.

Người ta luôn thấy những “cái lạ” ở Chúa Giêsu, và người ta cảm thấy khó chịu. Vâng, Ngài lại gây “sốc” vì nói điều “nghịch nhĩ” quá! Ngài “điên” thật rồi! Có 99 con chiên béo tốt mà dám bỏ để cố gắng đi tìm duy nhất con chiên yếu đuối, bệnh hoạn, xấu xí,… Quả thật, chúng ta không thể nào hiểu nổi! Nhưng cũng chính nhờ cách “yêu điên” ấy của Chúa Giêsu mà chúng ta mới được phục hồi cương vị làm con và đồng hưởng thừa kế gia sản Nước Trời đấy!

Mẹ Teresa Calcutta (1910-1997, MC – Missionaries of Charity, Thừa Sai Bác Ái, sẽ được tuyên hiển thánh ngày 4-9-2016) xác định “chuỗi hệ lụy” rất kỳ diệu: “Kết quả của IM LẶNG là CẦU NGUYỆN, kết quả của CẦU NGUYỆN là ĐỨC TIN, kết quả của ĐỨC TIN là TÌNH YÊU, kết quả của TÌNH YÊU là PHỤC VỤ, kết quả của PHỤC VỤ là BÌNH AN”.

Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn êm ái dịu dàng, con thành tâm xin lỗi Ngài vì con đã thường xuyên quên Ngài, thế nhưng Ngài vẫn không ngừng thương xót con, mặc dù con chẳng là gì và hoàn toàn bất xứng. Xin giúp con nhận biết Chúa và nhận biết chính con, nhờ đó con có thể yêu mến Ngài trọn vẹn. Xin ân thương và tha thứ những thiếu sót của con, lạy Đấng giàu lòng thương xót, và xin dạy con biết cách “yêu điên” của Ngài. Xin Nước và Máu Thánh Ngài tẩy rửa cuộc đời con, và xin cho con cũng được vĩnh cư nơi Thánh Tâm Ngài, hôm nay và mãi mãi. Ngài là Đấng hằng sống, hiển trị cùng Chúa Cha và hiệp nhất với Chúa Thánh Thần muôn đời. Amen.

KHIẾT TÂM THƯƠNG XÓT

Trầm Thiên Thu

ows_145226988453553

(Lễ Khiết Tâm Đức Mẹ – Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ)

Trong “Kinh Cầu Đức Bà”, Đức Maria được tôn xưng là “Tòa Đấng Khôn Ngoan – Sedes Sapientiae”. Cụm từ “Sedes Sapientiae” có nghĩa là “Ngai Tòa Khôn Ngoan” hoặc “Chỗ Ngồi Trí Tuệ”. Danh xưng này đã được Peter Damiani và Guibert de Nogent sử dụng từ thế kỷ XI và XII, để ví Đức Maria như ngai tòa của Vua Salômôn, với ngụ ý rằng Đức Maria là người cưu mang Đức Giêsu – Con Thiên Chúa. Thật vậy, Đức Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Thánh Mẫu của Thiên Chúa, là Người-Mang-Thiên-Chúa – Theotókos.

Chúng ta thấy có sự hợp lý kỳ diệu: Ngay sau lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu là lễ Khiết Tâm Đức Maria. Tôn kính Con rồi tôn kính Mẹ. Có Con là có Mẹ, có Mẹ là có Con. Mẹ là tất cả của Con, và Con là tất cả của Mẹ. Cuộc sống đời thường cũng vẫn như vậy! Chúng ta có người-mẹ-trần-gian là cảm thấy hạnh phúc lắm rồi, chúng ta còn hạnh phúc tột cùng vì có Người-Mẹ-Tâm-Linh là Đức Trinh Nữ Maria, Đóa Hồng Mầu Nhiệm của Thiên Chúa.

Khiết Tâm là Mẫu Tâm, là Trái Tim Vẹn Sạch hoặc Trái Tim Vô Nhiễm. Mẫu Tâm Đức Maria là Trái Tim tinh tuyền, không bợn nhơ, kể cả Nguyên Tội – gọi là Vô Nhiễm Nguyên Tội. Kinh cầu Đức Bà liệt kê nhiều điều về Đức Maria: “Đức Bà là Tòa Đấng Khôn Ngoan, Đức Bà như Hòm Bia Thiên Chúa, Đức Bà là Cửa Thiên Đàng, Đức Bà như Sao Mai sáng,…”. Có lẽ Đức Mẹ là người được tôn xưng bằng nhiều danh hiệu nhất, không chỉ vì Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa mà còn vì Đức Mẹ trọn hảo. Đức Mẹ thật cao trọng nhưng lại rất khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là “nữ tỳ của Chúa” (Lc 1:38). Đức Mẹ vô cùng khôn ngoan, vô cùng khiêm nhường – nhân đức được Thiên Chúa yêu quý.

Sách Huấn Ca cho biết: “Đức Khôn Ngoan tự biểu dương và hãnh diện ở giữa dân mình. Khôn ngoan lên tiếng trong đại hội của Đấng Tối Cao và hãnh diện trước quyền uy của Người” (Hc 24:1-2). Đức khôn ngoan biểu hiện Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng Khôn Ngoan. Sách Huấn Ca nói rõ: “Duy có mình Ta đi vòng cả bầu trời và rảo bước khắp vực sâu thăm thẳm. Trên sóng biển, trên toàn cõi đất, trên mọi nước mọi dân, Ta nắm trọn chủ quyền. Giữa chúng hết thảy, Ta tìm chốn nghỉ ngơi, xem có gia nghiệp của ai để Ta cư ngụ” (Hc 24:5-7). Sự khôn ngoan rất quan trọng, được coi là một nhân đức. Thánh vương Sa-lô-môn đã biết mơ ước được ơn khôn ngoan (1 Sbn 22:12), rồi xin Chúa ban cho sự khôn ngoan và hiểu biết (2 Sbn 1:10) chứ không xin gì khác. Vì thế, “Thiên Chúa cho vua Sa-lô-môn được dồi dào khôn ngoan, thông thạo, và một trái tim bao la như cát ngoài bãi biển” (1 V 5:9).

Đức Maria là Ngai Tòa của Đấng Khôn Ngoan, là Nhà Tạm đầu tiên từ khi “xin vâng”, và Đức Mẹ được mệnh danh là Theotókos (Θεοτόκος), nghĩa là Người-Mang-Thiên-Chúa. Biết xin vâng là sự khôn ngoan của Trinh Nữ Maria.

Tiếp tục nói về đức khôn ngoan, sách Huấn Ca cho biết chi tiết: “Ta đâm rễ sâu giữa một dân hiển hách, trong phần riêng của Đức Chúa, cũng là sản nghiệp của Người. Ta đã vươn lên tựa cây bá hương vùng Li-băng, tựa cây trắc bá núi Khéc-môn. Ta đã vươn lên như cây chà là ở Ên Ghe-đi, như những khóm hồng ở Giê-ri-khô, như cây ô-liu xanh tốt giữa cánh đồng. Như cây tiêu huyền, Ta đã vươn lên. Như cây quế, như tước sàng, Ta nức hương ngào ngạt, Ta toả hương thơm ngát như mộc dược quý, như phong tử hương, mã não, an tức hương, như khói hương nghi ngút trong lều, Ta vươn nhánh ra như cây nhựa điều, nhánh của Ta là nhánh vinh quang tươi đẹp” (Hc 24:12-16).

Sự khôn ngoan thật là cao xa, sâu thẳm, bao la và vô cùng: “Người đầu tiên chẳng biết hết khôn ngoan, kẻ cuối cùng cũng không hiểu thấu được. Vì tư tưởng của khôn ngoan rộng hơn đại dương, ý định của khôn ngoan sâu hơn vực thẳm. Phần tôi, tôi như kênh đào chảy từ sông lớn, như con lạch dẫn nước tới địa đàng” (Hc 24:28-30). Sự khôn ngoan thật kỳ diệu, nhưng phải là sự khôn ngoan từ Thiên Chúa, chứ sự khôn ngoan của loài người chẳng nghĩa lý gì. Thánh Phaolô đã so sánh: Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25).

Thi sĩ Paul Éluard (1895-1952, người Pháp, tên thật là Eugène Émile Paul Grindel) đã có cách lý luận độc đáo: “Sự khôn ngoan khiến người ta tồn tại, còn sự đam mê khiến người ta sống”. Tất nhiên chỉ hiểu theo nghĩa đời thường, nhưng ở một “góc độ” nào đó, cũng có lý. Ngày xưa, bà Anna cũng đã khôn ngoan khi bà cầu nguyện và nói: “Tâm hồn con hoan hỷ vì Đức Chúa, nhờ Đức Chúa, con ngẩng đầu hiên ngang” (1 Sm 2:1a).

Thiên Chúa là Đấng vừa hiền lành vừa khiêm nhường, nên Ngài hạ bệ bất kỳ ai dữ tợn và kiêu căng: “Cung nỏ người hùng bị bẻ tan, kẻ yếu sức lại trở nên hùng dũng. Người no phải làm mướn kiếm ăn, còn kẻ đói được an nhàn thư thái. Người hiếm hoi thì sinh năm đẻ bảy, mẹ nhiều con lại ủ rũ héo tàn” (1 Sm 2:4-5). Ý tưởng này cũng được Đức Maria đề cập trong bài Magnificat khi đến thăm Chị Ê-li-sa-bét (Lc 1:46-55).

Thiên Chúa toàn năng, mọi sự đều có thể đối với Ngài. Ngài là Đấng Tự Hữu và Hằng Sinh, Ngài là Tạo Hóa vì Ngài tạo dựng muôn loài, nghĩa là Ngài có mọi quyền trên trời và dưới đất: “Đức Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên. Đức Chúa bắt phải nghèo và cho giàu có, Người hạ xuống thấp, Người cũng nhắc lên cao. Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với hàng quyền quý, tặng ngai vinh hiển làm sản nghiệp riêng. Vì nền móng địa cầu là của Đức Chúa, Người đặt cả hoàn vũ lên trên” (1 Sm 2:6-8). Tuy nhiên, Thiên Chúa dùng quyền để nâng đỡ, yêu thương và cứu thoát chúng ta, chứ Ngài không dùng quyền để “hành” chúng ta như phàm nhân chúng ta vẫn thường áp dụng, và khoái làm như vậy.

Đức Mẹ hẳn là người điềm đạm và trầm tính, bởi vì Đức Mẹ luôn “ghi nhớ mọi kỷ niệm và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19). Đức Mẹ im lặng để cầu nguyện và kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Đời sống cầu nguyện rất quan trọng đối với các Kitô hữu, vì thế chúng ta phải không ngừng học tập và noi gương Đức Mẹ.

Thánh Phaolô nói: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1:3-6). Chắc chắn ca tụng Chúa phải là nhiệm vụ quan trọng và là bổn phận hàng đầu của chúng ta. Đức Mẹ đã im lặng để hoàn tất công việc này.

Để minh chứng, Thánh Phaolô giải thích: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người” (Ep 1:11-12). Đức Mẹ đã bối rối và rất ngạc nhiên khi Sứ thần Gáp-ri-en báo tin được tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa, nhưng Đức Mẹ đã vui mừng chấp nhận mà không chút so đo, bởi vì Đức Mẹ hoàn toàn tin vào sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa. Trái Tim Đức Mẹ trong suốt ánh đức tin và tỏa sắc màu yêu mến.

Thánh sử Luca cho biết: Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm (Lc 2:41-45). Cha mẹ luôn lo cho con cái, đặc biệt là trái tim người mẹ sẽ không thể yên được khi chưa biết con cái đang làm gì và ở đâu, có được bình an hay không.

Ngược xuôi khắp nơi suốt ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy Con Trai trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Thở phào nhẹ nhõm. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Họ ngạc nhiên vì biết Chàng Trai Giêsu là con ai và ở đau, nhưng đâu ai có thể ngờ rằng chính Chàng Trai Giêsu đó lại là Đấng Khôn Ngoan, là Con Thiên Chúa.

Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và Đức Mẹ nói với Con Trai Giêsu: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:48). Đức Mẹ không thể im lặng lúc này, vì trái tim người mẹ chịu bất an mấy ngày qua rồi, khổ lắm. Chắc hẳn Đức Mẹ cũng đã khóc sưng cả mắt thôi. Đức Thánh Giuse không nói gì, hoàn toàn im lặng. Tình cha thâm trầm lắm, nhưng lòng cha cũng bồn chồn đâu kém lòng mẹ. Mất con thì có người mẹ nào thản nhiên được!

Dĩ nhiên Chúa Giêsu biết rõ cha mẹ lo lắng lắm nên cũng thương lắm chứ, nhưng Ngài vẫn nói: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2:49). Vì “bổn phận ở nhà Cha” còn cần hơn, vì là nhiệm vụ tối quan trọng. Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói. Dĩ nhiên là vậy, vì hai vị cũng chỉ là thụ tạo, chưa thể hiểu được. Nói là nói vậy thôi, nói để cha mẹ biết, Ngài thương cha mẹ nên liền “đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2:51a). Riêng Đức Mẹ thì “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2:51b). Tình Mẹ cũng thâm trầm lắm!

Có thể nói rằng chưa có ai trên đời này hiểu được lý lẽ của trái tim người mẹ. Trái tim người mẹ trần gian còn chưa hiểu nổi, huống chi Trái Tim Người Mẹ tâm linh – Trái Tim Từ Mẫu Maria. Là người cổ võ lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẫu Tâm Đức Maria, Thánh Gioan Eudes (1601-1680) nói: “Trái Tim Mẹ Maria là Trái tim Giáo Hội chiến đấu, Giáo Hội tẩy luyện và Giáo Hội vinh thắng”.

Cha mẹ sinh dưỡng và hy sinh cả đời vì con cái, nhưng không mong con cái đáp lại. Mà con cái cũng không bao giờ có thể đền đáp công lao cha mẹ. Để báo hiếu cha mẹ, con cái phải biết sống cho nên người, có thể không thành công nhưng phải thành nhân. Đó là báo hiếu cha mẹ. Và cha mẹ cũng chỉ mong con cái mình như thế.

Tương tự, để tỏ lòng kính yêu Đức Mẹ và thành tâm tôn sùng Mẫu Tâm (một trong ba mệnh lệnh Fátima), chúng ta phải nỗ lực noi gương Chúa Giêsu, nghĩa là không ngừng cố gắng “ngày càng thêm khôn ngoan và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2:52). Được như vậy là chúng ta làm vui lòng Đức Mẹ rồi đấy!

Đức Mẹ là Nữ Tỳ của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, nghĩa là Đức Mẹ cũng là Nữ Tỳ của Lòng Chúa Thương Xót. Vì vậy, Đức Mẹ là Mẹ Thương Xót. Thật tuyệt vời với cách so sánh của Thánh Bê-na-đô: “Thiên Chúa đã quy tụ tất cả nước lại một nơi gọi là biển, và Ngài quy tụ mọi ân sủng nơi một người là Mẹ Maria”.

Lạy Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, xin giúp con chỉ tôn thờ một mình Ngài và tuân phục Thánh Ý Ngài mọi nơi và mọi lúc, như Đức Mẹ đã chu toàn khi còn tại thế. Lạy Thánh Mẫu Thương Xót, xin giúp con biết mau mắn “xin vâng” như Mẹ và sống khiêm nhường trọn cuộc lữ hành trần gian. Chúa và Mẹ là Đấng Thánh, xin cũng biến niềm khao khát nên thánh của con thành sự thật. Con thành tâm tha thiết cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ của con. Amen.

THỰC THI LÒNG THƯƠNG XÓT

-Trầm Thiên Thuows_145226988453553

(Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng Thánh Isave)

THƯƠNG thì THĂM. Chắc chắn là thế. Chứ không thương thì người ta không muốn thăm nhau. Như vậy, THĂM VIẾNG cũng là THƯƠNG XÓT, thương yêu, thương cảm, quý mến, và là cách thực thi Lòng Thương Xót theo lệnh truyền của Thiên Chúa.

Thăm viếng nhau còn có mục đích là an ủi nhau, động viên nhau và giúp đỡ nhau, đặc biệt là đối với các bệnh nhân, người già yếu, người khuyết tật, người gặp hoạn nạn, các thai phụ,… Nói chung, quá trình thăm viếng đó được bắt đầu từ đức ái, điều mà Thánh Phaolô đã đề cập: “Hãy làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:16).

Nói vậy nghe thấy dễ lắm, nhưng thực hành lại không dễ chút nào. Để có thể thăm viếng nhau như vậy, người ta phải có lòng khiêm nhường, như mầu nhiệm thứ hai trong Mùa Vui của Kinh Mai Côi, chúng ta tha thiết cầu nguyện: “Đức Mẹ thăm viếng Thánh Isave, xin cho con được lòng khiêm nhường”. Quả thật, đức khiêm nhường rất quan trọng vì đó là nên tảng của mọi nhân đức.

Như chúng ta đã biết, Đức Maria chỉ là một là thôn nữ nghèo, đơn sơ, chất phác, nhưng thôn nữ ấy nhu mì và dễ thương vì luôn sống khiêm nhường, và là thụ tạo đặc biệt được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ Thiên Chúa.

Một hôm, Sứ thần Gáprien truyền tin vui nhưng Nàng Maria lại bối rối. Sứ thần liền trấn an: “Thưa Cô Maria, xin đừng sợ, vì Cô đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Nghe sứ thần nói mình sẽ làm mẹ, Đức Maria “hoảng hồn”, nhưng sứ thần giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Cô, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Cô, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35), đồng thời chứng minh một thai phụ mang tiếng là son sẻ mà lại đang mang thai là người chị họ Êlidabét, vì “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37). Đức Mẹ thở phào nhẹ nhõm và đồng ý ngay lập tức (Lc 1:38) mà không chút đắn đo. Ơn chồng lên ơn, phúc chồng lên phúc!

Thuở xưa, chính Thiên Chúa cũng đã động viên các cô gái: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” (Xp 3:14). Tại sao? Lý do còn hơn cả sự tuyệt vời: “Này Sion, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời! Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” (Xp 3:16-18a). Cả Cựu Ước và Tân Ước, mệnh lệnh cách “đừng sợ” được nhắc tới nhiều lần để động viên mọi người. Khi chúng ta “không sợ” là bắt đầu có sự can đảm, có can đảm là có sức mạnh, có sức mạnh là có Chúa Thánh Thần. Kỳ diệu quá chừng! Chúa Thánh Thần hoạt động rất tinh vi.

Một khi người ta cảm thấy “không sợ” thì người ta có thể làm được nhiều thứ, và không gì có thể ngăn cản họ, kể cả cái chết. Một trong các vấn đề nòng cốt là thực hiện đức ái, nhân đức quan trọng trong Kitô giáo. Nhưng Thánh Phaolô cảnh báo: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm 12:9-11). Bác ái có nhiều dạng và nhiều mức độ, cần phải can đảm thực sự mới có thể thực hiện. Không dễ đâu!

Để giải thích thêm về đức ái, Thánh Phaolô động viên: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà. Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt” (Rm 12:12-17).

Nghe Thánh Phaolô nói có vẻ “dài dòng” một chút, nhưng cũng phải vậy thôi, và đọc kỹ từng chữ, chúng ta sẽ cảm thấy “nhức đầu” đấy, chứ không đơn giản như chúng ta thường nghĩ đâu.

Theo trình thuật của Thánh sử Luca, sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria VỘI VÃ lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Trạng từ “vội vã” thật là có ý nghĩa quan trọng đối với hành động “lên đường”. Yêu thương thì không đắn đo chi cả.

Ngay khi Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Dì Maria chào, đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị được ĐẦY TRÀN THÁNH THẦN, liền lớn tiếng chúc mừng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45). Cái PHÚC không đâu xa, nguyên nhân được phúc hay không là do mình, vấn đề quan trọng là thực sự TIN. Tuy nhiên, tin mình được Chúa thương thì không là kiêu ngạo, nhưng tưởng mình được Chúa thương thì lại là kiêu ngạo!

Và lúc đó, trong niềm vui mừng khôn tả của hai Chị Em, Đức Maria chúc tụng Thiên Chúa bằng “Bài Ca Ngợi Khen” (Magnificat, Lc 1:45-55) độc đáo này:

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!

Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.

Cuối cùng, Thánh Luca cho biết rằng “Dì Maria ở lại với Bác Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56).

Khi Sứ thần truyền tin cho Cô Maria thụ thai, Chị Êlisabét đã có thai được sáu tháng. Đức Maria ở lại với chị Êlisabét khoảng ba tháng, vị chi là Chị Êlisabét đã đến lúc khai hoa nở nhụy. Trong những ngày cuối thai kỳ, phụ nữ rất cực khổ và mệt mỏi, rất cần sự giúp đỡ của người khác. Lúc này, Đức Maria đã đến tháng thứ ba của thai kỳ, chắc hẳn cũng mệt mỏi, nhưng Đức Maria vẫn giúp đỡ người chị của mình với lòng khiêm nhường và yêu thương chân thành. Đó là bài học vô giá mà Đức Mẹ muốn truyền thụ cho chúng ta về hai chữ T quan trọng trong cuộc sống: Thăm (viếng) và Thương (yêu).

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, xin chân thành cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con một Người Mẹ tuyệt vời, xin giúp chúng con luôn biết noi gương và yêu mến Đức Mẹ, đồng thời xin Ngài cũng biến đổi chúng con để mỗi chúng con thực sự trở nên khí cụ bình an của Ngài, luôn biết thương xót nhau thật lòng.

Lạy Thánh Mẫu nhân lành, chúng con xin tận hiến cuộc đời cho Mẹ, xin thương hướng dẫn và che chở chúng con trong mọi hoàn cảnh, và xin dẫn đưa chúng con về với Chúa. Xin Mẹ đoái thương nước Việt Nam bé nhỏ của chúng con, cứu thoát mọi nguy nan và cho chúng con được sống trong nền hòa bình đích thực. Xin Mẹ ngăn cản kẻ thù và biến đổi tà tâm thành thiện tâm, xin cho Nước Việt và thế giới được hưởng tự do, công lý và hòa bình đích thực của Thiên Chúa.

Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

CHUYỆN LÒNG THƯƠNG XÓT

Trầm Thiên Thu dịchows_145226988453553

[Đăng báo CHÂN LÝ, số 02-2016, Dòng Đaminh xuất bản tại Canada]

Thomas Heyne là một bác sĩ 28 tuổi, tốt nghiệp ĐH Dallas khoa Lịch sử và Sinh học, có bằng thạc sĩ thần học của ĐH Oxford ở Anh, và hoàn tất chương trình Fulbright Fellowship về nghiên cứu tôn giáo. Dù không được Giáo hội chính thức sai đi, nhưng anh đúng là một nhà truyền giáo, là một tâm hồn vĩ đại, và là một thầy thuốc của Lòng  Chúa Thương  Xót. Đó  là  một  ơn  gọi  quý  giá.

BS Thomas Heyne được nhận Giải thưởng uy tín năm 2012 là Giải Ho Din của ĐH Y dược Tây Nam Texas. Trước khi tới Boston làm việc tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts, chuyên khoa nhi, anh đã trả lời phỏng vấn của NCRegister.

Xin anh cho biết về gia đình và việc thụ hưởng nền giáo dục Công giáo.

Tôi là con thứ 6 trong 8 anh chị em: Em gái kế tôi là nữ tu đã vĩnh khấn. Chị tôi tốt nghiệp ĐH Công giáo Hoa Kỳ, có gia đình và là luật sư bảo vệ các nạn nhân bị lạm dụng tình dục. Cha tôi là BS Roy Heyne, chuyên khoa nhi, mẹ tôi là BS Elizabeth Heyne và là nhà tư vấn tâm lý. Cha mẹ tôi quan tâm đến các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, đã thành lập Trung tâm Phát triển Trẻ em Sinh thiếu tháng để chăm sóc các gia đình của các em này. Cha mẹ tôi thực sự hít thở không khí Tin Mừng. Cha mẹ đưa chúng tôi đi lễ hằng ngày tại tu viện Xitô và lần chuỗi Mân Côi chung hằng đêm trước khi đi ngủ. Công việc của cha mẹ tôi làm vì người nghèo (và vì chúng tôi) là tấm gương sáng ghi sâu trong lòng chúng tôi.

Điều gì thúc đẩy sự quan tâm của anh về ngành y và đặc biệt là nhu cầu cần thiết về y tế của người nghèo?

Chắc chắn tôi ảnh hưởng giáo dục. Có 5 thế hệ gia đình tôi làm y bác sĩ và y tá, có thể ngành y đã mã hóa gen của chúng tôi. Hồi nhỏ, tôi đọc Matthêu 25:31-46 nói về cuộc phán xét, thấy Chúa Giêsu nhắc tới việc phục vụ “những người bé mọn nhất là phục vụ chính Ngài”, Thánh Phanxicô Assisi và Chân phước Teresa Calcutta đã sống như vậy và cuộc đời các ngài đã in đậm trong tôi. Theo tôi, chúng ta phải hợp lý hóa các giáo huấn của Đức Kitô về sự nghèo khó. Tôi càng đi nhiều, càng nhận thấy nhiều người sống trong những điều kiện hầu như không được nghe đến ở Hoa Kỳ. Ý tưởng phục vụ những người nghèo nhất có vẻ vừa hợp lý vừa tốt lành.

Công tác y tế của anh ở Mexico, Haiti, Ấn Độ, các nước Phi châu và Mỹ châu La tinh đã ảnh hưởng đến anh thế nào?

Từ viễn cảnh y tế, tôi học thêm các lĩnh vực y học mà tôi không biết: Người ta không gặp nhiều bệnh sốt rét,  bệnh  leishmaniasis  (do  ký  sinh  leishmania  gây ra), bệnh sởi, bệnh thấp tim (rheumatic heart disease), chứng kwashiorkor (suy dinh dưỡng thể phù),… ở Hoa Kỳ. Từ viễn cảnh nhân đạo, tôi thấy những con người sống với phẩm giá và niềm tin giữa những điều kiện sống đau khổ. Tôi khâm phục sự đại lượng và cao quý của họ.

Ngay cả khi chúng ta nhận phần thưởng này hay phần thưởng nọ, ngay cả trong những ngày chúng ta hạnh phúc nhất, chúng ta cũng chỉ có thể nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn  phận  đấy  thôi” (Lc  17:10).  Nếu  gặp  hoàn  cảnh tương tự, có bao nhiêu người làm được hơn? Tôi nghĩ tới một em bé sắp chết đói mà tôi gặp ở Uganda, nhiều người bị mất chân hoặc mất tay ở Haiti, hoặc một phụ nữ bị bệnh lao xương nặng ở Ấn Độ. Những người này có thể đã làm được những điều vĩ đại hơn nếu họ có cơ hội tốt như chúng ta.

Từ viễn cảnh tâm linh, tôi đã đến những nước hầu như không nghe nói tới Phúc Âm hoặc các nước Công giáo vẫn có nhiều người hầu như không biết gì về đức tin.

Anh đã được một số giải thưởng và rất tích cực đưa  ra  các  sáng  kiến.  Điều  gì  thúc  đẩy  anh  thành lập Huynh đoàn Thánh Basiliô Cả tại ĐH Tây Nam Texas?

Huynh đoàn Thánh Basiliô là một hội “lạ” trong trường y dược. Tôi cảm hứng từ một thành viên trong khoa đề nghị rằng chiến lược ở trường thuốc không nên chỉ là sinh tồn mà còn là tiến bộ (nỗ lực làm thánh, phát triển đức tin và giúp đỡ người khác cũng làm như vậy).

Trường  y  dược  là  cơ  hội  minh  chứng  đối  với  người khác, giúp họ đến gần đức tin và đến gần tình yêu vô biên của Thiên Chúa.

Thánh  Basiliô  Cả  là  giám  mục  GP  Caesarea, thế kỷ IV, là người mở bệnh viện công đầu tiên cho người nghèo (gọi là Basiliad). Chọn ngài là Thánh bảo trợ,  chúng  tôi  muốn  nhấn  mạnh  ảnh  hưởng  tích  cực của Giáo Hội Công giáo đối với y tế, nhất là đối với người nghèo.

Thành  công  của  nhóm  không  là  gì,  chỉ  có  200 người (cả Công giáo và không Công giáo) trong vòng 2 năm thành lập nhóm. Những buổi nói chuyện buổi trưa của chúng tôi thường do các bác sĩ địa phương đảm trách hoặc các phát ngôn viên được hoan nghênh như Peter  Kreeft.  Qua  những  buổi  nói  chuyện  này,  cũng như việc phục vụ và tâm linh, chúng tôi cố gắng loan truyền tình yêu của Thiên Chúa, của Giáo hội và lòng nhân đạo.

Anh có dự định riêng gì cho tương lai?

Tôi nói được tiếng Tây Ban Nha và thích văn hóa La tinh, cho nên tôi nghĩ tới việc hoạt động ở một trong các nước nghèo đói của Mỹ châu La tinh, có thể mở một bệnh viện Công giáo hoặc hỗ trợ một tổ chức Công giáo  phi  chính  phủ  nào  đó.  Dĩ  nhiên,  tôi  muốn  một chiều kích tâm linh đối với công việc của tôi. Tôi cũng nghĩ tới việc giúp mở một trường học, giúp một giáo phận hoặc một tổ chức tôn giáo về các chương trình giáo dục.

Các khó khăn về y tế ở Hoa Kỳ thì sao?

Bạn không cần là một thầy thuốc cũng có thể nhận ra rằng hệ thống y tế ở Hoa Kỳ có những vấn đề quan trọng. Nhưng, thành thật mà nói, nhu cầu y tế và các vấn đề của các nơi như Uganda hoặc Haiti làm còi cọc các mối quan tâm của chúng ta.

Một vấn đề khác là vấn đề đạo đức hoặc chính trị đối với cuộc sống. Đặc biệt vào lúc này, chúng ta phải tiếp tục cầu nguyện cho nhiều vấn đề đang được giải quyết tại các tòa án. Chúng ta được mời gọi yêu thương và bảo vệ con người, kể cả các thai nhi, những người già, những người nghèo và những người nhập cư.

Đối  với  tôi,  các  vấn  đề  trong  HHS  [Health  and Human Services – lệnh y tế và con người] là nghiêm trọng. Ngay khi còn là sinh viên y khoa, tôi đã cố gắng tìm cách hoàn tất phần việc liên quan đến sản phụ khoa mà không vi phạm lương tâm (một số thầy thuốc cho rằng thuốc phá thai hầu như là thuốc chữa bệnh). Khó để là một người Công giáo tích cực trong cộng đồng y dược ngày nay. Đó là lý do khác để chúng tôi thành lập Huynh đoàn Thánh Basiliô Cả, nhằm củng cố các bác sĩ tương lai đang bị áp lực đè nặng trên đe dưới búa.

Mẹ Teresa Calcutta đã ảnh hưởng đến ơn gọi y tế của anh thế nào?

Tôi may mắn được làm việc với các nữ tu Dòng Truyền  giáo  Bác  ái  (Missionary  of  Charity)  ở  nhiều nước, tấm khăn sari trắng với đường viền xanh luôn khiến tôi vui. Mẹ tôi đã đưa Mẹ Teresa tới Dallas để mở cơ sở của Dòng Truyền giáo Bác ái. Mẹ Teresa sống cơ bản, giản dị và chính thống về Phúc Âm – cầu nguyện tập  trung  vào  Thánh  Thể,  trực  tiếp  phục  vụ  những người nghèo và những người bị bỏ rơi, nhân đức tôi luyện trong sự nghèo khó, khiết tịnh và bác ái. Cách sống đó nói mạnh với thế giới hậu hiện đại. Mẹ Teresa luôn vui vẻ, tươi cười, đó là châm ngôn sống cho mọi người: “Hãy mỉm cười về mọi thứ, hãy dâng tất cả cho Chúa bằng một nụ cười vui vẻ”.

Chuyển  ngữ  từ  NCRegister.com,  All-About-The-Virgin-Mary.com và TheDivineMercy.org

THIÊN CHÚA KÊU GỌI BẠN

Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ từ Jesus.org)

Bạn có nhận ra Thiên Chúa đặc biệt kêu gọi bạn trong cuộc đời này? Ngài thực sự kêu gọi bạn đấy!

Có thể bạn không cảm thấy Thiên Chúa hướng dẫn bạn trở nên một nhà truyền giáo hoặc người giảng thuyết, nhưng bạn vẫn được kêu gọi. Đó là nhiệm vụ mà bạn không được lẩn trốn!

Trong Kinh thánh, 5 lần Chúa Giêsu kêu gọi những người theo Ngài “đi” vào thế gian và làm chứng về Ngài. Đó cũng là điều chính xác Ngài đang nói với chúng ta ngày nay. Ngài kêu gọi bạn làm nhân chứng của Ngài. Và bạn có thể bắt đầu từ ngay nơi bạn đang ở!

Chúng ta được Ngài kêu gọi, điều đó chắc chắn, không còn gì mà nghi ngờ. Bạn có nghe thấy tiếng Ngài gọi? Bạn có chú ý lời mời gọi đó và vâng theo Thánh Ý Ngài? Điều đó rất quan trọng để bạn thực hiện.

Bạn biết đó, Thiên Chúa đã đặt những người đặc biệt trên đường đời của bạn. Họ cần biết những gì Thiên Chúa đã làm cho bạn. Họ cần nghe nói về phúc lành và bình an của Thiên Chúa. Họ cần biết Thiên Chúa yêu thương họ, thương xót họ, và họ cần biết Ngài có tương lai hy vọng dành cho họ.

Vậy hãy can đảm trong Đức Kitô! Hãy cầu nguyện cho những người có nhu cầu trong cuộc đời họ. Hãy làm chứng về Hồng ân Cứu độ của Thiên Chúa. Đó là lời mời gọi dành cho bạn, là nhiệm vụ mà Thiên Chúa đã tin tưởng trao cho bạn. Hãy hành động ngay bây giờ, bạn nhé!

JACK GRAHAM

 

THIÊN CHÚA HIỆN HỮU

MARILYN ADAMSON

Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ từ in.com)

Có khi nào bạn thắc mắc: Thiên Chúa có hiện hữu? Đây là 6 lý do để chúng ta tin Thiên Chúa thực sự hiện hữu.

Đã có lần bạn không thích vì ai đó không thể đưa ra chứng cớ về sự hiện hữu của Thiên Chúa? Đừng nóng vội! Tôi không bắt bạn phải tin mà chỉ thật thà đưa ra vài chứng cớ về sự hiện hữu của Thiên Chúa.

Trước tiên, hãy cân nhắc điều này. Nếu ai đó phản đối sự khả dĩ có một Thiên Chúa thì không có chứng cớ nào có thể được hợp lý hóa hoặc được giải thích. Điều đó như thể nếu ai đó không tin mình có thể đi bộ trên mặt trăng, không có thông tin nào thay đổi cách nghĩ của họ. Hình ảnh các phi hành gia đi bộ trên mặt trăng, các cuộc phỏng vấn các phi hành gia, những viên đá trên mặt trăng,… Tất cả chứng cớ đó đều vô ích vì người kia vẫn kết luận rằng người ta không thể lên mặt trăng.

Kinh thánh nói rằng có những người đã thấy đủ chứng cớ nhưng lại bóp méo sự thật về Thiên Chúa (1). Mặt khác, với những người muốn biết Thiên Chúa có hiện hữu hay không, Ngài nói: “Bạn tìm tôi thì sẽ thấy tôi. Khi bạn tìm tôi với cả tâm hồn, bạn sẽ thấy tôi” (2). Trước khi nhìn vào các sự kiện về sự hiện hữu của Thiên Chúa, bạn hãy tự vấn: “Nếu Thiên Chúa hiện hữu, tôi có muốn biết Ngài?”. Đây là vài lý do để bạn cân nhắc.

  1. THIÊN CHÚA CÓ HIỆN HỮU THẬT?

Tính phức tạp của hành tinh chúng ta cho thấy Tạo hóa không chỉ tạo dựng vũ trụ mà còn duy trì vũ trụ. Nhiều ví dụ cho thấy ý định của Thiên Chúa đã sắp sẵn, có thể vô tận. Nhưng đây là vài điều cụ thể:

  1. TRÁI ĐẤT

Kích cỡ trái đất hoàn hảo. Kích cỡ và trọng lực thích hợp đủ giữ một lớp mỏng khí nitrogen và oxygen, dày khoảng 1,6 km tính từ mặt đất. Nếu trái đất nhỏ hơn, tầng khí quyển sẽ không có – như sao Thủy vậy. Nếu trái đất lớn hơn, tầng khí quyển sẽ có hydrogen tự do – như sao Mộc vậy (3). Trái đất là hành tinh duy nhất có tầng khí quyển chứa các chất khí thích hợp để bảo vệ thảo mộc, động vật và con người.

Trái đất được định vị với khoảng cách hợp lý với mặt trời, nhiệt độ khoảng từ -1,1oC đến +49oC. Nếu trái đất xa mặt trời hơn, chúng ta sẽ lạnh cóng. Nếu trái đất gần mặt trời hơn, chúng ta sẽ chết cháy. Ngay cả một sai lệch rất nhỏ về vị trí trái đất đối với mặt trời cũng đủ làm cho sự sống trên trái đất thành không thể. Trái đất vẫn duy trì khoảng cách hoàn hảo này đối với mặt trời khi nó xoay quanh mặt trời với vận tốc xấp xỉ 67.000 dặm/giờ (107,2 km/giờ). Nó cũng xoay trên trục của nó, cho phép bề mặt trái đất ấm và mát đúng mức hằng ngày.

Mặt trăng cũng có kích cỡ hoàn hảo và khoảng cách hợp lý với trọng lực của nó. Mặt trăng tạo nên thủy triều quan trọng và chuyển động lên xuống để nước biển không tù đọng hoặc tràn lên đết liền (4).

  1. NƯỚC

Nước không màu, không mùi và không vị, nhưng không sinh vật nào có thể sống nếu thiếu nước. Thảo mộc, động vật và con người. Đây là lý do mà các đặc tính của nước thích hợp với sự sống:

– Nước có điểm sôi và điểm đông cao. Nước cho phép chúng ta sống trong môi trường biến đổi nhiệt độ nhưng vẫn giữ cơ thể chúng ta ổn định khoảng 37oC.

– Nước là một dung môi phổ biến. Đặc tính của nước chứa hằng ngàn hóa chất, khoáng chất và dưỡng chất có thể được đưa vào cơ thể và những mạch máu nhỏ nhất (5).

– Nước có tính trung hòa hóa học. Nước làm cho thực phẩm, thuốc và khoáng chất được hấp thụ vào cơ thể.

– Nước có mức căng bề mặt độc đáo. Nước trong thảo mộc có thể chay ngược lên mà không ảnh hưởng trọng lực để có thể đưa nước và dưỡng chất lên ngọn cây cao nhất.

– Nước đông từ trên xuống dưới và nổi, do đó cá có thể sống vào mùa Đông.

99% nước của trái đất chứa trong đại dương. Nhưng trên trái đất có hệ thống lọc muối và phân phối nước đi khắp địa cầu. Sự bốc hơi làm mất nước biển, để lại muối và tạo thành mây. Gió đưa mây đi phân phối nước khắp trái đất cho thảo mộc, động vật và con người. Đó là hệ thống tinh lọc và cung cấp có thể bảo vệ sự sống trên trái đất, một hệ thống tái chế nước và tái sư dụng kỳ diệu (6).

  1. NÃO BỘ

Não bộ xử lý cùng lúc rất nhiều thông tin. Não tiếp nhận các màu sắc và các vật mà bạn thấy, nhiệt độ xung quanh bạn, áp suất chân đạp trên đất, âm thanh xung quanh bạn, độ khô của miệng và độ bóng mịn của vật. Não giữ lại và xử lý các cảm xúc, tư tưởng và ký ức. Cùng một lúc não theo dõi các chức năng của cơ thể như hít thở, chuyển động của mắt, đói hoặc khát, chuyển động của cơ bắp,…

Não xử lý hơn 1 triệu thông tin mỗi giây (7). Não cân nhắc tầm quan trọng của các dữ liệu, chọn lọc các dữ liệu tương đối quan trọng. Chức năng “quét hình” này cho phép bạn tập trung và hoạt động hiệu quả trong thế giới riêng bạn. Não hoạt động khác các cơ phận khác. Não có sự thông minh, khả năng lý luận, khả năng sản sinh cảm xúc, khả năng mơ ước và hoạch định, khả năng hành động và khả năng giao tiếp.

  1. ĐÔI MẮT

Mắt có thể phân biệt khoảng 7 triệu màu sắc. Mắt có khả năng tập trung tự động và xử lý 1,5 triệu tín hiệu cùng một lúc (8). Sự tiến hóa tập trung vào sự đột biến và thay đổi của các sinh vật. Nhưng chỉ có sự tiến hóa thì không thể giải thích đầy đủ nguồn ban đầu của mắt hoặc não – khởi đầu của các sinh vật từ hư vô.

  1. THIÊN CHÚA CÓ HIỆN HỮU THẬT?

Vũ trụ có khởi đầu. Cái gì làm nó khởi đầu?

Các khoa học gia tin rằng vũ trụ khởi đầu bằng một vụ nổ lớn của năng lượng và ánh sáng, gọi là Big Bang. Đây là khởi đầu đơn giản đối với mọi vật hiện hữu: Sự khởi đầu của vũ trụ, không gian và thậm chí là thời gian.

Nhà vật lý thiên văn Robert Jastrow, người theo thuyết bất khả tri (agnostic), nói: “Hạt giống của mọi vật xảy ra trong vũ trụ được gieo trồng trong khoảnh khắc đó. Mỗi ngôi sao, mỗi hành tinh và mỗi sinh vật trong vũ trụ đã hình thành như hệ quả của các sự kiện được vận hành trong khoảnh khắc nổ đó của vũ trụ. Vũ trụ hình thành trong nháy mắt và chúng ta không thể tìm ra cái gì khiến điều đó xảy ra” (9).

Steven Weinberg, khoa học gia đoạt giải Nobel về vật lý, nói về khoảnh khắc nổ này: “Vũ trụ nóng hằng triệu độ C và đầy ánh sáng” (10). Vũ trụ không luôn luôn hiện hữu, nó có một khởi đầu. Vậy cái gì làm nó khởi đầu? Các khoa học gia không có giải thích nào về vụ nổ của ánh sáng và vật chất.

III. THIÊN CHÚA CÓ HIỆN HỮU THẬT?

Vũ trụ vận hành theo định luật thiên nhiên đồng nhất. Tại sao?

Nhiều sự sống có thể có vẻ không chắc chắn, nhưng hãy nhìn vào những gì chúng ta khả dĩ tính đếm từng ngày: Trọng lực vẫn bất biến, tách cà-phê sẽ nguội, trái đất xoay đều trong mỗi 24 giờ, và tốc độ ánh sáng không thay đổi – trên trái đất hoặc ở các giải ngân hà rất xa chúng ta.

Làm sao chúng ta có thể xác định luật thiên nhiên bất biến? Tại sao vũ trụ quá trật tự và đáng tin cậy như vậy?

Các khoa học gia danh tiếng nhất cũng không hiểu sao lại kỳ lạ vậy. Không có sự hợp lý cần thiết nào để vũ trụ tuân thủ các quy luật, cứ để nó tuân thủ quy luật toán học. Điều ngạc nhiên này xuất phát từ nhận thức rằng vũ trụ không cần xử sự theo cách này. Dễ dàng tưởng tượng ra một vũ trụ mà các điều kiện thay đổi bất thường, hoặc một vũ trụ mà các vật lúc có lú không (11).

Richard Feynman, người đoạt giải Nobel về động lực điện tử lượng tử, nói: “Lý do thiên nhiên có tính toán học là điều bí ẩn… Thật ra có nhiều quy luật là dạng mầu nhiệm” (12).

  1. THIÊN CHÚA CÓ HIỆN HỮU THẬT?

Mã DNA cho biết và lập trình cách xử sự của tế bào. Tất cả các cách hướng dẫn, giáo huấn và đào tạo đều có chủ ý. Người ta viết sách hướng dẫn với mục đích riêng. Bạn có biết trong mỗi tế bào của cơ thể đều có mã hướng dẫn rất chi tiết, giống như chương trình vi tính? Như bạn có thể biết, một chương trinh vi tính được lập trình bằng những số 1 và 0, như thế này: 110010101011000. Cách chúng sắp xếp cho biết chương trình vi tính phải làm gì. Mã DNA trong mỗi tế bào cũng rất giống. Nó đực tạo bởi 4 hóa chất mà các khoa học gia gọi tắt là A, T, G và C. Chúng được sắp xếp trong tế bào như thế này: CGTGTGACTCGCTCCTGAT… Có khoảng 3 tỷ mẫu tự này trong mỗi tế bào.

Cũng như bạn có thể lập trình điện thoại để nó kêu cho các lý do riêng, DNA hướng dẫn tế bào. DNA là chương trình gồm 3 tỷ mẫu tự cho tế bào biết hoạt động theo cách riêng. Đó là cẩm nang hướng dẫn đầy đủ (13).

Tại sao kỳ diệu vậy? Thông tin này tác dụng thế nào ở mỗi tế bào? Chúng không chỉ là hóa chất. Các hóa chất này hướng dẫn, mã hóa theo một cách rất chi tiết đúng như cách cơ thể phát triển vậy.

Các nguyên nhân sinh học tự nhiên hoàn toàn không có cách giải thích khi không thể tin cách lập trình có liên quan. Người ta không thể tìm ra cách hướng dẫn, thông tin chính xác như thế này nếu không có người tạo ra.

  1. THIÊN CHÚA CÓ HIỆN HỮU THẬT?

Chúng ta biết rằng Thiên Chúa hiện hữu vì Ngài dõi theo chúng ta. Ngài luôn tìm kiếm và chấp nhận chúng ta để chúng ta đến với Ngài.

Trước đây tôi là người vô thần. Cũng như đa số những người khác không có niềm tin tôn giáo, vấn đề người ta tin Thiên Chúa đã “làm phiền” tôi nhiều. Đó là gì mà chúng ta mất nhiều thời gian, sự chú ý và nghị lực để bác bẻ điều chúng ta không tin? Tại sao chúng ta làm vậy? Khi tôi là người vô thần, tôi không có ý quan tâm những người ảo tưởng tội nghiệp đó… để giúp họ nhận ra rằng niềm hy vọng của họ được thiết lập là yếu kém hoàn toàn. Thú thật, tôi có động cơ khác. Khi tôi thử thách những người tin Thiên Chúa, tôi rất tò mò xem họ có thuyết phục tôi cách khác hay không. Một phần yêu cầu của tôi là không còn thắc mắc về Thiên Chúa. Nếu tôi có thể chứng tỏ với các tín đồ rằng họ sai thì vấn đề không còn nữa, và tôi thanh thản sống.

Tôi đã nhận ra rằng vấn đề Thiên Chúa luôn ám ảnh tôi, vì Thiên Chúa thôi thúc tôi. Tôi thấy Thiên Chúa luôn muốn người ta nhận biết Ngài. Ngài đã tạo dựng chúng ta với ý định là chúng ta sẽ biết Ngài. Ngài vây quanh chúng ta với chứng cớ là chính Ngài và giữ vấn đề Ngài hiện hữu trước mặt chúng ta. Điều đó như thể tôi không thể không nghĩ về tính khả dĩ của Thiên Chúa. Thật vậy, ngày tôi nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa, tôi mở đầu lời cầu nguyện thế này: “Vâng, Ngài thắng rồi…” (OK, you win…). Có thể lý do tiềm ẩn mà người vô thần bị ám ảnh bởi những người tin vào Thiên Chúa là vì Thiên Chúa chủ động dõi theo họ.

Tôi không là người duy nhất có kinh nghiệm này. Malcolm Muggeridge, tác giả xã hội học và triết học, viết: “Ngoài sự thắc mắc, tôi có một khái niệm rằng tôi đang bị dõi theo”. C.S.Lewis nói rằng ông đã nhớ “…đêm này qua đêm khác, luôn cảm thấy tâm trí tôi được nâng lên khỏi công việc trong một lúc, cách vững bền của Đấng mà tôi muốn gặp. Tôi đầu hàng và chấp nhận Thiên Chúa là Thiên Chúa, rồi tôi quỳ xuống và cầu nguyện: Có thể đêm nay những người buồn bã nhất và miễn cưỡng nhất cũng trở lại đạo ở cả nước Anh”.

Lewis tiếp tục viết cuốn Surprised By Joy (Ngạc nhiên vì Vui mừng) do kết quả của việc nhận biết Thiên Chúa. Tôi không mong gì hơn là chấp nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa. Sau vài tháng, tôi ngạc nhiên bởi tình yêu Ngài dành cho tôi.

  1. THIÊN CHÚA CÓ HIỆN HỮU THẬT?

Không giống bất kỳ sự mạc khải nào khác của Thiên Chúa, Đức Kitô là hình ảnh đặc biệt nhất và rõ ràng nhất của Thiên Chúa tự mạc khải cho chúng ta.

Tại sao là Chúa Giêsu? Nhìn vào các tôn giáo lớn trên thế giới, bạn thấy có Phật Thích Ca, Muhammad, Khổng Tử và Môisê là các thầy dạy hoặc tiên tri. Không ai trong họ tuyên bố ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng lạ thay, Chúa Giêsu đã tuyên bố vậy. Đó là điều làm Chúa Giêsu khác với những người khác. Ngài nói rằng Thiên Chúa hiện hữu và bạn đang nhìn Ngài. Dù Ngài nói về Cha trên trời, không phải từ vị trí tách rời mà là sự kết hiệp mật thiết, khác thường với loài người. Chúa Giêsu nói rằng ai thấy Ngài là thấy Cha, ai tin Ngài là tin Cha.

Ngài nói: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng sự sống” (14). Ngài tuyên bố quyền hành chỉ thuộc về Thiên Chúa: Có thể tha tội và giải thoát người ta khỏi tội, cho người ta sự sống dồi dào và sự sống đới đời trên trời. Không như các thầy dạy khác làm người ta chú ý tới lời dạy của họ, Chúa Giêsu cho biết chính Ngài. Ngài không nói “hãy theo lời dạy của Tôi thì sẽ tìm thấy chân lý” nhưng Ngài nói “Tôi là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Tôi” (15).

Chúa Giêsu đưa ra chứng cớ nào để tuyên bố là Thiên Chúa? Ngài làm những gì người ta không thể làm. Ngài làm các phép lạ: chữa khỏi người mù, què, điếc, thậm chí là cho 2 người chết sống lại. Ngài có quyền hành trên tất cả, biến ra thực phẩm cho hơn 5.000 người ăn. Ngài đi trên nước, ra lệnh cho sóng gió yên lặng. Chỗ nào cũng có người theo Ngài vì Ngài luôn thỏa mãn nhu cầu của họ và làm những điều kỳ diệu. Ngài nói rằng nếu bạn không muốn tin những gì Ngài nói thì ít ra cũng nên tin Ngài vì các phép lạ mà bạn thấy (16).

Đức Kitô cho thấy Thiên Chúa nhân từ, yêu thương, hiểu biết tính ích kỷ và khiếm khuyết của chúng ta, nhưng Ngài vẫn muốn quan hệ với chúng ta. Ngài mạc khải rằng dù Thiên Chúa coi chúng ta là tội nhân, đáng bị trừng phạt, tình yêu Ngài dành cho chúng ta vẫn mạnh, và Thiên Chúa có kế hoạch khac. Chính Thiên Chúa mặc lấy xác phàm và nhận hình phạt vì tội chúng ta thay cho chúng ta. Nghe chừng ngốc nghếch? Có thể lắm. Nhưng nếu được thì nhiều người cha yêu thương vẫn sẵn sàng “đổi chỗ” cho đứa con bị ung thư. Kinh thánh nói rằng lý do chúng ta yêu Thiên Chúa là vì Ngài yêu chúng ta trước.

Chúa Giêsu chết thay chúng ta để chúng ta được tha thứ. Trong các tôn giáo được nhân loại biết đến, chỉ qua Chúa Giêsu mà bạn thấy Thiên Chúa đến với nhân loại, cung cấp cách thức để chúng ta có mối quan hệ với Ngài. Chúa Giêsu chứng tỏ một trái tiim yêu thương, thỏa mãn nhu cầu của chúng ta, và kéo chúng ta đến với Ngài. Vì cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, Ngài cho chúng ta SỰ SỐNG MỚI hôm nay. Chúng ta được Thiên Chúa tha thứ, được chấp nhận hoàn toàn và được yêu thương thục sự. Ngài nói: “Tôi yêu bạn bằng tình yêu vĩnh cửu, do đó tôi tiếp tục lòng chung thủy với bạn” (17). Đây là Thiên Chúa hành động.

Thiên Chúa có hiện hữu? Nếu bạn muốn biết, hãy tìm hiểu Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta biết rằng “Thiên Chúa quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để ai tin Con Ngài thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời” (18).

Thiên Chúa không ép buộc chúng ta tin Ngài, dù Ngài có thể làm vậy. Nhưng Ngài đã đưa ra đủ bằng chứng về sự hiện hữu của Ngài để chúng ta tự nguyện đáp lại. Khoảng cách hoàn hảo từ trái đất đến mặt trời, các hóa chất độc đáo trong nước, não bộ con người, DNA, số người chịu nhận biết Ngài, sự ám ảnh trong tâm trí chúng ta muốn xác định Thiên Chúa có hiện hữu hay không, sự sẵn sàng để Thiên Chúa được nhận biết qua Đức Kitô,… đủ để bạn tin nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa?

Nếu muốn, bạn có thể khởi đầu mối quan hệ với Thiên Chúa ngay bây giờ. Đó là quyền tự do của bạn, không ai bắt buộc. Nhưng nếu bạn muốn được Thiên Chúa tha thứ và muốn kết hiệp với Ngài, bạn có thể hành động ngay bằng cách xin Ngài tha thứ và bước vào cuộc đời bạn. Chúa Giêsu nói: “Này, Tôi đứng ở cửa và gõ cửa. Ai nghe tiếng Tôi và mở cửa, Tôi sẽ vào” (19). Nếu bạn muốn làm vậy nhưng không biết nói thế nào, điều này khả dĩ hữu ích: “Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Ngài đã chết vì tội con. Chúa biết cuộc đời con và biết con cần được tha thứ. Xin Chúa tha thứ cho con ngay bây giờ và đến sống trong con. Con thật lòng muốn biết Chúa, xin đến với con bây giờ. Cảm tạ Chúa muốn kết hiệp với con. Amen”.

Thiên Chúa luôn nhìn rõ mối quan hệ của bạn. Đối với những người không tin Ngài, Đức Kitô nói về chúng ta: “Tôi biết họ, và họ theo tôi. Tôi cho họ sự sống đời đời, họ sẽ không hư mất, và không ai cướp mất họ khỏi tay tôi” (20).

Vậy Thiên Chúa có hiện hữu? Nhìn vào các sự kiện này, người ta khả dĩ kết luận: Thiên Chúa yêu thương thực sự hiện hữu, có thể cảm nhận theo cách riêng và mật thiết.

(1) Rm 1:19-21

(2) Gr 29:13-14

(3) R.E.D. Clark, Creation (London: Tyndale Press, 1946), p. 20.

(4) The Wonders of God’s Creation, Moody Institute of Science (Chicago, IL).

(5) Ibid.

(6) Ibid.

(7) Ibid.

(8) Hugh Davson, Physiology of the Eye, 5th ed (New York: McGraw Hill, 1991).

(9) Robert Jastrow; “Message from Professor Robert Jastrow”; LeaderU.com; 2002.

(10) Steven Weinberg; The First Three Minutes: A Modern View of the Origin of the Universe (Basic Books, 1988); p. 5.

(11) Dinesh D’Souza, What’s So Great about Christianity; (Regnery Publishing, Inc, 2007, chapter 11).

(12) Richard Feynman, The Meaning of It All: Thoughts of a Citizen-Scientist (New York: Basic Books, 1998), p. 43.

(13) Francis S. Collins, director of the Human Genome Project, and author of The Language of God (Free Press, New York, NY), 2006.

(14) Ga 8:12

(15) Ga 14:6

(16) Ga 14:11

(17) Gr 31:3

(18) Ga 3:16

(19) Kh 3:20

(20) Ga 10:27-29

VIẾNG THĂM LÀ DẠO KHÚC CHO SỨ VỤ CỦA CHÚA GIÊSU

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II

isaveAndMary

1- Trong đoạn trình thuật về Cuộc Viếng Thăm, Thánh Luca cho chúng ta thấy, sau khi tràn đầy hồng ân Nhập Thể, Đức Maria đã mang ơn cứu độ và niềm vui đến cho gia đình bà Êlizabét ra sao. Đấng Cứu Thế nhân trần, được cưu mang trong lòng Mẹ mình, đã tuôn đổ Thánh Linh xuống, qua việc tỏ mình ra ngay từ lúc mới vào trần gian của mình.

Khi diễn tả việc khởi hành của Đức Maria lên đường đi xuống Giuđêa, Thánh Ký đã dùng động từ “anistemi”, nghĩa là “chỗi dậy”, là “bắt đầu di chuyển”. Nếu động từ này được các Phúc Âm sử dụng để nói đến việc Phục Sinh của Chúa Giêsu (Mk 8:31, 9:9,31; Lk 24:7,46), hay những tác động thể lý ám chỉ nỗ lực về tâm linh (Lk 5:27-28, 15:18,20), chúng ta có thể cho rằng Thánh Luca muốn dùng cách diễn tả này để nhấn mạnh đến cái nhiệt tình mạnh mẽ, theo ơn soi động của Thánh Linh, đã thúc đẩy Đức Maria ban tặng cho thế giới Vị Cứu Tinh của nó.

2- Bản văn Phúc Âm cũng trình thuật rằng Đức Maria “vội vàng” (Lk 1:39) lên đường. Ngay cả ghi chú về việc Người “đến một miền đồi núi”, Phúc Âm Thánh Luca cũng cho thấy một ý nghĩa sâu xa của nó, hơn là chỉ cố ý nói đến một địa dư vậy thôi, vì nó gợi lại cho chúng ta thấy hình ảnh một vị sứ giả loan báo tin mừng trong Sách Tiên Tri Isaia: “Đẹp thay trên các núi đồi bước chân của người loan báo tin vui, của người rao truyền an bình, của người mang tin thiện phúc, của người rao truyền ơn cứu độ, của người nói với Sion rằng: ‘Thiên Chúa của các người hiển trị’” (Is 52:7).

Như Thánh Phaolô, vị nhìn nhận đoạn sách tiên tri này đã được nên trọn ở việc loan truyền phúc âm (Rm 10:15), Thánh Luca hình như cũng muốn mời gọi chúng ta hãy nhìn nơi Đức Maria như là “vị truyền bá phúc âm” tiên khởi, vị loan truyền “tin mừng”, khai mào các cuộc hành trình thừa sai cho Người Con thần linh của Người.

Sau hết, hướng đi trong cuộc hành trình của Đức Trinh Nữ cũng có một ý nghĩa đặc biệt, ở chỗ, Người đi từ Galilê xuống Giuđêa, giống như cuộc hành trình truyền giáo của Chúa Giêsu vậy (x 9:51).

Thật thế, cuộc viếng thăm bà Eâlizabét của Đức Maria là một dạo khúc cho sứ vụ truyền giáo của Chúa Giêsu, và ngay từ ban đầu, với vai trò làm mẹ cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Con mình, Người đã trở nên một mẫu gương cho những ai thuộc về Giáo Hội muốn ra đi mang ánh sáng của Chúa Kitô và niềm vui đến cho con người ở mọi thời và khắp mọi nơi.

3- Cuộc gặp gỡ bà Elizabét có tính cách của một biến cố cứu độ vui mừng, vượt lên trên những cảm xúc tự nhiên của tình nghĩa gia đình. Nơi đang ở vào hoàn cảnh bối rối về hành động thiếu tin tưởng, được tỏ hiện qua tình trạng bị câm lặng của ông Zacaria, thì Đức Maria đã làm bừng lên niềm vui của một đức tin mau mắn và cởi mở của Người: “Người đã vào nhà ông Zacaria và chào bà Elizabét” (Lk 1:40).

Thánh Luca cho thấy mối liên hệ này là: “Khi bà Elizabét nghe lời chào của Đức Maria thì con trẻ trong lòng bà liền nhẩy mừng” (Lk 1:41). Lời chào của Đức Maria đã khiến cho người con trai của bà Elizabét nhẩy lên vui sướng, ở chỗ, qua việc làm của Đức Maria, việc Chúa Giêsu vào nhà của bà Elizabét đã mang đến cho vị tiên tri thai nhi này một niềm vui được Cựu Ước tiên báo như là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Đấng Thiên Sai.

Với lời chào của Đức Maria, niềm vui cứu độ đã đến với cả bà Elizabét nữa, để rồi, “được đầy Thánh Linh… bà đã lớn tiếng kêu lên rằng ‘Người có phúc hơn mọi phụ nữ, và phúc cho hoa trái trong lòng của Người’ (Lk 1:41-42). Nhờ được ơn soi sáng từ trên cao, bà hiểu được sự cao trọng của Đức Maria, vị còn hơn cả Jael và Judith là những nhân vật tiền thân của Người trong Cựu Ước, Người có phúc hơn mọi người nữ bởi quả phúc trong lòng Người là Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai.

4- Lời bà Elizabét hô lên ấy, hô một cách “lớn tiếng”, chứng tỏ cho thấy cả một tấm lòng nhiệt thành sốt sắng chân tình, một tấm lòng nhiệt thành sốt sắng chân tình sẽ được tiếp tục vang vọng trên môi miệng của tín hữu qua kinh “Kính Mừng”, một kinh nguyện như một bài ca của Giáo Hội chúc tụng những việc trọng đại được Đấng Tối Cao thực hiện nơi Người Mẹ của Con Ngài.

Trong việc tuyên tụng Người “có phúc hơn mọi người nữ”, bà Elizabét muốn nói đến đức tin của Đức Maria là lý do đã làm cho Người được diễm phúc: “Phúc cho Người vì đã tin rằng những gì Chúa nói cùng Người sẽ được thực hiện” (Lk 1:45). Sự cao cả và niềm vui của Đức Maria phát xuất từ việc Người là một con người tin tưởng.

Thấy được vai trò tuyệt hạng nơi Đức Maria, bà Elizabét cảm thấy cái vinh dự mình được Người đến viếng thăm: “Tôi làm sao lại có diễm phúc là được Mẹ Chúa tôi đến thăm tôi?” (Lk 1:43). Bằng lời xưng tụng “Chúa tôi”, bà Elizabét đã nhìn nhận phẩm vị hoàng tộc, đúng hơn, phẩm vị thiên sai nơi Người Con của Đức Maria. Trong Cựu Ước, lời này quả thực được dùng để xưng tụng đức vua (x 1Kgs 1:13,20,21 v.v.) cũng như để nói về Vị Vua Thiên Sai (Ps 110:1). Thiên Thần đã nói về Chúa Giêsu rằng: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của Đavít tổ phụ của Người” (Lk 1:32). “Được đầy Thánh Thần”, bà Elizabét cũng có cùng một minh thức như thế. Cuộc vinh hiển vượt qua của Chúa Kitô sau này mới tỏ cho thấy ý nghĩa cần phải hiểu về danh hiệu này, một ý nghĩa siêu việt (x Jn 20:28; Acts 2:34-36).

Bằng việc vang lên lời chúc tụng ấy, bà Elizabét mời gọi chúng ta hãy cảm nhận tất cả những gì do sự hiện diện của Đức Maria mang đến như là một ân phúc cho đời sống của mọi tín hữu.

Qua việc Viếng Thăm này, Người Trinh Nữ đã mang Chúa Giêsu đến cho mẹ của Vị Tẩy Giả, một Chúa Kitô là Đấng tuôn đổ Thánh Linh. Vai trò trung gian môi giới này phát xuất từ chính những lời của bà Elizabét: “Này, khi tai tôi vừa nghe thấy tiếng Người chào thì con trẻ trong lòng tôi liền nhẩy mừng” (Lk 1:44). Với tặng ân Thánh Linh được ban phát bấy giờ, sự hiện diện của Đức Maria đóng vai trò như một dạo khúc cho Cuộc Hiện Xuống, một Cuộc Hiện Xuống xác nhận việc hợp tác, được bắt đầu từ Biến Cố Nhập Thể, cần phải được thể hiện nơi toàn cục diện cứu độ thần linh.

(ĐTC Gioan Phaolô II, Thứ Tư 2/10/1996, Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 9/10/1996)

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

Lm. Đan Vinh-HHTM

LỄ THÁNH TÂM NĂM C

Ed 34,11-16 ; Rm 5,5b-11 ; Lc 15,3-7

ĐÁP LẠI TÌNH YÊU CỦA THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU

  1. HỌC LỜI CHÚA
  2. TIN MỪNG: Lc 15,3-7

(3) Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này: (4) “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị lạc mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?”. (5) Tim được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. (6) Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”. (7) Vậy tôi nói cho các ông hay: Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.

  1. Ý CHÍNH:

Để trả lời cho lời phiền trách của nhóm Pharisêu và kinh sư về lý do tại sao gần gũi với các người thu thuế và gái điếm tội lỗi…, Đức Giêsu đã dùng 3 dụ ngôn: Con chiên bị lạc, đồng bạc đánh rơi và người cha nhân hậu. Tin mừng hôm nay chỉ đề cập đến dụ ngôn con chiên bị lạc. Dụ ngôn đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót. Người xót thương kẻ lầm đường lạc lối, mau mắn đi tìm kiếm và sẽ vui mừng nếu họ thực tâm sám hối trở về với Người.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 3-4: + Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà nếu mất một con: Ở đây, khi dùng hai con số 100 và 1, Đức Giêsu muốn làm nổi bật tầm quan trọng của sự mất mát. Dù chỉ bị mất một phần trăm nhưng đối với người chủ chiên cũng là mất mát to lớn. + Để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm kỳ được con chiên bị mất: Để lại ngoài đồng hoang không phải là bỏ rơi, bỏ mất vì chúng kém giá trị hơn, nhưng là giữ chúng lại trong một nơi an toàn. Chi tiết này chỉ muốn nói lên rằng: con chiên bị lạc dù chỉ là số ít, nhưng vẫn là điều quan trọng khiến chủ chiên phải nhất quyết đi tìm cho bằng được. Việc đi tìm xuất phát từ tình thương của chủ chiên, ám chỉ tình thương yêu và khoan dung của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Người không thụ động ngồi yên chờ họ tự quay về, nhưng chủ động lên đường tìm kiếm họ.

– C 5-7: +Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai: Người chủ vui mừng khi tìm thấy con chiên lạc. Niềm vui này thể hiện qua hai cử chỉ: Một là là vác chiên lên vai và hai là mở tiệc ăn mừng. Vác chiên lên vai nói lên sự thân mật gần gũi đối với con chiên lạc. + “Xin chung vui với tôi”: Mời bạn bè đến chung vui cho thấy ông chủ muốn chia sẻ niềm vui cho nhiều người khác nữa. + “Trên trời cũng thế”: Niềm vui tột đỉnh của Thiên Chúa là muốn cho mọi người trần gian đều được ơn cứu độ. Chỉ những ai xúc phạm đến Chúa Thánh Thần, thể hiện qua thái độ cứng lòng không tin Chúa Giêsu, cố tình không muốn tái sinh trong phép rửa tội, chọn theo ma quỷ làm sự gian ác chống lại Thiên Chúa và tha nhân… mới không được cứu độ.

  1. CÂU HỎI: 1- Trong dụ ngôn này phải chăng người chủ chiên đành hy sinh 99 con chiên ở ngòai đồng hoang, mặc chúng cho sói rừng cắn xé, dể đi tìm một con chiên lạc kia sao? 2- Người chủ chiên đã làm gì để thể hiện tình thương và niềm vui khi tìm lại được con chiên bị lạc mất? 3- Những người bị lọai ra khỏi ơn cứu độ hoặc phai sa hỏa ngục là những ai?
  2. SỐNG LỜI CHÚA:
  3. LỜI CHÚA: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn ăn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính” (Lc 15,7).
  4. CÂU CHUYỆN: ÔNG CHỦ CHIÊN TỐT LÀNH

Trong cuộc họp của những nhà giáo dục, một vị giáo sư đã kể lại câu chuyện về một con chiên bị lạc mất như sau: Một người kia có nuôi một đàn chiên nhốt trong chuồng ở ngay sau nhà ông. Một hôm có một con chiên non trông thấy một lỗ hổng ở hàng rào và tò mò chui qua. Khi đã ra ngoài chuồng, con chiên vội chạy thật xa để tận hưởng thú vui được tự do giữa đất trời bao la. Nó chạy đến một cánh rừng rộng lớn và không nghĩ đến nguy hiểm đang chờ. Trời tối dần và đột nhiên con chiên nhìn thấy bóng dáng của một con sói đang rình núp ở một lùm cây gần đó. Vô cùng sợ hãi, nó ba chân bốn cẳng chạy thục mạng về chuồng. Nhưng con sói vẫn không ngừng bám sát phía sau. Khi con sói tiến đến gần và sắp vồ được chiên, thì may mắn thay ông chủ chiên cũng vừa xuất hiện. Ông dùng gậy đánh đuổi con sói hung dữ kia để cứu con chiên khỏi chết trong gang tấc. Sau đó ông vác con chiên non đang run sợ trên vai và đưa về chuồng băng bó những vết trầy xước. Rồi nhiều người nhắc ông phải rào kín lỗ hổng ngay để tránh cho chiên khỏi tiếp tục chui ra khỏi chuồng. Nhưng ông không nghe và cứ để lại lỗ hổng ở hàng rào như trước.

  1. THẢO LUẬN:

1)Bạn nghĩ thế nào về lời thánh Augúttinô sau: “Chúa dựng nên bạn không cần đến bạn, nhưng Chúa không thể cứu bạn, nếu bạn không cộng tác với Người”?

2)Noi gương vị Mục Tử Giêsu trong Tin mừng hôm nay, mỗi người chúng ta sẽ làm gì để đưa các người thân hay bạn bè đang lạc xa Chúa trở về với Người?

  1. SUY NIỆM:

Tình yêu luôn tồn tại trong cuộc sống nhân loại con người. Có nhiều thứ tình yêu như: tình mẫu tử phụ tử, phu phụ, huynh đệ, tình đồng nghiệp, tình bằng hữu hay tình yêu nam nữ… Dù mang tên gọi là gì đi nữa, thì tình yêu vẫn mang đặc điểm là có sức lôi cuốn mãnh liệt khiến người ta phải luôn gắn bó với nó và có thể hy sinh mọi sự khác vì nó.

1)TÌNH YÊU THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA THẬT BAO LA:

Con người đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài như thánh Gioan đã định nghĩa: “Thiên Chúa là Tình yêu” (1 Ga 4, 8). Tình Yêu của Thiên Chúa thật vô cùng, vượt trên tình thương của cha mẹ dành cho con cái, như Ngôn Sứ Isaia đã tuyên sấm: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng, đẻ đau? Cho dù nó có quên đi chăng nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ… Ta đã khắc ghi ngươi trong lòng bàn tay Ta” (Is 49,15–16a). Thánh Phaolô cũng viết: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi”, và ngài kết luận: “Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).

Nói đến tình yêu, chúng ta không thể không nhắc đến trái tim, một biểu tượng rõ nét của tình yêu. Hội Thánh đã dành riêng tháng sáu và đặc biệt ngày Thứ Sáu sau Chúa Nhật Mình Thánh Chúa để mừng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, là Trái Tim đã bị lưỡi đòng đâm thâu trên thập giá, đổ ra đến giọt máu và nước cuối cùng để biểu lộ tình yêu thương chúng ta (x. Ga 19, 34). Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta thật bao la sâu thẳm khôn lường. Tuy nhiên, chúng ta cũng phần nào hiểu được tình yêu ấy qua hình ảnh người Mục Tử tốt lành trong Tin Mừng hôm nay, đã bỏ 99 con chiên khác nơi hoang địa để đi tìm bằng được con chiên thất lạc.

2)TÌNH THƯƠNG CỤ THỂ CỦA ĐỨC CHÚA LÀ MỤC TỬ DÂN ÍTRAEN:

Bài Đọc Một cho thấy thời ngôn sứ Êdêkien, dân Do Thái đứng trước nguy cơ nước mất nhà tan. Các vua chúa và đầu mục đã bị sa đoạ, chạy theo các tà thần. Họ không quan tâm đến việc chăm dắt đoàn chiên được Đức Chúa trao quyền chăn dắt. Họ chỉ nghĩ đến việc vơ vét, bóc lột sao cho đầy túi tham mà không nghĩ đến dân chúng lầm than cơ cực. Mặt khác, viễn cảnh bị ngoại xâm đã gần kề và việc dân chúng sắp bị phân tán đi khắp nơi là điều không thể tránh khỏi. Toàn dân sống trong tuyệt vọng, chẳng còn biết trông cậy vào ai. Chính lúc đó, Ngôn Sứ Êdêkien đã được Thiên Chúa sai đến loan báo tin vui về một thời đại mới: Chính Thiên Chúa sẽ là mục tử chăn dắt dân Người. Người sẽ dẫn đưa những con chiên bị phân tán được trở về. Người sẽ bảo vệ và giải thoát họ khỏi bàn tay áp bức của kẻ thù đang đè nặng trên họ. Chúa phán: “Này chính Ta săn sóc đoàn chiên của Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng… Ta sẽ giải thoát chúng khỏi mọi nơi mà chúng đã bị phân tán. Ta sẽ dẫn chúng ra khỏi các dân tộc, Ta sẽ tụ họp chúng từ khắp măt đất, và đưa chúng vào đất của chúng”. Hơn nữa, Đức Chúa còn lo cho đoàn chiên được ăn uống no nê, như lời Người phán: “Ta sẽ thả chúng ăn trên những đồng cỏ màu mỡ,… chúng sẽ nghỉ ngơi trong những đồng cỏ xanh tươi, và chúng ăn trong đồng cỏ màu mỡ trên miền núi Ítraen”. Vua Đavít cũng ngợi ca tình thương của Đức Chúa như sau: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi Người lo bồi dưỡng…” (Tv 22,1-3)

  1. ĐỨC GIÊSU VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH ĐƯỢC THIÊN CHÚA SAI ĐẾN:

– Vị Mục Tử mà Ngôn Sứ Êdêkien và vua Đavít tiên báo sẽ đến không ai khác hơn là Đức Giêsu. Ngài chính là vị Mục Tử nhân lành mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân Ítraen. Ngài không chỉ chăm sóc bảo vệ đàn chiên, mà còn tự hiến mạng sống mình vì chúng ta, như Thánh Phaolô đã viết trong Bài Đọc Hai hôm nay: “Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,8). Nghĩa là khi chúng ta đang thù ghét chống lại với Chúa, nhưng Đức Giêsu vẫn tình nguyện chịu chết để đền tội thay để loài người được ơn tha tội và được giao hoà với Thiên Chúa. Nhờ cái chết thập giá của Người, mà chúng ta được lãnh ơn cứu độ của Thiên Chúa.

– Ngoài ra, Mục Tử Giêsu không dừng lại ở việc chăm sóc, giữ gìn, mà tình yêu còn thúc bách Người đi tìm chiên lạc như lời Chúa trong Tin Mừng: “Ai trong các ông có 100 con chiên và nếu mất một con, lại không để 99 con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy sao?” (Lc 15,4). Cho dù bấy giờ chúng ta đang là những con chiên đầy ghẻ lở tội lỗi, thì Mục Tử Giêsu vẫn giang rộng vòng tay yêu thương để băng bó vết thương, vác lên vai đưa về đàn.

  1. ĐÁP LẠI LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA VÀ CỦA ĐỨC GIÊSU:

Chúng ta cần làm gì để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa và Thánh Tâm Chúa Giêsu?

-Đáp lại tình yêu của Chúa bằng việc “Năng ở lại trong tình yêu của Người”  (x. Ga 15,9b).:  Đức Giêsu chỉ vui khi chúng ta năng nhớ đến Người. Chúng ta nên năng dâng lên Người những lời nguyện tắt. Chẳng hạn: “Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin dạy con yêu mến Chúa. Xin gia tăng lòng mến cho con để con năng đến gặp Chúa trước Nhà Tạm, dự lễ rước lễ mỗi ngày hầu được kết hiệp mật thiết với Chúa và được yêu thương hiệp nhất với nhau”. Hoặc: “Lạy Chúa Giêsu. Con xin làm việc … này để biểu lộ lòng con yêu mến Chúa. Xin thương cho một người lương sớm tin yêu Chúa – Xin thương cho một người đang lạc xa Chúa được sớm trỏ về với Chúa”.

-Đáp lại tình yêu của Chúa bằng việc yêu thương phục vụ nhau: Hãy tập nhìn thấy Chúa Giêsu đang hiện thân nơi người bên cạnh, nhất là nơi những người nghèo khó bệnh tật hoặc bị bỏ rơi, để đến thăm viếng và khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Chúa, như Người dạy: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau”.

-Đáp lại tình yêu của Chúa bằng việc cầu nguyện cho các tội nhân: Quan tâm thăm viếng những gia đình rối vợ rối chồng, để đưa họ sớm trở về đàn chiên Hội thánh, noi gương Đức Giêsu xưa đã ngồi đồng bàn ăn với những người thu thuế tội lỗi… để gây thiện cảm với họ và giúp họ trở thành nhưng người lương thiện, như tông đồ Mátthêu, bà Maria Mađalena, ông Giakêu, kẻ trộm lành trên thập giá…

-Đáp lại tình yêu của Chúa bằng việc truyền giáo, đưa nhiều anh em lương dân về với Chúa:  Thượng Hội Đồng Giám mục Á châu họp tại Rôma gần đây đã cho biết: Dân số Á châu hiện đã trên ba tỷ năm trăm triệu người. Thế mà mới chỉ có một trăm mười triệu là người tín hữu Kitô. Còn tới ba tỷ bốn trăm triệu người châu Á đang ở ngoài đoàn chiên Hội thánh. Đó là chưa kể đến biết bao tín hữu tuy đã chịu phép rửa tội, nhưng không hành đạo, lười biếng làm việc lành như không đọc kinh dự lễ hoặc phạm phải những tội ác lớn lao khác… Những người này chính là những con chiên lạc cần phải được mọi người chúng ta quan tâm tìm kiếm, cầu nguyện và giúp họ sớm nhận biết tin yêu Chúa để được hưởng ơn cứu độ sau này với chúng ta.

  1. NGUYỆN CẦU:

– LẠY THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU. Chúng con xin cảm tạ Chúa đã sẵn sàng hy sinh chịu chết để cứu chuộc chúng con, và đã mở trái tim ra để ban cho chúng con được muôn vàn ơn phúc, nhất là ơn được làm con cái Chúa.

– LẠY CHÚA GIÊSU MỤC TỬ NHÂN LÀNH. Chúa luôn dẫn dắt chúng con từng ngày, luôn tha thứ những lỗi lầm của chúng con. Chúa cũng sẵn sàng đến ở với chúng con qua bí tích Thánh Thể. Xin cho chúng con nhận biết tình thương của Chúa, để luôn sống tin yêu phó thác và cậy trông vào Chúa. Xin cho chúng con biết thể hiện lòng yêu mến Chúa bằng những việc bác ái cụ thể phục vụ tha nhân, nhất là quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói bệnh tật và khiêm nhương phục vụ họ là hiện thân của Chúa.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

TÌNH YÊU SẮT SON

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu 2016

Tình yêu vẫn luôn là một đề tài muôn thuở của văn học Việt Nam qua mọi thời kỳ. Đặc biệt kho tàng văn học dân gian luôn dẫn chúng ta đến một tình yêu thanh khiết, bất tử vượt mọi thời gian.

Thanh khiết như câu thơ:

“Thuyền ai lơ lửng bên sông

Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền?”

Bất tử chung tình như lời thơ:

“Thuyền ơi có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.

Lòng chung thuỷ của con người Việt Nam thật sắt son chung tình:

“Chừng nào cho sóng bỏ ghành

Cù lao bỏ biển anh mới đành bỏ em”.

Chắc chắn con sóng không bao giờ bỏ gành. Cù lao thì luôn ở giữa biển hay gắn liền với biển. Tình yêu cao đẹp cũng phải sắt son thủy chung như thế! Tình yêu cao đẹp sẽ luôn ở cùng nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Bất chấp gian khổ vẫn  chia ngọt sẻ bùi với nhau.

“Rủ nhau xuống bể mò cua

Đem về nấu quả mơ chua trên rừng

Em ơi chua ngọt đã từng

Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau.

Chúng ta cũng được hưởng một tình yêu cao đẹp như thế! Một tình yêu dám chết cho người mình yêu. Một tình yêu trung tín sắt son cho dẫu phải hy sinh cả tính mạng mình vẫn dâng hiến cho người mình yêu.

Đó là tình yêu của Đức Ky-tô yêu thương nhân loại. Tình yêu Ngài thật thanh khiết, cho đi mà không cần đền trả lại. Tình yêu Ngài thật vị tha đến nỗi vẫn yêu con người ngay khi còn là tội nhân. Tình yêu Ngài trung tín sắt son, cho dẫu con người có phản bội thì Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Vì yêu mà Ngài còn hiến trao mạng sống mình đền bù tội lỗi nhân gian.

Hôm nay chúng ta mừng kính Thánh Tâm Chúa, là dịp để chúng ta tạ ơn tình yêu cao vời mà Chúa đã dành cho chúng ta. Vì yêu mà Ngài đã dốc cạn giọt máu đào để cứu chuộc chúng ta. Ngài còn yêu là yêu cho đến cùng qua mỗi thánh lễ lại tái hiện tình yêu bất diệt mà Ngài dành cho chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt mọi thời gian để đến với con người qua muôn thế hệ. Và hôm nay Ngài vẫn đong đầy tình Ngài cho chúng ta qua muôn ơn lành hồn xác. Nhất là qua các bí tích nguồn ân sủng của Chúa luôn ban sức mạnh, chữa lành và thánh hóa chúng ta.

Tạ ơn tình Ngài cũng mời gọi  chúng ta họa lại tình yêu ấy nơi chính bản thân chúng ta. Một tình yêu xóa bỏ mọi ngăn cách của văn hóa, của nghi kỵ, của hiểu lầm để sống hòa thuận yêu thương nhau. Một tình yêu dâng hiến điể quên mình phục vụ tha nhân trong khiêm cung âm thầm. Xin Chúa giúp chúng ta trở nên giống như Chúa luôn yêu thương và phục vụ anh em. Amen.

TÔN SÙNG KHIẾT TÂM MẸ

Lm. Minh Vận, CMC03_Van_dong

Tình yêu là một tặng phẩm cao quí Thiên Chúa trao ban cho con người, để con người chu toàn nhiệm vụ kính mến Thiên Chúa như thánh lệnh Ngài truyền: “Con hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa con hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết linh hồn con” (Mt 22:37). Nhờ thực thi thánh lệnh đó, con người có thể đáp trả một trong muôn phần lòng Chúa yêu thương mình; đồng thời, nhờ tặng phẩm cao quí đó, con người có thể đáp trả lẫn nhau trong tình huynh đệ, xứng với nghĩa là anh chị em, con một Cha Chung trên trời, như thánh lệnh Chúa truyền: “Con hãy yêu thương anh chị như chính mình con” (Mt 22:39).

Tình Yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng là nguyên ủy, là cùng đích của mọi tình yêu thụ tạo phải qui hướng về, đúng như lời Thánh Gioan Tông Đồ đã minh xác như một chân lý vĩnh cửu: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Jn 4:16).

Nhưng thật bất hạnh, con người ngày nay đã lạm dụng, đã tục hóa tặng phẩm cao quí đó, đã vong ân phản bội tình yêu thương của Chúa và bội phản tình bác ái huynh đệ giữa anh chị em, gây nên biết bao hận thù chiến tranh, chèn ép, chém giết, tàn sát lẫn nhau, khiến bao tâm hồn phải hư mất, bao gia đình phải tan vỡ, bao quốc gia phải tiêu diệt… Và sau cùng, cửa hỏa ngục đã rộng mở, như Mẹ Maria đã cho ba em Fatima được thị kiến hỏa ngục trong cơn hãi hùng ghê sợ khi phán với các em: “Các con đã xem thấy hỏa ngục, nơi các tội nhân khốn nạn phải trần đọa” (Fatima 13.10.1917).

  1. MỤC ĐÍCH LÒNG TÔN SÙNG KHIẾT TÂM MẸ

Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội, dâng Thánh Lễ biệt kính Khiết Tâm Mẹ, chúng ta cùng nhau ôn lại lời Mẹ phán với Lucia, một trong ba trẻ được thụ khải tại Fatima ngày 13.6.1917: “Chúa Giêsu muốn dùng con, để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến. Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Khiết Tâm Mẹ trên thế giới, để tội nhân được cứu rỗi và thế giới được hòa bình”. Và ngày 13.10.1917, Mẹ còn quả quyết với ba em: “Nếu những điều Mẹ truyền dạy các con được thi hành, nhiều linh hồn sẽ được cứu rỗi và sẽ có hòa bình trên thế giới”.

Những diều Mẹ phán dạy trên đây, tỏ cho chúng ta thấy lòng Chúa khát mong cho Mẹ Ngài được đề cao, được nhận biết, tôn sùng và yêu mến xứng đáng với Phẩm Chức cao cả Mẹ Thiên Chúa. Nhưng điều Chúa khát mong đặc biệt, kêu gọi chúng ta hướng về lòng tôn sùng Trái Tim chất thể của Mẹ, vì nó là một biểu tượng của tình yêu thương, lòng nhân từ, sự dịu dàng săn sóc của một người Mẹ, người Mẹ đầy uy quyền, cao cả và đáng mến của một Đấng là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta.

Chính vì mục đích cao cả đó mà Chúa đã phái Mẹ như Sứ Thần của Chúa, đến trần gian để chuyển đạt thánh chỉ của Người cho nhân loại, như một mệnh lệnh khẩn cấp, giúp nhân loại phục hồi sự bình an cho tâm hồn, đem lại cho nhân loại sự thuận hòa trong tình bác ái huynh đệ, nhất là cho tội nhân được ơn trở lại làm hòa với Thiên Chúa, sống xứng đáng với danh nghĩa là con cái của Người.

  1. LÝ DO LÒNG TÔN SÙNG KHIẾT TÂM MẸ

Ba sứ điệp Mẹ ban truyền tại Fatima được gồm tóm trong một sứ diệp duy nhất là “Tôn Sùng Khiết Tâm Mẹ”. Nếu nhân loại biết vâng theo và đáp trả lòng khát mong của Chúa, nhân loại sẽ được tận hưởng những hiệu quả của tình yêu thương, lòng thương xót của Chúa, do sự cầu bầu vạn năng của Mẹ trước tòa Chúa. Đây là ba lý do chính của lòng tôn sùng Khiết Tâm Mẹ:

  1. Phục Hồi Sự Trong Sạch Các Tâm Hồn: Chúa muốn nhân loại tôn sùng Khiết Tâm Mẹ như phương thế phục hồi sự trong sạch các tâm hồn, giúp họ chiêm ngắm Mẹ như mẫu gương trong sạch và thánh thiện, để họ biết xa tránh tội lỗi, khỏi nhiễm lây cơn dịch tễ vô luân của thế giới hôm nay, nhất là biết noi theo gương Mẹ hết lòng yêu mến Thiên Chúa, nồng nàn dâng hiến trái tim cho Chúa để chỉ yêu mến duy một mình Người mà thôi.
  1. Vãn Hồi Hòa Bình Các Dân Tộc: Chúa muốn nhân loại tôn sùng Khiết Tâm Mẹ, như phương thế vãn hồi hòa bình các dân tộc. Vì khi nhân loại biết chiêm ngắm mẫu gương lòng bác ái cao cả của Mẹ, họ sẽ biết thực thi giáo huấn yêu thương đồng loại Chúa đã truyền dạy, tâm hồn được hưởng sự bình an hạnh phúc, lương tri biết quy thuận lẽ phải, tình người được trải rộng; bấy giờ họ sẽ biết gây tình huynh đệ tương thân tương ái, mưu cầu hạnh phúc cho đồng loại, thương yêu nhau như anh chị em một nhà, đều là con cái một Cha Chung trên trời. Khi đó, các dân tộc không còn chiến tranh, sẽ được hưởng nền hòa bình chân thật.
  1. Thể Hiện Lòng Thương Xót Chúa: Chúa muốn nhân loại tôn sùng Khiết Tâm Mẹ, như phương thế đặc biệt để Chúa được thể hiện lòng thương của Người. Nhân loại sẽ được chiêm ngưỡng Mẹ như hiện thân của lòng nhân từ thương xót tha thứ của Chúa. Chính Mẹ đã phán ba em Fatima: “Các con đừng thất đảm, Mẹ không bao giờ bỏ các con, Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ sẽ là nơi các con nương ẩn, là đàng dẫn đưa các con về với Thiên Chúa” (Fatima 13.6.1917). Mẹ hằng tha thiết khát mong: “Chớ gì người ta đừng xúc phạm đến Thiên Chúa nữa. Người bị xúc phạm quá nhiều rồi!” (Fatima 13.10.1917).

III. UY QUYỀN MẸ NƠI LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Jacque là một cậu bé mới lên 9 tuổi, con trai duy nhất của một gia đình Công Giáo người Pháp, mẹ cậu là người ngoan đạo, nhưng ba cậu lại là một người vô thần, vì ông đã bỏ đạo từ lâu, không tin bất cứ điều gì trong đạo. Cậu con trai cưng của ông bà chẳng may ngã bệnh nặng, vì thương con nên ông bà đã tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của, đến nỗi phải bán cả các đồ cần dùng trong gia đình, nhưng bệnh của con ngày càng thêm trầm trọng, các bác sĩ đã phải bó tay đầu hàng, cậu chỉ còn nằm chờ chết.

Một hôm, Jacque bỗng nảy ra một ý nghĩ xin cha mẹ cho đi hành hương Lộ Đức, cầu xin Đức Mẹ chữa lành cho cậu. Ba cậu từ chối vì ông không hề tin tưởng gì nơi phép lạ; vả nữa, vì tài chính của gia đình đã tới chỗ kiệt quệ. Nhưng rồi không nỡ từ chối con, người con cưng duy nhất của ông, ông đành phải bán một món đồ ông thích nhất còn sót lại trong gia đình, chỉ vì thương con và chiều vợ.

Thế là có tài chính, hai ông bà đưa con đi hành hương Lộ Đức, Jacque được chở đến hang đá Đức Mẹ, nằm trên một băng ca, có bác sĩ và y tá săn sóc, với sự hiện diện của cha mẹ. Từ giờ này qua giờ khác, mẹ con sốt sắng tha thiết cầu khấn, nhưng vốn không thấy một tia hy vọng nào. Sau khi tham dự Thánh Lễ cùng với đông đảo quần chúng; theo thói quen, Linh Mục chủ sự đem Mình Thánh Chúa trên hào quang tới các hàng đặt giường và xe lăn của các bệnh nhân. Thánh Thể Chúa vừa đi qua giường của cậu Jacque, nhưng lại càng cảm thấy tuyệt vọng hơn nữa.

Buồn bã quá, Jacque đã gắng hết sức ngỏng đầu lên, la lớn tiếng khiến mọi người sửng sốt hướng mắt về em: “Giêsu! Giêsu! Giêsu! Con mét Má cho mà coi!” Nghe thấy tiếng la đơn thành và đầy tin tưởng đó, Linh Mục chủ sự đem Mình Thánh Chúa trở lại bên giường em và ban phép lành cho em. Lạ lùng thay, ngay lúc đó em cảm thấy trong người khoan khoái, sinh lực tàn tạ nơi em như sống lại… Em vội vùng dậy, nhảy xuống khỏi giường, chắp tay, quì gối, thờ lạy cảm tạ Chúa. Các bác sĩ chuyên môn sau khi khám nghiệm đều đồng thanh xác nhận, là em đã được hoàn toàn bình phục cách lạ thường! Trước sự kiện đó, ba em tuy là một người vô thần, đã ôm mặt khóc và xin trở lại làm hòa với Chúa và Giáo Hội.

Kết Luận

Chúng ta thấy cái uy quyền của Mẹ Maria nơi Chúa Giêsu Con Mẹ lớn lao dường nào! Là những người con đã được tân hiến làm con riêng của Mẹ, Mẹ đang thầm nhủ với mỗi người chúng ta, như Mẹ đã phán với Chị Lucia: “Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến”.

THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU

Lm. Minh Vận, CMC03_Van_dong

Với cái nhìn khách quan của con cái Chúa, ai trong chúng ta lại không thấy đau lòng trước một thực trạng thật bi đát nơi thế giới hôm nay: Thuần phong mỹ tục các dân tộc đang bị phá sản, nền luân lý thánh thiện Kitô Giáo đang bị băng hoại, con người đang sa xuống hố trụy lạc. Biết bâo thứ tội ác ghê rợn đang diễn ra khắp đó đây: Hôn nhân bất hợp pháp, đồng tính luyến ái, ly dị, phá thai giết người vô tội. Người ta đã làm mất giá trị đích thực và cao quí của tình yêu thương cao quí Thiên Chúa đã ban tặng cho con người. Người ta đã phung phí, đã chà đạp, đã tục hóa tình yêu như một nhu cầu sinh sống, cần phải tận hưởng cho thỏa thích! Do đó, người ta đã yêu cuồng sống vội, mải mê hưởng thụ những vui thú tục tằn đến hạ nhân phẩm xuống hàng thú vật!

Biết bao tội ác đang tràn ngập mặt đất như một đại hồng thủy, tạo nên một cơn dịch tễ đang đe dọa tiêu diệt nhân loại tội lỗi. Tội ác đang vọng lên thấu trời cao, kêu nài cơn nghĩa nộ Thiên Chúa oán phạt.

  1. THÁNH TÂM, SUỐI NGUỒN ƠN PHÚC

Để cứu vớt nhân loại tội lỗi, Chúa Cứu Thế đã mạc khải cho Thánh Nữ Margarita Maria, lòng Chúa yêu thương nhân loại, tuyển chọn Thánh Nữ như một sứ giả ccủa Vua Tình Yêu, kêu gọi loài người cấp hối cải thiện, bỏ đàng tội lỗi, trỏ về làm hòa với Thiên Chúa, để được hưởng Ơn Cứu Độ và nhân từ yêu thương của Người. Chúa truyền dạy phải cổ động lòng tôn thở Thánh Tâm Chúa, như nguồn mạch ban phát mọi ơn phúc cho nhân loại, như phương thế phục hồi sự trong sạch thánh thiện các tâm hồn, như linh dược chữa lành mọi vết thương đau, cải tạo và canh tân thế giới.

Tuân theo lệnh Chúa truyền, Giáo Hội đã lập Lễ Tôn Thờ Thánh Tâm Chúa, sai các tông đồ đi khắp nơi, truyền bá lòng tôn thờ Thánh Tâm, tôn nhận Thánh Tâm Chúa làm Vua các tâm hồn, Vua các gia đình, các công đoàn, các quốc gia và thế giới.

Theo quan niệm thần học, truyền bá lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa, Giáo Hội dạy con cái tôn sùng Trái Tim chất thể của Chúa Giêsu, vì Trái Tim đó đã kết hợp với Ngôi Lời Thiên Chúa vĩnh cửu do Ơn Ngôi Hiệp. Trái Tim là biểu tượng tình yêu, tôn thờ Thánh Tâm Chúa là chúng ta tôn thờ chính tình yêu của Ngôi Hai Thiên Chúa. Trái Tim chỉ Ngôi Vị Chúa Kitô, Ngôi Vị Thiên Chúa là chủ thể nhận lòng tôn thờ của Giáo Hội.

Thánh Gioan Tông Đồ viết: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (I Jn 4:16). Khi truyền dạy nhân loại tôn thờ Thánh Tâm Chúa, là Chúa muốn cho chúng ta nhìn nhận tình Chúa yêu thương nhân loại. Vì yêu mà Chúa đã nhập thể làm người, sống kiếp sống phàm nhân nghèo nàn vất vả, lãnh nhận mọi xỉ nhục, chịu mọi cực hình và chịu chết nhục nhã… để đền tạ phép công bình Thiên Chúa, phạt tạ tội lỗi nhân loạn, phục hồi cho chúng ta quyền làm con Thiên Chúa, để đáng được thừa hưởng gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Quốc. Tất cả cuộc đời ký thế của Chúa Kitô, mọi việc Chúa làm, mọi giáo huấn Chúa dạy, mọi ơn phúc Chúa ban, đều nói lên lòng Chúa nhân từ yêu thương chúng ta. Vậy Chúa muốn chúng ta điều gì?

  1. YẾU MẾN, GIỚI LUẬT TRỌNG ĐẠI NHẤT

Thiên Chúa Là Tình Yêu, Chúa muốn con người được Chúa yêu thương tạo dựng giống hình ảnh Chúa, thì tình yêu của con người đã phát sinh bởi Chúa, cũng cần phải qui hướng về Chúa, như trung tâm thu hút, như cùng đích phải tôn thờ, phụng sự và yêu mến. Do đó, chính Chúa đã truyền dạy chúng ta qua Maisen, vị tôi trung của Ngài: “Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, ngươi phải kính mến Chúa là Chúa ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức ngươi” (Deut 6:4-5).

Khi xuất thân truyền bá Tin Mừng, một hôm có một vị luật sĩ được cử đến hỏi Chúa: “Thưa Thầy, trong các giới luật, giới luật nào trọng nhất?” Chúa đã nhắc lại khoản luật này và trịnh trọng tuyên bố: “Ngươi phải kính mến Chúa là Chúa ngươi hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết linh hồn ngươi”. Rồi Chúa ccòn nhấn mạnh khi quả quyết: “Đó là giới luật trọng đại nhất” (Mt 22:37-38). Để nói lên được sự quan trọng của khoản luật khẩn thiết này, Maisen đã thừa lệnh Chúa truyền dạy: “Hãy ghi tạc các điều tôi truyền cho anh chị hôm nay vào tâm khảm anh chị em, hãy thuật lại cho con cháu, hãy suy niệm các điều ấy lúc ở nhà, khi đi đường, hoặc khi nằm ngủ cũng như lúc thức giấc. Hãy buộc chặt những lời đó vào tay mình như dấu hiện hữu và máy động trước mắt. Hãy viết trên cột vả trên mi cửa nhà anh chị em” (Deut 6:6-9).

III. PHƯƠNG THẾ ĐẠT HẠNH PHÚC VĨNH CỬU

Loài thụ tạo được kính mến Đấng Tạo Hóa, phàm nhân thấp hèn được kính mến Đấng Cao Cả, tội nhân được yêu mến Đấng Thánh Thiện, con người được yêu đương Thiên Chúa. Đó là một vinh dự, một hạnh phúc vô cùng, vì Thiên Chúa là Đấng uy quyền, toàn năng, hằng hữu; Đấng gồm tóm mọi Chân Thiện Mỹ, Đấng đáng mọi loài thụ tạo, các Thần Thánh trên trời phải cung kính cấp mình tôn thờ phụng và tung hô trước tôn nhan uy linh cao cả. Thế mà loài người là gì mà được Chúa uy đãi nâng lên hàng con cái, bậc bạn thân, để được yêu mến Ngài! Dù con người có chu toàn được thánh luật yêu mên này, cũng không hề thêm cho Chúa được một vinh dự nào, mà chỉ vì Chúa muốn cho con người được hạnh phúc, như chính Maisen đã minh định: “Hỡi Israel, nào Thiên Chúa có đòi anh chị em điều chi ngoài điều này là: Anh chị em phải kính sợ Thiên Chúa anh chị em hết linh hồn, hết lòng mình, để anh chị em được sung sướng hạnh phúc” (Deut 10:12-13). Ngài còn quả quyết thêm: “Hôm nay tôi bày tỏ trước mắt anh chị em lời chúc phúc và lời nguyền rủa: Được chúc phúc, nếu anh chị em vâng theo các luật Chúa, do tôi truyền cho anh chị em hôm nay. Bị nguyền rủa, nếu anh chị em bất tuân lệnh Chúa truyền, mà đi trệch đường lối tôi vạch ra hôm nay” (Deut 11:26-28).

  1. NỌ TÌNH PHẢI TRẢ BẰNG TÌNH

Tự nguyện thánh hiến cuộc đời để chuyên lo phụng sự và yêu mến Chúa, là một hành vi tuyệt hảo minh chứng lòng chúng ta kính mến Chúa. Để thực thi huấn lệnh Chúa truyền: “Con hãy dâng trái tim con cho Cha. Hãy yêu mến Cha là Chúa con hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết linh hồn con” (xem Mt 22:37). Linh Hồn Thánh Hiến tự nguyện hiến tế ý chí tự do, khước từ lòng ham ước của cải và hiến dâng tình yêu cho Chúa, là một hành vi anh dũng, mô phỏng mẫu gương yêu thương của Đấng đã hiến gâng mạng sống chịu chết, và đổ tới giọt máu cuối cùng từ Thánh Tâm rộng mở, để tôn vinh Cha Hằng Hữu và mưu phần rỗi các linh hồn; như chính lời Chúa Cứu Thế, Bạn Tâm Phúc của Chúa đã quả quyết: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của Đấng, đã hiến mạng sống vì người mình yêu” (Jn 15:13).

Nợ tình phải trả bằng tình. Là những Linh Hồn Thánh Hiến, Bạn Tâm Phúc của Chúa Kitô, chúng ta chỉ có thể đạt tới Đích Thánh Thiện, trung thành với lý tưởng Đời Thánh Hiến, hoàn thành với hành vi anh dũng đã khở đầu, khi chúng ta quảng đại đáp lại lòng Chúa khát khao: “Cha muốn một tình yêu, tình yêu đích thực, vô vị lợi. Cha muốn trái tim con người, nhất là trái tim các Bạn Tâm Phúc của Cha, phải dành cho duy một mình Cha! Trái Tim Linh Mục và Tu Sĩ phải dành cho duy một mình Cha mà thôi! Cha không muốn một thái độ hũng hờ và một tình yêu chia sẻ” (Đại Thông Điệp Tình Yêu).

Kết Luận

Để chu toàn nghĩa vụ yêu mến Chúa, Chúa đã dạy chúng ta một phương thế tuyệt hảo là: “Con hãy nhờ Trái Tim Mẹ Cha để yêu mến Trái Tim Cha”. Chỉ có Trái Tim Mẹ mới có thể làm cho Chúa được hài lòng và yêu mến đền tạ Thánh Tâm Chúa xứng đáng.

Vậy chúng ta hãy nhờ Trái Tim Mẹ để:

* Chỉ chuyên lo làm hài lòng Chúa trong mọi sự, với lòng tha thiết yêu mến Chúa, đúng với nghĩa vụ con cái Chúa.

* Nỗ lực làm tông đồ để Chúa được tôn vinh và yêu mến, đền tạ Thánh Tâm Chúa, vì muôn tội lỗi loài người hằng xúc phạm đến tình thương của Chúa.

* Chớ gì mỗi người chúng ta chỉ có một khát vọng duy nhất, để như Thánh Augustinô, chúng ta dâng lên Chúa lời nguyện tha thiết: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn khắc khoải mãi cho tới khi con được an nghỉ trong Chúa!”

Số 268. Thánh Tâm Chúa – năm C.

 NGƯỜI CÔNG CHÍNH ĐÍCH THỰC

Tamlinhvaodoi

Lễ Thánh Tâm Chúa, trích Tin Mừng Luca 15 : 3 – 7

Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này :

4 “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con,

lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang,

để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ?

5 Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai.

6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói :

 ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.’

7 Vậy, tôi nói cho các ông hay :

trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối,

hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.

Mới xem xong bài này, người ta cứ tưởng 99% công giáo là người công chính.

Chỉ có 1% là người tội lỗi, cần ăn năn sám hối…

Hoàn  toàn không phải như thế..

Tin Mừng Matthêu ghi rằng :

Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su,

vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” (Mt 1:21)   

có thể hiểu là gần như toàn dân trong tình trạng tội lỗi…

Phaolô còn mạnh dạn vơ đũa cả nắm khi tuyên bố:

Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian,

và tội lỗi gây nên sự chết ;

như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người,

bởi vì mọi người đã phạm tội. (Rm 5:12)

thế thì đào đâu ra người công chính ???

Ngày xưa Abraham đã từng trả giá với Chúa từ 50 người… hạ xuống chỉ còn 10 người công chính…thế mà cũng không kiếm được…

Ông nói : “Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi :

Giả như tìm được mười người thì sao ?”

Chúa đáp : “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá huỷ Xơ-đôm.”  (St 18:32)   

Xin quý vị lưu ý.

Người đạo đức siêng năng đi lễ, đọc kinh, lần hạt, tham gia vào công việc giáo xứ, làm việc bác ái…

chưa hẳn đã là người công chính

vậy người công chính là ai?

Cứ  lấy thầy Giêsu làm mẫu cho chắc cú.

Với lối nhìn nhân loại

Thày Gie6su cũng vui, buồn, yêu, giận, lo sợ…giống người ta..

Vì thế những người cùng thời với Thầy…hầu như chẳng ai nhận ra Thầy là đấng công chính…đặc biệt là nhóm Pha-ri-sêu và các kinh sư .

Họ đã từng lớn tiếng xách động quần chúng

Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám

và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ.  (Mc 3:22)   

Nhiều người trong nhóm họ nói :

“Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi ! Nghe ông ấy làm gì ?” (Ga 10:20)  

 

 Với lối nhìn tâm linh

Chỉ cần một câu này thôi cũng đủ diễn tả tận cùng và tròn đầy ý nghĩa

Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ?

Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra.

Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy,

chính Người làm những việc của mình. (Ga 14:10)

Theo Tamlinhvaodoi, người công chính có 2 tiêu chuẩn

Tiêu chuẩn nền tảng: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy

Tiêu chuẩn sống đạo:  chính Chúa Cha làm.

Có nghĩa là bên ngoài Thầy Giêsu đi lại, nói năng, hoạt động..

Nhưng thực ra Chúa Cha mới làm chủ những hành động đó.

Phaolô đã nắm được ý cốt yếu này…nên đã chia sẻ:

Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi,

 mà là Đức Ki-tô sống trong tôi (Gl 2:20)

Suy ra người công chính sống đạo theo tiêu chuẩn chính xác như sau:

Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi,

 mà là chính Chúa sống trong tôi

Chúa ở đây hiểu là Đức Kitô, Chúa Cha hay Thánh Thần đều đúng.

Đó chỉ là những ngôn từ để diễn tả về một thực tại duy nhất.

Chúa không chỉ ở trên trời theo tâm tưởng của giới bình dân…như phần thưởng đời sau cho những con chiên đạo đức…

Chúa không chỉ ở trong nhà tạm theo nghĩa phụng vụ…để dân chúng thờ lậy.

Mà quan trọng hơn hết chính là: Chúa ở ngay trong tôi, sống ngay trong tôi…

để tôi sống trong Chúa, Chúa sống trong tôi..

Như khẳng định của Thầy Giêsu :

Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy,

anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.   (Ga 14:20)   

Ngày đó là ngày nào vậy?   Mãi đời sau… qua ngưỡng cửa cái chết??

Không phải…mà chính là ngày mà tôi ngộ ra chân lý ngay trước mắt..

Chúa ở ngay trong tôi, sống ngay trong tôi…

Mà bấy lâu nay tôi cứ tưởng xa vời lắm !!!!

Điều kiện nào để nhận ra chân lý đơn giản này??

Điều kiện quan trọng nhất: khao khát…từ khao khát đẩy tôi tìm cho bằng được…

Nếu tôi kiên trì tìm kiếm thì chắc chắn sẽ bắt gặp..

Ai xin thì nhận được…

Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao ?

 

Xin lưu ý:

Chúa Cha không những ban ơn Thánh hóa, ơn trợ giúp, ơn tiểu xá, ơn đại xá, ơn toàn xá, ơn chết lành…

Chúa Cha cũng không chỉ ban 7 ơn Đức Chúa Thánh Thần…

Đây là những ơn lẻ tẻ…chẳng ăn thua gì…

So với việc Chúa Cha ban CHÍNH THÁNH THẦN

Để Thánh thần ở cùng tôi luôn mãi…(Ga 15 : 16)

Không phải để tôi thờ lậy …

Mà chính là để…

tôi sống nhờ nguồn sống thần linh của Ngài

tôi sống nhờ nguồn sức mạnh vạn năng của Ngài

tôi sống nhờ nguồn tình yêu bao la  của Ngài

Đây mới là người công chính đích thực.

THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU

Lm. Phêrô Nguyễn văn Quang.

LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – C

Ed 34, 11-16; Rm 5,5-11; Lc 15,3-7

Lời Chúa : “Anh em hãy chia vui với tôi vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc” (Lc 15,6).

Nhập lễ :

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Ngày thế giới xin ơn thánh hóa các linh mục. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, Thiên Chúa là tình yêu. Người luôn yêu thương dẫn dắt dân Người như người mục tử nhân lành hết lòng hy sinh vì đoàn chiên và từng con chiên :

Tình yêu của Chúa tỏ bày,

Như người mục tử, rừng sâu kiếm tìm.

Vác chiên đầy vẻ dịu hiền,

Tình thương như thế chủ chiên nào bằng ?

Với ta còn gấp trăm ngàn,

Chúa cho tất cả, ta hằng khắc ghi.

Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta cảm nhận thật sâu xa tình yêu của lòng thương xót Chúa đối với mọi người, nhất là những người tội lỗi biết hối cải. Xin cho chúng ta biết đón nhận và đáp trả tình yêu Chúa, bằng cách  sống thánh hóa đời Kitô hữu. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.

Sám hối :

  1. Lạy Chúa, Chúa là mục tử nhân lành hy sinh vì đoàn chiên. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

  1. Lạy Chúa Kitô, Chúa đến để chiên được sống và sống dồi dào. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

  1. Lạy Chúa, Chúa vui mừng vác con chiên lạc lên vai khi đã tìm thấy. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Kết : Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

CĐ : Amen.

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*